Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 126 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
*****
NGUYỄN LÊ QUÝ HIỂN
NĂNG LỰC CẠNH TRANH XUẤT
KHẨU CỦA SẢN PHẨM DỆT MAY
VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2005
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
*****



NGUYỄN LÊ QUÝ HIỂN


NĂNG LỰC CẠNH TRANH XUẤT KHẨU
CỦA SẢN PHẨM DỆT MAY VIỆT NAM


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ


CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 5.02.01


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ DANH TỐN


HÀ NỘI - 2005



i
MỤC LỤC
Mục lục.
i
Danh mục bảng biểu.
iii
Các chữ viết tắt
iv
Phần mở đầu.
1
Chương 1:
Những vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và kinh nghiệm quốc tế
về nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may
5
1.1.
Một số vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh.
5
1.1.1.
Một số khái niệm.
5
1.1.2.
Các cấp độ cạnh tranh và các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực

cạnh tranh.
8
1.1.3.
Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
12
1.1.4.
Một số phương pháp và tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh
của sản phẩm.
19
1.2.
Một số kinh nghiệp quốc tế trong phát triển ngành công
nghiệp dệt may và nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản
phẩm dệt may xuất khẩu.
24
1.2.1.
Tình hình công nghiệp dệt may và xuất khẩu sản phẩm dệt may
ở một số quốc gia.
24
1.2.2.
Bài học kinh nghiệm trong việc thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm
dệt may đối với Việt Nam.
28
Chương 2:
Thực trạng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may
Việt Nam trong thời gian qua
32
2.1.
Tổng quan về ngành dệt may và tình hình xuất khẩu sản
phẩm dệt may của Việt Nam.
32

2.1.1.
Quá trình phát triển và thực trạng ngành dệt may Việt Nam.
32
2.1.2.
Vài nét về tình hình xuất khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam.
42
2.2.
Phân tích năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt
Nam trong thời gian qua.
44
2.2.1.
Về sản phẩm và cơ cấu sản phẩm xuất khẩu.
44
2.2.2.
Về giá cả và chi phí.
46

ii
2.2.3.
Sự phát triển thị trường xuất khẩu.
50
2.3.
Đánh giá năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt
may Việt Nam thời gian qua.
59
2.3.1.
Những điểm mạnh trong năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản
phẩm dệt may Việt Nam.
59
2.3.2.

Những điểm yếu hay các vấn đề đặt ra trong năng lực cạnh
tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam.
61
Chương 3:
Quan điểm định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam
trong thời gian tới
75
3.1.
Bối cảnh hiện nay ảnh hưởng tới việc nâng cao năng lực
cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam.
75
3.1.1.
Bối cảnh quốc tế và thách thức mới của thị trường dệt may thế
giới.
75
3.1.2.
Bối cảnh trong nước.
85
3.2.
Một số dự báo chiến lược, tiềm năng phát triển và quan điểm
định hướng phát triển ngành dệt may Việt Nam những năm
tới.
88
3.2.1.
Dự báo đến năm 2005 - 2010.
88
3.2.2.
Tiềm năng phát triển.
90

3.2.3.
Một số quan điểm định hướng phát triển ngành dệt may Việt
Nam trong những năm tới.
91
3.3.
Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh xuất khẩu cho sản phẩm dệt may Việt Nam.
94
3.3.1.
Những giải pháp từ phía Chính phủ.
94
3.3.2.
Những giải pháp từ góc độ ngành và Hiệp hội Dệt may.
102
Phần kết luận.
106
Phụ lục 1:
Thị trường xuất - nhập khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam
(2003 - 2004).
v
Phụ lục 2:
Một số chủng loại sản phẩm may mặc xuất khẩu Việt Nam.
vi
Phụ lục 3:
Thị phần hàng may mặc của một số quốc gia xuất khẩu vào Nhật Bản.
viii

iii
Danh mục tài liệu tham khảo
ix



iv
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1
Năng lực sản xuất của VINATEX.
37
Bảng 2
Năng lực sản xuất của toàn ngành dệt may.
37
Bảng 3
Năng lực sản xuất một số sản phẩm dệt may Việt Nam giai
đoạn 1997 - 2003.
38
Bảng 4
So sánh một số chỉ số cơ bản của ngành dệt may trong nền
kinh tế giai đoạn 1997 - 2003.
40
Bảng 5
Kim ngạch xuất - nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam giai
đoạn 1997 - 2004
42
Bảng 6
Các chủng loại sản phẩm may mặc xuất khẩu vào thị trường
Hoa Kỳ năm 2002.
45
Bảng 7
Giá hàng xuất khẩu của một số quốc gia sang thị trường Nhật
Bản.
47

Bảng 8
Giá cả một số sản phẩm may mặc nhập khẩu của Nhật Bản.
47
Đồ thị
Phân bổ doanh nghiệp theo chi phí đơn vị cho các doanh
nghiệp mẫu.
48
Bảng 9
Cơ cấu thị trường xuất khẩu của ngành may mặc Việt Nam.
51
Bảng 10
Mười quốc gia xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất vào Hoa Kỳ.
52
Bảng 11
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa kỳ.
53
Bảng 12
So sánh mức giá có MFN và không có MFN tại thị trường
Hoa Kỳ (năm 2001).
55
Bảng 13
Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam vào Nhật Bản.
56
Bảng 14
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU.
57
Bảng 15
Xuất khẩu hàng dệt may vào một số quốc gia trong EU.
58
Bảng 16

Máy móc, trang thiết bị hiện tại của ngành dệt Việt Nam (2004).
63
Bảng 17
Tổng giá trị nhập khẩu trang thiết bị ngành dệt may Việt Nam.
64
Bảng 18
Chất lượng của nguồn cung ứng đầu vào trong nước theo
đánh giá của doanh nghiệp.
69
Bảng 19
Mục tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010.
89

v

CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Tiếng Anh:
ACT
Agreement on Textile and Clothing
Hiệp định Dệt may
ASEAN
Association of South East Asian
Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
EU
European Union
Liên minh Châu Âu
GATT
General Agreement on Tariffs & Trade
Hiệp định chung về thuế quan & thương

mại
MFA
Multi Fibre Arrangement
Hiệp định Đa sợi
WEF
World Economic Forum
Diễn đàn Kinh tế Thế giới
WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại Thế giới
2. Tiếng Việt:
DNNN

