Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Một số vấn đề về tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 139 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ





PHAN MINH TUẤN





Một số vấn đề về tập đoàn kinh tế nhà nước
ở Việt Nam hiện nay





LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ











HÀ NỘI, 2002



1
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
3
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về Tập đoàn kinh tế.
8
1.1. Khái niệm về Tập đoàn kinh tế.
8
1.2. Hình thức tổ chức và các đặc trưng chủ yếu của Tập đoàn kinh tế.
12
1.3. Nguồn gốc hình thành và vai trò Nhà nước trong sự hình thành và phát triển
Tập đoàn kinh tế.

26
1.4. Vai trò và xu hướng phát triển của Tập đoàn kinh tế.
36
1.5. Tham khảo sự hình thành và hoạt động của Tập đoàn kinh tế ở một số nước
trên thế giới.

40
Chương 2: Thực trạng của các Tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam
53

2.1. Chủ trương và quá trình hình thành Tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam.
53
2.2. Tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam.
57
2.3. Thực trạng hoạt động của các Tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam.
64
2.4. Đánh giá một số thành tựu và hạn chế.
75
Chương 3: Quan điểm, nguyên tắc và giải pháp phát triển Tập đoàn kinh tế ở
Việt Nam.

86
3.1. Quan điểm, chủ trương về sự cần thiết xây dựng, phát triển Tập đoàn kinh tế.
86
3.2. Những nguyên tắc và phướng xây dựng và phát triển Tập đoàn kinh tế ở Việt
Nam.

95
3.3. Những giải pháp cơ bản xây dựng và phát triển các Tập đoàn kinh tế ở Việt
Nam.

102
KẾT LUẬN
119

2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. CNH : Công nghiệp hoá.
2. CNTB : Chủ nghĩa tư bản.

3. DN : Doanh nghiệp.
4. DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước.
5. DNTV : Doanh nghiệp thành viên.
6. FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
7. GDP : Tổng sản phẩm quốc nội.
8. HĐH : Hiện đại hoá.
9. LHXN : LHXN.
10. MB : Miền Bắc.
11. MN : Miền Nam.
12. MNCs : Các công ty đa quốc gia.
13. NIEs : Các nền kinh tế công nghiệp mới.
14. TBCN : Tư bản chủ nghĩa.
15. TCH : Toàn cầu hoá.
16. TCT : Tổng công ty.
17. TĐDN : Tập đoàn doanh nghiệp.
18. TĐKD : Tập đoàn kinh doanh.
19. TĐKT : Tập đoàn kinh tế.
20. TNCs : Các công ty xuyên quốc gia.
21. VN : Việt Nam.
22. XHCN : Xã hội chủ nghĩa.


3
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Tập đoàn hoá và xuyên quốc gia hoá các hoạt động kinh tế là một trong
những đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế trong thế kỷ XX và đầu
thế kỷ XXI.
Sự phát triển nhanh chóng, sôi động và tồn tại dưới nhiều hình thức khác

nhau của các công ty xuyên quốc gia (TransNationlCoporations - TNCs) như:
Tập đoàn sản xuất (Thái Lan); CheeBol (Hàn Quốc) thời gian qua không
những mang đậm nét đặc trưng của thời đại làm tăng nhanh qúa trình toàn cầu
hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế giới, mà còn phản ánh trình độ tăng nhanh của
sản xuất kinh doanh, khả năng kinh doanh xuất khẩu và đầu tư, mở rộng thương
mại quốc tế, làm cho nền kinh tế quốc gia thích ứng với sự phát triển của sức sản
xuất xã hội.
Trong xu thế hội nhập và phát triển, đổi mới để đứng vững và từng bước
thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Việt Nam muốn tham gia vào
hoạt động hợp tác quốc tế ngày càng sâu, rộng, tất yếu và cần thiết phải xây
dựng các Tập đoàn kinh tế mạnh và tiến tới thành lập TNCs của mình.
Quá trình thành lập các Tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam được đánh
dấu bằng Quyết định 91/TTg ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là
một bộ phận quan trọng của quá trình đổi mới, tổ chức và sắp xếp lại các doanh
nghiệp Nhà nước theo hướng hình thành các tổ chức kinh tế mạnh của Nhà nước.
Cho đến nay, mặc dù đạt được một số thành tựu nhất định như: hoàn
thành nghĩa vụ nộp ngân sách, ổn định việc làm cho người lao động, nâng cao
đời sống cán bộ công nhân viên, tích cực tham gia thực hiện các chính sách xã

4
hội Tuy nhiên, trên thực tế khách quan cần thấy rằng các TĐKT Nhà nước
chưa thực sự là một thực thể kinh tế thống nhất, chưa phát huy sức mạnh tổng
hợp toàn Tập đoàn, chưa khắc phục tình trạng rời rạc của các doanh nghiệp
thành viên bằng cơ chế, tổ chức và điều hành. Vì vậy việc thành lập các TĐKT
Nhà nước chưa đạt mục tiêu đề ra là tạo sự liên kết kinh tế, gắn bó lợi ích và thị
trường, là trụ cột đồng thời tạo “quả đấm thép” làm đối trọng trong quan hệ kinh
tế quốc tế.
Việc xây dựng và phát triển các TĐKT Nhà nước là một lĩnh vực mới mẻ
đối với Việt Nam cả trên giác độ lý luận và thực tiễn. Và hướng đi nào cho các
Tổng công ty theo mô hình TĐKT trong những năm tới để nó thực sự giữ vững

những mục tiêu và nhiệm vụ kinh tế đề ra? Đó thực sự là một câu hỏi lớn cho tất
cả những ai quan tâm đến sự phát triển mô hình TĐKT ở Việt Nam.
Để góp phần nhỏ bé vào công việc to lớn và phức tạp khó khăn đó, tác giả
xin lựa chọn vấn đề: “Một số vấn đề về Tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam
hiện nay” làm Luận văn Thạc sỹ khoa học kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Xung quanh vấn đề về Tập đoàn kinh tế đã có một số công trình nghiên
cứu cả trong và ngoài nước. Trong đó có đề cập đến vai trò vị trí của các TĐKT
cũng như sự cần thiết và tác dụng của loại hình doanh nghiệp Tập đoàn, quy mô
lớn trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Có thể nêu một số tác phẩm nổi bật sau:
Nguyễn Thị Bích Loan, Những giải pháp cơ bản nhằm hình thành và phát
triển Tập đoàn kinh doanh Việt Nam hiện nay, Luận án TS khoa học kinh tế, Hà
Nội 1999.
PGS. TS Ngô Quang Minh (Chủ biên), Kinh tế Nhà nước và qúa trình đổi
mới doanh nghiệp Nhà nước, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001.

