1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIấN Lí LUẬN CHÍNH TRỊ
VŨ KIấN CƯỜNG
NGUỒN NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2007
3
BẢNG QUY ƢỚC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNH-HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNKT: Công nhân kỹ thuật
GS: Giáo sư
KH-CN: Khoa học - công nghệ
PTCS: Phổ thông cơ sở
PGS: Phó giáo sư
THCN: Trung học chuyên nghiệp
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
4
MỤC LỤC
Mở đầu 3
Chƣơng 1. Kinh tế tri thức và những yêu cầu về nguồn nhân lực để phát
triển kinh tế tri thức 3
1.1. Kinh tế tri thức và những yêu cầu của nó đối với nguồn nhân lực 3
1.1.1. Một số quan niệm khác nhau về kinh tế tri thức 3
1.1.2. Yêu cầu của kinh tế tri thức đối với phát triển nguồn nhân lực 12
1.2. Đặc điểm và nội dung phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri
thức 15
1.2.1. Đặc điểm của nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam . 16
1.2.2. Nội dung 17
1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức của
một số nước 19
1.3.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc 19
1.3.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc 23
1.3.3. Một số bài học rút ra cho Việt Nam 27
Chƣơng 2. Tình hình nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức ở
Việt Nam thời gian qua 29
2.1. Tình hình phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt
Nam thời gian qua 29
2.1.1. Tình hình phát triển năng lực thể chất, phẩm chất văn hóa tinh thần
của nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay 29
2.1.2. Thực trạng giáo dục và đào tạo trong việc phát triển nguồn nhân lực
có trình độ ở Việt Nam thời gian qua 34
2.1.3. Tình hình phân bổ, sử dụng nguồn nhân lực có trình độ ở Việt Nam
thời gian qua 47
5
2.2. Nhận xét chung 51
2.2.1. Những thành tựu và nguyên nhân 51
2.2.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân 54
2.2.3. Những vấn đề đặt ra đối với nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam 57
Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực để
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 64
3.1. Phương hướng, mục tiêu phát triển nguồn nhân lực 64
3.1.1. Phát triển nguồn nhân lực phải đảm bảo đáp ứng tốt nhất những yêu
cầu đặt ra của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hướng tới
kinh tế tri thức 64
3.1.2. Phát triển tập trung tri thức cho đội ngũ lao động đặc biệt chú trọng
nhân lực cho những ngành kinh tế mũi nhọn, những ngành sản xuất có
hàm lượng tri thức cao 65
3.2. Các giải phát phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở
Việt Nam 69
3.2.1. Các giải pháp tạo cơ sở môi trường thuận lợi cho việc phát triển nhân
lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam 69
3.2.2. Giải pháp trực tiếp phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam 76
Kết luận 96
Danh mục tài liệu tham khảo 98
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay những tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ đã làm cho thế
giới có những đổi thay to lớn, ngày càng ngành sản xuất sử dụng công nghệ tiên
tiến, có hàm lượng tri thức cao như: Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ năng lượng, công nghệ vật liệu mới… Tri thức đã trở thành yếu tố có
vai trò ngày càng quan trọng. Đây là một bước ngoặt lịch sử: nền văn minh loài
người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ; nền kinh tế công
nghiệp sang kinh tế tri thức.
Trong kinh tế tri thức, yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển kinh tế là
tri thức và tiềm năng, nguồn tạo ra tri thức. Nguồn nhân lực có trình độ, có hàm
lượng chất xám cao không ngừng học hỏi, sáng tạo chính là chủ thể của tiềm
năng tri thức. Hiện nay, trên thế giới đang diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt giữa
các quốc gia để thu hút, chiếm hữu, khai thác nguồn lực trí tuệ. Trong cuộc tranh
đua đó, các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam mặc dù có ít ưu thế hơn
so với các nước phát triển nhưng cũng có nhiều cơ hội vươn lên, rút ngắn sự
chênh lệch về khoảng cách phát triển với các nước nếu biết nắm bắt, khai thác
các thành tựu của khoa học công nghệ, của tri thức nhân loại để phát huy nội lực,
tăng cường sức mạnh quốc gia. Nhận thức rõ điều đó, Đại hội đại biểu toàn quốc
Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “…tranh thủ ngày càng nhiều hơn, ở
mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ,
từng bước phát triển kinh tế tri thức” [9].
Điều đó thực hiện được hay không phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng
nguồn chủ yếu vào chất lượng nguồn nhân lực của đất nước. Nguồn nhân lực đó
phải có những phẩm chất như thế nào? Vai trò của nguồn nhân lực đó trong kinh
tế tri thức thể hiện ra sao? Để có thể tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức phải có
điều kiện, tiền đề then chốt nào? Chuẩn bị nguồn nhân lực để phát triển kinh tế
7
tri thức cần có những bước gì? những câu hỏi đó đang thật sự là những vấn đề
lý luận và thực tiễn quan trọng cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, thấu đáo nhất là
trong điều kiện nước ta đang thực hiện công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá
và từng bước phát triển kinh tế tri thức.
Với mong muốn góp phần nhỏ và làm rõ những vấn đề trên, tôi đã lựa
chọn đề tài: “Nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam” làm đề
tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Kinh tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề phát triển nguồn nhân lực con người để phát triển kinh tế tri thức
là một vấn đề đang rất được quan tâm. Có một số công trình khoa học, cuốn
sách, bài viết xoay quanh đề tài này như:
- Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với đội ngũ tri thức Việt
Nam. Đề tài khoa học cấp bộ năm 2004, do TS. Đoàn Văn Khái chủ nhiệm đề
tài.
- Phát triển kinh tế tri thức rút ngắn quá trình trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nước ta, GS. TS. Đặng Hữu. Đề tài KX 02.03, H.2003.