Doanh nghiệp nhà nước
TNHH

Trách nhiệm hữu hạn
VINATEX

Tổng công ty Dệt May Việt Nam


- 1 -
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Với tốc độ tăng trƣởng trung bình là 23,8%/năm (1990-2000) và tốc độ
tăng trƣởng năm 2004 là 19%, ngành dệt may Việt Nam đang là một trong
những ngành có tỷ lệ tăng trƣởng cao nhất. Với 92% sản phẩm sản xuất ra để
phục vụ xuất khẩu, sản phẩm xuất khẩu đóng vai trò tối quan trọng trong phát
triển ngành dệt may Việt Nam. Cùng với dầu thô, gạo, thủy-hải sản, các sản

phẩm dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chiến lược, chủ lực của
Việt Nam trong thời gian qua cũng như định hướng cho thời gian tới (năm
2004: đóng góp 4,3 tỷ USD trong tổng số 26 tỷ USD kim ngạch xuất nhập
khẩu).
Tuy nhiên, do Việt Nam đang trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức
Thƣơng mại Thế giới (WTO) nên Việt Nam sẽ không đƣợc hƣởng những ƣu đãi
trong Hiệp định Dệt may (ATC) mang lại. Trong khi đó, các quốc gia là thành
viên WTO đã thực hiện bãi bỏ hoàn toàn chế độ hạn ngạch (quota) đối với các
sản phẩm dệt may cho các nƣớc trong Tổ chức. Đồng thời, trong số các thành
viên WTO có một số quốc gia có năng lực phát triển và khả năng sản xuất cũng
nhƣ sức cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may rất cao so với Việt Nam
(Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Thái Lan ); trong khi đó sức sản xuất, khả
năng cạnh tranh, khả năng quản lý, trình độ công nghệ thậm chí cả tay nghề
công nhân của ngành dệt may Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề cần đƣợc tháo gỡ
(ngay cả khi Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO). Nhƣ vậy, ở thời điểm
hiện nay, ngành dệt may Việt Nam đang đứng trước những khó khăn lớn nhất từ
tham gia vào thị trường xuất khẩu sản phẩm dệt may thế giới.
Nhận thức rõ vai trò trong xuất khẩu cũng nhƣ những thách thức đang đặt
ra cho ngành dệt may Việt Nam thời gian tới, Thủ tƣớng Chính phủ đã có quyết
định số 55/2001/QĐ-TTg ngày 23 tháng 04 năm 2001 "Phê duyệt chiến lƣợc
phát triển và một số cơ chế, chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lƣợc phát triển
ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010". Trong quyết định này, mục tiêu phát
triển ngành dệt may Việt Nam là: "Phát triển ngành dệt may Việt Nam thành
một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu , tạo

- 2 -
nhiều việc làm cho xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh ". Quyết định này thể
hiện rõ chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đối với đẩy
mạnh phát triển ngành công nghiệp dệt may cũng nhƣ định hƣớng sản xuất
hƣớng tới xuất khẩu cho ngành này.

Vậy, để triển khai thực hiện những chủ trƣơng, chính sách của Đảng,
Chính phủ (nâng gấp đôi kim ngạch xuất nhập khẩu - 8 đến 9 tỷ USD vào năm
2010; 75% nguyên phụ liệu sản xuất sản phẩm dệt may xuất khẩu là sản phẩm
nội địa ), và xuất phát từ các yêu cầu thực tiễn nêu trên, ngành dệt may Việt
Nam sẽ phải triển khai đồng bộ một hệ thống các giải pháp để có thể giữ vững
và mở rộng thị trƣờng xuất khẩu sau khi các quốc gia WTO bãi bỏ chế độ hạn
ngạch đối với sản phẩm dệt may (01/01/2005) và sau khi đã trở thành thành
viên chính thức của WTO? Một trong những đòi hỏi quan trọng đặt ra là cần
xem xét, đánh giá thực trạng khả năng cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt
may Việt Nam, đề xuất các giải pháp khắc phục khó khăn, khai thác lợi thế
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam.
Vì thế, đề tài: “Năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may
Việt Nam” là một đòi hỏi bức bách của thực tiễn hiện nay và trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu:
Năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam là một
vấn đề đƣợc các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan và nhiều nhà kinh tế
trong nƣớc và quốc tế quan tâm. Những năm gần đây đã có những công trình
nghiên cứu và một số tài liệu đƣợc ấn hành liên quan đến vấn đề này, nhƣ:
- Dự án JICA-NEU, 2001 "Tổng hợp kết quả điều tra, tìm hiểu về tình
hình và chính sách phát triển công nghiệp dệt may Việt Nam".
- Dự án JICA-NEU, 2001 "Công nghiệp dệt may Việt Nam: Chính sách
phát triển trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế".
- Tổng công ty Dệt may Việt Nam, 2000: "Chiến lƣợc "tăng tốc" phát triển
ngành đệt may Việt Nam đến năm 2010".
- Hitoshi Sakai - Viện nghiên cứu Nomura, 2000: "Định hƣớng cho kế
hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trong giai đoạn tới năm
2020".

- 3 -
- Hall Hill, Đại học Quốc gia Australia 1998: "Công nghiệp dệt may Việt

Nam những thành công, những thách thức trong tƣơng lai".
Ngoài ra còn có các bài viết đăng trên các báo, tạp chí.
- TS Thân Danh Phúc, Nguyễn Anh Tuấn (Đại học Thƣơng mại) Nhân tố
Trung Quốc với chiến lƣợc phát triển thị trƣờng nội địa ngành dệt may (Tạp chí
Công nghiệp 7/2003).
- Hiệp hội các Nghiệp đoàn tự do (ICFTU), 2004: "Dệt may Bangladesh
"lách khe cửa hẹp""- New York Times (12/2004).
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến một số vấn đề lý luận và
thực tiễn quan trọng về năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may
Việt Nam, nhƣng về cơ bản, các giải pháp, chính sách đƣa ra nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam đã gặp phải
những hạn chế nhất định do hoàn cảnh, điều kiện và thời điểm nghiên cứu; hoặc
những giải pháp này chỉ mang tính chất đối sách, thậm chí chỉ mang tính đơn lẻ
cho mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích thực trạng và đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt
may Việt Nam hiện nay vẫn là một vấn đề cấp bách.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích của Luận văn là đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh xuất
khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm này trong thời gian tới.
Mục đích này đƣợc triển khai thông qua một số nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể là:
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về cạnh tranh, tiêu chí đánh giá năng lực
cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm và kinh nghiệm quốc tế về nâng cao năng
lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may.
Đánh giá thực trạng phát triển và năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản
phẩm dệt may Việt Nam.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất
khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:


