Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 122 trang )


1
ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KINH Tế





TRNH V MINH



NNG CAO NNG LC CNH TRANH CA
NGNH THẫP VIT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01


LUậN VĂN THạC Sỹ KINH Tế CHíNH TRị




NGƯờI HƯớNG DẫN KHOA HọC
TS. Phm Quang Vinh








Hà Nội - 2008

3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
3
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA NGÀNH TRONG NỀN KINH TẾ
7
1.1. Lý luận chung về cạnh tranh
7
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh
7
1.1.2. Các loại hình cạnh tranh
16
1.1.3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
17
1.2. Kinh nghiệm của một số nƣớc trong việc nâng cao năng lực
cạnh tranh trong ngành sản xuất thép - Bài học đối với ngành
thép Việt Nam
21
1.2.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc – Bài học đối với Việt Nam
21
1.2.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc – Bài học đối với Việt Nam
24
1.2.3. Kinh nghiệm của một số nước ASEAN – Bài học đối với
Việt Nam

26
Kết luận chương
35
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
NGÀNH THÉP VIỆT NAM
37
2.1. Năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam
37
2.1.1. Năng lực cạnh tranh trong khâu nguyên liệu
37
2.1.2. Năng lực cạnh tranh về thiết bị và công nghệ sản xuất
45
2.1.3. Năng lực cạnh tranh về qui mô sản xuất
53
2.2. Những tồn tại trong năng lực cạnh tranh của nghành thép
Việt Nam
55
2.2.1. Về nguyên liệu đầu vào
55
2.2.2. Về cơ cấu đầu tư
57
2.3. Những nguyên nhân làm suy giảm năng lực cạnh tranh của
71

4
ngành thép Việt Nam
2.3.1. Những nguyên nhân chủ quan
71
2.3.2. Những nguyên nhân khách quan
72

Kết luận chương
74
Chƣơng 3: NHỮNG ĐỊNH HƢỚNG MỚI VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÀNH
THÉP VIỆT NAM
76
3.1 Một số bối cảnh mới có ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh
của ngành thép Việt Nam
76
3.1.1. Những dự báo về nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm thép ở Việt
Nam giai đoạn 2008 – 2010
76
3.1.2. Những biến động đối với ngành thép Việt Nam sau khi gia
nhập WTO
81
3.1.3. Những biến động trên thị trường thép thế giới
85
3.1.4. Những vấn đề đặt ra cho ngành thép Việt Nam
88
3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành thép Việt Nam
89
3.2.1. Đi đôi với việc đầu tư mới một số nhà máy cán thép hiện
đại là từng bước đầu tư các nhà máy sản xuất phôi thép
89
3.2.2. Thực hiện việc tổ chức lại hệ thống doanh nghiệp, đổi mới
tổ chức và quản lý doanh nghiệp
96
3.2.3. Giải pháp đầu tư mạnh mẽ đổi mới thiết bị và công nghệ
104

3.2.4. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
106
3.2.5. Đầu tư cho nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ
108
3.2.6. Giải pháp đầu tư mở rộng và chiếm lĩnh thị trường
109
3.2.7. Các giải pháp về tài chính
110
KẾT LUẬN
112

5
TÀI LIỆU THAM KHẢO
115



6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đã từ lâu ngành sản xuất công nghiệp nặng nói chung và ngành sản
xuất thép nói riêng luôn có một vai trò quan trọng trong chính sách kinh tế
của Đảng và nhà nước ta. Quá trình xây dựng và phát triển đất nước luôn đòi
hỏi chúng ta phải có ngành công nghiệp thép đủ mạnh để bên cạnh là một
ngành kinh tế mũi nhọn còn góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của một
loạt các ngành công nghiệp khác như công nghiệp đóng tàu, chế tạo máy,
công nghiệp xây dựng
Hơn hai thập kỷ đổi mới vừa qua những thành tựu mà ngành thép nước
ta đạt được là không thể phủ nhận. Từ chỗ hơn 70% nhu cầu thép cho xây
dựng, gần 100% thép chế tạo phải trông chờ vào viện trợ nước ngoài hoặc

thông qua nhập khẩu thì đến nay chúng ta đã có thể sản xuất trên 3 triệu tấn
thép xây dựng gần 1.8 triệu tấn thép hình các loại về cơ bản đã đáp ứng được
nhu cầu thép cho xây dựng trong nước.
Tuy nhiên, thực tế những năm gần đây đặt ngành thép Việt Nam trước
một loạt những khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Các nhà máy cán thép
Việt Nam liên tục thua lỗ, sản xuất bị đình trệ, sản phẩm sản xuất ra không
thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại được nhập khẩu từ Trung Quốc và
các nước trong cũng như ngoài ASEAN. Các sản phẩm thép dẹt, thép tấm,
thép chế tạo vẫn phải nhập khẩu gần như 100% khiến cho không chỉ ngành
thép mà các ngành công nghiệp khác như công nghiệp đóng tàu, công nghiệp
ô tô, công nghiệp chế tạo máy cũng yếu ớt và hầu như không có khả năng
cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại được sản xuất tại nước ngoài ngay trên
sân nhà.
Việt Nam đã là thành viên của WTO, việc phải cạnh tranh với các sản
phẩm ngoại nhập là không thể tránh khỏi. Vì vậy, làm thế nào để nâng cao

7
năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam, đưa ngành công nghiệp sản
xuất thép lên một tầm cao mới đủ sức cạnh tranh sòng phẳng với các sản
phẩm cùng loại từ nước ngoài đồng thời có thể hướng ra xuất khẩu đã trở
thành một yêu cầu lớn cần phải có lời giải.
2. Tình hình nghiên cứu
Trước tình hình khó khăn của ngành thép cùng với yêu cầu phát triển
đồng bộ của ngành làm điểm tựa cho các ngành công nghiệp khác như công
nghiệp đóng tàu, công nghiệp xây dựng, công nghiệp chế tạo máy tháng 3
năm 1995 Bộ Chính Trị đã thông qua “Chiến lược phát triển ngành thép
Việt Nam đến năm 2010” trong đó nêu rõ những nhiệm vụ mà ngành thép
Việt Nam cần đạt được trong quá trình từ năm 1995 đến 2010. “Báo cáo
nghiên cứu thị trường thép xây dựng tại Việt Nam” của Công ty tư vấn thiết
kế và dịch vụ đầu tư (INFISCO)-Bộ công nghiệp cũng đã chỉ ra tiềm năng

