Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Phát triển nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.64 KB, 69 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế nước ta có sự
chuyển dịch mạnh mẽ sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ dẫn đến tốc độ
phát triển các đô thị, khu công nghiệp tăng rất nhanh. Mặt khác sự chênh
lệch thu nhập rất lớn giữa thu nhập ở thành thị và nông thôn, sự dư thừa lao
động nông nghiệp là nguyên nhân tất yếu dẫn đến sự di cư ồ ạt của dòng
người từ nông thôn sang thành thị để sinh sống và làm việc tại các đô thị và
các khu công nghiệp. Hiện nay có hàng triệu người thuộc đối tượng này
đang sống và làm việc tại các đô thị và các khu công nghiệp. Vì vậy việc
giải quyết nhà ở cho các đối tượng này là vấn đề rất lớn cần được đánh giá
một cách đầy đủ, đúng mức từ đó đề ra những giải pháp và chính sách mang
tính đồng bộ.
Các KCN, KCX của Việt Nam ngày càng trở thành nơi thu hút các nhà
đầu tư nước ngoài và trong nước. Hiệu quả trước mắt có thể thấy là nhiều
việc làm mới được tạo ra, thu nhập tăng lên với người lao động cùng với sự
phát triển các hoạt động kinh tế khác như tài chính, bảo hiểm, các dịch vụ
cho KCN, KCX. Điều lớn hơn là đã làm cho thay đổi nhanh chóng sự phát
triển kinh tế xã hội tại các tỉnh, thành phố có KCN, KCX đóng góp cho sự
phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước.
Theo kinh nghiệm thực tế đã cho thấy, để nâng cao hiệu quả và phát
triển năng suất lao động thì một trong những việc phải làm là việc phân bổ
dân cư, lao động tại các vùng công nghiệp phải tính đến điều kiện về thời
gian đi lại của công nhân sao cho ít nhất. Từ chỗ làm việc đến chỗ ở trung
bình không nên quá 30-40 phút tuỳ thuộc vào hệ thống giao thông và tốc độ

Website: Email : Tel : 0918.775.368
di chuyển của phương tiện đi lại. Tuy nhiên các khu dân cư cần có khoảng
cách với khu vực sản xuất để tránh ô nhiễm môi trường.
Số lượng lao động tăng nhanh nhưng quy hoạch phát triển khu công
nghiệp chưa tính tới yêu cầu về chỗ ở cho công nhân. Chỉ khi xây dựng xong


cơ sở hạ tầng thì vấn đề nhà ở cho công nhân mới trở nên bức xúc. Ở phía
nhà nước cũng như phía doanh nghiệp hiện nay vẫn chưa có hướng giải
quyết và cho đến nay cũng chưa có cơ chế chính sách rõ ràng cho công tác
xây dựng nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam. Vì vậy, em
nghiên cứu đề tài “Phát triển nhà ở cho công nhân tại các khu công
nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”.
Đề tài tập trung làm rõ hai mục tiêu chính:
Thứ nhất, nêu lên thực trạng của việc phát triển nhà ở cho công nhân tại
các KCN, KCX ở Việt Nam trong thời gian gần đây. Đã có những cơ chế
chính sách nào của nhà nước nhằm định hướng giải quyết cho vấn đề nhà ở
công nhân chưa? Nó có hiệu quả gì không?
Thứ hai, tìm hiểu nguyên nhân và đề ra một số giải pháp cho việc phát
triển nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng và giải pháp phát triển
nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Về không gian: Đề tài sẽ nghiên cứu thực trạng và giải pháp phát triển
nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX trên phạm vi cả nước, tuy nhiên có
tập trung vào những khu công nghiệp điển hình ở Việt Nam như Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh...

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Về thời gian: Những số liệu liên quan dùng trong đề tài để phân tích,
nghiên cứu được thu thập trong thời gian 5 năm gần đây, từ 2001-2006; đề
tài sẽ kiến nghị những giải pháp đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2015.
Phương pháp nghiên cứu: phương pháp tổng hợp kết hợp với phương
pháp chuyên gia trong phân tích; Dựa trên tài liệu, sách báo có liên quan,
những đề tài đã nghiên cứu trước đây; dựa trên số liệu thứ cấp của Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã điều tra thực tế tại các khu công
nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam của các nhà nghiên cứu có liên quan đến

đề tài.
Kết cấu đề tài: ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo thì phần nội dung chính của đề tài được giải quyết trong 3 chương:
Chương 1: Tổng quan chung về nhà ở cho công nhân tại các KCN,
KCX và kinh nghiệm của các nước trên thế giới về việc phát triển nhà ở cho
công nhân tại các KCN, KCX.
Chương 2: Thực trạng về phát triển nhà ở cho công nhân tại các KCN,
KCX và các cơ chế chính sách của nhà nước về việc phát triển nhà ở cho
công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam.
Chương 3: Những kiến nghị và giải pháp cho việc phát triển nhà ở cho
công nhân tại các KCN, KCX.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CHUNG VỀ NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN TẠI CÁC
KCN, KCX VÀ KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN TẠI CÁC KCN,
KCX
1. Khái quát về các KCN, KCX.
Sau hơn 15 năm phát triển kể từ khi ra đời KCN đầu tiên (khu chế xuất
Tân Thuận – thành lập ngày 24/9/1991), cho đến giữa năm 2006, cả nước ta
đã có 135 KCN, KCX được thành lập ở 45 tỉnh, thành phố trong cả nước với
tổng diện tích đất tự nhiên 26.500 ha, trong đó có 75 KCN, KCX đã đi vào
hoạt động. Số lượng các KCN vẫn tiếp tục gia tăng mạnh mẽ và theo số liệu
gần đây nhất, tính đến tháng 10/2007 cả nước đã có 154 KCN được thành
lập với tổng diện tích đất tự nhiên 32.808 ha. Trong đó diện tích đất công
nghiệp có thể cho thuê là 21.775 ha chiếm 66% tổng diện tích đất tự nhiên.
Có 92 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 20.758 ha và
62 KCN đang trong giai đoạn đền bù, giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ
bản với tổng diện tích đất tự nhiên 12.073 ha. Theo kế hoạch đến 2015 có

khoảng 109 KCN nữa sẽ hình thành.
Tính đến giữa năm 2006 các KCN ở nước ta đã thu hút 86 vạn lao động
trực tiếp làm việc trong KCN và trên một triệu lao động trong lĩnh vực xây
dựng, cung cấp dịch vụ cho các KCN tại các cơ sở kinh doanh ngoài KCN.
Tỷ lệ bình quân thu hút lao động tại các KCN trên một đơn vị diện tích hiện
nay là 90-100 người/ ha . Nếu KCN tập trung các ngành nghề như dệt may,
lắp ráp điện tử, sản xuất giày dép…có sử dụng nhiều lao động thì tỷ lệ trên
còn cao hơn. Như vậy với KCN, KCX có quy mô bình quân ở Việt Nam