- 4 -
* Đối tượng nghiên cứu: Dƣới góc độ kinh tế chính trị, luận văn nghiên
cứu những vấn đề liên quan đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm
dệt may Việt Nam và chỉ đề cập đến những giải pháp, chính sách vĩ mô cho
toàn ngành; không đi sâu vào những vấn đề có tính tác nghiệp trong hoạch định
chính sách cũng nhƣ trong việc tổ chức thực thi chính sách đối với từng doanh
nghiệp dệt may riêng lẻ.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động sản xuất
và xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam năm 1995 đến nay (năm đánh
dấu những chuyển biến lớn trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt là quan hệ
thƣơng mại quốc tế của Việt Nam).
Về không gian: Ngành dệt may ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản của kinh tế chính
trị, nhƣ: Phƣơng pháp Duy vật biện chứng, Duy vật lịch sử.
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phƣơng pháp cụ thể, nhƣ: Tổng kết thực
tiễn, kinh nghiệm; phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh, phân tích dự báo…
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn:
- Khái quát kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc nâng cao năng
lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may và bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển và năng lực cạnh tranh xuất
khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam từ năm 1995 đến nay, để từ đó thấy đƣợc
những mặt còn tồn tại, hạn chế trong thời gian qua và một số vấn đề đặt ra trong
thời gian tới.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung chính của Luận văn gồm 3 chƣơng nhƣ sau:

- 5 -
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và kinh nghiệm quốc tế
về nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may.
Chương 2: Thực trạng phát triển và năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản
phẩm dệt may Việt Nam trong thời gian qua.
Chương 3: Quan điểm định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt
Nam trong thời gian tới.

- 6 -
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
CẠNH TRANH VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH XUẤT KHẨU CỦA SẢN PHẨM DỆT
MAY
Cạnh tranh là một hiện tƣợng vốn có của Kinh tế thị trƣờng - mô thức kinh
tế mà mọi quốc gia muốn phát triển đều cần trải qua. Nhƣ vậy, có thể khẳng
định cạnh tranh là một hiện tƣợng mà mọi quốc gia, dân tộc trên con đƣờng
phát triển đều phải chấp nhận, nhận thức đúng về nó. Có nhiều cách tiếp cận,
nhận thức về cạnh tranh; khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh, cấp độ
cạnh tranh; các yếu tố ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh cũng nhƣ hệ thống
các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.1 Một số khái niệm.
- Cạnh tranh.
Khái niệm về cạnh tranh đã đƣợc các nhà nghiên cứu kinh tế của các
trƣờng phái kinh tế khác nhau nghiên cứu, xem xét và phân tích dƣới nhiều góc

độ, cấp độ khác nhau. Các nhà nghiên cứu kinh tế Tƣ sản Cổ điển cho rằng:
"Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng; nó mang lại cho
mỗi thành viên trong thị trƣờng một phần xứng đáng so với khả năng của
mình ". Theo C.Mác, "cạnh tranh Tƣ bản chủ nghĩa là sự ganh đua, đấu tranh
gay gắt giữa các nhà tƣ bản nhằm giành đƣợc những điều kiện thuận lợi trong
sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu đƣợc lợi nhuận siêu ngạch ".
Trong nền kinh tế thị trƣờng, thuật ngữ cạnh tranh đƣợc dùng để chỉ cuộc
đấu tranh quyết liệt, sống còn giữa các nhà sản xuất, cung cấp các chủng loại
hàng hóa, dịch vụ với nhau; không phân biệt hình thức sở hữu về tƣ liệu sản
xuất (nhà nƣớc, tập thể hay tƣ nhân ) với mục đích cuối cùng của cạnh tranh là
giành lấy phần thuận lợi hơn cho mình.
Theo từ điển Cornu (Pháp), cạnh tranh đƣợc hiểu là "Chạy đua trong kinh
tế; hành vi của các doanh nghiệp độc lập với nhau và là đối thủ của nhau cung

- 7 -
ứng hàng hóa, dịch vụ nhằm làm thỏa mãn nhu cầu giống nhau với sự may rủi
của mỗi bên, thể hiện qua việc lôi kéo đƣợc hoặc để bị mất đi một lƣợng khách
hàng thƣờng xuyên".
"Chạy đua trên một thị trƣờng mà cấu trúc và sự vận hành của thị trƣờng
đó đáp ứng các điều kiện của quy luật cung cầu giữa một bên là các nhà cung
cấp với bên kia là những ngƣời sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa hoặc dịch vụ;
các hàng hóa, dịch vụ này đƣợc tự do tiếp cận trong điều kiện các điều kiện
kinh doanh không phải là hệ quả của áp lực hoặc ƣu đãi do pháp luật mang lại".
Khái niệm về cạnh tranh đƣợc đề cập đến trong Đại từ điển Kinh tế Thị
trƣờng (Trung Quốc) với thuật ngữ "cạnh tranh hữu hiệu", "cạnh tranh có hiệu
quả", "cạnh tranh giá cả", "cạnh tranh phi giá cả" và "cạnh tranh tiềm tàng".
Trong Đại từ điển Tiếng Việt, cạnh tranh đƣợc định nghĩa là sự "tranh đua
giữa các cá nhân, tập thể có chức năng nhƣ nhau nhằm giành phần hơn, phần
thắng về mình"; "cạnh tranh quốc tế" đƣợc hiểu là "cạnh tranh giành nguồn
nguyên liệu và thị trƣờng tiêu thụ của sản phẩm trên thế giới". Cũng về khái

niệm này, Từ điển Thuật ngữ Kinh tế cho rằng: "cạnh tranh là sự đấu tranh đối
lập giữa các cá nhân, tập đoàn hay quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên
hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà không phải ai cũng có thể giành đƣợc".
Vì mục tiêu lợi nhuận, các nhà sản xuất nhất thiết phải chiến thắng trong cạnh
tranh hoặc chí ít là cùng phân chia một thị trƣờng có giới hạn với các đối thủ
cạnh tranh của mình. Nhƣ vậy, rõ ràng là bản chất của cạnh tranh là nhằm tới
tối ƣu hóa đầu vào (hạ thấp tối đa chi phí sản xuất) và tối đa hoá đầu ra (thu lợi
nhuận cao nhất có thể). Một số nhà nghiên cứu kinh tế Việt Nam quan niệm
rằng: Cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hóa, dịch vụ và đó là con
đƣờng, phƣơng thức để giành lợi nhuận cao cho các chủ thể kinh tế
Tóm lại, còn có nhiều nhìn nhận chƣa thật sự thống nhất về khái niệm
cạnh tranh, song, xét về bản chất của nó thì cạnh tranh luôn đƣợc phân tích,
nhìn nhận, đánh giá trong trạng thái động và đƣợc ràng buộc trong mối quan hệ
so sánh một cách tƣơng đối. Theo cách nhìn nhận đó thì mọi nỗ lực mà các bên
tham gia nhằm tìm kiếm, dành giật những lợi thế về mình đều đƣợc thống nhất