phát triển của ngành đồng thời cũng đưa ra được những tồn tại, hạn chế mà
ngành thép Việt Nam đang gặp phải. Trong nghiên cứu “Xây dựng chiến
lược phát triển ngành thép Việt Nam” tác giả Phạm Chí Cường (Chủ tịch
hiệp hội thép Việt Nam) cũng đã nêu ra một số những kiến nghị với mục tiêu
xây dựng một hướng đi mới cho ngành thép Việt Nam. Hai tác giả Kenichi Ohno -
Nguyễn Văn Thường, (2005), “Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt
Nam”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội cũng đặt những vấn đề nhằm xây dựng hướng
đi chung cho ngành công nghiệp Việt Nam trong đó ngành công nghiệp sản xuất thép
được đề cập tới như là một động lực của ngành sản xuất ô tô xe máy.
Trong chừng mực nhất định, các công trình nói trên đã đề cập đến
những cơ sở lý luận và thực tiễn của ngành Thép Việt Nam ở một số khía
cạnh và mức độ khác nhau, giúp tác giả có thể tham khảo những quan điểm,
nhận thức chung về lý luận và nhiều số liệu cần thiết trong quá trình thực hiện
luận văn. Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một

8
cách toàn diện và hệ thống, nhất là trên giác độ kinh tế chính trị về vấn đề
nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam.
Từ những lý do trên em quyết định chọn đề tài nghiên cứu cho mình là:
“Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam”
3. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc phân tích thực trạng về năng lực cạnh tranh của ngành
thép Việt Nam, đồng thời thông qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước
trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép, luận văn chỉ ra được
những nguyên nhân cơ bản khiến cho khả năng cạnh tranh của ngành thép
Việt Nam luôn ở tình trạng yếu hơn so với các đối thủ nước ngoài qua đó đề
xuất một số giải pháp góp phần thúc đẩy ngành thép Việt Nam phát triển tăng
sức cạnh tranh của sản phẩm thép tại thị trường trong nước và từng bước
hướng đến việc xuất khẩu sản phẩm thép Việt Nam ra nước ngoài.
Từ những kết quả nghiên cứu, luận văn cố gắng xây dựng kế hoạch

tổng thể phát triển qui hoạch toàn ngành thép nhằm định hướng cho các đối
tác trong và ngoài nước tiếp cận và phát triển ngành thép.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá những cở sở làm
tiền đề cho sự phát triển của ngành thép Việt Nam. Đồng thời, phân tích thực
trạng của ngành thép Việt Nam, những khó khăn đang gặp phải qua đó tìm ra
nguyên nhân của những vấn đề này từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam.
Luận văn còn nghiên cứu tình hình sản xuất và tiêu thụ thép của một số
nước trong khu vực và trên thế giới qua đó đưa ra những dự báo về xu thế
phát triển của ngành đồng thời đúc rút những kinh nghiệm thực tế làm bài học
cho sự phát triển ngành.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

9
Luận văn sử dụng phương pháp của kinh tế chính trị Mác-Lênin; phương
pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, và khảo sát thực tế; đồng thời sử
dụng các quan điểm đổi mới kinh tế ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
Kết hợp giữa cái chung và cái riêng dựa trên các số liệu trong nước và
thế giới đã tổng kết.
6. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ hơn thực trạng của ngành thép Việt Nam, những khó khăn
đang gặp phải từ đó nêu ra được nguyên nhân của những khó khăn đó.
- Đưa ra những dự báo xu hướng và kiến nghị các giải pháp thúc đẩy
ngành thép Việt Nam phát triển tăng sức cạnh tranh của ngành thép Việt Nam
tại thị trường trong nước và từng bước hướng ra xuất khẩu.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực cạnh tranh của ngành

trong nền kinh tế.
Chương 2: Thực trạng về năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam.
Chương 3: Những định hƣớng mới và các giải pháp nhằm nâng cao khả
năng cạnh tranh của nghành thép Việt Nam








10
Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÀNH TRONG NỀN KINH TẾ

1.1 . Lý luận chung về cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh
Có thể nói cạnh tranh chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Ngày
nay có lẽ không ai còn nghi ngờ về sự phát triển tất yếu của nền kinh tế thị
trường ở nước ta vì vậy cạnh tranh đã được nhìn nhận như là một động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế. Cạnh tranh cũng chỉ diễn ra khi được pháp luật
thừa nhận và bảo hộ tính đa dạng của các loại hình sở hữu, khi có tự do hoá
thương mại và theo đó là tự do kinh doanh và quyền tự chủ của các cá nhân
được thừa nhận và bảo đảm. Cạnh tranh chỉ xuất hiện khi không có độc quyền
dưới bất kỳ hình thức nào. Tất cả những tiền đề đó đã hình thành ở nước ta từ
khi chuyển sang cơ chế thị trường và từ khi đảng và Nhà nước ta chủ trương
thúc đẩy kinh tế phát triển.

Cạnh tranh, nói chung là sự phấn đấu vươn lên không ngừng để giành
lấy vị trí hàng đầu nào đó bằng cách ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ
thuật tạo ra nhiều lợi thế nhất, tạo ra sản phẩm mới, tạo ra năng suất và hiệu
quả cao nhất.
Trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng có cạnh tranh. Không có cạnh tranh sẽ
không có phát triển. Đó là quy luật tồn tại của muôn loài.
Trong kinh tế cạnh tranh là đấu tranh để giành lấy thị trường tiêu thụ
sản phẩm (hàng hoá và dịch vụ) bằng các phương pháp và biện pháp khác
nhau như kỹ thuật, kinh tế, chính trị, quân sự, tâm lý xã hội. Biện pháp kỹ
thuật là áp dụng công nghệ hiện đại, máy móc thiết bị tiên tiến, công nhân có
trình độ lành nghề cao; biện pháp kinh tế như trợ cấp tài chính, bảo hộ, cho