- Thời đại kinh tế tri thức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Trí tuệ, nguồn lực vô tận của sự phát triển xã hội của tác giả Phạm Thị
Ngọc Trâm, Tạp chí Triết học, số 1/1993.
- Kinh tế tri thức và con đường hội nhập của chúng ta, Tạp chí Xã hội học
tháng 2/1999 của Phan Đình Diệu.
- Kinh tế tri thức: xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000 do Ngô Quý Tùng chủ biên.
- Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra cho giáo dục và đào tạo nước ta.
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 của tác giả Nghiêm Đình Vỳ.
- Để tri thức trẻ tiến vào kinh tế tri thức, Tạp chí Cộng sản, số 178/2002
của Nguyễn Hoàng Hải.
8
- Động lực cho kinh tế tri thức, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 6/2003 của
Đặng Hữu.
Các công trình, bài viết kể trên đã đưa ra những khái niệm cụ thể, phản
ánh tình hình, xu hướng phát triển, những thành công cũng như những tồn tại,
bất cập của nguồn nhân lực phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam thời gian qua.
Tuy vậy kinh tế tri thức và phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức
đối với Việt Nam là một lĩnh vực mới trẻ. Cùng với quá trình phát triển của nền
kinh tế, các quan điểm, chính sách, xu hướng phát triển cũng như những bất cập
và các vấn đề đặt ra trong sự phát triển của nguồn nhân lực, của kinh tế tri thức
có nhiều thay đổi trong tình hình mới mà các công trình, bài viết trên không thể
phản ánh hết được. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này một cách có hệ thống, đưa
ra những định hướng, giải pháp phát triển phù hợp với tình hình thực tiễn hiện
nay là hết sức cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về nguồn nhân lực trong kinh
tế tri thức và thực trạng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức hiện nay ở
Việt Nam, luận văn đưa ra những định hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân
lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
* Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ
chủ yếu sau:
+ Thứ nhất, phân tích, hệ thống và góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý
luận về nguồn nhân lực, về kinh tế tri thức, nội dungvà những vấn đề đặt ra đối
với phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức.
9
+ Thứ hai, phân tích đánh giá đúng tình hình nguồn nhân lực hiện nay về
quy mô, chất lượng và tác động của nó đối với quá trình phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam.
+ Thứ ba, xác định phương hướng, giải pháp chủ yếu phát triển nguồn
nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu nguồn nhân lực trong vai trò để phát
triển kinh tế tri thức của Việt Nam trên phương diện Kinh tế chính trị.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên những lý luận phổ biến hiện nay về
nguồn nhân lực, về kinh tế tri thức gắn với những đặc điểm, tình hình hiện nay
của nguồn nhân lực Việt Nam, mối quan hệ giữa chúng và dựa trên những đòi
hỏi bức thiết của xu thế phát triển kinh tế tri thức.
- Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, luận văn chú trọng sử dụng phương pháp lịch sử, phương
pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp biện chứng và các phương pháp
khác như các phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, đối chiếu, tổng hợp, hệ
thống hoá để làm rõ thêm những vấn đề cần phải phân tích.
6. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn
Trên cơ sở khái quát những vấn đề lý luận về nguồn nhân lực và kinh tế tri
thức, luận văn khắc hoạ vai trò của nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức
như là một đặc trưng mới, một chức năng mới của nguồn nhân lực. Và từ đó,
luận văn đề ra một số định hướng, giải pháp mới trong tiến trình đào tạo, bồi
dưỡng và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo nội dung của
luận văn gồm ba chương:
10
Chương 1: Kinh tế tri thức và những yêu cầu về nguồn nhân lực để phát
triển kinh tế tri thức.
Chương 2: Tình hình nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt
Nam thời gian qua.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực để phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010.
11
Chƣơng 1
KINH TẾ TRI THỨC VÀ NHỮNG YấU CẦU
VỀ NGUỒN NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
1.1. Kinh tế tri thức và những yêu cầu của nó đối với nguồn nhân lực
1.1.1. Một số quan niệm khác nhau về kinh tế tri thức
Theo quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người, lực lượng sản xuất
không ngừng phát triển đi lên. Các nền kinh tế lạc hậu, thấp kém trước đó được
thay bởi những nền kinh tế đi sau đạt trình độ phát triển cao hơn. Khởi đầu, kinh
tế tự nhiên, săn bắt hái lượm đã được thay bằng nền kinh tế nông nghiệp. Và đến
lượt kinh tế nông nghiệp cũng trở nên lạc hậu nhường chỗ cho nền kinh tế đại
công nghiệp với quy mô, năng suất vượt trội. Và có một số quan điểm cho rằng
sau kinh tế công nghiệp là xã hội hậu công nghiệp
Ngay từ năm 1973, D.Bell nhà xã hội học Mỹ đã đưa ra khái niệm “xã hội
hậu công nghiệp”. Năm 1980 A.Top-phơ-lơ bàn luận về kinh tế hậu công nghiệp.
Năm 1982 G. Nei-dơ-bet nhà kinh tế học ngươì Mỹ đưa ra khái niệm “kinh tế
thông tin”. Năm 1986 các nhà kinh tế học Anh đưa ra khái niệm “kinh tế kỹ
thuật cao”. Đến năm 1990, lần đầu tiên Liên Hợp Quốc đưa ra khái niệm “kinh tế
tri thức”. Trong tất cả các khái niệm trên tri thức đều được khẳng định có một
vai trò đặc biệt quan trong. Năm 1995, tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD) chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế tri thức”.
