Tải bản đầy đủ (.pdf) (157 trang)

Năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 157 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ


ĐOÀN THỊ MAI




NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
NÔNG SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP


Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 5.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ






Hà nội, 2005
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ


ĐOÀN THỊ MAI





NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
NÔNG SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP


Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 5.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ THƯ




Hà nội, 2005



MỤC LỤC



Danh mục các chữ viết tắt
Trang

Danh mục các bảng



Phần mở đầu
1
Chương
1
Một số vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh


và kinh nghiệm quốc tế
7
1.1
Một số vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh
7
1.2
Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của hàng nông sản
18
1.3
Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng nông
sản xuất khẩu ở các nước đang phát triển và các nước nghèo
26
1.4
Kinh nghiệm thực tế của một số nước trong việc nâng cao
năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu
29

Kết luận chương 1
45
Chương
2


Thực trạng năng lực cạnh tranh của nông sản
xuất khẩu Việt Nam
47
2.1
Đặc điểm tự nhiên- kinh tế xã hội của Việt Nam
47
2.2
Tổng quan những thành tựu và hạn chế trong sản xuất và


xuất khẩu nông sản trong những năm Đổi mới
51
2.3
Thực trạng năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu
Việt Nam
60
2.4
Phân loại nông sản Việt Nam theo năng lực cạnh tranh
89

Kết luận chương 2
91
Chương
3
Những giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực
cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam
94
3.1
Một số quan điểm nâng cao năng lực cạnh tranh của nông

sản xuất khẩu Việt Nam

94
3.2
Triển vọng xuất khẩu nông sản và những phương hướng đẩy
mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam giai đoạn 2005-2010

100
3.3
Những giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực cạnh tranh
của nông sản xuất khẩu Việt Nam

105

Kết luận chương 3
126

Kết luận
127

Tài liệu tham khảo
129

Phần phụ lục
134
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN:
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
AFTA:

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
CEPT:
Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
CIEM:
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
DNNN:
Doanh nghiệp nhà nước
DNTN:
Doanh nghiệp tư nhân
DRC:
Hệ số nguồn lực nội địa
ĐBSCL:
Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH:
Đồng bằng sông Hồng
ĐVT:
Đơn vị tính
EU:
Liên minh châu Âu
GTXK:
Giá trị xuất khẩu
IFPRI:
Viện Nghiên cứu Chính sách lương thực Quốc tế
KHKT:
Khoa học kỹ thuật
KHCN:
Khoa học công nghệ
HTX:
Hợp tác xã
NLN:

Nông lâm nghiệp
NN&PTNT:
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NXB:
Nhà xuất bản
NLCT:
Năng lực cạnh tranh
NSXK:
Nông sản xuất khẩu
SNG:
Cộng động các quốc gia độc lập
TCTK:
Tổng cục Thống kê
XKNS:
Xuất khẩu nông sản
XHCN:
Xã hội chủ nghĩa
WB:
Ngân hàng Thế giới
WEF:
Diễn đàn kinh tế thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

CÁC BẢNG

Trang
Bảng 2.1: Giá trị sản lượng nông nghiệp
51
Bảng 2.2: Giá trị sản xuất nông nghiệp

52
Bảng 2.3: Kết quả sản xuất lúa giai đoạn từ 1995-2004
53
Bảng 2.4: Diện tích, năng suất và sản lượng một số nông sản xuất khẩu
54
Bảng 2.5: Giá trị xuất khẩu hàng hoá giai đoạn 1995 - 2004
55
Bảng 2.6: Một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực
62
Bảng 2.7: Một số chỉ tiêu so sánh về sản xuất lúa
62
Bảng 2.8: Năng suất cà phê của Việt Nam và thế giới
63
Bảng 2.9: Năng xuất cao su tự nhiên ở một số nước
64
Bảng 2.10: Chỉ số năng lực canh tranh về giá của nông sản xuất
khẩu Việt Nam trong giai đoạn 1995-2000
84
Bảng 2.11: Chỉ số DRC nông sản xuất khẩu Việt Nam từ 1995 - 2000
87



PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cần thiết của đề tài
Nông nghiệp Việt Nam có vai trò rất lớn trong sự nghiệp phát
triển kinh tế của đất nước. Đây là khu vực thu hút trên 70% lực lượng lao
động xã hội và đóng góp khoảng 22% GDP của đất nước. Sau hơn 15
năm thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp (từ khi
có nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ngày 5 tháng 4 năm 1988), sản xuất