11
vay ưu đãi, bán phá giá …; biện pháp chính trị – kinh tế là dùng áp lực chính
trị để buộc đối phương phải nhượng bộ hoặc một điều kiện thương mại nào đó
có lợi cho mình; biện pháp quân sự như gây chiến tranh cục bộ hoặc chiến
tranh thế giới để gây ảnh hưởng và chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Trong cạnh tranh nảy sinh ra kẻ có khả năng cạnh tranh mạnh, người có
khả năng cạnh tranh hoặc sản phẩm có khả năng cạnh tranh mạnh, sản phẩm
có khả năng cạnh tranh yếu. Khả năng cạnh tranh đó gọi là năng lực cạnh
tranh hay sức cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khă năng sản phẩm đó tiêu thụ
được nhanh trong khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó trên cùng thị
trường. Hay nói cách khác, năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng
thị phần của sản phẩm đó. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào
chất lượng của nó, giá cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, uy tín của người
bán, thương hiệu, quảng cáo, điều kiện mua bán, …
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành là khả năng doanh
nghiệp đó, ngành đó tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng
suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra

thu nhập cao và phát triển bền vững. Để đánh giá năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, của ngành người ta dựa nhiều vào tiêu chí: thị phần, doanh thu,
lợi nhuận và tỉ suất lợi nhuận, thu nhập bình quân, phương pháp quản lý, bảo
vệ môi trường, uy tín của doanh nghiệp đối với xã hội, tài sản của doanh
nghiệp nhất là tài sản vô hình, tỉ lệ công nhân lành nghề, tỉ lệ đội ngũ quản lý
giỏi, nghiên cứu và sáng tạo, … Những yếu tố đó tạo cho doanh nghiệp,
ngành có lợi thế cạnh tranh, tức là tạo cho doanh nghiệp khả năng triển khai
các hoạt động với hiệu suất cao hơn các đối thủ cạnh tranh, tạo ra giá trị cho
khách hàng dựa trên sự khác biệt hoá trong các yếu tố của chất lượng hoặc chi
phí thấp hoặc cả hai.

12
Lý thuyết cạnh tranh suất hiện từ nửa sau thế kỷ XVIII, xuất phát từ “tự
do kinh tế” mà Adam Smith đã phát hiện. Nhờ cạnh tranh mà xã hội loài
người ngày càng phát triển về mọi mặt. Cạnh tranh kích thích lòng tự hào, ý
chí vươn lên, ham muốn làm giàu, ham muốn khám phá cái mới, nhờ đó mà
thúc đẩy khoa học – kỹ thuật phát triển, làm cho mọi ngành kinh tế, mọi
doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn
phát triển ra phạm vi toàn cầu (mà người ta gọi là các công ty đa quốc gia).
Nhiều doanh nghiệp (nói riêng) và nhiều tổ chức (nói chung) của một
quốc gia có năng lực cạnh tranh thì quốc gia đó sẽ có năng lực cạnh tranh.
Hiện nay chưa có một định nghĩa nào về năng lực cạnh tranh được mọi người
công nhận. Theo M.Porter – người từng làm việc trong hội đồng cố vấn bên
cạnh tổng thống Mỹ: Không có một định nghĩa nào về năng lực cạnh tranh
được thừa nhận một cách phổ biến. Đối với các lãnh đạo doanh nghiệp năng
lực cạnh tranh có nghĩa là sức cạnh tranh trên thị trường thế giới nhờ áp dụng
chiến lược toàn cầu mà có được. Đối với nhiều nghị sĩ quốc hội sức cạnh
tranh là xuất siêu trong ngoại thương. Đối với một số nhà kinh tế học, sức
cạnh tranh là giá thành thấp của đơn vị sức lao động dựa vào điều chỉnh hối
suất. Cuộc tranh luận về sức cạnh tranh cho tới những năm 90 của thế kỷ XX

vẫn diễn ra sôi nổi và có phần gay gắt. Trên cơ sở đó, OECD đưa ra định
nghĩa sau: “Năng lực cạnh tranh là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên
cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp, các
ngành, các địa phương, các quốc gia và khu vực phát triển bền vững trong
điều kiện cạnh tranh quốc tế”.
Hội đồng cạnh tranh của Mỹ đề nghị định nghĩa: Sức cạnh tranh là
năng lực kinh tế về hàng hoá và dịch vụ của một nền sản xuất có thể vượt qua
thử thách trên thị trường thế giới trong khi mức sống của dân chúng có thể
được nâng cao một cách vững chắc, lâu dài.

13
Trong từ điển thuật ngữ chính sách thương mại: “Sức cạnh tranh là
năng lực của một doanh nghiệp, một ngành, một quốc gia không bị doanh
nghiệp khác, ngành khác đánh bại về năng lực kinh tế”.
Nhiều học giả cho rằng mục tiêu chủ yếu của các quốc gia là tạo mức
sống ngày càng cao cho nhân dân, còn làm được việc này thì không phải do
năng lực cạnh tranh quyết định mà do năng suất sử dụng tài nguyên hoặc lực
lượng sản xuất của quốc gia ấy quyết định.
Mặc dù có sự khác nhau giữa các định nghĩa trên song hàm nghĩa cơ bản
là như nhau, tức năng lực cạnh tranh quốc gia là năng suất của mỗi nước được
phản ánh thông qua sản phẩm của họ được tiêu thụ trên thị trường thế giới.
1.1.1.1 Quan niệm về cạnh tranh trước nửa đầu thế kỷ XX
Vào nửa cuối thế kỷ XVIII, chủ nghĩa tự do kinh tế phát triển ở Anh
với lý thuyết của Adam Smith và David Ricardo. Lý thuyết này chủ yếu đưa
ra nguyên tắc thuế hợp lý và làm rõ chức năng kinh tế của nhà nước trong
điều kiện kinh tế thị trường tự do, chỉ rõ cơ chế vận hành của thị trường tự do
và hiệu quả của cơ chế đó là làm cho dân giàu nước mạnh. Các học thuyết
trong giai đoạn này đề cao tự do cạnh tranh, đề cao lợi ích cá nhân. Smith cho
rằng phát triển tự do trao đổi hàng hoá sẽ tăng cường sự phân công lao động
mà mức độ phân công thì do thị trường quyết định. Cạnh tranh sẽ làm cân

bằng cung – cầu, làm cho sự phân phối tài nguyên được hợp lý, làm cho sản
phẩm ngày càng tốt và giá rẻ. Lý thuyết này khẳng định rằng muốn cạnh tranh
phát triển, Nhà nước phải đề ra các chính sách thích hợp để khuyến khích kinh
doanh phát triển ở cả thị trường trong và ngoài nước, nhưng Nhà nước không
nên can thiệp sâu vào cạnh tranh, chỉ nên tạo điều kiện cho cạnh tranh phát triển.
Tư tưởng lợi thế cạnh tranh là đóng góp quan trọng của David Ricardo.
Mỗi quốc gia, mỗi ngành có những lợi thế về tài nguyên khác nhau. Mói
ngành, mỗi nước tuỳ vào khả năng của mình mà sản xuất và bán những sản