5
PGS. PTS Nguyễn Đình Phan (Chủ biên), Thành lập và quản lý các Tập
đoàn kinh doanh ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996.
Tuy nhiên những công trình đó hầu hết mới chỉ tập trung vào việc khái
quát những mô hình Tập đoàn đã có trong lịch sử hoặc đề cập đến một mặt cụ
thể của việc quản lý Tập đoàn, chứ chưa có công trình nào tiếp cận nghiên cứu
Tập đoàn từ các Tổng công ty theo mô hình TĐKT ở Việt Nam. Từ đó làm nổi
bật các đặc trưng của TĐKT và vạch rõ hướng đi cho các TĐKT trong những
năm tới. Vì vậy đề tài: “Một số vấn đề về Tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam
hiện nay” là cần thiết và có ý nghĩa.
Đề tài có tiếp thu, kế thừa những kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học trong và ngoài nước có liên quan, nhưng nội dung có tính chất độc lập.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu.

Dựa trên những luận cứ khoa học ở trong nước, ngoài nước và quan điểm
của Đảng ta về TĐKT, đề tài góp phần phác thảo những đặc trưng cơ bản của mô
hình TĐKT ở Việt Nam, thực trạng và xu hướng phát triển của chúng, từ đó đề
xuất một số giải pháp chủ yếu để xây dựng, hoàn thiện và định hình một xu
hướng phát triển có tính quy luật của các TĐKT ở Việt Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt được những mục đích trên, đề tài thực hiện những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về sự hình thành và phát
triển TĐKT.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của các TĐKT Nhà nước ở Việt
Nam.

6
- Luận chứng những phương hướng, quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm
củng cố, tổ chức lại các TĐKT ở Việt Nam trong thời đại toàn cầu hoá hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Các vấn đề lý luận và thực tiễn của
sự hình thành, phát triển TĐKT và một số vấn đề đặt ra cho sự hình thành và
phát triển TĐKT ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Trên thực tế, có thể có nhiều loại hình
tổ chức kinh doanh, Tổng công ty phát triển theo hướng TĐKT, song, các TĐKT
được đề cập trong luận văn này là các TĐKT Nhà nước (các Tổng công ty Nhà
nước được thành lập theo Quyết định 91/TTg hay còn gọi tắt là Tổng công ty
91). Tuy nhiên, do mối quan hệ biện chứng của các quan hệ kinh tế nên trong
luận văn này cũng đề cập ở một mức độ nhất định một số Tổng công ty được
thành lập theo quyết định 90/TTg (gọi tắt là Tổng công ty 90).
Đề tài thuộc chuyên ngành Kinh tế chính trị nên chỉ tập trung vào các xu
hướng vận động có tính quy luật, những quan điểm có tính chất định hướng phát

triển của các TĐKT.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Quá trình nghiên cứu, hoàn thành đề tài, các phương pháp đã được vận
dụng: Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phương pháp hệ
thống; phương pháp so sánh; phương pháp thống kê; kết hợp phương pháp phân
tích - tổng hợp với phương pháp quy nạp - diễn dịch; phương pháp lôgic với
phương pháp lịch sử
Đồng thời sử dụng có chọn lọc những tri thức của kinh tế học hiện đại để
làm nổi bật vấn đề nghiên cứu.

7
6. Những đóng góp mới của luận văn.
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng và phát
triển các TĐKT.
Phân tích thực trạng của các TĐKT Nhà nước và đưa ra những đánh giá
cần thiết làm cơ sở để sắp xếp tổ chức lại các TĐKT theo yêu cầu khách quan.
Những nhận định của tác giả về xu hướng vận động của các TĐKT ở Việt
Nam, từ đó đề xuất một số quan điểm, nguyên tắc và giải pháp nhằm dưa TĐKT
Nhà nước ở Việt Nam vào đúng quỹ đạo phát triển theo yêu cầu của quy luật
khách quan.
7. Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về Tập đoàn kinh tế.
Chương 2: Thực trạng của các Tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm, nguyên tắc và giải pháp phát triển Tập đoàn kinh
tế ở Việt Nam.















8
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ

Trong thời đại mở rộng nhanh chóng của quá trình toàn cầu hoá kinh tế như
hiện nay, tất cả các quốc gia đều bị cuốn hút vào hệ thống phân công lao động
quốc tế. Việc tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh theo các chuẩn mực
quốc tế, đặc biệt tổ chức các công ty theo các mẫu hình có hiệu quả như kiểu
công ty mẹ - công ty con đang được cả giới lý luận và hoạt động thực tiễn quan
tâm. Để hiểu rõ hơn vấn đề này, sự phân tích được bắt đầu từ nhận diện chúng
qua khái niệm.
1.1. Khái niệm về Tập đoàn kinh tế.
TĐKT xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi CNTB chuyển từ
giai đoạn tự do cạnh tranh sang độc quyền. Cho đến nay, các TĐKT trên thế giới
tồn tại dưới nhiều hình thức kinh doanh theo kiểu các nhóm công ty xí nghiệp
lớn hoạt động trên phạm vi quốc gia hoặc xuyên quốc gia. Chúng là những công
ty mạnh về tài chính với doanh số hàng năm từ vài trăm triệu đến vài trăm tỷ