Thuật ngữ “kinh tế tri thức” xuất phát từ cụm từ tiếng Anh: “knowledge
economy”, bên cạnh đó còn một số thuật ngữ khác cũng được sử dụng nhưng ít
phổ biến hơn. Trong đó, thuật ngữ nền kinh tế dựa trên tri thức (knowledge
based economy) có mức độ phản ánh rộng rãi hơn, gần với “kinh tế tri thức”
hơn.
12
Mặt khác, từ kinh tế tri thức nhưng theo những phương diện tiếp cận khác
nhau mà có nhiều khái niệm khác như: kinh tế tri thức là nền kinh tế mới nhất,
mới nên người ta cũng gọi là nền kinh tế mới (new economy); kinh tế tri thức
đặc biệt coi trọng việc học tập nên có người gọi là nền kinh tế học hỏi (learnring
economy); kinh tế tri thức coi trọng thông tin, cần nhiều thông tin, sử dụng kỹ
thuật số nên còn có những thuật ngữ nền kinh tế mạng (digital economy), xã hội
thông tin (information society)…
Kể từ đó kinh tế tri thức được quan tâm bàn luận rất nhiều trong giới
nghiên cứu ở nước ngoài cũng như ở Việt Nam. Kinh tế tri thức được ghi nhận,
nhắc đến, bàn luận trong nhiều hội thảo khoa học, bài viết, cuốn sách, và cả
trong văn kiện Đại hội của Đảng cộng sản Việt Nam. Vậy, kinh tế tri thức là gì?
“Nền kinh tế tri thức” hay khái niệm “kinh tế tri thức” là đối tượng nghiên
cứu còn khá mới mẻ không những ở Việt Nam mà còn với cả thế giới. Nó có vai
trò đặc biệt nên được giới nghiên cứu chú ý bàn luận. Có nhiều quan niệm, cách
hiểu khác nhau về nền kinh tế tri thức, còn có quan điểm cho rằng hiện nay chưa
xuất hiện cái gọi là kinh tế tri thức. Vì thế, đặt vấn đề nghiên cứu, tiếp cận là
chưa cần thiết.
Có quan điểm cho rằng: kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó tin học
và công nghệ thông tin phát triển sâu rộng. Quan điểm khác thì lý giải rằng: đó là
nền kinh tế mà công nghệ sinh học giữ vai trò chủ đạo. Hay có một quan điểm
khác giải thích: kinh tế tri thức là nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở một nền
văn hoá tiên tiến và ở đó người dân hưởng thụ với trình độ cao. Trên đây chỉ là
những cách hiểu khác nhau về nền kinh tế tri thức, nó chưa chỉ ra được những
đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức. Những ý kiến phản biện như của tác
giả Lê Huy Thục cho rằng: trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay việc một
quốc gia sử dụng công nghệ sinh học, tin học hoá hay cả hai một cách sâu rộng
trong sản xuất nông nghiệp nhưng chỉ có thế thì chưa thể coi là đã có được kinh
tế tri thức. Còn có những nền kinh tế có tài nguyên phong phú, được thiên nhiên
13
ưu đãi, chỉ cần bán nguyên liệu thô cũng trở nên giàu có, khắp nơi người dân đều
có điều kiện sử dụng những hàm lượng tri thức, chất xám trong các sản phẩm thô
rất thấp nên nền kinh tế như vậy không được coi là kinh tế tri thức (hoặc là tiếp
cận được với kinh tế tri thức).
Các quan điểm trên chưa chính xác bởi đã đồng nhất nền kinh tế sử dụng
công nghệ cao với nền kinh tế tri thức; tri thức về khoa học công nghệ đã tách ra
khỏi tri thức rộng lớn của con người cũng như tách rời khoa học, công nghệ ra
khỏi môi trường kinh tế, văn hoá và xã hội nói chung.
Có một định nghĩa khác khái quát hơn của tác giả Nguyễn Ngọc Thành:
“kinh tế tri thức là hình thái phát triển cao nhất hiện nay của nền kinh tế hàng
hoá tư bản, trong đó, công thức hoạt động cơ bản:Tiền-hàng-tiền được thay thế
bằng công thức Tiền - tri thức - tiền” [22]. Định nghĩa này có điều mới là chỉ ra
được vai trò quan trọng của tri thức trong nền kinh tế mới song ở đây nó mới chỉ
đề cập đến tri thức trong môi trường kinh doanh với tri thức là một dạng hàng
hoá cao cấp, dùng tiền mua đem về sử dụng để kiếm được lợi nhuận lớn hơn số
tiền ban đầu bỏ ra. Định nghĩa này chưa bao quát được vấn đề bởi tri thức không
chỉ tác động đến môi trường kinh tế mà trong nền kinh tế tri thức, tri thức còn
nằm trong sự tương tác với môi trường văn hoá, xã hội, giáo dục…
Năm 1996, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã đưa ra một
định nghĩa đơn giản nhưng bao quát về kinh tế tri thức trong báo cáo có tên:
“Kinh tế dựa trên tri thức”. Theo đó, “kinh tế tri thức là một nền kinh tế trực tiếp
dựa vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức” hoặc “kinh tế tri thức là
kinh tế trong đó tri thức đóng vai trò then chốt đối vối sự phát triển loài người”.
Định nghĩa này có tính khái quát cao, khắc phục hạn chế của nhiều định
nghĩa kể trên; nó vừa cho thấy vị trí, vai trò của tri thức trong nền kinh tế tri thức
vừa chỉ ra được mối quan hệ giữa tri thức và quá trình phát triển kinh tế xã hội
của loài người. Đồng thời định nghĩa này đã cho thấy vai trò, tầm quan trọng của
14
nguồn nhân lực cụ thể là nguồn nhân lực chất lượng cao đối với phát triển kinh
tế tri thức.