nông nghiệp và chế biến nông sản của Việt Nam đã đạt được những
thành tựu đáng khích lệ. Sản xuất nông nghiệp từ chỗ không đáp ứng
được nhu cầu trong nước, buộc Nhà nước phải nhập khẩu lương thực và
một số nông sản thiết yếu đến chỗ vươn lên dành vị trí cao trong xuất
khẩu gạo, cà phê, cao su và các mặt hàng nông sản khác trên thị trường
quốc tế.
Sự tăng nhanh về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu hàng nông
sản cũng như mở rộng thị trường xuất khẩu ra nhiều khu vực trên thế
giới chứng tỏ Việt Nam ngày càng tham gia rộng và sâu hơn vào thị
trường quốc tế. Là thành viên chính thức của ASEAN từ 28/7/1995, Việt
Nam đã tham gia các chương trình hợp tác về kinh tế với các nước trong
khối, trong đó có việc tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA), cam kết thực hiện đầy đủ việc cắt giảm thuế quan theo chương
trình CEPT/AFTA. Đây vừa là cơ hội to lớn cho Việt Nam để đẩy mạnh
xuất khẩu hàng hoá nhưng đồng thời cũng là những thách thức không
nhỏ đối với nước ta trong vấn đề đối mặt với cạnh tranh gay gắt từ các
nước sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng nông sản tương tự như Việt
Nam và những đòi hỏi khắt khe của thị trường cả về giá cả, chất lượng,
mẫu mã và tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong 10 nước
ASEAN có tới 5 nước (Thái Lan, Philippin, Inđônêxia, Malaixia và Việt


2
Nam) có điều kiện tự nhiên gần giống nhau, sản xuất nông nghiệp vẫn
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, có những mặt hàng nông sản
xuất khẩu gần giống nhau và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng xuất
khẩu trên thế giới như 45% lượng gạo xuất khẩu, 80% cao su tự nhiên
xuất khẩu, chiếm thị phần lớn trong xuất khẩu cà phê. Do vậy, đối với
những mặt hàng được coi là xuất khẩu chủ lực của mình, Việt Nam
không những khó có thể xuất khẩu sang các nước này mà còn phải cạnh

trạnh tranh gay gắt với chính một số nước ASEAN trong xuất khẩu gạo,
cà phê, cao su, hạt tiêu, thuỷ sản v.v Vấn đề càng trở nên gay gắt một
khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương mại
quốc tế (có nhiều khả năng vào cuối năm 2005).
Hiện nay khi hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra nhanh chóng
và là xu hướng không thể đảo ngược, để đẩy nhanh được quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và phát triển bền vững của đất nước, chúng ta
không còn con đường nào khác ngoài việc phải nâng cao sức cạnh tranh
của nền kinh tế nói chung, của các mặt hàng nông sản nói riêng. Tuy
nhiên, làm thế nào để nâng cao được năng lực cạnh tranh cho hàng nông
sản xuất khẩu trong bối cảnh thị trường nông sản thế giới có nhiều biến
động, các nguồn lực sản xuất trong nước có hạn như đất đai bình quân
đầu người thấp, kỹ thuật sản xuất, chế biến lạc hậu, mức độ cơ giới hoá
sản xuất thấp, công nghệ sinh học chưa phát triển, một số yếu tố đầu vào
cho sản xuất lại lệ thuộc vào thị trường thế giới (phân bón, xăng dầu,
thuốc trừ sâu và một số sản phẩm để sản xuất thức ăn gia súc và thuốc
phòng bệnh gia súc v.v ) đang trở thành vấn đề có tính cấp bách trong
giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy mà đề tài nghiên cứu "Năng lực cạnh
tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam: Thực trạng và giải pháp" là
rất cần thiết và có tính thời sự.


3

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Liên quan đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm đặc biệt là
hàng nông sản ở Việt nam đã có những công trình nghiên cứu của các tác
giả trong và ngoài nước như:
1. TS. Đinh Văn Ân, (2003), "Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia",

NXB Giao thông vận tải, Hà Nội.
2. TS. Bùi Quốc Bảo, (11/2001), "Giá cả với vấn đề hội nhập của Việt Nam
trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ,
Ban vật giá Chính phủ.
3. IFPRI (1996), “Giám sát thị trường gạo và nghiên cứu các lựa chọn chính
sách”.
4. TS. Nguyễn Đình Long,`(2000), "Phân tích sơ bộ Khả năng cạnh tranh
của ngành nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh ASEAN và AFTA",
Bộ NN và PTNN.
5. N. Minot, “Khả năng cạnh tranh của ngành chế biến lương thực của Việt
Nam’, IFPRI, 4/1998.
6. TS. Chu Tiến Quang, (2002), "Cơ sở khoa học của điều chỉnh cơ cấu sản
xuất nông nghiệp trong quá trình hội nhập khu vực mậu dịch tự do
ASEAN- AFTA", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Viện Nghiên cứu
Quản lý kinh tế Trung ương.
7. Nguyễn Ngọc Quế, (2000), “Khả năng cạnh tranh của gạo Việt nam”, Bộ
NN và PTNN.
8. Lê Viết Thái, (2000), "Cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng
chính sách cạnh tranh ở Việt Nam", NXB Lao động, Hà Nội.