USD.
Các tập đoàn này có nhiều chi nhánh, gồm các công ty con, cháu, và có
thể hoạt động trong một hoặc nhiều lĩnh vực ngành nghề đa dạng. Tuỳ từng quốc
gia và giai đoạn lịch sử mà chúng được gọi bằng những tên khác nhau như:
Cartel, Syndicat, Trust, Consortium, Group, Cambinate, Holding company,
Concern, Conglomerate. Ở Hàn Quốc, người ta gọi chúng là các Chaebol, ở Nhật
Bản thường gọi là Zaibatsu hay Keiretsu; ở Trung Quốc gọi là các Tập đoàn
doanh nghiệp, ở Đài Loan lại gọi là Jituanque, vv

9
Từ đó khái niệm về TĐKT cho đến nay cũng còn tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau, dưới đây xin nêu một số quan điểm chủ yếu:
- Quan điểm thứ nhất: Theo một số nhà nghiên cứu kinh tế thì, “TĐKT
hay Tập đoàn kinh doanh (Group of Companies) là một tổ hợp các công ty độc
lập về mặt pháp lý nhưng tạo lập thành một tập đoàn gồm một công ty mẹ và
một hay nhiều công ty con hoặc chi nhánh góp vốn cổ phần, chịu sự kiểm soát
của công ty mẹ vì công ty mẹ chiếm hơn một phần hai vốn cổ phần” [51].
- Quan điểm thứ hai: TĐKT là một nhóm (tập đoàn) các công ty trong đó
có một công ty mẹ có quyền sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp các công ty trong
nhóm “trong cơ cấu nhóm như vậy, các công ty con có thể trở thành Holding
Company trong tập đoàn, có thể tự thực hiện các hoạt động, hoặc thông thường
hơn nó chỉ hoạt động như là phương tiện sở hữu cổ phần trong tập đoàn các công
ty, trong đó tập đoàn cũng như toàn bộ hoạt động đều có tính quốc tịch
(Nationality) vì nhiều mục đích khác nhau (như kiểm tra, giám sát của chính
phủ) và để đánh thuế theo những hoạt động mà chúng chịu trách nhiệm” [15,
20].
- Quan điểm thứ ba cho rằng: Tập đoàn là pháp nhân kinh tế do Nhà nước
thành lập gồm nhiều DNTV, có quan hệ với nhau về sản xuất kinh doanh, dịch
vụ và tài chính trên quy mô lớn [38].
- Quan điểm thứ tư: “ Tập đoàn là sự tập hợp tạm thời của các xí nghiệp

độc lập, các tổ chức và các chính phủ, hợp lại với nhau để tập trung các tài
nguyên và kỹ thuật của mình để đảm trách một công trình nhất định như một
chương trình xây dựng lớn hoặc sản xuất máy bay” [34].
- Quan điểm thứ năm: TĐKT là một thực thể kinh tế thực hiện sự liên kết
kinh tế giữa các thành viên là các DN có quan hệ với nhau về công nghệ và lợi

10
ích được gọi bằng các tên khác nhau như: Hiệp hội, LHXN, tổng công ty theo
mô hình tập đoàn, Tập đoàn kinh doanh, Tập đoàn kinh tế Nhà nước [33, 5].
- Quan điểm thứ sáu: Một số nhà kinh tế và một số DN ở nước ta quan
niệm như sau: “ Tập đoàn các DN - thường gọi là TĐKT hay TĐKD, là một
hình thức tổ chức kinh tế chỉ hình thành và tồn tại trong các nền kinh tế thị
trường. Nó là một loại hình tổ chức kinh tế cổ phần được hình thành trong quá
trình tạo liên kết, liên hợp hoá của nhiều công ty, xí nghiệp của nhiều chủ sở hữu
khác nhau, hoạt động kinh doanh chuyên ngành hoặc đa ngành, thực hiện tập
trung hoá tư bản, đẩy mạnh phân công chuyên môn hoá và đầu tư theo chiều sâu,
nhanh chóng đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh
tranh để giành lợi nhuận siêu ngạch từ lợi thế hoặc độc quyền” [37].
Từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, khi mô hình kế hoạch hoá tập trung
kiểu quan liêu bao cấp sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô (cũ), các nước XHCN đều
tiến hành đổi mới kinh tế theo hướng xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, hình thức kinh doanh kiểu Tập đoàn ra đời: "Đó là một kiểu liên
hợp các DN do một số pháp nhân thành lập và có cơ cấu tổ chức bao gồm một
công ty mẹ và các công ty con được thành lập trên cơ sở một DN lớn làm nòng
cốt và kết hợp một số DN khác có quan hệ góp vốn và quan hệ trong quá trình
sản xuất, kỹ thuật, hợp đồng, vv " [7].
Như vậy, cho đến nay, vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về TĐKT. Có
nhiều nguyên nhân, nhưng cơ bản là do có những sự khác nhau về phương thức
hình thành, nguyên tắc tổ chức, và tư cách pháp nhân của TĐKT. Có Tập đoàn
được thành lập trên cơ sở như một hình thức tổ chức kinh tế lỏng lẻo, các công ty

thành viên ký kết các thoả thuận liên kết kinh tế với nhau lập thành một tổ chức,
trong đó có một công ty mẹ chi phối chiến lược chung của Tập đoàn, nhưng các