Trước đây khi khoa học kỹ thuật chưa phát triển nền kinh tế tự nhiên còn
thống trị thì sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào nguồn tài
nguyên thiên nhiên được ưu đãi và lực lượng lao động thủ công. Quốc gia nào
không sở hữu được nhân tố đó thì không thể có điều kiện để phát triển kinh tế.
Ngày nay, thời kỳ bùng nổ của cách mạng khoa học công nghệ, có những
nước nghèo hoặc thậm chí rất nghèo về tài nguyên thiên nhiên, lực lượng lao
động không đông song lại đạt được tốc độ phát triển kinh tế rất cao trong nhiều
thập kỷ, trở thành những quốc gia có nền kinh tế phát triển như: Nhật Bản, Hàn
Quốc, Hồng Kông, Singapore… Nhân tố quyết định cho sự thành công đó chính
là nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong khi các quốc gia giàu tài nguyên thiên
nhiên khai thác ngày càng cạn kiệt nguồn lực tự nhiên của mình thì nguồn nhân
lực chất lượng cao lại càng có điều kiện phát triển mạnh. Với ưu thế rõ rệt của
mình trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, nguồn nhân lực được
rất nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu.
Nguồn nhân lực là một khái niệm phức tạp, trong quá trình vận động và
phát triển nó chịu sự tác động của những qui luật sinh tử tự nhiên và những qui
luật xã hội. Bởi vậy, khái niệm nguồn nhân lực được tiếp nhận dưới nhiều góc
độ.
Thứ nhất, theo thuyết lao động xã hội, gần gũi với đối tượng nghiên cứu
của kinh tế chính trị thì nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho nền
sản xuất xã hội, cung cấp nguồn nhân lực con người cho sự phát triển. Như vậy,
nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư của quốc gia. Hoặc nguồn nhân lực là
khả năng lao động của xã hội, bao gồm tất cả các cá nhân trong độ tuổi lao động
tham gia vào quá trình lao động được sử dụng trong quá trình lao động.
15
Thứ hai, theo cách tiếp cận của môn kinh tế học phát triển thì nguồn nhân
lực là nguồn lực tạo động lực cho sự phát triển. Nền kinh tế tăng trưởng phát
triển hay không phụ thuộc chủ yếu vào việc cung ứng nguồn nhân lực theo yêu
cầu của nền kinh tế.
Thứ ba, theo thuyết về vốn con người thì nhân tố con người trong nguồn
nhân lực là nhân tố quan trọng nhất trong quá trình sản xuất, đứng trước các
nguồn lực vật chất khác. Bởi vậy, việc đầu tư cho nguồn nhân lực theo thuyết
này là rất quan trọng. Nhà kinh tế học người Mỹ đạt giải Nobel năm 1992, Gang
Baken cho rằng: không có một khoản đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu
tư vào nguồn nhân lực. Theo một nghiên cứu được Ngân hàng Thế giới (WB)
công bố thì khi đầu tư vào các ngành sản xuất vật chất tỷ lệ thu hồứi vốn chỉ đạt
13% tổng vốn đầu tư trong khi đầu tư cho giáo dục tiểu học, tỷ lệ thu hồi vốn đạt
24%, giáo dục trung học là 17%, giáo dục cao đẳng đại học là 14%. Tổng vốn đầu
tư cho kinh nghiệm phát triển của những quốc gia có tốc độ phát triển thần kỳ thời
gian qua cho thấy: chìa khoá cho sự thành công vượt bậc đó không phải là nguồn
lực tự nhiên, nguồn lực tài chính hay các nguồn lực vật chất khác mà chính là
nguồn nhân lực có chất lượng cao. Do vậy, việc đầu tư để phát triển nguồn nhân
lực có chất lượng đang ngày càng được thế giới quan tâm. Tất nhiên. Bên cạnh
nguồn nhân lực, cũng cần phải đầu tư vào các nguồn vốn vật chất tương ứng.
Thứ tư, theo quan niệm của Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc
(UNDP) thì nguồn nhân lực là tổng thể những năng lực bao gồm năng lực thể
chất và năng lực trí tuệ của con người được huy động vào quá trình sản xuất.
Nguồn năng lực đó của con người gộp thành nguồn nội lực quan trọng hàng đầu
của mọi quốc gia. Những quốc gia có dân số đông sẽ có điều kiện thuận lợi để
phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, tạo ra động lực to lớn cho sự phát
triển kinh tế xã hội của quốc gia mình.
16
Thứ năm, ở Việt Nam theo quan điểm được sử dụng rộng rãi thì nguồn
nhân lực là dân số và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, trí
tuệ và sức khoẻ, năng lực phẩm chất, tác phong làm việc.
Như vậy, có nhiều quan điểm cách nhìn nhận khác nhau về nguồn nhân
lực trong đó những quan điểm gần gũi với Việt Nam đều nhấn mạnh tới năng lực
lao động, năng lực làm việc hay là năng lực thể chất, tinh thần và trí tuệ tồn tại
trong mỗi con người của lực lượng lao động xã hội. Chất lượng của nguồn nhân
lực vì thế sẽ phụ thuộc vào năng lực thể chất và năng lực tinh thần của lực lượng
lao động. Phát triển nguồn nhân lực, bên cạnh quan tâm phát triển số lượng
chính là việc phát triển khả năng của năng lực thể chất, năng lực tinh thần, năng
lực trí tuệ của toàn bộ lực lượng lao động xã hội.
1.1.2. Yêu cầu của kinh tế tri thức đối với phát triển nguồn nhân lực
1.1.2.1. Phát triển nguồn nhân lực phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế
Đây là một trong những yêu cầu quan trọng cần phải chú ý khi phát triển
nguồn nhân lực bởi vì ngay từ khi thực hiện tiến trình CNH-HĐH rút ngắn cơ
cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp và
dịch vụ, giảm dần tỉ trọng của ngành nông nghiệp.