4
9. Hội thảo quốc tế về Hội nhập kinh tế toàn cầu và tác động của nó tới
ngành nông nghiệp Việt Nam do Bộ NN&PTNT tổ chức vào tháng
3/2001.
Một số công trình khoa học nêu trên đã đưa ra các tiêu thức chuẩn
mực để đánh giá năng lực cạnh tranh của một quốc gia, còn vấn đề năng
lực cạnh tranh của hàng hoá nông sản Việt Nam, mỗi công trình đánh giá
ở một góc độ khác nhau như chi phí sản xuất, chế biến, cơ sở hạ tầng,
marketing xuất khẩu v.v và vẫn còn nhiều ý kiến chưa thống nhất. Có

một số ý kiến tại cuộc Hội thảo quốc tế về "Hội nhập kinh tế toàn cầu và
tác động của nó tới ngành nông nghiệp Việt Nam" do Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn tổ chức vào tháng 3 năm 2001, cho rằng điều
kiện sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trồng trọt của Việt Nam thuận lợi,
giá nhân công rẻ, chi phí sản xuất thấp do vậy những nông sản xuất khẩu
của nước ta hoàn toàn có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới;
một số ý kiến khác (của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương,
Viện Nghiên cứu Khoa học Thị trường Giá cả, Trung tâm Khoa học Xã
hội và Nhân văn quốc gia) lại cho rằng điều kiện tự nhiên thuận lợi, giá
nhân công rẻ chỉ là những lợi thế tạm thời, trong khi đó cơ sở hạ tầng
của Việt Nam kém phát triển, chi phí dịch vụ cao, một số vật tư quan
trọng cho sản xuất nông nghiệp lại phụ thuộc vào thị trường thế giới,
kinh nghiệm buôn bán trên thị trường quốc tế kém làm cho nông sản
hàng hoá của Việt Nam khó có khả năng cạnh tranh một cách bền vững.
Tác giả luận văn hoàn toàn ủng hộ quan điểm thứ hai này và cho rằng
phải nhìn nhận năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam xuất
phát từ khâu sản xuất, chế biến, kinh doanh và xuất khẩu, đặt năng lực
cạnh tranh của từng mặt hàng nông sản trong mối tương quan với năng
lực cạnh tranh của toàn nền kinh tế, của các mặt hàng khác trên quan


5
điểm tiếp cận nguồn lực sản xuất nông nghiệp là có hạn để từ đó đưa ra
các giải pháp nâng cao năng lực canh tranh cho hàng nông sản Việt Nam
một cách thích hợp.

3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích:
Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh, phân tích những nhân tố
thuận lợi và những nhân tố cản trở năng lực cạnh tranh để có căn cứ đề

xuất những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông sản xuất
khẩu của Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về lợi thế so sánh và năng lực
cạnh tranh của nông sản hàng hoá trong nền kinh tế thị trường.
+ Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của
nông sản xuất khẩu Việt Nam, phát hiện những yếu tố có thể nâng cao
được năng lực cạnh tranh của các hàng hoá đó trong thời gian tới để phát
huy.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho
hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu
vực và quốc tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là năng lực cạnh tranh và những nhân tố
ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu Việt
Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu một số mặt hàng nông sản xuất
khẩu tiêu biểu của Việt Nam (gạo, cà phê, cao su, chè, điều) trong phạm
vi cả nước từ năm 1990 lại đây; các giải pháp đề xuất cho đến năm 2010.


6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp và thống kê.
Đặc biệt luận văn có tham khảo và kế thừa những công trình khoa
học có liên quan, các báo cáo tổng kết của các bộ liên quan như Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,

6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn được thực hiện với mong muốn có những đóng góp chủ
yếu sau:
- Trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các tài liệu có liên quan, tác giả
muốn đóng góp vào việc hệ thống hóa và hoàn thiện các luận cứ khoa
học về năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam trong điều
kiện kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập về kinh tế.
- Từ những số liệu thực tế, luận văn sẽ đi sâu phân tích, đánh giá
thực trạng năng lực cạnh tranh của một số hàng nông sản, rút ra những
kết luận về thành công, hạn chế và nguyên nhân đã ảnh hưởng tích cực
và tiêu cực tới năng lực cạnh tranh của những nông sản hàng hóa này.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản, có tính khả thi
nhằm không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa nông sản
xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung chính của luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về cạnh tranh và kinh nghiệm của quốc tế


7
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu
Việt Nam
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực cạnh tranh
của nông sản xuất khẩu Việt Nam.