14
phẩm mà mình có lợi thế hơn và mua cái mà mình không sản xuất được hoặc
sản xuất với giá đắt hơn. Nội dung của lý thuyết lợi thế so sánh là các nước
lựa chọn mặt hàng để chuyên môn hoá sản xuất theo công thức: chi phí sản
xuất mặt hàng A của nước đó so với thế giới nhỏ hơn chi phí sản xuất mặt
hàng B của nước đó so với thế giới. Thông qua ngoại thương các nước bù đắp
cho nhau, làm cho năng suất lao động ở mỗi nước tăng lên, chi phí giảm
xuống. Đó cũng là yếu tố cơ bản làm tăng cạnh tranh.
Cả A. Smith và D.Ricardo cũng nêu lý thuyết về thuế khoá. Thuế cần
thiết cho chi tiêu của chính phủ và xây dựng đất nước. Thuế cũng có thể thúc
đẩy sản xuất, phát triển xuất nhập khẩu, nhưng cũng có thể có tác dụng ngược
lại. Chính vì vậy cần phải có chính sách thuế hợp lý, khoa học. Hai ông cũng
phân biệt rõ giá trị và giá trị sử dụng chứa đựng trong sản phẩm và đó cũng là
yếu tố quan trọng quyết định tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Đến Karl Marx, lý luận cạnh tranh của ông phát triển ở tầm cao hơn,
gồm cạnh tranh về giá trị thặng dư, cạnh tranh chất lượng và cạnh tranh giữa
các ngành. Ba mặt đó diễn ra xoay quanh giá trị. Karl Marx đã chỉ ra tính hai
mặt của lao động là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Lao động cụ thể
bảo tồn và di chuyển giá trị cũ (c) vào trong giá trị mới, lao động trừu tượng
tạo ra giá trị mới (v+m). Từ đó Marx chỉ ra cơ cấu chuyển hoá giá trị thặng dư
thành lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hoấthnhf giá cả sản xuất trong điều

kiện tự do cạnh tranh.
Trong cuốn “Tóm tắt phê phán kinh tế chính trị học”, Engels cũng
nghiên cứu vấn đề cạnh tranh. Ông nói, địa tô, lợi nhuận, tiền lương phụ thuộc
vào cạnh tranh. Cạnh tranh sinh ra độc quyền, độc quyền lại làm cho cạnh
tranh càng sâu sắc hơn. Điều đó rất đúng với tình hình kinh tế thế giới cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Lênin đã chỉ ra tính qui luật tất yếu của việc
chuyển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền.

15
Thời kỳ này, việc tích tụ và tập trung sản xuất đã đạt tới mức cao, dẫn tới sự
ra đời của các tập đoàn độc quyền, và cạnh tranh độc quyền là đặc điểm cơ
bản ở thời kỳ này. Từ độc quyền trong lĩnh vực sản xuất và ngân hàng tạo ra
một lĩnh vực độc quyền mới là độc quyền tài chính. Các công ty độc quyền
mở rộng ra ngoài phạm vi quốc gia thông qua xuất khẩu tư bản. Các công ty
độc quyền luôn thu được lợi nhuận siêu ngạch, độc quyền nhờ mua với giá
độc quyền rẻ và bán với giá độc quyền cao. Các nhà tư bản ngày càng can
thiệp vào các quá trình kinh tế nhằm đảm bảo lợi nhuận độc quyền cao cho
các tổ chức độc quyền. Sự bóc lột của các công ty độc quyền với các nước
khác, đặc biệt là các nước châu Á, châu Phi cũng được đẩy mạnh từ đây. Họ
vơ vét tài nguyên và sức lao động của các nước này để làm giàu cho họ làm
cho các nước nghèo ngày càng nghèo hơn.
Vào năm 1859, lý thuyết tiến hoá của Charles Robert Darwin ra đời.
Theo ông, sinh vật không ngừng biến đổi để thích ứng với môi trường tự
nhiên và cạnh tranh với nhau để tồn tại và phát triển. Nhờ di truyền mà thế hệ
sau trội hơn thế hệ trước. “Các loài phải nương tựa vào nhau để cùng tiến
hoá”. Về sau, lý thuyết của Darwin được vận dụng vào kinh tế học hiện đại để
giải thích cho cạnh tranh trong điều kiện mới, đó là vừa cạnh tranh vừa hợp
tác.
Lý luận cạnh tranh của phương Tây cuối thế kỷ XIX là lý luận cạnh
tranh của trường phái lý luận cổ điển mới mà đại diện là W.S.Jevons (1834-

1882), A.Mashall (1842-1910). Cạnh tranh hoàn hảo là tâm điểm của kinh tế
học cổ điển mới. Theo lý thuyết của họ thì thu nhập và của cải được phân
phối đều khắp nên nhà nước không cần phải nhúng tay vào. Nhưng về sau
(khoảng 20 năm cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX), chủ nghĩa tư bản đi vào
độc quyền, “bàn tay vô hình” tỏ ra bất lực, không thể hạn chế được thất
nghiệp, tính không ổn định của nền kinh tế ngày càng tăng. Ba mươi năm cuối
cùng của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh chuyển sang độc

