Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Nâng cao chất lượng lao động kỹ thuật ở Hà Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 106 trang )



























ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ





ĐOÀN THỊ HÀ TRANG










NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG LAO ĐỘNG KỸ THUẬT
Ở HÀ NAM






LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ













Hà Nam - 2010

























ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ





ĐOÀN THỊ HÀ TRANG







NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG LAO ĐỘNG KỸ THUẬT
Ở HÀ NAM




Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ






Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHAN HUY ĐƯỜNG








Hà Nam - 2010
MỤC LỤC

Trang
DANH MỤC VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG LAO ĐỘNG KỸ THUẬT
1.1. Lao động và LĐKT.
1.1.1. Khái niệm lao dộng và LĐKT.
1.1.2. Chất lượng LĐKT và các tiêu chí đánh giá chất lượng LĐKT
1.1.3. Sự cần thiết nâng cao chất lượng LĐKT.
1.2. Điều kiện nâng cao chất lượng LĐKT.
1.2.1. Cơ chế chính sách nhà nước về nâng cao chất lượng LĐKT
1.2.2. Tổ chức quản lý và các điều kiện vật chất kinh tế cho đào tạo LĐKT
trong hệ thống giáo dục.
1.2.3. Môi trường điều kiện chuyển giao kỹ thuật công nghệ trong các đơn
vị kinh tế.

1.2.4. Các chính sách sử dụng LĐKT.
1.3. Kinh nghiệm một số địa phương về nâng cao chất lượng LĐKT và
bài học cho Hà Nam.
1.3.1. Kinh nghiệm của một số tỉnh về nâng cao chất lượng LĐKT
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Hà Nam về nâng cao chất lượng LĐKT
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG LAO ĐỘNG
KỸ THUẬT Ở HÀ NAM
2.1. Đặc điểm về lao động kỹ thuật ở tỉnh Hà Nam.
2.1.1. Tổng quan về kinh tế - xã hội ở Hà Nam.
2.1.2. Đặc điểm và cơ cấu LĐKT ở Hà Nam.
2.1.2.1. Đặc điểm LĐKT ở Hà Nam.
2.1.2.2. Cơ cấu LĐKT ở Hà Nam.
i
ii
iii
1


5
5
8
13
19
20

20

22
23


24
24
29


32
32
36
36
41
2.2. Tình hình nâng cao chất lượng LĐKT ở Hà Nam.
2.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo lao động kỹ thuật ở
Hà Nam.
2.2.2. Những thành tựu và hạn chế của việc nâng cao chất lượng LĐKT ở
Hà Nam thời gian qua.
2.2.2.1. Những thành tựu của việc nâng cao chất lượng LĐKT ở Hà
Nam
2.2.2.2. Những hạn chế của việc nâng cao chất lượng lao LĐKT ở Hà
Nam.
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc nâng cao chất lượng
LĐKT ở Hà Nam.
Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC NÂNG CAO
CHẤT LƢỢNG LAO ĐỘNG KỸ THUẬT Ở HÀ NAM TRONG GIAI
ĐOẠN TỚI
3.1. Quan điểm định hướng nâng cao chất lượng LĐKT ở Hà Nam.
3.1.1. Bối cảnh.
3.1.2. Quan điểm định hướng.
3.2. Các giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng LĐKT ở Hà Nam trong
thời gian tới.
3.2.1. Các giải pháp đào tạo LĐKT.

3.2.2. Các giải pháp về sử dụng LĐKT.
3.2.3. Các giải pháp khác.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
43

43

55

55

58

63



67
67
72

78
78
88
91
94
95





i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT








STT
Chữ viêt tắt
Nguyên nghĩa
1

Cao đẳng
2
CNKT
Công nhân kỹ thuật
3
CNH - HĐH
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
4
CMKT
Chuyên môn kỹ thuật
5
DN
Doanh nghiệp

6
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
7
ĐH
Đại học
8
GDP
Tổng sản phẩm
9
KH - CN
Khoa học – công nghệ
10
KH - KT
Khoa học - kỹ thuật
11
KT - XH
Kinh tế - xã hội
12
LĐKT
Lao động kỹ thuật
13
LĐPT
Lao động phổ thông
14
NSLĐ
Năng suất lao động
15
SXKD
Sản xuất kinh doanh