8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH

VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH
1.1.1 Cạnh tranh
Cạnh tranh là là một thuật ngữ với nghĩa chủ yếu là phản ánh sự
đấu tranh, ganh đua, thi đua giữa các đối tượng cùng loại, đồng giá trị
nhằm đạt được những ưu thế, những lợi ích theo mục tiêu xác định.
Trong kinh tế, khái niệm cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh
đua giữa các nhà doanh nghiệp trong việc giành một nhân tố sản xuất
hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường {24,
tr.11]
Cạnh tranh sẽ đem lại lợi ích cho người này và sự thiệt hại cho
người khác, song xét dưới góc độ lợi ích toàn xã hội, cạnh tranh luôn có
tác động tích cực (chất lượng tốt hơn, giá rẻ hơn, dịch vụ tốt hơn ).
Trong quan hệ kinh tế cạnh tranh là sự đấu tranh giữa những chủ
thể trong việc thực hiện sản phẩm, dịch vụ nhằm chiếm lĩnh thị trường ở
mức cao nhất, giành điều kiện tiêu thụ có lợi nhất và tối đa hoá lợi
nhuận.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, khái niệm cạnh tranh
được hình dung như một cuộc ganh đua giữa hai hay nhiều cá nhân hoặc
tổ chức để giành thị phần trên thị trường (kể cả thị trường bán lẫn thị
trường mua).
Cạnh tranh là một xu thế tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Hiện
tượng cạnh tranh xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của nền
sản xuất hàng hoá. Cạnh tranh là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.


9
Trong nền sản xuất hàng hoá, qui luật giá trị là qui luật kinh tế cơ bản và
cạnh tranh lấy qui luật giá trị làm tiền đề. Tác động của qui luật giá trị

trong việc kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, đào thải cái lạc
hậu dựa trên cơ sở công bằng - đó là sự trao đổi ngang giá. Trong điều
kiện đó, muốn có nhiều lợi nhuận các chủ thể kinh tế phải đua nhau đổi
mới khâu tổ chức quản lý (sản xuất, lưu thông phân phối), đua nhau cải
tiến kỹ thuật, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào sản
xuất để nâng cao năng suất lao động, giảm hao phí lao động cá biệt nhằm
thu lợi nhuận cao hơn các chủ thể kinh tế khác.
Có thể nói, để thắng được trong cạnh tranh, chiếm lĩnh được thị
phần buộc các quốc gia, các doanh nghiệp, các ngành sản xuất sản phẩm
phải nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình
1.1.2 Năng lực cạnh tranh
Trong môi trường cạnh tranh, từng chủ thể kinh tế thể hiện vị thế
của mình so với các chủ thể khác. Vị thế đó, dựa trên những ưu thế nhất
định về các điều kiện sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Sức cạnh tranh, khả
năng cạnh tranh, năng lực cạnh tranh đều phản ánh vị thế cạnh tranh của
các chủ thể kinh tế. Vị thế đó là những điều kiện để các chủ thể kinh tế
tham gia vào hoạt động cạnh tranh. Một chủ thể có sức cạnh tranh cao là
chủ thể có lợi thế, biết tạo ra những lợi thế để thu được lợi nhuận cao
hơn so với các chủ thể khác. Chủ thể đó cũng được coi là có khả năng
cạnh tranh hay năng lực cạnh tranh cao. Vì vậy, có thể hiểu sức cạnh
tranh, năng lực cạnh tranh, khả năng cạnh tranh là những khái niệm đồng
nghĩa. Để xác định năng lực cạnh tranh hoặc khả năng cạnh tranh hay
sức cạnh tranh của một ngành kinh tế, của một đơn vị kinh doanh hoặc
của một sản phẩm người ta thường chọn ra một số tiêu thức như: thị
phần, tỷ lệ lợi nhuận trong một đơn vị sản phẩm. Những tiêu thức này


10
chỉ đánh giá trạng thái “tĩnh” vị trí của ngành (doanh nghiệp hoặc sản
phẩm) trong một thời điểm, trong khi đó cạnh tranh là một quá trình

mang tính “động”, vì vậy khi phân tích cạnh tranh, người ta thường bổ
sung vào một số yếu tố “động” khác như mức độ ứng dụng tiến bộ khoa
học công nghệ vào sản xuất, vòng đời của sản phẩm v.v Trên cơ sở
phân tích này, các nhà kinh doanh có thể đưa ra những chiến lược kinh
doanh phù hợp với thị trường để duy trì và phát huy vị thế của mình trên
thị trường hoặc đưa ra những biện pháp phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra.
Năng lực cạnh tranh được phân biệt ở ba cấp độ, bao gồm năng lực
cạnh tranh quốc gia; năng lực cạnh tranh doanh nghiệp; năng lực cạnh
tranh của sản phẩm, dịch vụ.
- Năng lực cạnh tranh quốc gia là một khái niệm phức hợp, được
định nghĩa là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền
vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao đời
sống của người dân, chủ yếu nhờ khả năng nâng cấp công nghệ hoặc
bằng cách tự sáng tạo hoặc tiếp thu nhanh chóng và tích cực công nghệ
từ nước khác. [2,tr. 13-14]
Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) cho rằng, tính cạnh tranh của một
quốc gia là “năng lực của nền kinh tế nhằm đạt và duy trì được mức tăng
trưởng cao" trên cơ sở các chính sách, thể chế vững bền tương đối và
các đặc trưng kinh tế khác. Theo WEF, khuôn khổ nội dung xác định
tính cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế bao gồm tám nhóm nhân tố: độ
mở cửa; chính phủ; tài chính; kết cầu hạ tầng; công nghệ; quản trị; lao
động; và thể chế. [2,tr.13-14]
Chỉ số chung đánh giá thứ hạng cạnh tranh của các quốc gia được
tính theo tỷ trọng của tám nhóm nhân tố trên. Mỗi nhóm nhân tố lại được
xem xét dựa trên các tiểu nhóm nhân tố. Tất cả có khoảng 250 chỉ số