16
quyền cạnh tranh. Mâu thuẫn trong tranh giành thị trường để tiêu thụ sản
phẩm và chiếm đoạt nguồn nguyên liệu giữa các nước tư bản ngày càng sâu
sắc không thể dung hoà đã dẫn tới việc giải quyết cạnh tranh bằng chiến tranh
thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai vào nửa đầu thế kỷ XX.
1.1.1.2 Quan niệm về cạnh tranh từ nửa sau thế kỷ XX đến nay
Đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản đi vào độc quyền, nhiều vấn đề kinh tế
xã hội không giải quyết được bằng “Bàn tay vô hình” như thất nghiệp, mất
cân bằng, khủng hoảng xã hội, các vấn đề môi trường, … Cho nên, đầu những
năm 1920, 1930 của thế kỷ XX xuất hiện trào lưu mới trong kinh tế đòi phải
có sự can thiệp của Nhà nước vào cạnh tranh.
“Lý thuyết chung về việc làm, lãi xuất và tiện tệ” (1936) của John
Maynard Keynes ra đời và được coi là một cuộc cách mạng nhưng cũng không
thể cứu vãn được tình trạng thất nghiệp, lạm phát, mất ổn định ngày càng trầm
trọng của chủ nghĩa tư bản. Nước Mỹ là nơi áp dụng mạnhmẽ học thuyết của
Keynes nhưng cũng là nơi thường xuyên xảy ra khủng hoảng kinh tế.
Vào nửa sau thế kỷ thứ XX, các nền kinh tế thị trường phát triển mạnh,
các lý thuyết kinh tế của trường phái cổ điển mới và của Keynes đã kết hợp
với nhau hình thành nên lý thuyết của kinh tế học hiện đại để phân tích những
vấn đề của kinh tế hàng hoá phát triển.
Thị trường là nơi người bán và người mua trao đổi với nhau để xác
định lượng sản phẩm và giá cả sản phẩm trao đổi. Sản phẩm có nhiều loại nên

thị trường cũng có nhiều loại: Thị trường hàng hoá (sản phẩm hữu hình), thị
trường dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường lao động, thị trường bất động
sản. Mỗi loại thị trường có những đặc điểm riêng của nó, song đều hoạt động
tuân theo quy luật của cung – cầu và quy luật cạnh tranh. Cơ chế thị trường có
những khuyết tật của nó. Để khắc phục những khuyết tật đó, làm cho thị
trường hoạt động có hiệu quả hơn thì phải cần đến sự can thiệp của “bàn tay

17
hữu hình”, tức là chính phủ. Tuy nhiên “bàn tay hữu hình” cũng có những
khuyết tật của nó: có thể có những quyết định không đúng do dự báo, tính
toán thiếu chính xác, thiếu khách quan, thuần tuý dựa vào kinh nghiệm. Ví dụ
áp dụng chính sách bảo hộ ngành nào đó quá dài, làm thui chột những sáng
tạo, làm cho năng lực cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp yếu dần;
hoặc đánh thuế cao làm thất thu ngân sách, làm đình trệ sản xuất …
Từ những năm 60 của thế kỷ XX, ở các nước phát triển, cạnh tranh độc
quyền phát triển mạnh, họ cấu kết với chính phủ để giữ được vị trí lâu dài.
Cạnh tranh độc quyền đã gây bất ổn trong xã hội: trao đổi bất bình đẳng, thất
nghiệp tăng, kéo dãn khoẳng cách giàu nghèo, lợi nhuận chỉ tập trung vào một
số nhỏ nhà tư bản và nó kìm hãm tốc độ sáng tạo. Tuy nhiên, độc quyền
không thể xoá bỏ cạnh tranh. Các chính sách cạnh tranh có thay đổi. Các biện
pháp cạnh tranh đã thay đổi hoặc đổi vị trí cho nhau. Trước năm 1970 của thế
kỷ XX, các biện pháp cạnh tranh thường là giá cả, điều kiện mua bán, quảng
cáo. Nhưng sau năm 1970, các biện pháp đó đã nhường chỗ cho cạnh tranh
chất lượng, cạnh tranh của sản phẩm mới, kỹ thuật mới, phương pháp quản lý
mới, tốc độ cung cấp của sản phẩm và dịch vụ đi kèm.
Từ những năm 80, nhiều nhà kinh tế học phương Tây đã đưa ra nhiều
lý thuyết về cạnh tranh như Michel Porter, J.B.Barney,… Năm 1985, lý luận
“lợi thế cạnh tranh” của M.Porter ra đời đã phân tích tình hình doanh nghiệp
tham gia cạnh tranh trong thương mại quốc tế và đưa ra khái niệm về “lợi thế
cạnh tranh” và “lợi thế so sánh”. Lợi thế tuyệt đối muốn nói tới điều kiện tài

nguyên, môi trường tạo cho doanh nghiệp, cho quốc gia những thuận lợi gì
trong sản xuất và thương mại như giàu có về nguồn lao động, về khí đốt, dầu
mỏ, nước, rừng, tài nguyên biển, các quặng kim loại,… Những lợi thế này chỉ
là tạm thời vì đều chịu tác động của quy luật khan hiếm. Lợi thế cạnh tranh
muốn nói tới sức mạnh nội sinh của doanh nghiệp, của quốc gia nhiều hơn

18
như chất lượng quản lý, chất lượng sản phẩm, chất lượng đào tạo, chất lượng
sánh tạo, năng suất, môi trường kinh doanh. Lợi thế so sánh và lợi thế cạnh
tranh có quan hệ chặt chẽ. Thường thì lợi thế cạnh tranh phát triển dựa trên lợi
thế so sánh. Một doanh nghiệp, một ngành có lợi thế so sánh thì thường có lợi
thế cạnh tranh, nó góp phần thúc đẩy doanh nghiệp, ngành tăng năng lực cạnh
tranh. Lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh hỗ trợ cho nhau. Lợi thế so sánh
phát huy tác dụng nhờ lới thế cạnh tranh. Nếu một doanh nghiệp hoặc một
ngành có lợi thế so sánh do nguồn nhân lực dồi dào nhưng nguồn này không
có lợi thế cạnh tranh, ví dụ như chất lượng lao động thấp, thì lợi thế dồi dào
về nguồn nhân lực kia khổng thể phát huy tác dụng của nó. Phân biệt sự tác
động của lợi thế cạnh tranh và tác động của lợi thế so sánh đến năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp, của ngành là rất khó. Tuy nhiên nếu không phân biệt
được sự khác nhau giữa lợi thế cạnh tranh và lợi thế so sánh và mức độ tác
động của chúng tới năng lực cạnh tranh thì khó có thể giải quyết được những
tồn tại trong phát triển doanh nghiệp và phát triển ngành kinh doanh. Ví dụ
một ngành nào đó có tương đối đầy đủ các yếu tố đầu vào, tức là lợi thế so
sánh tốt, song do thiếu một môi trường cạnh tranh thuận lợi, do thiếu thông
tin… cho nên các yếu tố sản xuất đó không phát huy hiệu quả.
M. Porter coi trọng vai trò của doanh nghiệp và của ngành mà trong đó
doanh nghiệp tham gia trong quá trình cạnh tranh. Ông đưa ra mô hình “viên
kim cương” hay còn gọi là mô hình “viên kim cương hình thoi” (Porter
Diamond). Các nhà kinh trế sử dụng mô hình này để phân tích năng lực cạnh
tranh của một doanh nghiệp, một ngành, một quốc gia.