Theo đó, tỉ lệ lao động làm việc trong những ngành này cũng phải có sự
thay đổi tương ứng. Tỉ trọng ngành nông nghiệp giảm trong sự so sánh tương đối
với công nghiệp và dịch vụ thì số lượng lao động có thể giảm nhưng do sự tiến
bộ của khoa học công nghệ lượng giá trị của nông nghiệp tạo ra có thể còn lớn
hơn, sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao hơn, sức cạnh tranh tốt hơn. Muốn
được như vậy, đương nhiên lao động ngành nông nghiệp phải có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao hơn, nhiều trí tuệ hơn. Tương tự, lao động nhóm ngành công
nghiệp, dịch vụ cũng phải tăng lên về số lượng và chất lượng mới có thể đáp ứng
được yêu cầu của thị trường lao động và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
17
Đây chính là một trong những yêu cầu quan trọng đối với việc phát triển nguồn
nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức bởi nếu quá trình chuẩn bị nguồn nhân lực
không tương thích về số lượng và chất lượng so với yêu cầu về nhân lực của nền
kinh tế sẽ dẫn tới những hậu quả lâu dài cho đất nước. Nguồn nhân lực có trình
độ được đào tạo không đủ, không đáp ứng được yêu cầu phát triển thì sẽ không
khai thác, sử dụng được hết các nguồn lực vật chất của xã hội, tiềm năng phát
triển không được giải phóng gây ra sự lãng phí, hạn chế sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Ngược lại, nếu như công tác dự báo nhu cầu nhân lực không chính
xác, đào tạo vượt quá nhu cầu về lao động sẽ gây lãng phí cho nguồn lực của xã
hội trong điều kiện nguồn nhân sách dành cho giáo dục đào tạo còn nhiều hạn
chế như hiện nay. Ngoài ra, nguồn nhân lực đã qua đào tạo mà không có việc
làm có thể dẫn tới một số tác động tiêu cực khác cho xã hội. Chính vì vậy, phát
triển nguồn nhân lực phải gắn liền với công tác dự báo chính xác , theo kịp với
yêu cầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.1.2.2. Phát triển nguồn nhân lực phù hợp với sự phát triển của công
nghệ thông tin
Từ những năm cuối của thế kỷ XX, công nghệ thông tin phát triển mạnh
mẽ làm thay đổi mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội, làm thay đổi và xuất hiện
những ngành nghề mới, cách thức tư duy quản lý mới.
Các sản phẩm của công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Công nghệ thông tin đã làm xoá mờ các
khoảng cách về địa lý, thời gian làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh diễn
ra nhanh chóng, chính xác và hiệu quả hơn.
Trong bối cảnh đó, dù muốn hay không người lao động, nhất là lao động
có trình độ chuyên môn cao đều phải chịu sự ảnh hưởng của công nghệ thông
tin; phải tiếp xúc và sử dụng các sản phẩm, kỹ thuật của công nghệ thông tin.
Điều đó đòi hỏi đội ngũ nhân lực phải được đào tạo đến một trình độ chuyên
18
môn nhất định để có thể khai thác các thành tựu của công nghệ hiện đại một cách
có hiệu quả. Đây chính là một trong những yêu cầu quan trọng mà việc phát triển
mà nguồn nhân lực phải hướng đến.
1.1.2.3. Phát triển nguồn nhân lực phải đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá
và hội nhập kinh tế quốc tế
Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng mạnh
mẽ đã làm mờ đi các biên giới quốc gia. Lao động, các nguồn vốn, công nghệ và
kỹ năng quản lý tiên tiến hiện đại có thể dễ dàng tiếp cận với các quốc gia, các
chủ thể của hoạt động sản xuất kinh doanh hơn bao giờ hết. Quá trình đó đòi hỏi
phải có một lực lượng đông đảo nhân lực có trình độ tay nghề chuyên môn cao,
có kỹ năng tiếp nhận, xử lý và ứng dụng tri thức, công nghệ mới cũng như khả
năng hoà nhập vào môi trường làm việc quốc tế.
Sự mở rộng của thị trường lao động đã mở ra nhiều cơ hội lựa chọn cho
người lao động. Chủ sử dụng lao động của họ có thể là các doanh nghiệp Việt
Nam, doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam hoặc
tại bất kỳ một quốc gia, vùng lãnh thổ nào trên thế giới. Mỗi năm Việt Nam xuất
khẩu hàng chục ngàn lao động và chuyên gia đi làm việc tại các quốc gia, hầu
hết có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam và họ nhận được mức lương cao hơn
so với cùng vị trí làm việc tại Việt Nam. Nguồn ngoại tệ gửi về nước hàng năm
lên tới hàng tỷ USD. Đội ngũ lao động này còn được tiếp cận với công nghệ, kỹ
thuật hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến để khi trở về nước họ trở thành những
lao động lành nghề đóng góp năng lực trí tuệ vào sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động
trong nước cũng như quốc tế đòi hỏi người lao động, nâng cao được sức cạnh
tranh của mình từ học vấn, trình độ chuyên môn, tác phong đến phẩm chất đạo
đức, lối sống công nghiệp mới có thể tìm được vị trí xứng đáng. Lao động Việt
Nam khi ra làm việc ở nước ngoài thường được đánh giá cao ở khả năng nhanh
19
nhẹn, dễ thích nghi, cần cù chịu khó nhưng còn thiếu tác phong công nghiệp,
tính kỷ luật và kỹ năng sử dụng ngoại ngữ yếu. Đối với lao động trong nước thì
hiện nay được đánh giá là còn thiếu công nhân kỹ thuật lành nghề; Bộ phận đã
qua đào tạo thì lại chưa đáp ứng được yêu cầu làm việc thực tế. Còn với nhóm
nhân lực trí tuệ như các nhà quản lý cao cấp, kỹ sư công nghệ thông tin thì được
coi là thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Điều đó đã dẫn tới một thực tế có
nhiều chủ doanh nghiệp phải đưa nhân lực cao cấp từ nước ngoài vào Việt Nam
làm việc. Tình hình nêu trên đòi hỏi công tác phát triển nguồn nhân lực để tiếp
cận, phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam phải được đặt trong bối cảnh toàn cầu
hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu rộng hiện nay.