Website: Email : Tel : 0918.775.368
hiện nay là 100-150 ha thì một KCN sẽ có khả năng thu hút 10.000-15.000
lao động. Với KCN có quy mô diện tích lớn tới 2.700 ha như KCN Nhơn
Trạch (Đồng Nai) thì khi lấp đầy lượng lao động làm việc tại đây đạt mức
300.000 người và sẽ tạo nên ở đây một đô thị công nghiệp mới.
Các KCN, KCX phân bố ở tất cả các tỉnh thành trong cả nước tuy nhiên
nó tập trung chủ yếu ở những vùng kinh tế trọng điểm của ba miền Bắc,
Trung, Nam. Với tổng diện tích đất tự nhiên lên tới 25.900 ha, 110 KCN này
chiếm gần 80% tổng diện tích các KCN trong cả nước. Đến thời điểm cuối
tháng 10/2007, các KCN, KCX trên cả nước đã cho thuê được trên 11.177
ha, đạt tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của các KCN
cả nước là 54,1%, riêng các KCN đã vận hành thì cho thuê được trên 9.928
ha, đạt tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê là trên 71,1%.
Theo thống kê tại các địa phương gửi báo cáo và ước tính từ các nguồn
thông tin khác, hiện nay có khoảng 1 triệu lao động đang làm việc tại các
KCN, KCX và các khu kinh tế trên toàn quốc. Trong số những lao động này
có khoảng trên 700.000 lao động là người tỉnh ngoài hoặc huyện ngoài và có
nhu cầu thuê nhà ở trong thời gian lao động tại các KCN, KCX. Trong các
khu nhà tập trung (xây dựng từ nguồn ngân sách nhà nước hoặc từ phía các
doanh nghiệp) cũng chỉ đủ cung cấp chỗ ở, sinh hoạt cho khoảng 7-10% số
lao động đang lam việc tại đây và có nhu cầu về nhà ở. Trên 90% công nhân

còn lại phải tự thu xếp chỗ ở, thuê trọ rải rác trong các khu dân cư gần nơi
họ làm việc hay các KCN.
Với sự phát triển hiện nay của các KCN, KCX ở Việt Nam thì đến nay
các KCN, KCX này đã thu hút trên cả nước được 2.600 dự án có vốn đầu tư
nước ngoài với tổng vốn đầu tư trên 25,3 tỷ USD và gần 2.800 dự án đầu tư
trong nước với tổng số vốn đầu tư đăng ký gần 137 nghìn tỷ đồng (chưa kể

Website: Email : Tel : 0918.775.368
các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN với tổng số vốn đầu tư 976
triệu USD và 43 nghìn tỷ đồng).
Việc phát triển các KCN, KCX đã và đang góp phần quan trọng giải
quyết việc làm cho lao động tại chỗ và lao động nhập cư. Trong thời gian
tới, lực lượng lao động trong các KCN, KCX gia tăng mạnh mẽ cùng với sự
phát triển của các dự án hoạt động trong các KCN, KCX. Tính đến tháng
6/2007 , các KCN, KCX của cả nước đã thu hút được khoảng 1 triệu lao
động trực tiếp với tỷ trọng lao động có chuyên môn kỹ thuật tăng lên và đạt
gần 40%. Ngoài ra nếu tính cả số lao động gián tiếp thì tổng số việc làm
được tạo ra từ chương trình phát triển KCN, KCX tập trung nhiều nhất là tại
TP Hồ Chí Minh với khoảng trên 210 nghìn lao động làm việc tại hơn 100 xí
nghiệp trong 14 KCN, KCX, trong số này có khoảng 60-70% lao động là
người từ các địa phương khác đến làm việc tại TP Hồ Chí Minh và đại đa số
công nhân ở đây đều có nhu cầu nhà trọ. Trong khi đó toàn thành phố chỉ có
4/14 KCN là có xây nhà lưu trú cho công nhân, còn lại đều không có hoặc là
công nhân phải sống trong các khu nhà tạm bợ, thiếu thốn điều kiện sinh
hoạt tối thiểu.
Năm 2007, TP Hồ Chí Minh đã khởi công xây dựng nhà lưu trú tại 5
khu là: Tân Thuận, Linh Trung 2, Tân Thới Hiệp, Long Thới, Vĩnh Lộc với
tổng quy mô đáp ứng được gần 7000 chỗ ở cho công nhân. Đến tháng
3/2007 thành phố tiến hành sửa chữa 2 khu nhà ở KCX Linh Trung để đưa
công nhân vào ở. Ngoài ra thành phố cũng tích cực bổ sung quy hoạch bên

ngoài KCN, KCX quyết tâm xây dựng được 8000-10.000 chỗ ở cho công
nhân trong năm 2008.
Riêng tại Hà Nôị, quá trình mở rộng phát triển và thu hút mạnh đầu tư
vào các KCN, KCX đã tạo lên sức hút mạnh về lao động tại đây, bao gồm

Website: Email : Tel : 0918.775.368
đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân, nhân viên nghiệp vụ và cán bộ quản lý
trong đó 90% là công nhân và kỹ thuật viên. Trong số những lao động đang
làm việc tại Hà Nội có cả người Việt Nam và người nước ngoài chủ yếu là
cán bộ quản lý hay kỹ thuật viên cao cấp.
Lao động trong các KCN, KCX ở Hà Nội nói riêng và cả nước nói
chung hiện nay có đặc điểm là lao động trẻ, lao động nữ và lao động di cư
chiếm tỷ lệ khá cao. Lao động ở độ tuổi từ 18 đến 35 chiếm 90% tổng số lao
động trong các KCN, KCX. Lao động nữ chiếm 60% (phù hợp với ngành da
giày, dệt may, thuỷ sản); lao động từ địa phương khác đến làm việc chiếm
65%.
Tại Đà Nẵng có 6 KCN trên tổng diện tích đất khoảng 1500 ha và thu
hút khoảng 40 nghìn lao động. Trong số đó có khoảng 60% là người ngoại
tỉnh cần chỗ trọ. Riêng quận Liên Chiểu, dân số sở tại khoảng 91 nghìn
người. Trong khi đó số lao động ngoại tỉnh khoảng 30 nghìn người. Cùng
lúc đó trên địa bàn quận còn có khoảng 30 nghìn sinh viên của các trường
đại học. Tuy nhiên hiện vẫn chưa có chương trình, dự án về nhà trọ cho công
nhân các KCN, KCX.
Quảng Nam với 5 KCN, KCX thu hút khoảng 18 nghìn lao động. Riêng
tại KCN Điện Nam - Điện Ngọc (huyện Điện Bàn) có khoảng 15 nghìn lao
động, tuy nhiên số nhà ở cũng mới chỉ đáp ứng được khoảng 5%, còn lại thì
95% số người lao động đều phải tự tìm chỗ ở trong dân. Hầu hết số lao động
này đang phải thuê ở những nhà trọ mà số lượng và chất lượng của chúng
đa phần là thấp, cũng chưa thể có số liệu thống kê được.
Tại tỉnh Bình Dương có 21 KCN, KCX chiếm diện tích khoảng 5300