11
định tính và định lượng được sử dụng để đánh giá tính cạnh tranh cấp
quốc gia. Tuy không được nhìn nhận riêng và thật đầy đủ trong quan

niệm của WEF, song sự ổn định kinh tế vĩ mô cũng là một nhóm nhân tố
quan trọng đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Các chỉ số quan
trọng nhất được dùng để đánh giá sự ổn định kinh tế vĩ mô là lạm phát,
lãi suất, tỉ giá hối đoái, thâm hụt tài chính và thâm hụt cán cân thanh toán
quốc tế.
Kể từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng về công nghệ thông
tin (IT) và những bước đột phá trong một loạt lĩnh vực như công nghệ
gen, y học, năng lượng, vật liệu mới, đang đẩy nhanh quá trình chuyển
đổi từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên của kinh tế tri thức.
Ngày nay, lợi thế cạnh tranh truyền thống dựa trên tài nguyên thiên
nhiên và chi phí lao động thấp, tuy còn có giá trị, song mới chỉ là điểm
khởi đầu. Tri thức và kỹ năng đang trở thành một nhân tố then chốt đảm
bảo tính cạnh tranh cao.
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng vượt qua các
đối thủ cạnh tranh để duy trì và phát triển bản thân doanh nghiệp. Thông
thường, người ta đánh giá khả năng này thông qua các yếu tố nội tại của
doanh nghiệp như: qui mô; khả năng tham gia cạnh tranh và rút khỏi thị
trường; sản phẩm; năng lực quản lý; năng suất lao động; trình độ công
nghệ và lao động. Tuy nhiên, những khả năng này lại lại bị tác động
đồng thời bởi nhiều yếu tố bên ngoài như Nhà nước và các thể chế trung
gian.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy
trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi
trường cạnh tranh trong và ngoài nước. Một doanh nghiệp có thể kinh
doanh một hay nhiều sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ, vì vậy người ta


12
còn phân biệt năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với năng lực cạnh
tranh của sản phẩm, dịch vụ.

- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ được đo bằng thị phần
của sản phẩm hay dịch vụ đó trên thị trường. Một sản phẩm, dịch vụ
được coi là có năng lực cạnh tranh cao khi giá thành sản xuất thấp, qui
mô cung ứng, tính độc đáo của sản phẩm và dịch vụ được người tiêu
dùng chấp nhận thể hiện ở thị phần của sản phẩm đó trên thị trường vượt
trội so với các sản phẩm tương tự của các đối thủ cạnh tranh. Đối với
hàng hoá nông sản thực phẩm, để đánh giá năng lực cạnh tranh ngoài các
chỉ tiêu trên người ta còn phải quan tâm đến các yếu tố như độ an toàn về
thực phẩm, xuất xứ, hương vị đặc trưng của sản phẩm.
Năng lực cạnh tranh của một sản phẩm, dịch vụ phụ thuộc vào lợi
thế so sánh của nó. Lợi thế so sánh lại được đánh giá theo nhiều tiêu thức
khác nhau. Quan niệm cổ điển đều xuất phát từ việc so sánh các yếu tố
cấu thành nên sản phẩm (vốn, lao động, nguyên liệu và vì vậy là chi phí,
giá thành và giá cả). Tuy nhiên, quan niệm về lợi thế so sánh hiện nay đã
có nhiều thay đổi.
Năng lực cạnh tranh ở ba cấp độ đó có mối quan hệ qua lại mật
thiết với nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau.
Một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia cao phải có nhiều doanh
nghiệp có năng lực cạnh tranh cao, ngược lại để tạo điều kiện cho doanh
nghiệp có năng lực cạnh tranh, các điều kiện, tiền đề kinh doanh của nền
kinh tế phải thuận lợi để các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp, đồng thời thể hiện thông qua năng lực cạnh tranh của các
sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh. Ngược