- 8 -
diễn tả trong các khái niệm khác nhau về cạnh tranh. Cạnh tranh bao hàm hai
mặt: Tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực thì cạnh tranh đã tạo động lực để các
chủ thể vƣơn tới, đạt tới trạng thái tiến bộ hơn (năng suất cao hơn, mẫu mã đẹp
hơn, chất lƣợng tốt hơn ) nhằm mang lại hiệu quả tốt nhất có thể. Tuy nhiên,
nếu cạnh tranh đƣợc tiến hành bằng các động thái tiêu cực thì sẽ trở nên kìm
hãm sự hình thành và phát triển cái mới, mang lại một thực trạng cực đoan hơn
và kết quả lại trái ngƣợc so với tích cực. Ngày nay, khái niệm cạnh tranh đang
ngày càng trở nên phổ biến và đƣợc nhìn nhận dƣới khía cạnh tích cực nhiều
hơn. Mặc dù đã nói tới cạnh tranh là có ngƣời thắng, kẻ bại và mục đích kích
thích sự phát triển không phải là mục tiêu của các bên tham gia cạnh tranh song
bản thân nó đã thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội.
- Năng lực cạnh tranh.
"Năng lực" đƣợc định nghĩa trong Đại Từ điển Tiếng Việt là: "Những điều

kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì" hay "khả năng đủ để thực hiện tốt một
công việc". Cũng trong tài liệu này, "năng lực cạnh tranh" đƣợc hiểu là: "Khả
năng giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh của những hàng hóa cùng loại trên
cùng một thị trƣờng tiêu thụ". Một số nhà nghiên cứu cho rằng năng lực cạnh
tranh chỉ có ý nghĩa trong quan hệ thƣơng mại và nó đƣợc mô tả qua các chỉ số
đánh giá khác nhau. Trong khi đó, một số nhà nghiên cứu khác lại xem năng lực
cạnh tranh bao gồm cả các điều kiện để triển khai hiệu quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh tới điểm cuối cùng của quá trình cung ứng hàng hóa, dịch vụ, là
đảm bảo nâng cao mức sống cho ngƣời dân. Ở Việt Nam, trong quan niệm của
nhiều nhà nghiên cứu kinh tế, năng lực cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh
đƣợc đề cập đến dƣới nhiều góc độ; sử dụng nhiều thuật ngữ để diễn tả khác
nhau.
Fafchamps cho rằng, khả năng cạnh tranh chính là khả năng của một doanh
nghiệp có thể sản xuất ra một sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn
giá của sản phẩm ấy trên thị trƣờng. Theo đó, các doanh nghiệp có đủ điều kiện
và khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lƣợng tƣơng tự với doanh nghiệp khác
nhƣng chi phí thấp hơn thì đƣợc đánh giá là có khả năng cạnh tranh cao hơn.

- 9 -
Trong khi Randall cho rằng khả năng cạnh tranh chính là khả năng giành đƣợc và
duy trì thị phần trên thị trƣờng với lợi nhuận nhất định thì Dunning lại đứng trên
quan điểm vể khả năng cung ứng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ để nhìn nhận
về năng lực cạnh tranh khi ông nêu ra: Khả năng cạnh tranh là khả năng cung sản
phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trƣờng khác nhau mà không phân biệt
nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó Nhìn chung, hiện nay, các nhà nghiên
cứu kinh tế đều cho rằng: Năng lực cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh là trình
độ của công nghiệp có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trƣờng và
duy trì đƣợc mức độ thu nhập thực tế của mình.
Tuy xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau để nhìn nhận, đánh giá và xem xét
song các quan niệm khác nhau về năng lực cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh

đều liên quan đến hai khía cạnh là khả năng chiếm lĩnh thị trƣờng và có lợi
nhuận. Từ đó, chúng ta có thể lột tả bản chất khái niệm năng lực cạnh tranh. Đó
là khả năng có thể nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận
đƣợc.
1.1.2. Các cấp độ cạnh tranh và các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực
cạnh tranh.
- Cạnh tranh quốc gia.
Cạnh tranh ở cấp quốc gia đƣợc đánh giá chính là năng lực cạnh tranh của
nó và bao gồm rất nhiều yếu tố cấu thành từ các yếu tố vĩ mô đến năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp hoạt động trên quốc gia đó cũng nhƣ khả năng cạnh
tranh của các sản phẩm, dịch vụ có xuất xứ từ quốc gia đó trên thị trƣờng quốc
tế. Theo đó, năng lực cạnh tranh quốc gia đƣợc định nghĩa là năng lực của một
nền kinh tế đạt đƣợc tăng trƣởng bền vững, thu hút đƣợc đầu tƣ, đảm bảo ổn
định kinh tế, xã hội và nâng cao đời sống của ngƣời dân. Diễn đàn Kinh tế thế
giới (WEF) đã đƣa ra định nghĩa về năng lực cạnh tranh quốc gia là "khả năng
đạt và duy trì đƣợc mức tăng trƣởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững
bền tƣơng đối và các đặc trƣng kinh tế khác". WEF cũng đƣa ra tám nhóm yếu
tố (bao gồm hơn 200 chỉ số) để xác định năng lực cạnh tranh tổng thể của một
quốc gia (trọng số của mỗi nhóm chỉ số có sự thay đổi nhất định qua các thời