16
THCN
Trung học chuyên nghiệp
17
THCS
Trung học cơ sở
18
THPT
Trung học phổ thông
19
XHH
Xã hội hoá

ii
DANH MỤC CÁC BẢNG

STT
Số hiệu
Tên bảng
Trang
1
Bảng 1.1
Sử dụng lao động theo trình độ CMKT của các loại
hình DN
26
2
Bảng 2.1
Giá trị sản xuất theo giá thực tế phân theo khu vực kinh
tế của Hà Nam
43

3
Bảng 2.2
Tổng số học sinh – sinh viên tuyển sinh đào tạo nghề
46
4
Bảng 2.3
Số LĐKT trong các DN năm 2008 phân theo huyện,
thành phố thuộc tỉnh
48
5
Bảng 2.4
Tỷ lệ LĐKT có trình độ từ CNKT có bằng trở xuống
phân chia theo nhóm tuổi
49
6
Bảng 2.5
Lao động nông thôn chia theo trình độ chuyên môn
năm 2006
50
7
Bảng 2.6
Số lượng giáo viên dạy nghề trên địa bàn tỉnh Hà
Nam tính đến hết 5/2010
55

Bảng 2.7
Số học sinh tốt nghiệp đào tạo nghề của Hà Nam qua
các năm ở các loại trình độ
66
8

Bảng 2.8
Cơ cấu lao động theo trình độ CMKT và dự báo đến
năm 2015
67
9
Bảng 2.9
Cơ cấu lao động nông thôn chia theo trình độ chuyên
môn, 2006
70
10
Bảng 2.10
Nhu cầu đào tạo nghề của Hà Nam đến 2010
73
11
Bảng 3.1
Dự báo chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Hà Nam đến
năm 2010
83




iii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

STT
Số hiệu
Tên hình
Trang
1

Hình 2.1
Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh) theo thành phần
kinh tế
39
2
Hình 2.2
Giá trị cơ cấu sản xuất công nghiệp (giá thực tế) năm
2007
40
3
Hình 2.3
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ
40


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
LĐKT là một bộ phận cấu thành quan trọng của lực lượng lao động. Trong thời gian
qua chúng ta đã quan tâm đến việc phát triển bộ phận lao động này cả về số lượng và
chất lượng, nhưng trên thực tế sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu lao động vẫn
diễn ra, tình trạng thừa thầy thiếu thợ vẫn mang tính chất phổ biến trong nền kinh tế,
chất lượng của lực lượng LĐKT chưa thực sự cao, chưa đáp ứng được nhu cầu phát
triển của KH - KT nói riêng và nền kinh tế nói chung. Do đó, để tạo điều kiện phát triển
nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay chúng ta cần phải coi việc nâng cao chất lượng của
đội ngũ LĐKT là một trong những ưu tiên hàng đầu trong quá trình nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH - HĐH ở Việt Nam hiện nay.
LĐKT có vai trò rất quan trọng trong việc tăng NSLĐ xã hội và tăng trưởng kinh
tế, và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đất nước trong bối cảnh toàn cầu
hoá, hội nhập kinh tế. Những yêu cầu cơ bản của đào tạo LĐKT cho nền kinh tế quốc

dân, đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH, đó là mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo;
góp phần đổi mới cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế trong từng thời kỳ phát
triển và đào tạo phải gắn với sử dụng, gắn với những đòi hỏi của thị trường lao động;
chuyển đào tạo từ hướng cung sang hướng cầu của thị trường lao động, nhất là thị
trường lao động chất lượng cao.
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chứng minh, để đạt được sự tăng trưởng kinh
tế cao và ổn định phải thông qua việc nâng cao chất lượng đội ngũ LĐKT, nghĩa là nâng
cao chất lượng giáo dục – đào tạo. Chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên (học vấn,
kỹ năng nghề nghiệp, sức khoẻ) là tiền đề thành công của các nước công nghiệp mới ở
Châu Á như Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản… Trong bối
cảnh toàn cầu hoá, việc tiếp cận được các tiến bộ về KH - CN phụ thuộc chủ yếu vào
đội ngũ LĐKT, đội ngũ trí thức.
Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, nhưng chúng ta cũng đang phải đối mặt với
với vấn đề làm thế nào để có một đội ngũ LĐKT có trình độ để đáp ứng nhu cầu của
thời đại. Với xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế thì số lượng lao động trẻ của