ha với khoảng 149 nghìn lao động. Tuy nhiên mới chỉ có rất ít khu nhà chính

Website: Email : Tel : 0918.775.368
thức là dành cho công nhân. Ở đây chỉ có công ty giày Thái Bình thì có
khoảng 1000 chỗ ở cho công nhân và Mỹ Phước thì có khoảng 900-1000
chỗ, còn lại hầu hết đều chung tình trạng như các KCN, KCX trên toàn
quốc.
Tại thị trấn Bến Lức (Long An), dân số trên địa bàn của thị trấn khoảng
trên 18 nghìn người, riêng nhà máy Chin Lou đóng tại địa bàn thị trấn đã có
khoảng 25 nghìn công nhân làm việc. Trong số đó có khoảng 10 nghìn
người đang thuê nhà trên đất thị trấn. Trong tổng số những công nhân thuê
nhà này chỉ có vài nghìn người là có khả năng thuê được những nhà trọ xây
dựng tương đối cơ bản của các doanh nghiệp cho thuê nhà trọ như Kim Tỷ
và Dung Quý. Số công nhân và lao động còn lại phải thuê những nhà rất tạm
bợ, cơi nới, tận dụng.
Số lao động trong các KCN, KCX tăng nhanh với các điều kiện
và đặc điểm nêu trên dẫn đến cầu về nhà ở tăng mạnh tại các khu vực KCN
(nhà ở cho người địa phương khác đến làm việc, nhà ở cho gia đình trẻ mới
hình thành …). Hầu như toàn bộ số người lao động từ địa phương khác đến
làm việc tại các KCN, KCX đều có nhu cầu về nhà ở. Một số lao động là
người địa phương cũng có nhu cầu về nhà ở gần KCN, KCX do chế độ làm
việc theo ca kíp của các doanh nghiệp buộc người dân phải bám xưởng bám
máy hay làm thêm giờ. Do diện tích nhà ở của gia đình hiện có chật hẹp, do
bản thân người lao động thích sống tự lập không muốn phụ thuộc gia đình,
bên cạnh đó cũng do giao thông trong khu vực chưa thuận tiện, tốn nhiều
thời gian hoặc kém an toàn nên một số công nhân tuy trong cùng huyện với
những KCN, KCX song ở các địa điểm khó khăn về giao thông vẫn có nhu
cầu về nhà ở gần KCN…

Website: Email : Tel : 0918.775.368

Phần lớn những nhà cho thuê đều là nhà tạm bợ, lợp ngói xi măng,
khoảng 3-4 công nhân thuê một buồng với giá từ 100.000-150.000
đồng/người/tháng không kể điện nước; ở các khu vực xa đô thị lớn thì giá
thuê phòng có thấp hơn chút ít. Tình hình an ninh trật tự tại các khu công
nhân thuê trọ ở một số KCN cũng có nhiều bức xúc do lực lượng lao động
thuê nhà đông và phức tạp.
2. Nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX – Khái niệm và phân
loại.
2.1. Khái niệm chung về nhà ở.
Mỗi quốc gia dù là phát triển hay đang phát triển cũng đều có một sự
giống nhau, đặc biệt đối với những nước đang có nền công nghiệp phát triển
đều có sự giống nhau về phân tầng xã hội trong cộng đồng dân cư. Điều này
thể hiện ở chỗ, bao giờ trong xã hội của nó cũng bao gồm những hộ gia đình
có mức sống, sinh hoạt, thu nhập hoàn toàn khác nhau. Đó là những người
có thu nhập rất cao; những người có thu nhập cao; những người có thu nhập
trung bình; những người có thu nhập thấp; và những người có thu nhập rất
thấp.
Với những người thuộc nhóm có thu nhập cao, rất cao hay trung bình
thì với họ vấn đề nhà ở không có gì khó khăn lắm cho họ, nhưng với những
người có thu nhập thấp và rất thấp thì lại khác. Họ hầu hết là gặp khá nhiều
khó khăn trong vấn đề tạo lập nhà ở.
Hầu hết những chương trình phát triển của mỗi quốc gia trên thế giới,
bao giờ chương trình nhà ở cho các thành phần dân cư trong xã hội cũng
được quan tâm rất nhiều. Chương trình này bao gồm cả các thành phần dân
cư, đối tượng xã hội là nhà cho người lao động tại các khu sản xuất, nhà cho

Website: Email : Tel : 0918.775.368
người nghèo, người gặp khó khăn, hoạn nạn trong cuộc sống do thiên tai,
bệnh tật,… Tùy theo tình hình, đặc điểm thực tế của mỗi nước và trong từng
hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn mà có chính sách đầu tư phát triển nhà