11
thành viên vẫn giữ nguyên tính độc lập kinh doanh của mình; Có loại hình Tập
đoàn hình thành trên cơ sở sáp nhập thành một tổ chức thống nhất hoạt động
theo những nguyên tắc cứng như một pháp nhân kinh tế; Có loại hình Tập đoàn
hình thành trên cơ sở các thành viên thoả thuận thành lập một công ty tài chính
riêng, công ty này đóng vai trò như một công ty mẹ chỉ đạo, chi phối hoạt động
của các công ty thành viên. Về tư cách pháp nhân của Tập đoàn, có quan điểm
cho rằng, TĐKT là pháp nhân kinh tế do Nhà nước thành lập gồm nhiều đơn vị
thành viên, nhưng "ở nhiều nước, TĐKT không phải là một định chế pháp lý, tuy
nó bao gồm nhiều doanh nghiệp khác nhau, có mối quan hệ về khế ước với nhau,
hoạt động trong một hoặc nhiều ngành khác nhau, trên một hay nhiều nước. Điều
đó có nghĩa TĐKT là một cơ cấu tổ chức, một loại hình tổ chức kinh tế" [33].
Mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau, song, từ những quan điểm trên đây ta
có thể rút ra một số nét đặc trưng điển hình của TĐKT: Đó là một loại hình
doanh nghiệp có quy mô lớn, kinh doanh chuyên ngành hoặc đa ngành được hình
thành và phát triển trên cơ sở những liên kết của nhiều doanh nghiệp, hoạt động
trên phạm vi quốc gia hoặc xuyên quốc gia v.v
Tuy nhiên, mỗi quan điểm trên đây chỉ đề cập đến một hay một số mặt của
TĐKT, nó chưa phản ánh đầy đủ nội hàm TĐKT về cấu trúc tổ chức, quy mô,
phạm vi hoạt động, phương thức hoạt động nên chưa làm nổi bật các đặc trưng
điển hình của TĐKT . Từ phân tích trên có thể đi đến khái quát sau:
TĐKT là một tổ hợp các liên kết pháp nhân kinh doanh thông qua
nhiều mô hình và phương thức hoạt động khác nhau nhằm phát triển khoa
học công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, gia tăng lợi thế về tập trung
sản xuất và tính chất độc quyền trong khuôn khổ pháp luật. Nó hoạt động ở
một hay nhiều ngành khác nhau trong phạm vi một nước hoặc nhiều nước,


12
trong đó có "công ty mẹ" nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của các
"công ty con" về mặt tài chính và chiến lược phát triển.
Khái quát này đã phản ánh được những đặc trưng cơ bản của TĐKT: Về
quy mô, TĐKT phải là một tập hợp những công ty mạnh có vốn lớn, nhiều công
nhân, trình độ năng lực sản xuất kinh doanh cao; Về phạm vi hoạt động, nó có
thể là ở một nước (phạm vi quốc gia) hay vượt khỏi phạm vi một nước( xuyên
quốc gia - phạm vi quốc tế); Về chức năng ngành nghề, nó có thể kinh doanh
chuyên sâu một ngành hoặc đa ngành; Về cơ cấu tổ chức, TĐKT phải là một tổ
hợp bao gồm công ty mẹ và các công ty con, cháu, chi nhánh tồn tại dưới nhiều
hình thức khác nhau.
Ngày nay, dưới tác động mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật làm cho lực
lượng sản xuất biến đổi nhanh chóng, trình độ quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày
càng cao, nên ở các nước có nhiều con đường hình thành các TĐKT: có thể từ
các công ty tư bản độc quyền, công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc
các công ty thuộc sở hữu Nhà nước. Các TĐKT, từ chỗ làm chủ thị trường quốc
gia và khu vực đã vươn ra thị trường thế giới để hình thành các công ty xuyên
quốc gia, đó cũng là một xu thế phổ biến trong điều kiện quốc tế hoá đời sống
ngày càng được đẩy mạnh.
Các TĐKT mặc dù có những đặc thù do bối cảnh kinh tế và đặc điểm từng
quốc gia hay chế độ xã hội, song chúng vẫn có những đặc trưng chung mang
"dấu ấn của thời đại” nhất định.
1.2. Hình thức tổ chức và các đặc trƣng chủ yếu của TĐKT.
1.2.1. Hình thức tổ chức của TĐKT.
Hiện nay trên thế giới, các TĐKT phát triển hết sức đa dạng, phong phú,
việc xác định các hình thức tổ chức của TĐKT cũng dựa vào nhiều tiêu chí khác

13
nhau. Căn cứ vào phương thức hình thành và các nguyên tắc tổ chức có thể khái
quát thành 2 loại hình tổ chức cơ bản sau:

Hình thức thứ nhất: Bao gồm những TĐKT được thành lập và tổ chức
theo nguyên tắc "kết hợp chặt chẽ trong một tổ chức kinh tế" hay còn gọi là các
Tập đoàn "cứng". Trong các TĐKT dạng này, các công ty thành viên kết hợp
trong một tổ chức thống nhất, có mối liên kết chặt chẽ, tính độc lập của các
công ty thành viên bị giảm thiểu, chúng phụ thuộc và ràng buộc lẫn nhau trong
một thể thống nhất. Cơ sở kinh tế của mối liên hệ này là quyền sở hữu, giữa các
thành viên có sự nắm giữ cổ phiếu của nhau hoặc có một công ty mạnh nhất chi
phối cả Tập đoàn. Về mặt cấu trúc, có 3 dạng cơ bản:
Tập đoàn liên kết dọc, ở đó các công ty thành viên có liên hệ với nhau về
công nghệ và sử dụng sản phẩm đầu ra của nhau. Ví dụ một Tập đoàn gồm các
công ty: Khai khoáng, luyện kim, sản xuất cấu kiện kim loại, chế tạo máy v v
Tập đoàn liên kết theo chiều ngang, các công ty trong Tập đoàn có quan
hệ với nhau về sản phẩm hay dịch vụ bổ trợ cho nhau, các sản phẩm cho cùng
một nhóm khách hàng hoặc cùng nhóm mục tiêu sử dụng vv Chúng liên kết
thành một tổ hợp để tận dụng và tạo lợi thế cho nhau. Ví dụ: LG (Hàn Quốc) có
các công ty sản xuất máy tính, công ty sản xuất máy in, công ty sản xuất máy
photocoppy, thiết bị văn phòng, sản xuất giấy
Tập đoàn liên kết kiểu hạt nhân, các công ty trong Tập đoàn có sự liên kết
về công nghệ, thị trường vv nhưng xoay quanh một nhóm sản phẩm mũi nhọn,
ví dụ General Motor sản xuất nhiều lĩnh vực nhưng sản xuất ô tô là lĩnh vực hạt
nhân.
Tất nhiên, cần lưu ý rằng, do những tác động của môi trường kinh tế, xã
hội và những tiến bộ khoa học công nghệ nên việc phân định dạng thức các mối