- 10 -
kỳ). Tám nhóm chỉ số đó là: (1) Độ mở của nền kinh tế; (2) Các chỉ số liên quan
đến vai trò và hoạt động của Chính phủ; (3) Các yếu tố về tài chính; (4) Các yếu
tố về công nghệ; (5) Các yếu tố về kết cấu hạ tầng; (6) Quản trị; (7) Các yếu tố
về lao động; (8) Và các yếu tố về thể chế.
Theo M.Porter "chỉ có chỉ số năng suất là có ý nghĩa cho khái niệm về
năng lực cạnh tranh quốc gia bởi vì đây là nhân tố xác định cơ bản cho việc
nâng cao sức sống của một quốc gia xét về dài hạn". Cũng theo ông, chỉ số năng
suất đến lƣợt mình lại phụ thuộc vào trình độ phát triển và tính năng động của
các công ty. Do vậy, năng lực cạnh tranh quốc gia lại phụ thuộc vào các yếu tố

trong nền kinh tế quốc dân giữ vai trò quyết định cho phép các công ty sáng tạo
và duy trì lợi thế cạnh tranh trong một lĩnh vực cụ thể. Ông đƣa ra bốn nhóm
các yếu tố tác động tới năng lực cạnh tranh quốc gia là: (1) Nhóm các điều kiện
về nhân tố sản xuất (nguồn lao động, tay nghề lao động, tài nguyên, vốn, tiềm
năng về khoa học - công nghệ, hạ tầng cơ sở ). (2) Nhóm các điều kiện về cầu
phản ánh bản chất của nhu cầu thị trƣờng trong nƣớc đối với sản phẩm, dịch vụ
của một ngành. (3) Nhóm các yếu tố về các ngành phụ trợ và các ngành có liên
quan có khả năng cạnh tranh quốc tế. (4) Nhóm các yếu tố liên quan đến cơ cấu,
chiến lƣợc của công ty và của các đối thủ cạnh tranh.
Với các đánh giá nhƣ vậy, năng lực cạnh tranh quốc gia là một chỉ số luôn
đƣợc các nhà đầu tƣ quốc tế quan tâm, xem xét trong quá trình lựa chọn địa
điểm, lĩnh vực đầu tƣ. Hơn thế nữa, bản xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia
còn có có ý nghĩa quan trọng đối với các chính phủ cũng nhƣ doanh nghiệp
- Cạnh tranh ngành.
Năng lực cạnh tranh của ngành đƣợc định nghĩa là khả năng bù đắp chi
phí, duy trì lợi nhuận và đƣợc đo bằng thị phần của sản phẩm, dịch vụ do ngành
đó cung cấp trên thị trƣờng. Theo M.Porter, các yếu tố sau ảnh hƣởng đến khả
năng cạnh tranh của một ngành là:
(1) Những yếu tố sản xuất là các yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản
xuất, giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh; bao
gồm các yếu tố sản xuất cơ bản (khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý) và

- 11 -
các yếu tố sản xuất mới (cơ sở hạ tầng, thông tin, trình độ lao động, khả năng
nghiên cứu phát triển, bí quyết công nghệ ). Các yếu tố sản xuất cơ bản quyết
định rất lớn đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành song
các yếu tố sản xuất mới còn quan trọng hơn trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh
để nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp cũng nhƣ toàn ngành.
Không giống nhƣ yếu tố sản xuất cơ bản, các yếu tố sản xuất mới có đƣợc thông
qua đầu tƣ của chính phủ, các ngành, các công ty Bên cạnh đó, những yếu tố

sản xuất cơ bản thì mọi công ty đều có thể sở hữu và do đó rất khó tạo nên lợi
thế cạnh tranh trong dài hạn; trong khi đó, những yếu tố sản xuất mới cần phải
đƣợc đầu tƣ và duy trì thế mạnh nếu muốn tạo ra lợi thế cạnh tranh trong dài
hạn (vì chúng khó có thể sao chép, rập khuôn).
(2) Điều kiện của cầu: Các doanh nghiệp trong một ngành sản xuất luôn
phải cạnh tranh với các ngành sản xuất các sản phẩm thay thế khác. Các sản
phẩm thay thế hạn chế mức lợi nhuận tiềm năng của một ngành bằng cách đặt
ngƣỡng tối đa cho mức giá mà các doanh nghiệp trong ngành có thể kinh doanh
có lãi. Khả năng lựa chọn về giá cả của các sản phẩm thay thế càng hấp dẫn thì
ngƣỡng chặn trên đối với lợi nhuận của ngành càng cứng nhắc. Ngƣời mua
tranh đua với ngành bằng cách bắt ép giá giảm xuống, chất lƣợng và các dịch vụ
tốt hơn; làm cho các đối thủ cạnh tranh chống lại nhau. Điều đó buộc các doanh
nghiệp trong ngành phải coi các yêu cầu của khách hàng là trên hết và phải tìm
mọi cách để đáp ứng tối đa có thể nhu cầu của họ thì mới thu đƣợc lợi nhuận.
Vì vậy, nhu cầu đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra động lực để nâng cao
năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp và toàn ngành. Có thể khẳng định
rằng, đặc tính của cầu giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành các
đặc tính của sản phẩm và tạo ra những áp lực để nâng cao chất lƣợng, gia tăng
giá trị sử dụng và phát triển sản phẩm mới.
(3) Các ngành công nghiệp liên quan và phụ trợ: Với mỗi ngành sản xuất,
sự hình thành và phát triển cũng nhƣ năng lực cạnh tranh của nó luôn có sự phụ
thuộc rất lớn vào các ngành công nghiệp liên quan và phụ trợ; không có ngành
nào phát triển một cách độc lập, riêng biệt hoàn toàn (nông nghiệp phụ thuộc