1.2. Đặc điểm và nội dung phát triển nguồn nhân lực để phát triển
kinh tế tri thức
1.2.1 Đặc điểm của nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức ở Việt
Nam
Thứ nhất, nguồn nhân lực phải được đào tạo với trình độ chuyên môn nhất
định, có phẩm chất trí tuệ. Đây được coi là đặc điểm nổi bật nhất của nguồn nhân
lực phục vụ cho tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Bởi có trải
qua quá trình đào tạo, có phẩm chất trí tuệ thì mới có khả năng sáng tạo, áp dụng
những tiến bộ của khoa học kỹ thuật để sáng chế ra các công nghệ, sản phẩm
mới. Nguồn nhân lực phải có khả năng thu thập, xử lý thông tin, có sự nhạy bén,
thực sự làm chủ được kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Ngoài ra nguồn nhân lực đó
phải có khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao động nghệ nghiệp, có kỹ năng
lao động giỏi thể hiện qua trình độ tay nghề, mức độ thành thạo chuyên môn như
câu ca dao “Một nghề cho chín còn hơn chín nghề” đã khẳng định.
Lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đòi hỏi người lao động làm việc
ở vị trí nào cũng phải tinh thông nghiệp vụ: Người đầu bếp thì phải nấu ăn ngon,
thầy thuốc thì phải giỏi trị bệnh, người công nhân thì phải giỏi ngành nghề…
20
Điều đó càng thể hiện rõ trong điều kiện hiện nay khi chúng ta tiến hành sự
nghiệp CNH-HĐH với sự phân công lao động ngày càng sâu sắc và sự chuyên
môn hoá ngày càng cao của người lao động.
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng sâu rộng, sự chuyển dịch lao động quốc tế cũng như công nghệ kỹ thuật
hiện đại dẫn tới sự cạnh tranh quốc tế giữa những người lao động để giành được
những vị trí làm việc tốt. Bởi vậy người lao động phải có khả năng làm việc thực
tế, phải có khả năng xử lý các vấn đề phát sinh trong điều kiện của nền kinh tế
thị trường và của cách mạng khoa học công nghệ; người lao động còn phải có
năng lực tham gia hoạch định chính sách đưa ra giải pháp và tổ chức thực hiện
quản lý sản xuất kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường và phân công
lao động quốc tế. Những khả năng đó chỉ có thể có từ nguồn nhân lực có tri thức,
có trí tuệ và đã được đào tạo. Như vậy, nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri
thức phải là nguồn nhân lực có trí tuệ, có tri thức khoa học và được đào tạo về
chuyên môn kỹ thuật.
Thứ hai, nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức có tính quốc tế hoá cao.
Từ khi công nghệ thông tin phát triển bùng nổ, nhất là với sự phát triển
của Internet, đã làm cho không gian, thời gian không chỉ trong phạm vi quốc gia
mà trên phạm vi toàn cầu đã bị rút ngắn, thu hẹp khoảng cách. Các nhân tố tri
thức, công nghệ, vốn, lao động…không còn bị bó hẹp trong biên giới một quốc
gia làm cho hoạt động kinh tế mang tính toàn cầu. Sự chuyển dịch lao động quốc
tế cũng như công nghệ kỹ thuật hiện đại ngày càng mạnh mẽ dẫn tới sự cạnh
tranh quốc tế giữa những người lao động. Điều đó bắt buộc người lao động phải
học tập, trang bị kiến thức kỹ năng về chuyên môn, kỹ năng sử dụng ngoại ngữ
mới có thể đáp ứng được yêu câù trong tình hình hiện nay.
Thứ ba, đặc điểm quan trọng của nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri
thức là có tính sáng tạo cao.
21
Sáng tạo là một đặc điểm quan trọng và nổi bật của nguồn nhân lực hiện
đại. Sáng tạo là cơ sở để phát triển lực lượng sản xuất của xã hội đồng thời cũng
là động lực cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế để thông qua đó kinh tế phát
triển. Cho dù ở bất kỳ hình thái kinh tế nào thì sự sáng tạo của người lao động
đều có vị trí đặc biệt quan trọng. Đối với kinh tế tri thức thì sức sáng tạo của
nguồn nhân lực lại càng được coi trọng và sáng tạo có thể được coi như một tiêu
chí để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực, đánh giá sự phát triển cuả kinh tế tri
thức.
Nguồn nhân lực có năng lực sáng tạo mới có thể đưa ra các phương pháp,
cách thức mới để giải quyết một vấn đề cũ hay đưa ra một vấn đề mới, giải pháp
mới. Trong thực tế, năng lực sáng tạo của nguồn nhân lực có thể được thể hiện
qua các cải tiến, các giải pháp hữu ích hay phát minh ra sản phẩm mới, dịch vụ
hay công nghệ quản lý mới.