14
liên kết và hình thức tổ chức như trên chỉ mang ý nghĩa tương đối, chúng có thể
chuyển hoá, biến đổi lẫn nhau và cũng có thể bao hàm lẫn nhau trong tiến trình
hoạt động tác nghiệp của mình.
Hình thức thứ hai: Là kiểu tổ chức Tập đoàn mà các thành viên có mối
quan hệ liên kết tương đối "lỏng lẻo" thông qua các thoả thuận hay các cam kết

hợp tác, những hiệp ước hay hợp đồng kinh tế tuân theo nguyên tắc "liên kết
kinh tế" hay còn gọi là TĐKT hình thành theo kiểu"liên kết mềm". Các công ty
thành viên ký hợp đồng thoả thuận với nhau về những nguyên tắc chung trong
hoạt động sản xuất kinh doanh như : Xác định quy mô sản xuất; hợp tác nghiên
cứu và trao đổi bằng phát minh sáng chế kỹ thuật; quy định giá cả; thị trường
tiêu thụ
Về tổ chức, thường có ban quản trị chung điều hành các hoạt động phối
hợp của Tập đoàn theo một đường lối chung thống nhất, nhưng các công ty
thành viên vẫn giữ nguyên tính độc lập về tổ chức sản xuất và thương mại của
mình.Về mặt lịch sử, hình thức liên kết này có từ rất sớm, từ khoảng thế kỷ
XIX.
1.2.2. Các đặc trưng chủ yếu của TĐKT.
1.2.2.1. Đặc trưng về quy mô của các TĐKT.
Một trong các đặc trưng căn bản của một TĐKT là quy mô lớn về vốn và
lao động. Để hình thành tập đoàn, vốn được tập trung huy động từ nhiều nguồn
khác nhau, tạo thuận lợi cho việc sử dụng, bảo toàn và phát triển nguồn vốn, đẩy
nhanh tích tụ và tập trung sản xuất, đồng thời nâng cao khả năng và vị thế của nó
trong các thương vụ cũng như trong việc chi phối và cạnh tranh trên thương
trường, do đó TĐKT thường có quy mô lớn và rất lớn. Mặt khác, ưu thế về tài
chính của tập đoàn còn được thể hiện rõ nét trong việc sử dụng nhiều loại tiền tệ

15
và nhiều loại hình thanh toán trong lưu thông, từ đó tạo nên một cơ chế vận hành
linh hoạt, mềm dẻo và thuận tiện trong việc quản lý tài chính.
Từ ưu thế rất lớn về vốn, tập đoàn có khả năng mở rộng nhanh chóng quy
mô sản xuất, kinh doanh, cải tiến công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản
phẩm, thoả mãn tối đa nhu cầu người tiêu dùng, do đó doanh thu của các tập
đoàn là cực lớn. (Xem phụ lục số 1).
Lực lượng lao động trong tập đoàn thường lớn về số lượng, mạnh về chất
lượng, được tuyển chọn và đào tạo chặt chẽ. Trong số 50 tập đoàn lớn nhất thế

giới 1997 về lao động (Theo Fortune August 3, 1998, F14) thì tập đoàn US
Postal service ( Mỹ) có số lao động được sử dụng lớn nhất là 890.301 người, tập
đoàn có số lượng lao động ít nhất là Philip Moris ( Mỹ) với 152.000 người. (Xem
phụ lục số 4).
Mặt khác cần thấy rõ trong tập đoàn lực lượng lao động không giới hạn ở
một nước, mà được tuyển dụng ở nhiều nước khác nhau, ở đâu có chi nhánh, thì
ở đó có công nhân bản địa được tuyển dụng. Do đó lao động trong tập đoàn là
một lực lượng lao động đặc trưng điển hình về đa quốc tịch và đa ngôn ngữ. Nói
cách khác, lao động trong tập đoàn có tính chất quốc tế hoá.
Đây cũng được coi là một ưu thế lớn giúp cho tập đoàn có thể ứng phó kịp
thời những tình huống bất thường có thể xẩy đến từ nhiều biến cố về chính trị,
quân sự hay kinh tế.
Từ các vấn đề trên, cho thấy đặc trưng nổi bật nhất của TĐKT là quy mô
rất lớn về vốn, và lao động. Đó cũng là những ưu thế nổi bật khẳng định vị thế
của TĐKT trên thương trường.
1.2.2.2. Đặc trưng về phạm vi hoạt động.

16
TĐKT có phạm vi hoạt động rất lớn, không chỉ trên phạm vi lãnh thổ quốc
gia mà còn ở khu vực và trên bình diện quốc tế.
Với qui mô rất lớn về vốn, lao động các tập đoàn đã hình thành mạng lưới
phân công nội bộ tập đoàn theo kiểu liên kết hỗn hợp, đồng thời do sự phát triển
của thông tin hiện đại và kỹ thuật vận tải làm cho phạm vi địa lý của phân công
nội bộ tập đoàn nhanh chóng được mở rộng. Dựa vào đặc điểm kỹ thuật của
mình, các TĐKT có thể sản xuất, tiêu thụ sản phẩm trên một không gian địa lý
rộng lớn theo một hệ thống. Từ đó có thể lợi dụng hiệu quả của tích tụ và tập
trung sản xuất, dựa vào ưu thế thị trường hoặc các yếu tố tài nguyên để bố trí
tách rời các khâu khác nhau của việc sản xuất thành phẩm. Khi việc phân công
nội bộ tập đoàn vượt khỏi phạm vi địa lý biên giới quốc gia thì các tập đoàn thực
hiện sự chiếm lĩnh thị trường quốc tế bằng cách cắm nhánh ở nước ngoài để tối

đa hoá lợi nhuận. Cho đến nay đại đa số các TĐKT của các nước trên thế giới
đều ít nhiều hoạt động dưới hình thức TNCs và MNCs.
Phạm vi hoạt động đa quốc gia cho phép tập đoàn có thể đồng thời phát
huy tối đa khả năng và đạt được nhiều mục tiêu như: sử dụng các lợi thế so sánh
ở từng khu vực, tránh (hoặc “lách”) được các hàng rào thuế quan, tìm được các
“kẽ hở thị trường”, chiếm lĩnh tối đa thị trường “ngách” , từ đó mở rộng, phát
triển thị phần tiêu thụ sản phẩm.
Vì vậy, ở hầu hết các tập đoàn luôn coi việc mở rộng phạm vi hoạt động là
một trong những mục tiêu hàng đầu của họ. Ví dụ: tập đoàn dầu lửa Anh - Hà lan
là Royal - Dutch Sell hiện nay có vốn đầu tư trong hơn 2000 công ty ở hơn 130
quốc gia, có 700.000 cổ đông ở khắp thế giới, liên doanh với hơn 1000 công ty
của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam [46].