ở cho các đối tượng nêu trên là khác nhau. Từ việc đầu tư bằng ngân sách
nhà nước đến việc khuyến khích và tạo điều kiện để hỗ trợ các thành phần
kinh tế tham gia đầu tư vào lĩnh vực xây dựng nhà ở để cho các đối tượng
này thuê, tạm thời cư trú hoặc thuê mua.
Để hiểu thế nào là nhà ở cho công người lao động, công nhân tại các
KCN, KCX, thì hiện nay chưa từng có một khái niệm cụ thể nào nói đến.
Cũng chưa có khái niệm thống nhất nào về nhà ở cho công nhân, người lao
động tại các KCN, KCX. Theo những điều khoản, quy phạm trong “Chương
I: Những quy định chung” của Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 6 tháng 9
năm 2006 về Quy định chi tiết và hướng dấn thi hành Luật Nhà ở, chúng ta
có khái niệm về “nhà ở xã hội” được dùng nhất thể hóa với nhà ở công nhân,
người lao động tại các KCN, KCX như sau: “Nhà ở xã hội” được hiểu là
nhà ở do nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế đầu
tư xây dựng cho các đối tượng quy định tại điều 53 và điều 54 của Luật Nhà
ở thuê hoặc thuê mướn theo cơ chế do Nhà nước quy định.”
Ngoài ra trong luật Nhà ở còn có quy định về điều kiện được thuê và
mua nhà ở xã hội bao gồm:
- Chưa có sở hữu nhà và chưa được thuê hoặc thuê mua nhà ở
thuộc sở hữu nhà nước; có nhà ở thuộc sở hữu của mình nhưng diện tích
bình quân trong hộ gia đình dưới 5m2 sàn/ người; nhà ở thuộc sở hữu của
mình nhưng là nhà ở tạm, hư hỏng hoặc dột nát.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Người được thuê – mua quỹ nhà ở xã hội ngoài các điều kiện quy
định nói trên còn phải thanh toán lần đầu 20% giá trị của nhà được thuê
mua.
Vấn đề nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư
xây dựng nhà ở cho công nhân, cho người lao động được thể hiện qua các
chính sách về đất đai như: không tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, có
những chính sách ưu đãi về thuế, ưu đãi về lãi suất vốn vay và các chính

sách tạo điều kiện và ưu đãi khác như giá cho thuê, giá thuê mua được tính
trên nguyên tắc bảo toàn vốn đầu tư xây dựng.
2.2. Các loại hình nhà ở của công nhân tại các KCN, KCX.
Nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX hiện nay rất đa dạng và có
nhiều hình thức, tuy nhiên có thể chia thành ba loại chính như sau:
- Nhà ở do nhà nước xây dựng.
- Nhà ở do các doanh nghiệp xây dựng.
- Nhà ở do các hộ dân xây dựng.
Thứ nhất là loại nhà ở do nhà nước xây dựng. Đây là loại hình nhà ở có
chất lượng cao nhất trong tất cả các loại hình nhà ở dành cho công nhân,
người lao động trong các KCN, KCX thuê vì loại nhà ở này được xây dựng
theo tiêu chuẩn của Nhà nước ban hành. Hiện nay loại nhà ở này có rất ít, nó
chiếm khoảng 1% trong tổng số lượng nhà ở cho công nhân thuê và chỉ được
thực hiện ở một số địa phương tập trung các KCN lớn như TP Hồ Chí Minh,
Bình Dương và Đồng Nai. Đây là một loại hình nhà ở chung cư chưa được
xây dựng ở các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương khác ngoài những
thành phố trên.
Thứ hai là loại nhà do các doanh nghiệp xây dựng, đây là loại nhà ở
được thiết kế trên diện tích đất tại các KCN. Loại nhà này được xây dựng

Website: Email : Tel : 0918.775.368
khoảng 3-5 tầng theo tiêu chuẩn của Bộ xây dựng và quy định của UBND
TP Hồ Chí Minh (Quyết định 75). Những khu nhà ở này hiện nay đang
được xây dựng và hoàn chỉnh để đưa vào sử dụng, nhưng hầu hết nó tập
trung ở TP Hồ Chí Minh như ở KCX Tân Thuận do công ty cổ phần phát
triển Sài Gòn xây dựng 2 khu nhà quy mô 1900 chỗ ở, KCN Tân Bình, công
ty phát triển nhà Quận 5 xây dựng 2 khu chung cư với quy mô 720 chỗ ở;
KCX Linh Trung 1, công ty dịch vụ địa ốc Sài Gòn xây dựng 104 phòng vơi
quy mô 840 chỗ ở, Tổng công ty xây dựng Sài Gòn xây dựng 2 khu nhà 5
tầng với quy mô 1520 chỗ ở; KCN Vĩnh Lộc, công ty cổ phần nhà Quận 5

xây dựng 2 khu chung cư với quy mô là 720 chỗ ở.. Theo số liệu thống kê về
việc nhà nước và doanh nghiệp đảm bảo được chỗ ở cho người lao động ta
thấy:
Tỉnh, thành phố Tỷ lệ nhà ở được đảm bảo (%)
TP Hồ Chí Minh 5.4
Đồng Nai 6.5
Bình Dương 15
Như vậy ta thấy so vói tổng nhu cầu của người lao động về chỗ ở thì tỷ
lệ này là quá ít. Doanh nghiệp và nhà nước mới chỉ đảm bảo được một phần
nhỏ số lượng nhà cho công nhân tại các KCN, KCX.
Đây là những khu nhà đảm bảo chất lượng tốt thứ hai sau loại nhà ở do
nhà nước xây dựng. Chất lượng của nó hơn hẳn so với những loại nhà ở do
doanh nghiệp tư nhân và các hộ gia đình xây dựng để cho thuê. Khu nhà này
đã đảm bảo được chất lượng cuộc sống của người công nhân. Nhà ở do
doanh nghiệp xây dựng trong khuôn viên đất của doanh nghiệp trong KCN.
Vì vậy chất lượng cuộc sống trong này bị tách biệt với cộng đồng dân cư,

Website: Email : Tel : 0918.775.368
đồng thời những hạ tầng xã hội đi kèm với chất lượng cuộc sống cũng có
nhiều bất cập
Thứ ba là loại nhà ở do các hộ dân xây dựng, hiện nay loại nhà ở này
khá phổ biến ở hầu hết các KCN, KCX trên cả nước. Theo số liệu điều tra
của nhóm nghiên cứu đề tài liên quan đến vấn đề nhà ở cho công nhân tại
các KCN, KCX ở Việt Nam của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương cho thấy, tại TP HCM nhà ở do hộ gia đình xây dựng đảm bảo được
96,4% số lượng chỗ ở cho người lao động trong các KCN, KCX. Còn tại
Long An thì đại đa số (chiếm gần 100%) số lượng nhà ở cho công nhân tại
các KCN, KCX ở đây là do các hộ gia đình cung cấp. Nhà nước cũng như
doanh nghiệp chưa hề xây dựng chỗ ở cho công nhân. Cũng với tình trạng
như trên thì tại Quảng Nam, Bình Định, chỗ ở của công nhân hiện nay chủ