13
lại, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ phụ thuộc vào năng lực
cạnh tranh quốc gia và năng lực tổ chức quản lý của doanh nghiệp.
Nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm là khắc phục những

trở ngại làm giảm sức cạnh tranh và hoàn thiện những nhân tố làm tăng
tính trội của nó làm cho thị phần của nó tăng lên so với thị phần của đối
thủ của nó.
Để nâng cao được năng lực cạnh tranh mỗi quốc gia, doanh nghiệp
và ngành sản xuất sản phẩm thường dựa vào lợi thế tuyệt đối, lợi thế so
sánh và lợi thế cạnh tranh.
Trong khuôn khổ của luận văn này tác giả xin chỉ đi sâu nghiên cứu
năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Nền tảng để phân tích năng lực cạnh
tranh sản phẩm của một nước đối với các nước khác dựa trên lý thuyết
lợi thế tuyệt đối, lợi thế tương đối và lợi thế cạnh tranh
1.1.3 Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của hàng hoá
Mỗi đất nước chỉ có những nguồn lực nhất định, nguồn lực luôn
luôn gắn liền với sự khan hiếm. Để sản xuất hàng hoá hay cung cấp dịch
vụ nào đó với số lượng bao nhiêu, nhiều hay ít mỗi quốc gia phải có sự
lựa chọn sử dụng và phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý dựa trên cơ
sở lý thuyết đường giới hạn khả năng sản xuất. Xét dưới góc độ hiệu quả
kinh tế, đương nhiên các quốc gia sẽ lựa chọn sản xuất những sản phẩm
lợi thế so sánh cao nhất, thông qua trao đổi thương mại quốc tế họ sẽ tận
dụng và phát huy được các lợi thế sẵn có và tiết kiệm được nguồn lực,
nâng cao hiệu quả kinh tế.
Từ thế kỷ 18 các nhà kinh tế học người Anh là Adam Smith và
David Ricardo đã đưa ra lý thuyết về lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh.
Đến nay, lý thuyết này vẫn được coi là lý thuyết nền tảng của thương
mại quốc tế. Trong khi đó, lợi thế cạnh tranh được xem như là những


14
vấn đề có tính chiến lược và sách lược của từng quốc gia, để phát huy
các yếu tố về lợi thế tuyệt đối và so sánh trong việc nâng cao năng lực
cạnh tranh của quốc gia cũng như năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất

khẩu trong mỗi quốc gia.
1.1.3.1 Nâng cao năng lực cạnh tranh dựa vào lợi thế tuyệt đối
Lợi thế tuyệt đối là khái niệm chỉ sự trội hơn về lượng tuyệt đối của
nước này so với nước khác về một loại sản phẩm nào đó dựa trên chất
lượng của các nhân tố đầu vào của sản xuất tốt hơn. Các nhà kinh tế học
cổ điển đã cho rằng lợi thế tuyệt đối là cơ sở để các nước phát triển các
ngành sản xuất chuyên môn hoá. Theo quan điểm này, quốc gia nào nào
có đất tốt thì chuyên môn hoá vào ngành trồng trọt và mua hàng công
nghiệp của các quốc gia khác. Ngược lại, nước nào có nhiều tài nguyên
khoáng sản thì nên phát triển công nghiệp và mua nông sản của các nước
khác [10, tr.358].
Adam Smith cho rằng, ở mỗi một quốc gia đều có những nguồn lực
và tài nguyên sẵn có như: đội ngũ lao động, nguồn vốn, đất đai, công
nghệ và truyền thống sản xuất kinh doanh. Theo Ông, "Những lợi thế tự
nhiên mà một nước có được đối với một nước khác trong việc sản xuất
các mặt hàng nào đó đôi khi lớn tới mức mà mọi người trên thế giới đều
công nhận là phí công vô ích khi cạnh tranh với họ về mặt hàng này [23,
tr. 652-653].
Như vậy, sự chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi sản phẩm dựa vào
lợi thế tuyệt đối sẽ đem lại lợi ích cho hai nước, do đó việc xác định
đúng những ngành, sản phẩm mà quốc gia có lợi thế tuyệt đối để khai
thác, sản xuất và xuất khẩu cũng góp phần quan trọng trong việc nâng
cao năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu và cuối cùng là thúc đẩy
kinh tế phát triển.


15
Tuy nhiên, lợi dụng lợi thế tuyệt đối cũng chỉ là một trong những
vấn đề cần quan tâm để nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hoá và
thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá. Bởi vì lợi thế tuyệt đối chỉ mang tính tạm

thời. Lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần của thương mại quốc
tế. Điều đó ngày càng được thể hiện rõ trong thực tế, có nhiều quốc gia
không có những thuận lợi về tài nguyên thiên nhiên hay các nguồn lực
khác nhưng sản phẩm cùng loại của họ làm ra vẫn có sức cạnh tranh trên
thị trường thế giới nhờ những tiến bộ vượt bậc về khoa học công nghệ
làm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm Chính vì vậy mà
thương mại quốc tế trong các nước phát triển không thể được giải thích
chỉ bằng lý thuyết lợi thế tuyệt đối. Do sự hạn chế của lý thuyết về lợi
thế tuyệt đối và sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế nên lý
thuyết lợi thế tương đối hay còn gọi lợi thế so sánh đã ra đời.
1.1.3.2 Nâng cao năng lực cạnh tranh dựa vào lợi thế so sánh
Khác với lợi thế tuyệt đối nảy sinh từ sự khác biệt của giá thành và
chi phí sản xuất thực tế, lợi thế so sánh có được từ sự khác biệt về chi phí
cơ hội. Sự khác biệt về chi phí cơ hội là do các nước có sự khác nhau về
kỹ thuật công nghệ hoặc năng suất lao động trong việc sản xuất cùng
một loại sản phẩm.
Chi phí cơ hội của một mặt hàng là số lượng những mặt hàng khác
mà người ta phải từ bỏ để làm ra thêm một đơn vị mặt hàng đó
[5,tr.326]. Chi phí cơ hội cho ta biết chi phí tương đối để làm ra các mặt
hàng là khác nhau ở những nước khác nhau. Theo nhà kinh tế học David
Ricardo, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với quốc gia khác
trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể
tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích. Trong quá trình tham
gia thương mại quốc tế, quốc gia đó sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất


16
khẩu các sản phẩm mà họ làm ra với chi phí tương đối thấp hơn so với
các nước khác [5,tr.327].
Song sự hạn chế ở mô hình David Ricardo là ông đã dựa trên hàng

loạt các giả thiết, đơn giản hoá lý thuyết về giá trị lao động, để chứng
minh cho qui luật này. Trên thực tế lao động không phải là đồng nhất,
những ngành khác nhau sẽ có cơ cấu lao động khác nhau, với mức lương
khác nhau. Hơn nữa hàng hoá làm ra không chỉ do lao động mà còn
nhiều yếu tố khác như đất, vốn, khoa học, công nghệ chính là sự khác
biệt về nguồn lực giữa các nước, đồng thời mô hình Ricardo cũng bỏ qua
vai trò lợi thế về qui mô. Chính vì vậy lý thuyết này đã được nhiều nhà
kinh tế học nghiên cứu và phát triển trên nhiều mô hình về các yếu tố
chuyên biệt như quan điểm của G.Haberler và Heckscher- Ohlin về lợi
thế so sánh.
Tuy còn những hạn chế về lý luận trước thực tiễn phát triển phức
tạp của hoạt động thương mại quốc tế ngày nay, nhưng lý thuyết về lợi
thế tuyệt đối và tương đối vẫn đang chi phối động thái phát triển của
thương mại quốc tế. Các quốc gia đang mở rộng các mối quan hệ buôn
bán và trao đổi hàng hoá, dịch vụ với nhau, nhằm phát huy lợi thế về các
nguồn lực sản xuất như vốn, khoa học công nghệ, lao động để sản xuất,
xuất khẩu các loại hàng hoá, dịch vụ có lợi thế nhất, nhằm thu được lợi
ích thương mại cao nhất, góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế.
Như vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hoá, cần phải
khai thác theo cả hai hướng. Hướng thứ nhất là, dựa vào lợi thế sẵn có
như lao động, tài nguyên, vị trí địa lý Hướng thứ hai là, dựa vào các lợi
thế có được nhờ nâng cao năng lực trong việc tăng năng suất lao động,
cắt giảm chi phí sản xuất kinh doanh, hợp lý hoá qui trình sản xuất.
Hướng thứ nhất có tính thụ động hơn và chỉ có tác dụng trong ngắn hạn,


17
còn hướng thứ hai chủ động hơn và có tác dụng lâu dài hơn. Vì vậy,
muốn nâng cao năng lực cạnh tranh một cách bền vững cho hàng nông
sản xuất khẩu cần chú trọng nhiều hơn tới hướng thứ hai bằng cách tạo

môi trường thuận lợi để thúc đẩy các chủ thể sản xuất kinh doanh áp
dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm tăng năng suất
lao động, tăng chất lượng hàng hoá và giảm giá thành sản phẩm.
1.1.3.3 Nâng cao năng lực cạnh tranh dựa trên lợi thế cạnh tranh
Hội nhập và tự do hoá thương mại vừa tạo tiền đề cho sự phát triển
kinh tế, vừa là những thách thức trước sự cạnh tranh của các nền kinh tế.
Để đảm bảo sự hội nhập có hiệu quả, các quốc gia cần phải xác định rõ
được các yếu tố thuận lợi và bất lợi trong quá trình phát triển như: vị trí
địa lý; sự ổn định chính trị; nguồn lao động (số lượng, chất lượng và tiền
lương); tài nguyên thiên nhiên; khoa học và công nghệ Đây là những
yếu tố quan trọng trong phát triển kinh tế của một quốc gia nói chung,
trong phát triển nông nghiệp nói riêng. Trên cơ sở xác định chính xác các
lợi thế, cần phối hợp, phát huy và sử dụng các lợi thế này một cách đầy
đủ nhằm tạo ra “lợi thế mới có sức tổng hợp cao”.
Trong kinh tế thị trường, khai thác lợi thế tuyệt đối và lợi thế so
sánh đã khó, nhưng khai thác lợi thế cạnh tranh càng khó hơn. Đương
nhiên, những yếu tố về lợi thế chi phí thấp là rất quan trọng và có tính
quyết định, song cũng chỉ mới là tiền đề của lợi thế cạnh tranh. Các
doanh nghiệp có thể có được lợi thế cạnh tranh nếu họ sử dụng các nhân
tố đầu vào cho sản xuất có chi phí thấp. Tuy nhiên, có những trường hợp
sự dồi dào về nhân tố sản xuất lại làm giảm lợi thế cạnh tranh nếu như
chúng không được phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả. Chẳng hạn,
sự dồi dào về tài nguyên thiên nhiên hay nguồn lao động lại có thể giảm
động lực phát minh, sáng chế công nghệ sử dụng tiết kiệm các nguồn tài