17
Cùng với sự trưởng thành và phát triển nhanh chóng của các TĐKT, sự
cạnh tranh quốc tế ngày càng trở nên khốc liệt hơn. Trong điều kiện đó, các
TĐKT trên thế giới đã và đang điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh, từ
chỗ phân tán chuyển sang hợp tác, phân công quốc tế, liên kết ngang - dọc trong
một hệ thống phân công lao động chung làm cho cơ cấu tổ chức toàn cầu tương
ứng của tập đoàn ngày càng hoàn thiện. Trong chiến lược chiếm lĩnh và khai
thác thị trường quốc tế của các TĐKT, việc mở rộng quy mô bằng cắm nhánh,
mở rộng phạm vi hoạt động ở nhiều quốc gia trở thành giải pháp hữu hiệu để
tránh xu hướng giảm sút tỷ suất lợi nhuận đồng thời củng cố vị trí tập đoàn trên
trường quốc tế. Các TĐKT khổng lồ tạo ra mạng lưới dày đặc, lấy công ty mẹ
làm trung tâm, mở rộng ra khắp các hướng tạo ra hàng trăm ngàn công ty chi
nhánh ở khắp các nước trên thế giới.
1.2.2.3. Đặc trưng về chức năng ngành nghề.
TĐKT thường hoạt động sản xuất kinh doanh đa ngành hoặc phát triển
dần từ đơn ngành đến đa ngành, nhưng có thể thấy rõ mỗi tập đoàn đều có định
hướng chủ đạo vào lĩnh vực đầu tư mũi nhọn với những sản phẩm đặc trưng của

tập đoàn. Ví dụ: nói đến ITT (Mỹ) là nói đến điện thoại; Huyndai (Hàn quốc) là
sản xuất ô tô; Sony (Nhật bản) là điện tử; Các sản phẩm của tập đoàn luôn đa
dạng, phong phú về chủng loại, thậm chí rất khác nhau: chẳng hạn sản xuất ô tô
là lĩnh vực chính của Huyndai, nhưng bên cạnh đó, nó còn sản xuất vô số các
loại sản phẩm bao gồm từ cái kim, sợi chỉ đến đóng tàu biển, công nghiệp vũ
trụ Vì vậy khả năng đáp ứng các nhu cầu sản phẩm cho thị trường có ưu thế
hơn hẳn các công ty riêng lẻ về mọi mặt, như: số lượng, chất lượng, mẫu mã,
chủng loại mặt hàng, thị hiếu tiêu dùng, không gian, thời gian,

18
Các TĐKT của Nhật Bản và của các nước NIEs chủ yếu khởi đầu từ lĩnh
vực thương mại hoặc ngoại thương. Chúng thường chuyên môn hoá trong các
hoạt động thương mại với một số sản phẩm nhất định. Trong quá trình hoạt động
và phát triển thì quy mô và cơ cấu kinh doanh dần được mở rộng, đa dạng hoá
các loại hình kinh doanh. Cùng với những đòi hỏi ngày càng cao của thị trường,
kinh nghiệm quản lý và nguồn vốn tích luỹ được từ các hoạt động sản xuất kinh
doanh, các TĐKT mở rộng sự hoạt động của mình sang các ngành nghề, lĩnh vực
sản xuất kinh doanh khác. Từ chỗ chỉ kinh doanh thương mại, chúng bổ sung dần
thêm các hoạt động dịch vụ đến các ngành sản xuất, tài chính, ngân hàng, nghiên
cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ. Đặc điểm điển hình đối với các nước này
là ngoại thương đóng vai trò rất quan trọng, do đó những tập đoàn lớn nhất của
họ hiện nay hầu hết là những TĐKT xuất nhập khẩu hoặc có liên quan để xuất
nhập khẩu. Ví dụ: Tập đoàn Sam Sung có 140 chi nhánh ở nước ngoài, kinh
doanh đa dạng, sản xuất trên 3000 mặt hàng khác nhau trong đó lĩnh vực điện tử
có uy tín hơn cả; Huyndai có 45 công ty, chi nhánh ở nước ngoài và thành công
điển hình là sản xuất ô tô; Daewo có 1000 chi nhánh ở nước ngoài, khởi đầu từ
chuyên sản xuất hàng dệt, rồi chuyển hướng sản xuất cả ô tô, máy móc, kỹ nghệ
đóng tàu [15, 61].
Đối với Hoa Kỳ và một số nước châu Âu, phương thức tác nghiệp của các
TĐKT lại bắt đầu từ các hoạt động sản xuất, rồi mở rộng hoạt động sang các lĩnh

vực khác như thương mại, vận tải, bảo hiểm, ngân hàng
Có nhiều lý do để các TĐKT chuyển từ kinh doanh đơn ngành sang kinh
doanh đa ngành, song chủ yếu là để hạn chế rủi ro, phân tán rủi ro, tối đa hoá lợi
nhuận. Sự bành trướng bằng hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực của các TĐKT sẽ
tận dụng tối đa cơ sở vật chất kỹ thuật và khả năng sản xuất kinh doanh, phát huy

19
lợi thế về vốn, khoa học, nguồn nhân lực, của tập đoàn để có lợi nhuận cao
nhất.
1.2.2.4. Đặc trưng về cấu trúc tổ chức quản lý.
a. Về cơ cấu tổ chức TĐKT.
Với đặc thù là một tổ hợp các công ty, bao gồm : công ty mẹ và các công
ty con, cháu, trong đó công ty mẹ sở hữu vốn đồng thời chi phối sự hoạt động
của các công ty con, công ty cháu về tài chính và chiến lược phát triển.
Từ đó có thể khẳng định: sở hữu vốn của các TĐKT là sở hữu hỗn hợp trong đó
quyền chi phối, khống chế về tài chính thuộc về công ty mẹ.