Khi phân tích năng lực cạnh tranh theo mô hình Porter, người ta xem
xét bốn yếu tố quan trọng là các điều kiện về cầu; chiến lược doanh nghiệp;
cơ cấu và đối thủ cạnh tranh; các ngành liên quan và sự hỗ trợ. Các yếu tố này
luôn tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau và thúc đẩy sự phát triển. Trong

19
môi trường cạnh tranh mới, các yếu tố trên vẫn chịu sự điều tiết của nhà nước,
đồng thời chịu sự ảnh hưởng bởi sự hoạt động của các công ty xuyên quốc
gia. Quan hệ hợp tác và thương mại doang nghiệp của các nước đang phát
triển với các công ty xuyên quốc gia gọi là liên kết quốc tế. Nhờ có mối liên
kết này mà xuất khẩu của các doanh nghiệp được phát triển và nhờ đó nền
kinh tế của các nước tăng trưởng nhanh. Thực tiễn phát triển của cácc nước
châu Á, nhất là các “con rồng” trong 30 năm qua đã chứng tỏ điều đó. Để phát
triển nền kinh tế của mình, các nước đang phát triển ngày càng tăng cường
các mối liên kết quốc tế thông qua sự kết hợp các lợi thế so sánh, sức mạnh
nội lực với công nghệ của các công ty xuyên quốc gia, và nhờ đó mà khả năng
cạnh tranh của các quốc gia đang phát triển ngày càng được nâng cao. Nếu
không tạo được khối liên kết này thì các doang nghiệp của các nước đang phát
triển khó lòng mà tồn tại trong môi trường cạnh tranh hiện nay.
Môi trường cạnh tranh hiện nay là môi trường không hoàn hảo, tức là
vừa có cạnh tranh vừa có độc quyền, vừa cạnh tranh vừa hợp tác cả ở thị
trường trong nước lẫn thị trường quốc tế. Trong điều kiện nền kinh tế công
nghiệp, năng lực cạnh tranh có nghĩa là phải tạo ra một nền sản xuất có năng
suất cao với việc sử dụng đầu vào ít nhất mà tạo đầu ra nhiều nhất. Năng lực
cạnh tranh của một doanh nghiệp, một ngành là năng suất so sánh giữa các
doanh nghiệp cùng loại hoặc giữa các ngành cùng loại của các nước khác
nhau. Trong điều kiện của nền kinh tế tri thức thì cơ sở của năng lực cạnh
tranh là tri thức, là kỹ thuật cao, là dịch vụ hoàn hảo. Trong nền kinh tế tri
thức, khoa học - công nghệ và kỹ thuật cao là lực lượng sản xuất trực tiếp, là
yếu tố hàng đầu quyết định đến việc sản xuất ra của cải, sức mạnh và sự phát

triển. Lúc này, xã hội cũng như thị trường sẽ chú ý tới giá trị của của cải
nhiều hơn là chỉ chú ý đến sản lượng. Với hai lượng của cải ngang nhau

20
nhưng doanh nghiệp nào tạo ra được lượng giá trị cao hơn thì sẽ có năng lực
cạnh tranh cao hơn.
1.1.2. Các loại hình cạnh tranh
Tuỳ theo cách phân loại khác nhau thì có các loại hình cạnh tranh khác nhau .
Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường :
Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn ra
theo quy luật mua rẻ bán đắt .
Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: Là cuộc cạnh tranh theo
quy luật cung cầu. Chẳng hạn khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh giữa
những người mua với nhau trở lên rất quyết liệt. Nó sẽ làm cho giá cả hàng
hoá tăng lên.
Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Đây cũng là cuộc cạnh
tranh gay go quyết liệt nhất để dành lấy khách hàng về phía mình. Cuộc cạnh
tranh này sẽ quyết định doanh nghiệp nào tồn tại và doanh nghiệp nào sẽ bị
đào thải khỏi thị trường. Chính vì lẽ đó tất cả các doanh nghiệp đều muốn
dành giật lợi thế cạnh tranh về phía mình. Để làm được điều này mỗi doanh
nghiệp cần phải lỗ lực phấn đấu, tìm ra hướng đi riêng cho mình.
Căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường người ta chia cạnh
tranh ra các loại hình sau
Cạnh tranh hoàn hảo: Là loại hình cạnh tranh trong đó có nhiều người
mua và người bán độc lập với nhau .Tất cả các đơn vị hàng hoá trao đổi coi là
giống nhau. Các doanh nghiệp tham gia trên thị trường này chủ yếu tìm biện
pháp cắt giảm chi phí sản xuất sản phẩm để hưởng lợi nhuận từ chênh lệch giá
đầu vào.
Cạnh tranh không hoàn hảo: Là cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn
các sản phẩm là không đồng nhất với nhau. Người bán có thể ấn định giá linh

hoạt theo khu vực bán sản phẩm, khách hàng và mức lợi nhuận mong muốn.

21
Tóm lại, cạnh tranh là cuộc chạy đua quyết liệt giữa các chủ thể hoạt
động trong thị trường nhằm giành giật những điều kiện sản xuất và tiêu thụ
hàng hoá có lợi nhất về phía mình.Cạnh tranh được coi là động lực của quá
trình phát triển.
Cạnh tranh luôn có mục tiêu lâu dài là thu hút về phía mình ngày càng
nhiều khách hàng nên buộc các nhà sản xuất công nghiệp, dịch vụ ngày càng
phải tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt hơn và giá thành phải hạ thấp.
Vì vậy, cạnh tranh là cơ hội cho doanh nghiệp cải tiến, đổi mới máy móc thiết
bị, áp dụng những cộng nghệ mới vào trong sản xuất do vậy cạnh tranh là
nguồn gốc, là động lực cho sự phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ cao
1.1.3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp do nhiều yếu tố hình thành nên, các
yếu tố đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một thể thống nhất giúp
doanh nghiệp có thế đứng vững chắc trước những biến động của thị trường,
trước sự cạnh tranh gay gắt dành giật khách hàng về phía mình của các đổi
thủ cạnh tranh. Các yếu tố góp phần tạo lên năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp bao gồm.
 Tình hình sản xuất và năng lực sản xuất.
 Tình hình phân phối và tiêu thụ sản phẩm.
 Trình độ công nghệ và trang thiết bị.
 Trình độ cán bộ quản lý và lao động.
 Khả năng quảng cáo và tiếp thị sản phẩm.
Tình hình sản xuất và năng lực sản xuất.
Với một doanh nghiệp ta không thể khẳng định năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp đó cao khi mà tình hình sản xuất và năng lực sản xuất của
doanh nghiệp thấp kém. Năng lực sản xuất của doanh nghiệp phản ánh quy
mô sản xuất của doanh nghiệp đó là lớn hay nhỏ, mức độ hiện đại ra sao. Với