18
nguyên này. Lợi thế cạnh tranh có được là do tác động của con người tạo
ra và nó có tính bền vững hơn.
Như vậy, không phải lợi thế so sánh nào cũng trở thành lợi thế

cạnh tranh và cũng không có nghĩa lợi thế cạnh tranh nào cũng là lợi thế
so sánh. Lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh không bao hàm lẫn nhau,
nhưng không đối lập nhau, mà có sự tác động qua lại, vừa là tiền đề vừa
là điều kiện cho nhau trong phát triển.
Ở cấp doanh nghiệp, lợi thế cạnh tranh được thể hiện ở chi phí thấp
hoặc ở tính chất độc đáo, phân biệt với các sản phẩm khác (bằng chất
lượng, tính năng sản phẩm, các dịch vụ sau bán hàng). Lợi thế cạnh tranh
của doanh nghiệp có thể xuất hiện ở bất kỳ khâu nào trong quá trình sản
xuất, kinh doanh bao gồm các hoạt động cơ bản (hoạt động cung ứng
đầu vào của sản xuất, hoạt động sản xuất, cung ứng đầu ra, tiếp thị, dịch
vụ sau bán hàng) và các hoạt động phụ trợ (cơ sở hạ tầng của doanh
nghiệp, quản lý nguồn nhân lực, phát triển công nghệ). Doanh nghiệp
phối hợp các hoạt động trên để tạo ra lợi thế về chi phí sản xuất hoặc tính
chất độc đáo của sản phẩm nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các
sản phẩm của mình.
1.1.4 Các nhân tố hình thành năng lực cạnh tranh của hàng
nông sản
Tính cạnh tranh của một sản phẩm trên thị trường phụ thuộc vào
hai nhóm nhân tố cơ bản đó là nhóm nhân tố chủ quan và nhóm nhân tố
khách quan.
Nhóm nhân tố chủ quan bao gồm tất cả những nhân tố tạo ra sự
hấp dẫn của sản phẩm đối với khách hàng như chất lượng, mẫu mã, giá
cả và sự thuận tiện trong tiêu dùng .v.v.


19
Nhóm nhân tố khách quan bao gồm những nhân tố làm thay đổi
quan hệ cung - cầu trên thị trường tại các thời điểm khác nhau, trong
nhóm này có cả những tác nhân ngẫu nhiên trong quá trình sản xuất như
thiên tai, mất mùa, sự khủng hoảng, khan hiếm về các nguồn đầu vào

cho sản xuất nào đó, sự thay đổi đột biến của công nghệ sản xuất và các
tác nhân dẫn đến thay đổi trong tiêu dùng (nhu cầu) của khách hàng về
một loại sản phẩm hàng hoá nào đó.
Việc nghiên cứu kỹ các nhân tố trong hai nhóm này trước khi đầu
tư sản xuất sẽ quyết định việc nhà sản xuất đưa ra thị trường sản phẩm
có năng lực cạnh tranh cao hay thấp. Điều đó có nghĩa là năng lực cạnh
tranh của từng sản phẩm cụ thể tuỳ thuộc vào mức độ hiểu biết và dự
đoán của nhà sản xuất về thị trường sản phẩm đó. Đây chính là thách
thức đối với mỗi nhà sản xuất trong kinh tế thị trường, nếu sản xuất mà
không nghiên cứu thị trường thì có thể coi là hành vi sản xuất “liều lĩnh”
mang nhiều rủi ro, thiếu sự đảm bảo thành công.
1.2 CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
HÀNG NÔNG SẢN
Năng lực cạnh tranh của một loại sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ
nào đó trên thị trường trong nước và quốc tế là sự thể hiện tính ưu việt
hay tính hơn hẳn của nó cả về định tính và định lượng với các chỉ tiêu
như: chất lượng sản phẩm, mức độ vệ sinh công nghiệp hay vệ sinh thực
phẩm; khối lượng; kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm; thương hiệu sản phẩm;
môi trường kinh tế vĩ mô, các chính sách thương mại, thuế, tỷ giá, tín
dụng, đầu tư, mức độ bảo hộ và cuối cùng là chỉ tiêu về giá thành và
giá cả sản xuất.
Về mặt lý thuyết, để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm
người ta thường căn cứ trên các chỉ tiêu định tính và định lượng.

×