Cơ cấu tổ chức chung của TĐKT có thể khái quát qua sơ đồ sau:

SƠ ĐỒ 1: SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC CHUNG CỦA MÔ HÌNH TĐKT.

















20
Trong cơ cấu tổ chức này thì công ty con - Subsidiary (có thể ở trong nước
hoặc ở nước ngoài): Là những công ty trong tập đoàn có tư cách pháp nhân
riêng, trong đó một phần đáng kể vốn cổ phần thuộc quyền sở hữu công ty mẹ
[10]. Tuy nhiên, nó không được xác định chính xác về mặt định lượng, mà
thường được xác định từ hai khả năng: Công ty mẹ phải sở hữu ít nhất 50% cổ
phần có quyền bỏ phiếu trong công ty, tức là nắm quyền kiểm soát công ty con;
Hoặc là công ty mẹ phải có khả năng kiểm soát khống chế, mặc dù không nắm
đa phần sở hữu.
Chi nhánh - Branch (có một số ý kiến gọi là công ty chi nhánh): Khác với
công ty con ở chỗ, nó không phải là một pháp nhân độc lập, mà là một bộ phận
cấu thành của công ty mẹ hoặc công ty con. Tuy nhiên, chúng cũng giống như
công ty con là được lấy tư cách pháp nhân của tập đoàn để ký kết các hợp đồng
kinh doanh.
Từ cơ cấu tổ chức chung như vậy, ở mỗi TĐKT lại có những hình thức tổ
chức khác nhau tuỳ theo tính chất đặc thù của từng tập đoàn và tuỳ thuộc vào
điều kiện lịch sử mỗi nước. Có thể nêu khái quát một số mô hình tổ chức TĐKT
như sau:
Thứ nhất, mô hình tổ chức theo địa bàn hoạt động: Mô hình này chủ yếu
nhằm phát triển những đơn vị tự quản dựa trên cơ sở các chi nhánh ở các nơi.
Mỗi đơn vị tự quản có một người quản trị đơn vị, chịu trách nhiệm toàn quyền
quyết định về chiến lược và điều hành. Cấu trúc này vào khoảng những năm 20
của thế kỷ XX đã được Generel Motors và Dupont sử dụng lần đầu tiên, sau đó
được nhiều tập đoàn khác sử dụng rộng rãi.

Thứ hai, mô hình tổ chức theo đơn vị kinh doanh chiến lược: Ở mô hình
này, tập đoàn được tổ chức theo các nhóm thị trường - sản phẩm. Nó thích hợp

21
với các TĐKT có các hoạt động đa dạng. Hiện nay được một số tập đoàn áp
dụng khá thành công như: Generel Electric, Generel Foods, Armco Stell
Thứ ba, mô hình tổ chức theo khu vực: Cấu trúc khu vực là một cơ chế
phối hợp hữu hiệu để tập trung các đơn vị khác nhau của tập đoàn có sản phẩm
và dịch vụ liên quan với nhau. Kiểu cấu trúc này xuất hiện cuối thập kỷ 60 dựa
trên cơ sở tập hợp các đơn vị cùng một ngành hàng trong từng khu vực đặt dưới
sự điều hành của cùng một giám đốc khu vực (có nghĩa là đặt thêm một nấc quản
trị vào giữa giám đốc đơn vị với văn phòng tổng giám đốc).
Thứ tư, mô hình tổ chức theo ma trận: Mô hình này được áp dụng phổ
biến trong các Concern từ những năm 70 cho đến nay, nhiều nhất là các tập đoàn
của Đức. Cấu trúc ma trận có hai hệ thống chỉ huy cặp đôi: theo chức năng và
theo mặt hàng hoặc theo khu vực , trong đó bao trùm lên các ngành chức năng
là các nhà quản trị trung gian chịu trách nhiệm về những mặt hàng cụ thể, về một
dự án hoặc một chương trình của tập đoàn
Thứ năm, mô hình tổ chức đa dạng: Là loại tổ chức không giới hạn trong
việc sử dụng một loại cơ cấu riêng lẻ. Nhà quản trị có quyền tự do sử dụng và có
thể kết hợp tất cả các loại cấu trúc trên đây nhằm làm thích ứng các bộ phận khác
nhau của tổ chức với các điều kiện khác nhau của môi trường kinh doanh.
Đây là kiểu cấu trúc phức tạp nhưng khá uyển chuyển và mang lại hiệu
quả cao, đặc biệt là đối với các Tập đoàn lớn, dạng Conglomerate. Do vậy nó
thường được các TĐKT khổng lồ trên thế giới sử dụng.
b. Về dạng thức quản lý.
Trong những năm 90 của thế kỷ XX, với những biến đổi sâu sắc về mọi
mặt của tình hình kinh tế - chính trị - xã hội toàn thế giới, các TĐKT, đặc biệt là
các TĐKT xuyên quốc gia đã phát triển hết sức sôi động. Dựa trên qui mô và