yếu do các hộ gia đình cung cấp.
Riêng tại Hà Nội, hiện nay có khoảng 28.200 lao động trong các KCN,
KCX nhưng công nhân thì trên 90% phải thuê nhà trọ của dân để ở. Tỉnh
Hưng Yên đang đầu tư xây dựng khu chung cư tại KCN Như Quỳnh. Tuy
nhiên khi công trình đã hoàn thành cũng chỉ đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu
nhà ở cho lao động tại đây, còn đa phần công nhân lại vẫn phải đi thuê nhà ở
cho mình tại các khu vực lân cận với KCN.
Những loại nhà ở do người dân tự phát xây lên theo xu hướng phát triển
của các KCN, KCX và sự gia tăng của nó để đáp ứng nhu cầu của người lao
động tại đây. Chính điều đó làm cho phần lớn nhà trọ này có chất lượng rất
kém. Hầu hết đó là những căn nhà mái tôn, giấy dàu, tường gạch, lá dừa, nền
lát gạch hoặc láng xi măng, không có công trình phụ khép kín, phần lớn đó
là hệ thống nhà vệ sinh chung rất bất tiện, nhất là đối với phụ nữ.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Loại nhà ở do người dân tự phát xây lên hiện nay có thể là loại nhà xây
mới, nhà do hộ gia đình ngăn từ diện tích còn thừa của gia đình mình để cho
thuê hoặc là nhà xây tạm trên đất vườn, đất thổ cư hay công trình phụ trước
đó. Trong ba loại nhà trên thì loại nhà do người dân xây mới để cho công
nhân thuê hiện nay có chất lượng tốt nhất so với những loại nhà kia, tuy
nhiên do họ phải đóng thuế khá cao (28% thuế thu nhấp doanh nghiệp và
VAT 10%) nên thu hồi vốn chậm và không có tích lũy để tu sửa nhà trọ. Vì
vậy mà loại nhà này cũng ít. Đây là mô hình rất phù hợp với giai đoạn hiện
nay, cho nên Nhà nước nên có những cơ chế chính sách để hỗ trợ tạo điều
kiện cho những hộ dân có khả năng xây dựng nhà ở cho công nhân thuê,
giảm bớt sức ép về nhu cầu nhà ở đang ngày một gia tăng hiện nay. Còn đối
với những loại nhà ở do người dân xây dựng từ diện tích thừa của gia đình
hay xây trên đất thổ cư thì phần lớn chất lượng kém, an ninh không đảm
bảo, không an toàn. Chắc chắn về sau này không một người ở trọ nào muốn
duy trì tình trạng chỗ ở của mình như vậy.

3. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về việc phát triển
nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX.
Việc phát triển nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX hiện nay đang
là một vấn đề khá bức xúc đặt ra với tất cả các nước, đặc biệt là đối với
những nước có tốc độ tăng trưởng phụ thuộc phần lớn vào yếu tố phát triển
các KCN, KCX. Sau đây là một số những kinh nghiệm của các nước trên thế
giới về việc phát triển nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX.
3.1. Một số giải pháp của các tiểu vương quốc Ả Rập (UAE).

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chính quyền thành phố công nghiệp Dubai đã thông báo hoàn thành
thành phố lao động đầu tiên tại khu Base Metal, với sức chứa 12500 người
gồm quản đốc và công nhân.
Thành phố lao động, bao gồm 14 toà nhà, là dự án đầu tiên trong số bảy
dự án theo kế hoạch sẽ được xây dựng tại thành phố công nghiệp Dubai với
chi phí lên tới 1.6 tỷ Dh (Dirham, đơn vị tiền tệ của UAE, bằng 0.272294
USD, bằng khoảng 4.356 đồng Việt Nam). Sáu dự án còn lại được xây dựng
trong năm 2007 và hoàn thành vào quý 1 năm 2008. Việc hoàn thành thành
phố lao động đầu tiên chỉ là một phần trong một kế hoạch tổng thể nhằm
giúp thành phố công nghiệp có thể tạo được chỗ ở cho nguồn lao động cần
thiết cho thành phố với mức giá chấp nhận được và có thể tự trang trải được.
Thành phố công nghiệp Dubai nằm tọa lạc trên trục đường Emirates và
gần với đường Shaikh Zayed, có diện tích gần 560 triệu feet vuông. Đây là
khu vực công nghiệp bao gồm sáu cụm công nghiệp thực phẩm và đồ uống,
kim loại cơ bản, khoáng phẩm, hoá chất, trang thiết bị và phụ tùng giao
thông, máy móc và thiết bị cơ khí.
Chương trình nhà ở được xây dựng với một phong cách riêng đa mục
đích với bản sắc riêng và tiên tiến một mặt tạo cho công nhân khả năng tiếp
cận các khu sản xuất một cách dễ dàng, mặt khác lại giúp cải thiện điều kiện
sinh hoạt của công nhân trong một thành phố công nghiệp toàn diện thuộc

loại hàng đầu trong khu vực.
Nhà ở của công nhân trong thành phố công nghiệp được trang bị cho
các thiết bị tiên tiến, bao gồm một phòng bếp được thiết kế riêng, một quán
ăn tự phục vụ (cafeteria), một phòng giặt đồ, phòng ngủ có điều hoà nhiệt
độ, sân chơi dành cho bóng rổ, bóng đá và cric-ke. Các dịch vụ khác như

Website: Email : Tel : 0918.775.368
cửa hàng ăn uống, cửa hàng tạp hoá, ngân hàng, trung tâm y tế, rạp hát và
các dịch vụ bán lẻ khác cũng sẽ được đưa vào hoạt động nhằm đáp ứng các
nhu cầu sinh hoạt thường ngày của công nhân.
Khi hoàn thành dự án, các thành phố lao động sẽ có tổng diện tích 14
triệu feet vuông, với 87500 giường. Thiết kế và quy hoạch của tất cả các
thành phố lao động này là tuân thủ theo các quy định mới nhất của thành
phố công nghiệp Dubai, và dưới sự giám sát của Maqayees, trung tâm tiêu
chuẩn công nghiệp Dubai.
3.2. Một số giải pháp của Bang Selangor (Malaysia) xây dựng
chương trình phát triển nhà ở cho công nhân.
Chương trình này được chính quyền bang Selangor (Malaysia) bắt đầu
để phát triển nhà ở mới cho công nhân của bang. Chương trình này được đặt
tên là “Chương trình nhà ở cho các cặp uyên ương”.
Nhà xây dựng theo chương trình này sẽ được tập trung tại các khu vực
phụ cận khu công nghiệp. Theo tuyên bố mà Ban thư ký báo chí tại văn
phòng Menteri Besar, chương trình nhà ở cho các cặp uyên ương nhằm đảm
bảo rằng công nhân sẽ không phải rời đi nơi khác khi lập gia đình. Điều này
sẽ góp phần làm giảm mức biến động lao động tại các nhà máy, các KCN…
từ đó tạo ra sức hút cho các nhà đầu tư.
Hai trong số những địa điểm được xác định là thích hợp cho chương
trình nhà ở cho các cặp uyên ương này là Batu 7 và Si jang kang, nằm gần
khu trung tâm Halal và Deng kil tại Sepang.
Tất cả các công dân dưới 45 tuổi tại Selangor đều được dành cho các