- 12 -
vào các ngành sản xuất hoá học, thuốc bảo vệ thực vật ; công nghiệp phụ thuộc
rất nhiều vào sự phát triển của các ngành nhƣ: nguồn nguyên, nhiên liệu, công
nghiệp chế tạo máy móc ). Nếu những ngành liên quan và phụ trợ này phát
triển mạnh mẽ thì sự phát triển của ngành cũng thuận lợi; khả năng cạnh tranh
mới cao; nếu ngƣợc lại sẽ có tác động tiêu cực tới khả năng cạnh tranh cũng

nhƣ sự phát triển của ngành. Nhƣ vậy, sự phát triển của một ngành còn bị tác
động của rất nhiều ngành khác; giữa các ngành có sự liên quan tới nhau, sản
phẩm của ngành này là yếu tố đầu vào của ngành kia và ngƣợc lại.
Bên cạnh các nhóm yếu tố trên, cấu trúc thị trƣờng, mức độ cạnh tranh,
chiến lƣợc của các chủ thể trong nội bộ ngành, của đối thủ cạnh tranh và đặc
biệt là vai trò của nhà nƣớc cũng là những yếu tố có tác động mạnh đến năng
lực cạnh tranh của ngành. Các nhóm yếu tố này sẽ có tác dụng tích cực trong
việc tạo ra khả năng cạnh tranh cho một ngành và chính phủ có ảnh hƣởng lớn
đến các nhóm yếu tố đó. Các nhóm yếu tố này cũng là thƣớc đo về năng lực
cạnh tranh cho một ngành, một doanh nghiệp: Doanh nghiệp muốn nâng cao
năng lực cạnh tranh thì cần tập trung sản xuất các sản phẩm mà các yếu tố trên
là thuận lợi hơn cả. Năng lực cạnh tranh của một ngành sẽ đƣợc nâng cao nếu
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành đƣợc cải thiện.
- Cạnh tranh doanh nghiệp và sản phẩm:
Có nhiều quan điểm khoa học cũng nhƣ cách tiếp cận khác nhau về năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp; trong đó, tiêu biểu nhất có M.Porter, Oral
Singer, Kettani M.Porter cho rằng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dựa
vào các yếu tố sau: Những đối thủ trong ngành, các đối thủ tiềm năng, các sản
phẩm thay thế, nhà cung cấp và khách hàng. Ông đã đồ thị hóa mối liên kết giữa
các yếu tố cấu thành này để tạo nên Mô hình hình thoi để chỉ ra các yếu tố chính
tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và mối liên hệ giữa chúng.
Trong khi đó, Oral Singer và Tettani lại cho rằng: Có ba yếu tố tác động tới
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là: Sự thành thạo về kỹ năng công
nghiệp, chi phí liên quan tới kỹ năng và môi trƣờng kinh tế của công ty

- 13 -
Tuy vậy, nhìn chung các nhà nghiên cứu kinh tế đều cho rằng: Năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp đƣợc đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị
phần, thu lợi nhận của doanh nghiệp trong môi trƣờng cạnh tranh trong nƣớc và
ngoài nƣớc. Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều sản phẩm dịch

vụ vì vậy còn có thể phân biệt năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với năng
lực cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ. Nói cách khác, năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp có thể đƣợc hiểu là tổng hòa năng lực cạnh tranh của các sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp ấy; hay năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
đƣợc thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đƣợc đo lƣờng qua lợi
nhuận của doanh nghiệp, thị phần của doanh nghiệp đó trên thị trƣờng và chiến
lƣợc kinh doanh của doanh nghiệp đó. Với tƣ cách là tế bào cấu thành nên nền
kinh tế thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo sở sỡ vững chắc và hình
thành nên năng lực cạnh tranh của quốc gia và năng lực cạnh tranh quốc gia
cũng chi phối tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ƣu thế cạnh tranh của một doanh nghiệp sản xuất so với đối thủ cạnh tranh
của mình đƣợc thể hiện qua lợi thế về chi phí và lợi thế về sự khác biệt. Trong
đó, lợi thế về chi phí thể hiện qua việc doanh nghiệp có khả năng tạo ra sản
phẩm với chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh. Lợi thế về sự khác biệt lại phụ
thuộc vào mức độ khác biệt của sản phẩm làm tăng giá trị cho ngƣời tiêu dùng
hoặc giảm chi phí sử dụng sản phẩm hay nâng cao tính hoàn thiện khi sử dụng
sản phẩm. Lợi thế này cho phép thị trƣờng có thể chấp nhận mức giá cao hơn
của đối thủ
Tóm lại, năng lực cạnh tranh của một sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đƣợc
hiểu là tất cả các đặc điểm, yếu tố, tiềm năng mà sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đó
có thể duy trì và phát triển vị trí của mình trên thị trƣờng cạnh tranh một cách
lâu dài và có ý nghĩa.
Tuy có sự phân biệt tƣơng đối về khái niệm song, giữa các cấp độ cạnh
tranh nêu trên có sự liên hệ mất thiết, gắn bó với nhau; giữa chúng có tác động
qua lại, phụ thuộc, chế định nhau và có mối quan hệ nhân quả với nhau. Một
nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia cao buộc phải bao gồm những

- 14 -
doanh nghiệp, các sản phẩm dịch vụ có năng lực cạnh tranh cao và tới lƣợt nó
môi trƣờng kinh tế vĩ mô, môi trƣờng kinh doanh đối với các sản phẩm dịch vụ

phải thuận lợi thì các doanh nghiệp và các sản phẩm dịch vụ mới có thể nâng
cao năng lực cạnh tranh của mình.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
- Các yếu tố thuộc về sản phẩm.
+ Giá cả hàng hoá.
Giá cả hàng hóa đóng một vai trò rất quan trọng trong cạnh tranh thƣờng
đƣợc sử dụng trong giai đoạn đầu của doanh nghiệp khi doanh nghiệp bƣớc vào
một thị trƣờng mới. Nếu các loại hàng hoá có cùng giá trị sử dụng, chất lƣợng
giống nhau nhƣng có sự khác biệt về giá cả thì ngƣời tiêu dùng sẽ chọn loại
hàng hoá nào có giá rẻ hơn. Tuy nhiên, giá cả hàng hoá đƣợc quyết định bởi giá
trị của nó và suy cho cùng thì nhà sản xuất nào có thời gian hao phí lao động xã
hội cần thiết thấp hơn sẽ có giá trị cá biệt thấp hơn; tất yếu là giá cả hàng hóa
của họ thấp hơn giá cả hàng hóa của các nhà cung cấp khác. Cạnh tranh về giá
thƣờng đƣợc thực hiện qua các biện pháp nhƣ: Kinh doanh với chi phí thấp; bán
với mức giá hạ. Tuy vậy, hạ giá thành là phƣơng pháp cuối cùng mà doanh
nghiệp sẽ thực hiện trong cạnh tranh bởi nó ảnh hƣởng trực tiếp tới lợi nhuận
của doanh nghiệp.
+ Chất lượng hàng hoá (theo nghĩa rộng).
Tƣơng tự nhƣ yếu tố giá cả, chất lƣợng hàng hóa là một yếu tố quan trọng
mà các doanh nghiệp sử dụng nhƣ một công cụ hữu hiệu để chiến thắng các đối
thủ cạnh tranh của mình. Song, chất lƣợng hàng hoá lại phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nhau của quá trình sản xuất với cùng một giá thành (nhƣ: kỹ thuật,
công nghệ; vị trí địa lý và các yếu tố đầu vào khác - những yếu tố không giống
nhau đối với mỗi nhà cung cấp). Hơn thế nữa, ngƣời tiêu dùng còn sẵn sàng trả
giá cao hơn để có đƣợc một sản phẩm chất lƣợng tốt hơn. Cạnh tranh chất lƣợng
sản phẩm thƣờng đƣợc xem xét thông qua một số yếu tố nhƣ: (1) Trình độ sản
phẩm (tính hữu dụng, mẫu mã, bao bì). (2) Chất lƣợng sản phẩm (độ bền, lợi ích
kinh tế khi sử dụng ). (3) Khai thác hợp lý chu kì sống của sản phẩm: Việc