Trong kinh tế tri thức, KH-CN có tốc độ phát triển và thay thế rất cao, sản
phẩm có vòng đời ngắn, thậm chí công nghệ phát minh sáng chế cũng có vòng
đời ngắn. Phát triển nguồn nhân lực nếu như không có nguồn nhân lực sáng tạo
thì không những không sáng tạo ra được công nghệ, sản phẩm mới mà còn
không làm chủ được những công nghệ, kỹ thuật trung bình của xã hội và như vậy
sẽ dần đào thải ra khỏi đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao.
Như vậy, sáng tạo là yếu tố, đặc điểm không thể thiếu được của nguồn
nhân lực và có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công cũng như trình độ phát
triển của kinh tế tri thức.
1.2.2. Nội dung
- Phát triển nguồn nhân lực để phát triển nguồn tri thức
Thời đại ngày nay, khoa học công nghệ phát triển vượt bậc cùng với làn
sóng toàn cầu hoá đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử: nền kinh tế thế giới bước
vào giai đoạn quá độ từ nền kinh tế dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật là đại công
22
nghiệp, cơ khí hoá sang nền kinh tế dựa trên tri thức. Lúc này tri thức đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, và việc phát triển nguồn nhân lực của mỗi
quốc gia đóng vai trò sống còn đối với sự phát triển kinh tế xã hội.
Các quốc gia phát triển có nền kinh tế dựa trên một nền sản xuất công
nghệ cao, sử dụng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Cơ sở vật chất
kỹ thuật như tự động hoá, tin học hoá đã được hình thành đáp ứng đòi hỏi của
kinh tế tri thức. Lực lượng sản xuất phát triển thể hiện bằng việc xuất hiện một
số lượng đông đảo những lao động trí tuệ ở các nước phát triển và cả những
nước công nghiệp mới (NICs), các nước đang phát triển.
Sự chuyển biến có tính chất bước ngoặt này của lực lượng sản xuất thế
giới khiến cho bất cứ quốc gia nào khi tiến hành công nghiệp hoá phải gắn liền
với hiện đại hoá và đặc biệt muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút
ngắn thì việc phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao để tiếp cận, phát triển
kinh tế kỹ thuật giữ một vai trò cực kỳ quan trọng.
Phát triển nguồn nhân lực bao gồm hai nội dung phát triển về số lượng và
phát triển về chất lượng nguồn nhân lực. Về số lượng nguồn nhân lực, mỗi thời
kỳ, mỗi nền kinh tế có những yêu cầu khác nhau về số lượng nguồn nhân lực.
Thời kỳ kinh tế phát triển bùng nổ thì số lượng lực lượng lao động mà nền kinh
tế đòi hỏi tăng cao và đi cùng với nó là chất lượng của nguồn nhân lực. Chất
lượng nguồn nhân lực thể hiện thông qua hiệu quả của quá trình lao động do
nguồn lao động thực hiện. Các hoạt động lao động của con người trong quá trình
lao động này được phân thành hai nhóm các hoạt động.
Thứ nhất, người lao động thực hiện những hoạt động đã được lặp đi lặp lại
nhiều lần như những kỹ năng đã được học tập để sản xuất ra các sản phẩm theo
khuôn mẫu tính sẵn.
Thứ hai, người lao động sáng tạo ra các kỹ thuật công nghệ sản xuất mới
(trước đó chưa có một khuôn mẫu tính sẵn nào). Những sản phẩm của quá trình
23
lao động này chứa đựng một hàm lượng giá trị rất cao bởi vì người lao động phải
huy động một năng lực thể chất, năng lực tinh thần, trí tuệ, đạt đến một mức độ
rất cao. Con người lao động phải có đủ trình độ để tìm kiếm, phát hiện thông tin
mới, tri thức mới; từ đó vật chất hoá nó biến nó thành các sản phẩm mới, công
nghệ mới.
Như vậy, phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức yêu cầu:
(i) về số lượng phải cung ứng đủ số lượng nguồn nhân lực theo nhu cầu tăng
trưởng và phát triển nền kinh tế; (ii) về chất lượng cần phát triển năng lực thể
chất, tinh thần sáng tạo, khả năng tìm kiếm phát hiện và vật chất hoá thông tin
thành sản phẩm mới công nghệ mới. Trong số đó, phát triển nguồn nhân lực có
năng lực sáng tạo, năng lực đổi mới thể hiện ra kết quả lao động là những sản
phẩm công nghệ mới là nội dung quan trọng nhất của việc phát triển nguồn nhân
lực để tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức.
24
1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri
thức của một số nƣớc
Cùng nằm trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á một số quốc gia có nền
kinh tế phát triển thần kỳ, có điền kiện tự nhiên, kinh tế và văn hoá xã hội gần
gũi với Việt Nam. Việc nghiên cứu tìm hiểu kinh nghiệm phát triển kinh tế đặc
biệt là kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực để tiếp cận phát triển nền kinh tế
tri thức có ý nghĩa quan trọng, thông qua đó chúng ta có thể rút ra một số bài học
kinh nghiệm. Trong số các quốc gia đó có thể kể đến Hàn Quốc, Trung Quốc.
1.3.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Từ một nước kém phát triển, nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu những năm 60
của thế kỷ 20, nhưng nhờ có tầm nhìn chiến lược và chính sách đúng đắn về phát
triển con người nên Hàn Quốc đã làm nên một cuộc bứt phá được gọi là “sự thần
kỳ Đông Á” trở thành một nước công nghiệp phát triển. Kinh nghiệm phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao của Hàn Quốc tập chung chủ yếu vào việc nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua hai nội dung chính:
Thứ nhất: coi giáo dục đào tạo, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực chất lượng
cao là nhân tố quan trọng hàng đầu phát triển nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri
thức.