căn hộ này. Đó là các căn hộ liền kề nhau, mỗi căn gồm ba phòng, mỗi căn
trị giá 35,000 ringit.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Để tối ưu hoá sử dụng tiện ích mặt bằng, chương trình sẽ tổ chức xây
dựng các cụm căn hộ, theo tỉ lệ 20 đến 25 đơn nguyên trên mỗi acre (mẫu
Anh tức là bằng khoảng 0.4 hecta) so với mức 15 đơn nguyên trên một acre
đang áp dụng trong các dự án nhà hiện tại.
Tuyên bố của ban thư ký báo chí cũng cho biết, mặc dù thiết kế căn hộ
là khá tiết kiệm nhưng điều đó sẽ không làm ảnh hưởng tới tính an toàn cũng
như khả năng đáp ứng đầy đủ các cơ sở hạ tầng. Để đảm bảo tính tiện dụng
cho người sử dụng căn hộ thì các tiện ích công cộng đi kèm như thùng rác,
sân chơi cho trẻ em, nhà cộng đồng (nhà chung của cộng đồng) sẽ được bố
trí tại những vị trí trung tâm của khuôn viên để mỗi hộ gia đình có thể dễ
dàng tiếp cận, sinh hoạt.
Sẽ có một khoảng không gian riêng khoảng 20 foot (đơn vị đo lường
Anh, bằng 0.3048 mét) giữa các đơn nguyên, để đảm bảo cho thiết kế khu
nhà được tuân thủ thì các khoảng này sẽ không được dùng để đỗ xe hay cơi
nới…Một khu vực đỗ xe trung tâm sẽ được bố trí cho người sử dụng.
Nhà ở theo chương trình này cũng sẽ có “lá phổi xanh” dưới hình thức
cây xanh có bóng mát trồng dọc theo các trục đường chính và các khu vui
chơi.
3.3. Tại một số quốc gia khác.
Tại một số quốc gia khác vấn đề nhà ở cho công nhân được đặt chung
trong vấn đề nhà ở cho người lao động có thu nhập thấp. Tại Mỹ, Bộ xây
dựng nhà ở và phát triển đô thị Mỹ được giao quản lý tiền hỗ trợ nhà để đảm
bảo quyền lợi cho các hộ gia đình có thu nhập thấp hoặc là những người
nghèo. Dưới sự bảo đảm của nhà nước, lãi xuất tín dụng giảm và được duy
trì ở một mức nhất định phù hợp với khả năng của người đi vay. Nhiều


Website: Email : Tel : 0918.775.368
chương trình cấp vốn trực tiếp đã được triển khai, như cấp tạm ứng, cấp tín
dụng ưu đãi cho việc tạo lập mới và cải tạo nhà ở; hỗ trợ hoặc bảo lãnh
thanh toán tiền thuê nhà ở. Ngoài ra thì chính phủ Mỹ cũng đặc biệt quan
tâm đến hình thức phát triển nhà ở cho thuê giá thấp. Tuy nhiên qua nhiều
năm, dù cũng qua nhiều chính sách của nhà nước, nhưng vấn đề nhà ở công
cộng của nước Mỹ vẫn trong tình trạng là khủng hoảng nặng. Điều này có
được một phần do các định chế do tổng thống các kỳ đưa ra khác nhau. Với
mỗi kỳ tổng thống thì lại có những chính sách về nhà ở cho công nhân, nhà
ở công cộng hay nhà ở xã hội khác nhau chính vì vậy mà cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nhà ở xã hội tại Mỹ. Đến nay, bài
học kinh nghiệm mà nước Mỹ có thể rút ra là nguyên nhân dẫn đến khủng
hoảng nhà ở là do thiếu quỹ nhà cho thuê.
Tại Balan, chính sách về nhà ở lại được áp dụng như sau: họ phân ra
trong xã hội có các đối tượng có nhu cầu về nhà ở, phân thành năm nhóm.
Đó là:
- Nhóm có thu nhập rất cao.
- Nhóm có thu nhập cao.
- Nhóm có thu nhập trung bình.
- Nhóm có thu nhập thấp.
- Nhóm có thu nhập rất thấp.
Nhóm có thu nhập rất thấp tức là người nghèo, gồm các hộ gia đình gặp
thiên tai, rủi ro trong cuộc sống, hay những người có thu nhập rất thấp.
Nhóm này cần có sự hỗ trợ của nhà nước. Balan áp dụng hình thức ở đây là
phân nhóm đối tượng trong xã hội để có chính sách giải quyết cho phù hợp.
4. Một số kết luận rút ra cho Việt Nam.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Từ thực tế và kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy vấn đề nhà ở cho
công nhân làm việc tại các KCN, KCX là một vấn đề rất quan trọng và có ý

nghĩa thiết thực cấp bách với sự phát triển lâu dài của các hoạt động sản xuất
kinh doanh và chiến lược phát triển bền vững của các KCN, KCX. Sự phối
hợp giữa nhà nước, ban quản lý các KCN, KCX, doanh nghiệp và người dân
trong việc giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở mỗi
quốc gia, mỗi khu vực tuy có khác nhau. Tuy nhiên vẫn có những nét tương
đồng và những xu thế phát triển chung, chúng ta có thể rút ra một số bài học
kinh nghiệm quan trọng cho Việt Nam giải quyết vấn đề này trên một số
khía cạnh sau:
Thứ nhất là, chúng ta phải mạnh dạn thừa nhận quan điểm nhà ở cho
công nhân tại các KCN, KCX là một yếu tố quan trọng gắn liền với sự hình
thành và phát triển của các KCN, KCX đồng thời nó cũng là một nhân tố
quan trọng đi liền với quá trình phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt là đối
với những nước đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá như Việt
Nam. Dù là nước đi sau thì Việt Nam cũng cần phải nhấn mạnh vấn đề này
và có những cơ chế chính sách quan tâm thích đáng. Vì tất cả những nước
đã trải qua thời kỳ tăng trưởng và phát triển cũng đều khẳng định rằng xuất
phát từ nền tảng và yếu tố then chốt là sự phát triển mạnh mẽ của các KCN,
KCX. Gắn với vấn đề này là vấn đề giải quyết nhà ở cho công nhân.
Thứ hai là, Nhà nước phải là người đi tiên phong trong việc tạo lập và
hiện thực hoá các cơ chế chính sách để phát triển nhà ở cho công nhân, cho
người lao động. Bởi vì vấn đề nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX
không chỉ là vấn đề về kinh tế mà nó còn liên quan nhiều nữa đến vấn đề xã
hội nên nhà nước cần phải thực hiện các biện pháp hỗ trợ trực tiếp (tài
chính) cho công nhân khi thuê hay mua nhà thông qua việc cấp vốn, bảo