22
một doanh nghiệp bất kỳ khi mà năng lực sản xuất thấp thì có thể nói khả
năng đứng vững trên thị trường của doanh nghiệp đó là rất khó khăn.
Tình hình sản xuất của doanh nghiệp nó cũng phản ánh được tốc độ
tăng trưởng trong quá trình sản xuất, đồng thời nó cũng phản ánh được quy
mô sản xuất mở rộng hay thu hẹp, năng suất lao động tăng nhanh hay chậm.
Tình hình phân phối và tiêu thụ sản phẩm.
Khi mà sản phảm của doanh nghiệp có thể tiêu thụ một cách dễ dàng,
đồng thời sản phẩm được phân bố một cách tốt nhất, khách hàng ưa chuộng
sản phẩm và như vậy sản phẩm có thế đứng vững chắc trên thị trường, thị
phần của doanh nghiệp ngày càng tăng. Nhờ việc bán được nhiều hàng doanh
nghiệp có thể tối đa hoá lợi nhuận.
Ngược lại nếu như doanh nghiệp không bán được sản phẩm tức là sản
phẩm của doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh khi đó thị phần của
doanh nghiệp sẽ bị mất dầnvà dành chỗ cho các đối thủ cạnh tranh. Sản
phẩm của doanh nghiệp đến một lúc nào đó cũng sẽ bị giệt vong và doanh
nghiệp khó có thể tồn tại. Điều đó cho thấy, việc phân phối sản phẩm đối với
một doanh nghiệp là hết sức quan trọng nó là chìa khoá để doanh nghiệp nên
mở rộng hay thu hẹp sản xuất đồng thời là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng
đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trình độ công nghệ và trang thiết bị
Có thể nói đây là một nhân tố quan trọng bậc nhất trực tiếp ảnh hưởng
đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Công nghệ mới hiện đại sẽ tạo ra sản phẩm mới có chất lượng tốt hơn,
mẫu mã đẹp hơn, giá thành sản phẩm thấp, sức cạnh tranh cao.
Ngược lại công nghệ lạc hậu không những tiêu hao nhiều nguyên
nhiên liệu mà còn có thể gây ô nhiễm môi trường, chi phí sản xuất lớn sản
phẩm không có tính cạnh tranh, khách hàng khó chấp nhận sản phẩm. Khi đó


23
sản phẩm rất khó tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của sản phẩm giảm, do vậy
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng sẽ giảm.
Mặt khác công nghệ tiên tiến hiện đại sẽ tạo ra năng suất lao động tăng,
lao động ít do vậy chi phí đầu vào giảm.
Ngày nay khi mà khoa học công nghệ phát triển thì hàm lượng chất
xám trong sản phẩm cũng ngày một tăng lên do vậy doanh nghiệp nếu không
có chiến lược đầu tư một cách hợp lý cho máy móc thiết bị công nghệ thì
doanh nghiệp không thể nâng cao năng lực cạnh tranh của mình do vậy doanh
nghiệp khó có thể phát triển được. Như vậy trình độ công nghệ có thể nói là
nhân tố trung tâm tạo lên năng lực cạnh tranh cho mỗi doanh nghiệp.
Trình độ cán bộ quản lý và lao động.
Nếu như máy móc thiết bị, công nghệ là nhân tố trung tâm tạo nên năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp thì con người lại có một vai trò càng quan trọng
để nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Mọi máy móc thiết bị công
nghệ dù có hiện đại đến mức nào đi chăng nữa, nếu như không có sự tham gia
của con người thì công nghệ, máy móc thiết bị đó cũng trở thành giấy trắng.
Con người tham gia trực tiếp vào quá trình quản lý sản xuất và trực tiếp
tạo ra của cải vật chất. Quá trình sản xuất muốn phát triển, quy mô sản xuất
muốn mở rộng thì phải có những cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn cao,
có đội ngũ lao động có tay nghề tốt. Do tầm quan trọng đó ngày nay các
doanh nghiệp đều rất quan tâm đến vấn đề đào tạo, đào tạo laị cho người lao
động nhằm giúp họ nâng cao trình độ chuyên môn để có thể sử dụng một cách
tốt nhất các thiết bị công nghệ hiện đại, đồng thời nâng cao trình độ quản lý
đó cũng là nhân tố quan trọng để doanh nghiệp có thể nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình.
Khả năng quảng cáo và tiếp thị sản phẩm

24
Sản phẩm muốn tiêu thụ tốt thì sản phẩm đó phải được thông báo, giới

thiệu cho khách hàng được biết. Phải làm như thế nào để khi mà khách hàng
mới tiếp xúc với sản phẩm đã cảm nhận được hình ảnh cuả doanh nghiệp, đã
thích thú với sản phẩm đó, cảm thấy yên tâm về sản phẩm và ra quyết định
mua sản phẩm đó. Muốn như vậy không những chiến lược quảng cáo sản
phẩm phải tốt mà còn phải độc đáo, khác biệt với các doanh nghiệp khác.
Mặt khác, sản phẩm muốn tiêu thụ được đồng thời tiêu thụ trong thời
gian dài thì doanh nghiệp cần phải có những chế độ tiếp thị sản phẩm, khuyến
mãi để tạo ra những lợi ích cho người tiêu dùng bởi lợi ích cho người tiêu dùng
cũng sẽ là lợi ích của doanh nghiệp. Khi mà người tiêu dùng ưa chuộng sản
phẩm của doanh nghiệp thì doanh nghiệp sẽ làm ăn có lãi và có hiệu quả hơn,
sản phẩm có vị thế trên thị trường và doanh nghiệp ngày càng chiếm lĩnh được
thị trường, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ không ngừng được nâng
cao.
Như vậy có thể nói với mỗi doanh nghiệp muốn nâng cao năng lực
cạnh tranh của mình trên thị trường thì doanh nghiệp không chỉ quan tâm đầu
tư đến một trong những yếu tố trên mà phải biết quan tâm đâu tư đúng mức
tất cả các yếu tố đó bởi chúng có mối quan hệ chặt chẽ, có như vậy năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp mới thực sự vững mạnh trên thị trường.
1.2. Kinh nghiệm của một số nƣớc trong việc nâng cao năng lực cạnh
tranh trong ngành sản xuất thép - Bài học đối với ngành thép Việt Nam
1.2.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc - Bài học đối với Việt Nam
Tại Hàn Quốc sự tăng trưởng trong lĩnh vực công nghiệp đóng vai trò
quan trọng trong phát triển kinh tế. Năm 1987 sản xuất công nghiệp chiếm
xấp xỉ 30% GDP và 25% lực lượng lao động. Được hậu thuẫn bởi sự ủng hộ
mạnh mẽ từ trong nước và từ các nguồn viện trợ nước ngoài các nhà tư bản
công nghiệp ở Seoul đã thay thế hàng loạt những công nghệ lỗi thời bằng các