- 15 -

nghiên cứu chính xác yếu tố này sẽ giúp nhà cung cấp quyết định thời điểm
tung ra một chủng loại sản phẩm mới thay thế các sản phẩm đang có trên thị
trƣờng hoặc tạm dừng cung cấp một chủng loại sản phẩm đã có.
+ Phân phối và bán hàng.
Đây là một yếu tố khá quan trọng vì nó tạo ra sự tiện lợi cho khách hàng;
thể hiện ở ba giai đoạn của quá trình bán hàng: trƣớc, trong và sau khi bán hàng.
Ở giai đoạn trƣớc khi bán hàng, các nhà cung cấp sẽ lôi cuốn khách hàng thông
qua các hoạt động quảng cáo, tiếp thị, định hƣớng thị hiếu ngƣời tiêu dùng
Trong khi đó, yêu cầu của quá trình bán hàng lại là nghệ thuật thể hiện sự trọng
thị khách hàng. Nó đòi hỏi ngƣời bán hàng phải thật sự tôn trọng khách hàng
Giai đoạn sau bán hàng phải có các dịch vụ hỗ trợ khách hàng. Những dịch vụ
này sẽ tạo sự tin tƣởng, uy tín của nhà cung cấp đối với ngƣời tiêu dùng. Bên
cạnh đó, phƣơng thức thanh toán cũng đƣợc sử dụng nhƣ một công cụ cạnh
tranh hữu hiệu (trả góp. trả chậm và các dịch vụ thanh toán ủy thác khác ).
Khả năng cạnh tranh về phân phối và bán hàng của một nhà cung cấp
thƣờng đƣợc thể hiện qua các nội dung chủ yếu nhƣ: (+) Khả năng đa dạng hoá
các kênh phân phối và chọn đƣợc các kênh chủ lực. (+) Khả năng tuyển chọn
đƣợc những ngƣời điều khiển đủ mạnh. (+) Khả năng có đƣợc hệ thống bán
hàng phong phú và hiện đại. (+) Khả năng có thể kết dính các kênh phân phối
lại với nhau. (+) Khả năng hợp tác những ngƣời bán trên thị trƣờng nhất là trên
các thị trƣờng lớn. (+) Khả năng cung cấp các dịch vụ bán hàng và sau bán hàng
hợp lý (phƣơng thức bán hàng và phƣơng thức thanh toán).
+ Uy tín của doanh nghiệp và thương hiệu hàng hóa.
Uy tín của doanh nghiệp đƣợc xây dựng trên cơ sở chất lƣợng sản phẩm,
giá trị sử dụng của các loại sản phẩm mà doanh nghiệp đó cung ứng ra thị
trƣờng, các dịch vụ trong, sau bán hàng và tất nhiên là giá cả sản phẩm phải
hợp lý. Điều đáng chú ý là uy tín của doanh nghiệp chỉ có thể có đƣợc khi
doanh nghiệp đó đáp ứng đƣợc những đòi hỏi nêu trên trong một thời gian đủ để
khách hàng đƣa ra những đánh giá chín muồi về doanh nghiệp. Nói cách khác,
xây dựng thƣơng hiệu sản phẩm, tạo dựng uy tín doanh nghiệp là một hoạt động


- 16 -
cần đƣợc triển khai thƣờng xuyên trong suốt quá trình hình thành và phát triển
của doanh nghiệp.
Bên cạnh các yếu tố nêu trên, còn có một số yếu tố khác mà các nhà cung
cấp cần nghiên cứu để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình nhƣ: Tăng cƣờng
áp dụng khoa học, công nghệ mới vào sản xuất; xây dựng và phát triển thƣơng
hiệu; đầu tƣ cho nghiên cứu thị hiếu tiêu dùng, mức sống dân cƣ để có thể thu
đƣợc những thông tin sát thực giúp đƣa ra những dự báo và quyết định chính
xác và quản trị đƣợc rủi ro
- Các yếu tố thuộc về môi trường vi mô.
+ Nguồn cung ứng đầu vào.
Nguồn cung ứng đầu vào đƣợc đề cập đến bao gồm nhiều yếu tố tác động
tới quá trình sản xuất kinh doanh và chi phối rõ nét tới giá thành và chất lƣợng
sản phẩm. Đây là yếu tố thể hiện sự liên kết chặt chẽ hay thiếu chặt chẽ giữa các
ngành sản xuất trong một quốc gia. Bởi vì sản phẩm của một ngành công nghiệp
này sẽ là phƣơng tiện, vật tƣ, nguyên, phụ liệu của một ngành công nghiệp khác
và ngƣợc lại. Vì vậy, giá cả, chất lƣợng của chủng loại sản phẩm do ngành này
sản xuất ra sẽ chi phối tới giá thành sản xuất và chất lƣợng hàng hóa của một
ngành khác có sử dụng chúng làm nguyên, phụ liệu, bán thành phẩm đầu vào của
mình. Nhƣ vậy, có thể khẳng định rằng, nguồn cung ứng nguyên liệu đầu vào là
một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với khả năng cạnh tranh của một chủng loại
hàng hóa vì nó quyết định các yếu tố khác nhƣ: giá cả, chất lƣợng (những yếu
tố tác động trực tiếp và quyết định năng lực cạnh tranh của sản phẩm).
+ Nguồn nhân lực.
Do yếu tố con ngƣời (nhân lực) chi phối tới các chỉ số khác nhau của quá
trình sản xuất từ năng suất lao động, ý thức tổ chức kỷ luật, thái độ phục vụ
khách hàng, khả năng sáng tạo, khả năng quản trị và tất nhiên nó sẽ tác động
tới chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm, chất lƣợng hàng hóa, chất lƣợng các
dịch vụ Tất yếu là cuối cùng nó tác động tới năng lực cạnh tranh của sản

phẩm. Nguồn nhân lực đƣợc coi là vấn đề có ý nghĩa sống còn với mọi tổ chức.
Trong doanh nghiệp, nguồn nhân lực đƣợc chia làm 3 cấp: (1) Quản trị viên cấp