Website: Email : Tel : 0918.775.368
lãnh hoặc cho vay ưu đãi. Để làm tốt điều này thì nhà nước cần phải có sự
quy định, cam kết rõ ràng và có khung pháp lý riêng để các bên liên quan
trực tiếp (Nhà nước, ban quản lý doanh nghiệp, công nhân) có thể đối chứng
công bằng, đảm bảo đúng quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia. Bên cạnh đó

nhà nước còn cần phải khuyến khích các doanh nghiệp, người dân tham gia
vào quá trình cung ứng loại hình dịch vụ nhà ở này thông qua các biện pháp
hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp cho các doanh nghiệp, người dân như ưu đãi
thuế, giá yếu tố đầu vào (điện, nước..), cơ sở hạ tầng, cung cấp thông tin quy
hoạch các KCN, KCX,…Về phía bên cung cấp dịch vụ và nhà nước cũng
phải đảm bảo cam kết, quy định đi kèm về giá thuê nhà ở, tiêu chuẩn về chất
lượng và phòng trọ cho thuê…
Tóm lại, trong xu thế tất yếu của sự biến đổi kinh tế nói chung trên thế
giới, bất kỳ quốc gia nào dù là phát triển hay đang phát triển, các quốc gia
đang trong quá trình CNH- HĐH chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Để thay đổi và
phát triển theo hướng tích cực, thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển
đi trước thì một trong những điều kiện tiên quyết đó là phải tập trung phát
triển các KCN, KCX. Tuy nhiên để các KCN, KCX này hoạt động, phát
triển thì cần phải có các yếu tố cơ bản, nền tảng bên trong, ở đây chính là
vấn đề nhà ở cho công nhân, cho những người lao động làm việc tại nơi đó.
Vậy phía nhà nước, doanh nghiệp, người dân phải làm gì để góp phần làm
cho điều này trở thành hiện thực? Đó vẫn còn đang là một ẩn số cho mọi
quốc gia đang phát triển, Việt Nam cũng không thể nằm ngoài quỹ đạo này.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN TẠI
CÁC KCN, KCX VÀ CÁC CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC
VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN TẠI CÁC KCN,
KCX Ở VIỆT NAM
1. Những vấn đề nảy sinh khi nhà ở cho công nhân tại các KCN,
KCX không được giải quyết.
Sự ra đời của các KCN, KCX tại bất kỳ một quốc gia nào cũng thường
có một xu hướng chung là sẽ thu hút một lượng lao động khá lớn, đặc biệt là
lao động trẻ từ các địa phương khác, mà chủ yếu là các vùng nông thôn, các

quốc gia dư thừa lao động khác. Nhu cầu thu hút lao động bình quân đối với
các KCN, KCX khoảng từ 100-150 lao động/ ha đất xây dựng công nghiệp,
chưa kể số lao động phụ trợ ăn theo. Khi xây dựng một KCN 100-200 ha sẽ
hình thành nên một đô thị mới khoảng 10.000 đến 30.000 lao động. Nếu tính
thêm số lao động phụ trợ và ăn theo có thể lên đến 20.000 - 40.000 người,
tương đương đô thị loại năm. Như vậy khi xem xét sự hình thành xây dựng
KCN, KCX không chỉ phải tập trung giải quyết vấn đề xây dựng nhà xưởng
mà còn phải chú ý đến vấn đề phát triển nhà cho công nhân cũng như vấn đề
hạ tầng cơ sở có liên quan (Bộ xây dựng 2007).

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chính vì sự gia tăng của các KCN, KCX kéo theo sự gia tăng của một
số lượng lao động và những người ăn theo cao như vậy cho nên nếu vấn đề
nhà ở cho công nhân không được giải quyết thì hậu quả tất yếu nảy sinh sẽ
là:
Thứ nhất, công nhân sẽ làm việc không năng suất. Vì điều kiện sinh
hoạt (nhà ở) của công nhân ảnh hưởng lớn đến khả năng tái tạo sức lao động
của công nhân và qua đó ảnh hưởng đến năng suất lao động và sự phát triển
bền vững của doanh nghiệp cũng như của KCN, KCX. Ta có thể lấy một ví
dụ như tại Đài Loan thuộc Trung Quốc, tình trạng lạm dụng tình dục một
cách nghiêm trọng xảy ra thường xuyên, nhất là đối với nữ công nhân trẻ
còn độc thân. Nhiều nữ công nhân tầm tuổi 19 muốn làm việc tại các quán
bar karaoke nơi họ bị lạm dụng tình dục nhưng ít nhất mức lương của họ
nhận được là NT $30.000 (US$ 1.170/ tháng, tỷ giá NT 25,924/US$ 1), là
mức thu nhập cao hơn làm trong nhà máy. Các KCX đã góp phần tạo nên
“sự thần kỳ kinh tế” của Đài Loan. Tuy nhiên kể từ thập kỷ 80, với sự gia
tăng chi phí nhân công và giá đất, khả năng cạnh tranh của Đài Loan đã bị
giảm sút. Kể từ năm 1984, nhiều nhà máy trong các KCX đã chuyển sang
hoạt động tại các quốc gia khác. Điều kiện sinh hoạt của công nhân ảnh
hưởng tới năng suất lao động bởi vì nếu điều kiện ăn ở kém sẽ ảnh hưởng tới

sức khoẻ của công nhân qua các yếu tố như: thiếu ngủ, thiếu phương tiện đi
lại và thời gian nghỉ ngơi, điều kiện vệ sinh, nước uống kém. Nếu thường
xuyên như vậy thì tình trạng này hàng ngày ảnh hưởng tới sức khoẻ của
công nhân, đặc biệt là nữ công nhân – là lực lượng lao động chính của các
KCN, KCX. Họ là những công nhân sản xuất, do đặc thù công việc mà họ
phải làm việc khoảng 10-12 tiếng trong một ngày và có khi còn phải làm ca
đêm. Hơn nữa ngoài thời gian làm việc họ lại còn phải chăm sóc gia đình,
con cái dẫn đến họ thường xuyên đi làm muộn hoặc phải nghỉ làm. Nếu có