Từ bậc tiểu học, cũng giống như các nền kinh tế phát triển khác Hàn Quốc
đã hoàn thành phổ cập hoá tiểu học trước khi tiến hành CNH-HĐH. Ngay từ
những năm 60, tỷ lệ dân số biết chữ của Hàn Quốc đạt 80%, gần 90% dân số
trong độ tuổi tiểu học đã hoàn thành chương trình tiểu học. Năm 1970, tỷ lệ hoàn
thành chương trình tiểu học đã đạt 100%.
Đối với cấp học cao đẳng và đại học, Hàn Quốc cũng có tỷ lệ sinh viên
học đại học rất cao: 80% số học sinh phổ thông trung học đã học đại học (số liệu
1995).
25
Hàn Quốc chủ trương tuyển chọn bồi dưỡng người tài rất rõ ràng ngay từ
rất sớm chính sách này được thực hiện một cách có hệ thống. Các học sinh có
năng khiếu, có năng lực đặc biệt được tuyển chọn vào các lớp năng khiếu. Tốt
nghiệp phổ thông trung học, những sinh viên suất sắc được đưa ra nước ngoài
học tập, tiếp thu khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của những nước phát
triển. Chính nhờ vậy, số sinh viên du học nước ngoài của Hàn Quốc rất đông trên
thế giới chỉ xếp sau Trung Quốc. Lực lượng du học sinh có trình độ cao học đã
góp phần quan trọng nâng cao trình độ khoa học công nghệ Hàn Quốc. Ngay từ
những năm 80 Hàn Quốc đã hoàn thành giai đoạn mô phỏng tiếp thu công nghệ
tiên tiến của nước ngoài, chuyển sang giai đoạn sáng tạo công nghệ mới. Cùng
với đó, năng lực tư duy quản lý hiện đại của nước ngoài được áp dụng linh hoạt,
sáng tạo tại Hàn Quốc. Nhờ đó, nền kinh tế đã đạt được tốc độ tăng trưởng ổn
định 8% trong suốt thời gian 45 năm, cho tới cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
Châu Á 1997-1999.
Ngân sách nhà nước của Hàn Quốc dành cho giáo dục không ngừng tăng
lên qua các năm. Năm 1960, ngân sách dành cho giáo dục đào tạo chiếm tỷ lệ 9-
10%; thập niên 80 là17%; đến thâp niên 90 đã tăng lên mức 27-29% ngân sách
(tương đương 3.5-3.7%GDP).
Giáo dục phổ thông ở Hàn Quốc chủ yếu do các trường công lập giảng
dạy, có khoảng 70% số học sinh theo học các trường này. Các học sinh ở nông
thôn Hàn Quốc được chính phủ miễn học phí. Chính vì thế, tỷ lệ học sinh theo
học phổ thông trung học ngay từ những năm 1985 đã đạt hơn 90%. (So sánh với
Hồng Kông có cùng trình độ phát triển nhưng tỷ lệ học sinh đi học Trung học
phổ thông chỉ đạt 69%). Bù lại lĩnh vực giáo dục phổ thông khu vực tư nhân ở
Hàn Quốc rất tích cực tham gia vào giáo dục đại học và dạy nghề, tỷ trọng của
khu vực này có lúc chiếm tới 70-90%. Tuy vậy, bên cạnh những tích cực do khu
vực tư nhân mang lại cho giáo dục và dạy nghề ở Hàn Quốc thì còn có những
26
hạn chế khác mang lại: do tư nhân thống lĩnh giáo dục đại học nên mức học phí
rất cao vì vậy nhiều học sinh gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn ít có cơ hội
theo học đại học.
+ Việc sử dụng lao động có trình độ cao của Hàn Quốc
Hàn Quốc không áp dụng hình thức thuê lao động làm việc đến suốt đời
như ở Nhật Bản. Lao động làm việc không tốt sẽ bị sa thải ngay hoặc người làm
công cũng dễ dàng chuyển tới làm việc cho những công ty khác trả lương cao
hơn, điều kiện lao động tốt hơn. Điều này tạo ra một áp lực cạnh tranh nâng cao
trình độ rất cao giữa các nhân viên cũng như sự cạnh tranh giữa chính sách đãi
ngộ nhân tài của chủ sử dụng lao động. Ngoài ra, mức trả lương rất cao tại Hàn
Quốc đối với lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao cũng là một động
lực lớn thu hút nhân tài, khích lệ người lao động nâng cao trình độ. Mức tiền
lương của người có trình độ đại học cao gấp 3-4 lần lao động chỉ có trình độ
PTTH và mức tiền lương còn tăng lên nhiều lần tuỳ theo sự thay đổi của bằng
cấp, trình độ chuyên môn…
Chính sách thu hút nhân tài từ nước ngoài trở về Hàn Quốc làm việc cũng
rất có hiệu quả. Ngay từ năm 1968 Hàn Quốc đã bắt đầu thực hiện chính sách:
“kế hoạch hoá đưa nhân tài về nước”, theo đó có rất nhiều ưu đãi như: nhà ở,
môi trường làm việc hiện đại, trả lương cao… Mức lương mà Hàn Quốc trả cho
lao động có trình độ cao từ các nước đang phát triển về làm việc có thể cao gấp
20-40 lần mức lương cũ. Thậm chí Hàn Quốc cũng đặt các văn phòng chuyên
trách tại nước ngoài, cử các đoàn công tác ra nước ngoài kêu gọi các tài năng
Hàn Quốc trở về nước.
Nhờ những chính sách đúng đắn, linh hoạt như vậy mặc dù là quốc gia
thiếu lao động, phải nhập khẩu lao động nhưng nguồn nhân lực của Hàn Quốc lại
có trình độ tri thức cao, đội ngũ kỹ sư và công nhân kỹ thuật đạt mức độ đẳng
cấp thế giới.