- 17 -
cao: Gồm ban giám đốc và các trƣởng phó phòng ban. Đây là đội ngũ có ảnh
hƣởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh thông qua hoạch định chiến lƣợc
và kế hoạch sản xuất, kinh doanh. (2) Quản trị viên cấp trung gian: Là đội ngũ
trực tiếp quản lý phân xƣởng sản xuất sản phẩm, đòi hỏi phải có có kinh nghiệm
công tác, khả năng ra quyết định và diều hành công tác tốt. (3) Đội ngũ quản trị
viên cấp cơ sở: Là những ngƣời trực tiếp làm ra sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng chịu sự chi phối của đội ngũ này
thông qua các yếu tố nhƣ: Năng suất lao động, trình độ tay nghề, ý thức trách
nhiệm, kỷ luật lao động và sự sáng tạo
+ Hoạt động marketing và xúc tiến thương mại.
Ngày nay, khi nói tới xúc tiến thƣơng mại, ngƣời ta thƣờng muốn đề cập
tới những hoạt động giúp các doanh nghiệp có thể giới thiệu sản phẩm, hàng
hóa, dịch vụ mà họ muốn cung cấp cho khách hàng. Một doanh nghiệp dù có
sản phẩm, dịch vụ có khả năng cạnh tranh cao đến đâu nhƣng không có các biện
pháp thích hợp và không triển khai đồng bộ các hoạt động xúc tiến thƣơng mại
để giúp khách hàng nhận thức đầy đủ về tính ƣu việt cũng nhƣ lợi thế so sánh
của sản phẩm, dịch vụ mình cung cấp thì không thể thành công trong kinh
doanh. Bởi lẽ, số đông khách hàng không thể chủ động tìm tới các nhà cung cấp
khi họ không có thông tin về sản phẩm dịch vụ mà họ có nhu cầu. Vì vậy, hoạt
động xúc tiến thƣơng mại là một khâu quan trọng mà doanh nghiệp cần triển
khai đồng bộ trƣớc khi tiến hành cung ứng một loại sản phẩm, hàng hóa dịch vụ
ra thị trƣờng. Tóm lại, hoạt động xúc tiến thƣơng mại là yếu tố có tác động, ảnh
hƣởng mạnh mẽ tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm mặc dù nó không thuộc
quá trình sản xuất công nghiệp.
+ Yếu tố trang thiết bị, công nghệ.
Trang thiết bị công nghệ đóng vai trò chủ chốt trong việc nâng cao năng

suất, đảm bảo chất lƣợng và hạ giá thành sản phẩm. Với một dây chuyền máy
móc thiết bị, công nghệ phù hợp, chất lƣợng sản phẩm sẽ đƣợc đảm bảo, năng
suất lao động đƣợc nâng cao, giá thành sản phẩm sẽ hạ và tất yếu năng lực cạnh

- 18 -
tranh của sản phẩm dịch vụ sẽ nâng cao. Vì vậy, yếu tố trang thiết bị công nghệ
có tác động mạnh tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Thông thƣờng, yếu tố trang thiết bị, công nghệ thể hiện ở hai mặt sau đây:
(1) Trình độ kỹ thuật công nghệ hiện tại của doanh nghiệp và khả năng có đƣợc
các công nghệ tiên tiến. (2) Quy mô và năng lực sản xuất: Để đạt hiệu quả cao
trong sản xuất kinh doanh, khai thác hiệu quả các nguồn đầu tƣ; giảm thiểu chi
phí cố định trong giá thành sản phẩm thì doanh nghiệp phải có quy mô sản xuất
và mức sử dụng công suất ít nhất phải gần bằng công suất thiết kế.
- Các yếu tố thuộc về môi trường vĩ mô.
Bên cạnh các yếu tố thuộc về doanh nghiệp và môi trƣờng vi mô thi những
yếu tố thuộc về môi trƣờng vĩ mô cũng có vai trò quan trọng đối với năng lực
cạnh tranh của sản phẩm; nó trở nên đặc biệt quan trong đối với sản phẩm xuất
khẩu. Các yếu tố thuộc môi trƣờng vĩ mô bao gồm:
+ Môi trường quốc gia nhập khẩu.
Nó đƣợc cấu thành bởi (1) Môi trƣờng kinh tế của quốc gia nhập khẩu:
Khi nói tới môi trƣờng kinh tế của quốc gia nhập khẩu là đề cập tới tính ổn định
về kinh tế, cơ cấu sản xuất, tiêu dùng; các nguồn lực chính để phát triển kinh tế;
cơ sở hạ tầng kinh tế và tất nhiên là các chính sách xuất nhập khẩu, chính sách
tiền tệ, chính sách tỷ giá
(2) Môi trƣờng cạnh tranh tại quốc gia nhập khẩu: Năng lực cạnh tranh của
hàng hóa nhập khẩu tất nhiên sẽ chịu ảnh hƣởng lớn từ mức độ cạnh tranh trên
thị trƣờng quốc gia nhập khẩu. Nếu quốc gia nhập khẩu có môi trƣờng cạnh
tranh mạnh thì những lợi thế so sánh của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rõ nét
hơn và ngƣợc lại. Vì vậy, mức độ bảo hộ thị trƣờng trong nƣớc đã trở thành một
tiêu chí không thể thiếu trong đánh giá độ mở hay mức độ hội nhập của nền

kinh tế một quốc gia trong tổng thể nền kinh tế toàn cầu.
(3) Môi trƣờng chính trị - phát luật của nƣớc nhập khẩu: Yếu tố này đang
ngày càng đƣợc coi trọng khi đánh giá về môi trƣờng đầu tƣ nói riêng và môi
trƣờng kinh tế nói chung. Nhƣ chúng ta đã biết, một quốc gia rất khó phát triển
kinh tế nếu môi trƣờng chính trị, pháp luật không ổn định. Sự bất ổn định về

×