25
công nghệ mới, nhanh chóng thay đổi và áp dụng những phương tiện kỹ thuật
hiện đại, gia tăng nhanh chóng sản lượng hàng hoá sản xuất đặc biệt là những

loại hàng hoá tiêu thụ tại thị trường nước ngoài đẩy nhanh tiến độ mở rộng
quy mô công nghiệp. Kết quả là công nghiệp đã làm thay đổi diện mạo đất
nước, kéo hàng triệu lao động tới những trung tâm công nghiệp.
Sự suy thoái kinh tế tại Hàn Quốc năm 1989, được gây ra bởi sự suy
giảm mạnh mẽ trong xuất khẩu, trở thành mối quan tâm sâu sắc trong lĩnh vực
công nghiệp. Những phân tích của bộ thương mại và công nghiệp chỉ ra rằng
kết quả nghèo nàn trong xuất khẩu là hậu quả của những vấn đề thuộc về thể
chế gắn với nền kinh tế quốc gia bao gồm sự tăng giá của đồng Won, sự tăng
lương và chi phí lao động tăng, nạn biểu tình và lãi suất cao. Kết quả là hàng
hoá tồn kho không bán được, phải cắt giảm sản xuất tại một số ngành như
điện tử, ô tô, công nghiệp dệt cũng như các hãng nhỏ hơn chuyên cung cấp
phụ kiện, thiệt bị. Hệ thống các nhà máy có trình dộ tự động hoá cao cho phép
giảm bớt sự lệ thuộc vào lao động có thể cho phép đẩy mạnh sản xuất với một
lực lượng lao động ít hơn nhiều có thể làm tăng sức cạnh tranh. Người ta dự
đoán rằng các nhà máy ở hàn Quốc sử dụng đến 2/3 số dự trữ hiện cố để đầu
tư vào lĩnh vực tự động hoá.
Năm 1990, các nhà sản xuất tại Hàn Quốc đã có một việc làm đầy ý
nghĩa cho những kế hoạch sản xuất trong tương lai đó là đầu tư vào lĩnh vực
công nghệ cao. Tháng 6 năm 1989 uỷ ban pháp lý của chính phủ, các học giả
và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp Hàn Quốc đã có một buổi hội thảo về các
lĩnh vực sản xuất vật liệu mới, máy móc thế hệ mới như là công nghệ sinh
học, rôbốt, hoá chất và không gian vũ trụ. Bước đi mới này có một ý nghĩa rất
quan trọng, tuy nhiên điều đó không có nghĩa là nó sẽ làm cho nền sản xuất
công nghiệp nặng vốn đã chiếm lĩnh nền kinh tế từ những năm 90 mất đi vai
trò của nó.

26
Ngoại trừ ngành công nghiệp khai mỏ, hầu hết các ngành công
nghiệp khác đều năm ở khu vực thành thị khu vực tây bắc và đông nam.
Ngành công nghiệp nặng thường nằm ở khu vực phía nam của đất nước.

Năm 1978, các nhà mày ở Seoul đóng góp tới hơn 25% tổng giá trị sản
xuất công nghiệp. Cùng với đó là các nhà máy ở khu vực Kyonggi đong
góp tới 21% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Các nhà máy ở Seoul
và Kyonggi thu hút tới 48% trong tổng số 21 triệu lao động đang làm việc
trong các nhà máy tại Hàn Quốc.
Năm 1989, Hàn Quốc là nước sản xuất thép đứng thứ 10 thế giới chiếm
2.3% tổng lượng thép sản xuât ra trên toàn thế giới. Hàn Quốc tiếp tục phát
triển và mở rộng sản xuất thép thô, năm 1988 Hàn Quốc sản xuất 19.3 triệu
tấn thép thô tăng 14,9% so với năm 1987. Nhu cầu thép trong nước tăng 8.5%
từ 15 triệu tấn lên 16.3 triệu tấn so với cùng kỳ. Điều này là do sự gia tăng
trong nhu cầu phát triển công nghiệp của Hàn Quốc. Nhu cầu trong nước
chiếm tới 70% tổng sản lượng sản xuất ra chủ yếu để phục cho các nghành
công nghiệp như công nghiệp ô tô, công nghiệp đóng tàu và điện tử.
Công nghiệp sản xuất thép phát truiển vượt bậc trong những năm 1970
sau khi chính phủ xây dựng tập đoàn thép POSCO để phục vụ cho sự tăng
trưởng nhanh chóng của công nghiệp ô tô, đóng tàu và xây dựng ở Seoul.
Năm 1988, ngành công nghiệp sản xuất thép tại Hàn Quốc có tới hơn 200 nhà
máy sản xuất. Sự gia tăng này còn được tiếp tục cho đến những năm 90 nhằm
phục vụ cho sự phát triển của ngành công nghiệp trong nước. Những mặt
hàng như là thép tấm, lá cuộn bị sụt giảm do sự suy giảm của nhu cầu thế
giới.
Năm 1989, Hàn Quốc đã trở thành một trong những nhà sản xuất mặt
hàng điện tử hàng đầu trên thế giới sản xuất tivi màu, đài catsets, lò vi sóng,
máy vi tính cá nhân. Năm 1988 ngành công nghiệp điện tử của Hàn Quốc đã

×