22
mức độ tập trung hoá các nguồn lực trong một thực thể kinh doanh và sự phân
chia quyền lực, có thể chia thể chế tổ chức quản lý của TĐKT thành 3 loại: Thể
chế " trung tâm nhất nguyên", thẳng đứng kiểu "kim tự tháp"; Thể chế "đa trung
tâm", nằm ngang "kiểu màng lưới"; Thể chế " nhị nguyên".
Về thể chế "trung tâm nhất nguyên":
Đây là loại hình TĐKT tập trung cao độ quyền lực vào công ty mẹ. Nó là
một loại kết cấu hàm chứa nhiều tầng cấp, quản lý theo chiều thẳng đứng, tức là:
các thông tin từ dưới lên và từ trên xuống được truyền đi qua nhiều cấp trung
gian; mỗi một viên chức được đặt vào một bộ phận căn cứ vào chức năng công
việc làm hạt nhân ( người ta còn gọi là kết cấu tổ chức “kim tự tháp” ).
Ưu điểm: Loại mô hình này được sắp xếp vị trí làm việc rất chặt chẽ, song
việc quản lý theo tầng cấp chỉ đạt kết quả khi Tập đoàn phát triển ổn định và có
dự báo tốt. Mỗi người đều hiểu rõ chức trách của mình và có thể phát huy tối đa
kỹ năng chuyên môn trong phạm vi trách nhiệm, còn quyền quyết sách đều nằm
trong tay người đứng đầu cao nhất trên đỉnh “kim tự tháp”.
Nhược điểm : Giữa mục tiêu chung toàn bộ Tập đoàn và mục tiêu riêng
của từng bộ phận thường có mâu thuẫn, đồng thời các mục tiêu riêng cũng
thường không thống nhất với nhau; Tính chuẩn xác - hiệu quả - kịp thời của việc
truyền đạt thông tin bị ảnh hưởng, do có nhiều tầng cấp; Tính phối hợp thấp,
thiếu khả năng thích ứng và linh hoạt vì quyết sách và trách nhiệm được phân
định theo từng cấp riêng biệt
Về thể chế quản lý "kiểu màng lƣới":
Đây là kiểu tổ chức quản lý phân tán quyền lực quản lý vào các công ty
chi nhánh nước ngoài hoặc vào các ngành nghề khác nhau trong các bộ phận cấu
thành công ty, nó là hình thức “ đa trung tâm” ( hay nói cách khác là không có

23
trung tâm). Mỗi tầng quản lý trong màng lưới thậm chí mỗi một người quản lý
đều có thể là một trung tâm, mối liên hệ giữa chúng là mối liên hệ phức hợp giao

chéo kiểu “rẻ quạt”. Mục tiêu của nó không chỉ quản lý việc kinh doanh, tiêu thụ,
quản lý nhân viên mà còn cả việc thiết kế hình tượng, xây dựng những nét đặc
thù văn hoá của xí nghiệp. Mục tiêu tối thượng của thể chế “kiểu màng lưới” là
huy động có hiệu quả nhất tài năng và ưu thế của mỗi người trong Tập đoàn .
Các hình thức tồn tại chủ yếu của mô hình thể chế quản lý “kiểu màng
lưới”:
Một là, dạng thức quản lý theo "quá trình nằm ngang":
Nội dung cơ bản của kết cấu tổ chức quản lý theo quá trình nằm ngang là
việc tập hợp những viên chức có kỹ năng khác nhau vào một “tế bào sản xuất”
(Cell Manufactuaring) hay một “đội mặt ngang” (Flatform Teams) để họ thấy
được đầy đủ mục tiêu của một quá trình tác nghiệp. Từ đó, họ tự quản lý sản
xuất, phát huy cao độ tinh thần hợp tác và ưu thế của một tập thể hoàn chỉnh để
giành thắng lợi trong cạnh tranh. Dạng thức này được áp dụng phổ biến ở các
TĐKT của Mỹ như: Tập đoàn ITT, Greisler, General Electric,
Dạng thức này được xây dựng nhằm mục tiêu khắc phục những khuyết tật
của kết cấu kiểu kim tự tháp. Nó giảm bớt nhiều tầng cấp và chuyển từ việc lấy
chức năng công việc làm hạt nhân, sang lấy quá trình làm hạt nhân để tổ chức
nhân viên.
Hai là, dạng thức quản lý “kiểu tế bào sản xuất”:
Trong dạng thức này, công nhân được phân chia từng kíp, thường từ 2 đến
50 người, tập hợp quanh trang thiết bị họ cần đến. Một tế bào có thể chế tạo,
kiểm tra và thậm chí hoàn thành toàn bộ một sản phẩm. Mỗi công nhân có thể

24
làm nhiều việc và mỗi tế bào chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm. Tế bào
sản xuất là một quá trình hẹp, và thuần tuý tập trung trên sàn máy.
Mỗi tế bào làm một sản phẩm khác nhau. Nếu xảy ra rủi ro thì chỉ ảnh
hưởng đến tế bào “đương sự”. Thế mạnh của dạng thức quản lý này là tốc độ,
năng suất, tính linh hoạt và chất lượng cao, công nhân làm việc thoải mái và ý
thức đầy đủ quá trình sản xuất và vị trí công việc của mình. Kết quả là chất

lượng sản phẩm tốt hơn với sản lượng ngày càng lớn. Đây là dạng thức quản lý
điển hình của một số TĐKT lớn của Nhật Bản như: Sony, Mazda,
Về thể chế "nhị nguyên": Đây thực chất là thể chế quản lý kết hợp giữa
hai loại tập quyền và đa quyền. Việc kết hợp giữa 2 hình thức "kim tự tháp" và
"kiểu màng lưới" sẽ giúp các TĐKT phát huy tối đa ưu thế của mỗi loại kết cấu
tổ chức, giảm thiểu nhược điểm làm cho Tập đoàn thích ứng nhanh hơn với các
thách thức của thị trường.
Những năm cuối cùng của thế kỷ XX, hầu hết các TĐKT lớn, đặc biệt là
các TĐKT xuyên quốc gia có xu hướng phát triển mới trong thể chế quản lý. Rất
nhiều Tập đoàn đã nhận thức được rằng muốn chủ động trên thị trường quốc tế,
cần phải thoả mãn kịp thời những nhu cầu của người tiêu dùng. Do đó bắt buộc
họ phải hiện đại hoá các phương tiện thu thập thông tin, phân tích thị trường,
thoả mãn tối đa nhu cầu người tiêu dùng Đây cũng là biểu hiện sự phát triển
hơn nữa lý luận và thực tiễn kinh doanh mạng hoá của TĐKT. Một mục tiêu
chiến lược và quan trọng của các TĐKT lớn là xây dựng hệ thống quản lý sản
xuất tổng hợp bằng máy tính (Computer Integrted Manufacturing), tức là thực
hiện qua máy sự quản lý tổng hợp một loạt những hoạt động sản xuất : từ nghiệp
vụ kinh doanh đến cung cấp và triển khai những dự báo kỹ thuật, nguyên vật
liệu, đóng gói và bốc xếp vận chuyển sản phẩm quản lý tồn kho v.v Việc sử

×