Website: Email : Tel : 0918.775.368
thể đi làm thì họ cũng không thể cho năng suất cao và khả năng an toàn lao
động bị giảm.
Thứ hai, do không có chỗ ở ổn định nên đời sống của công nhân rất bấp
bênh, nay đây mai đó, điều này làm cho doanh nghiệp có thể thiếu lao động,
đặc biệt là lao động lành nghề. Rất nhiều công nhân khi được hỏi đã trả lời:
“vấn đề chính của chúng tôi là chúng tôi không có nhà riêng, nếu người chủ
căn hộ mà chúng tôi đang ở trở về thì chúng tôi sẽ phải chuyển đi. Nếu
chúng tôi được vay mua nhà hoặc được cấp nhà của Nhà nước thì tình hình
sẽ tốt hơn. Nếu không chúng tôi sẽ đành phải chuyển vào ở trong một văn
phòng nhà ở của thành phố cho tới khi họ cấp cho chúng tôi một căn hộ”.
Như vậy sự ổn định lao động tại các KCN, KCX có thể bị ảnh hưởng
do điều kiện sinh hoạt tồi tệ của công nhân. Phần lớn công nhân họ đều biết
rằng họ có quyền được sinh hoạt trong điều kiện tốt và do vậy bắt đầu nêu
vấn đề này cho các cơ quan có liên quan và các cơ quan thông tin đại chúng.
Nếu doanh nghiệp và nhà nước không khắc phục hay giải quyết tình trạng
này thì có thể sẽ dẫn đến khả năng xảy ra xung đột.
Thứ ba, Nhiều vấn đề xã hội phát sinh trong quá trình làm việc như:
tranh chấp lao động với người sử dụng lao động, biểu tình, bãi công… trong
khoảng thời gian từ năm 1987-1992, tại Đài Loan hơn 30.000 công nhân làm
việc tại các KCX đã mất việc làm. Tình trạng biểu tình ngồi của công nhân

đòi các khoản bồi thường mà họ có quyền được hưởng xảy ra thường xuyên
sau khi các nhà máy đóng cửa. Khi chi phí nhân công gia tăng, các công ty
còn tiếp tục hoạt động đều tìm cách đối phó.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cũng như vậy tại Sri Lanka nhiều cuộc đình công xảy ra do tranh chấp
giữa công nhân và người sử dụng lao động về vấn đề nhà ở. Các vấn đề xã
hội phát sinh trong quá trình này rất khó giải quyết.
Thứ tư, ảnh hưởng trực tiếp tới người sử dụng lao động cũng như sự
phát triển của các KCN, KCX. Khi điều kiện tối thiểu là nhà ở cho công
nhân làm việc không được đáp ứng thì những phúc lợi xã hội mà công nhân
lẽ ra được hưởng cũng không thể hoặc là khó có thể được hưởng theo. Mặt
khác các nhà đầu tư nước ngoài đều coi phúc lợi của công nhân là một điều
kiện để họ tham gia đầu tư và thực hiện các giao dịch, điều này dựa trên cơ
sở tiêu chuẩn thế giới về phúc lợi của công nhân, nhất là đối với các nước ở
thế giới thứ ba, khi điều kiện làm việc của công nhân còn tồi tàn, lao động
dễ bị bóc lột, giá nhân công rẻ mạt…
Thứ năm, do đặc điểm lao động tại các KCN, KCX là phần lớn trẻ và
chưa lập gia đình. Khi làm việc tại các KCN, KCX hiện nay, với điều kiện
vật chất chưa đầy đủ, đặc biệt lại chưa có nhà để ở ổn định thì việc kết hôn,
lập gia đình đối với họ là vấn đề không tưởng. Điều này cũng ảnh hưởng đến
tâm lý của các cá nhân, đồng thời cũng tạo nhiều vấn đề xã hội đặc biệt là
đối với phụ nữ như tình trạng bị lạm dụng tình dục hoặc phải thôi việc để đi
lấy chồng khi đã đến hoặc quá tuổi.
Tất cả đều tạo ra một hình ảnh không tốt đẹp gì trong mắt các nhà đầu
tư tiềm năng đối với các KCN, KCX. Vì vậy có thể dòng đầu tư vào các
KCN, KCX này sẽ giảm đi trong tương lai, do vậy ảnh hưởng đến sự phát
triển lâu dài và bền vững của các KCN.
2. Tình hình nhà ở của công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam.


Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tại Việt Nam thời gian qua, các KCN, KCX hầu hết là không có hoặc
có cũng không đảm bảo nhà ở cho công nhân của mình. Chúng ta có thể tìm
hiểu một số thông tin thông qua bài báo dưới đây được đưa tin nhanh tại
VnEpress về tình hình nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam:
Trên 90% khu công nghiệp không có nhà trọ công nhân
Trong 130 khu công nghiệp, khu chế xuất hiện có trên cả nước, chỉ
khoảng 7% đơn vị xây nhà cho công nhân thuê. Và cũng chưa có tỉnh,
thành phố nào ban hành chính sách phát triển nhà ở cho lao động ở các
khu này.
Ông Đặng Như Lợi, Phó chủ nhiệm Uỷ ban Các vấn đề xã hội của
Quốc hội, đã đưa ra các con số trên tại buổi tổng kết 15 năm xây dựng và
phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam, tổ chức tại tỉnh
Long An, sáng nay.
Ông Lợi cho hay, hiện cả nước có khoảng 860.000 công nhân, phần lớn
là người ngoại tỉnh làm việc trong các khu chế xuất, khu công nghiệp.
Nhưng ngay cả tỉnh phát triển mạnh về các khu công nghiệp như Đồng Nai
cũng chỉ đảm bảo được chỗ ở cho 6,5% người lao động. Còn TP HCM mới
dừng ở mức 4%. “Có lẽ do hầu hết các khu công nghiệp chỉ lo làm sao tạo ra
lợi nhuận chứ không hề chú trọng đến việc lo nơi ăn chốn ở của công nhân,
những người trực tiếp làm ra của cải cho họ", ông Lợi nhìn nhận.
Cũng theo ông Lợi, do không được lo chỗ ở, công nhân đành phải tự
tìm chỗ trọ cho mình. Với mức lương trung bình từ 800.000 đến 1 triệu

×