2
Việt Nam không đáp ứng được đòi hỏi của thế giới do trình độ lao động thấp; lợi thế về
nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ đang dần không còn phù hợp nữa mà thay vào
đó là sự thiếu hụt đội ngũ lao động giỏi về chuyên môn, trình độ, năng động, sáng tạo,
áp dụng KH - KT thành thạo, có sức khoẻ tốt. Có được đội ngũ LĐKT lành nghề sẽ là
tâm điểm giúp phát triển các DN trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài, đem lại thu
nhập cao cho người lao động, thu ngoại tệ và phát triển đất nước, tạo mối quan hệ hữu
nghị với các nước trong khu vực và trên thế giới, khẳng định được tầm quan trọng và sự
đi lên của đất nước. Do đó, hiện nay nâng cao chất lượng lao động nói chung, LĐKT nói
riêng là vấn đề mà không chỉ các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, mà còn
cả các nhà đầu tư, cách DN quan tâm.
Hà Nam sau ngày tái lập tỉnh (01/01/1997), việc mở rộng và phát triển kinh tế được
đẩy mạnh nhằm góp phần thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH. Trong thời gian
vừa qua, các ngành và các lĩnh vực kinh tế của Hà Nam đã không ngừng được mở rộng,

xuất hiện nhiều ngành nghề mới. Do đó, nhu cầu về lao động có chất lượng cao, đặc biệt
là LĐKT ngày càng cao. Tuy nhiên, trên thực tế, Hà Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu
cầu ngày càng tăng về lực lượng LĐKT lành nghề cho nhu cầu mở rộng và phát triển
kinh tế của mình; điều đó đã gây ra không ít khó khăn và cản trở quá trình đầu tư, phát
triển kinh tế cho các nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư trên địa bàn tỉnh.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Nâng cao chất lượng LĐKT ở Hà Nam” làm
đề tài luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề về nguồn nhân lực trong những năm gần đây đã một số nhà nghiên cứu quan
tâm như:
- TS.Mạc Văn Tiến (Chủ nhiệm đề tài), TS.Phan Tùng Mậu, Th.S Bùi Tôn Hiến.
CN. Hoàng Kim Ngọc (2002), Hoàn thiện hệ thống cơ sở dạy nghề đáp ứng yêu vầu
phát triển nguồn LĐKT, Đề tài nhánh của đề tài cấp Nhà nước “Phát triển LĐKT ở Việt
Nam giai đoạn 2001 – 2010”, Hà Nội.
- PGS.TS.Đỗ Văn Cương, TS.Mạc Văn Tiến (Chủ biên), Nguyễn Hữu Dũng (2004),
Phát triển LĐKT ở Việt Nam – Lý luận và thực tiễn, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội.

3
- Đông Thị Hồng (2005), Đào tạo CNKT theo yêu cầu CNH - HĐH, Luận văn thạc
sĩ, ĐH Quốc gia Hà Nội.
- TS. Nguyễn Trần Dương (chủ nhiệm), TS. Trần Trí Luân, GS.TSKH. Lê Minh
Triết, PGS.TS.Đặng Văn Phan, PGS.TS. Phạm Văn Biên, TSKH. Trần Trọng Khuê, TS.
Trần Đình Thêm, KS.Vũ Qang Hải, TS. Vũ Huy Thuận, KS. Nguyễn Xích Hồng,
(2006), Báo cáo về Hiện trạng cung - cầu nguồn LĐKT thành phố Hồ Chí Minh và định
hướng giải pháp đào tạo, sử dụng cho giai đoạn tới 2010.
- TS.Mạc Văn Tiến (2006), Phát triển LĐKT ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu
hoá, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế (340), Tr 16 – 21.
- Đỗ Văn Đạo, Phát triển LĐKT trong nông nghiệp khi Việt Nam gia nhập WTO,
Tạp chí Lao động và Xã hội, số 303, 1/2007, tr.33-34.
- Triều Hải Quỳnh (2007), Một số vấn đề về công tác đào tạo nguồn nhân lực kỹ

thuật cao hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, số 16 (136) năm 2007.
Nhưng gần như chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu về vấn đề nâng cao chất lượng
lao động lỹ thuật của Hà Nam. Vì vậy, cho đến nay đề tài “ Nâng cao chất lượng LĐKT
ở Hà Nam” vẫn còn là mới mẻ, cần thiết và có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích.
Đánh giá thực trạng chất lượng LĐKT ở Hà Nam hiện nay. Từ đó đề xuất phương
hướng, quan điểm và các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng LĐKT ở Hà Nam trong
giai đoạn tới.
b. Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng và nâng cao chất lượng
LĐKT;
- Phân tích thực trạng nâng cao chất lượng LĐKT trong quá trình CNH - HĐH ở Hà
Nam trong những năm gần đây: đánh giá về chất lượng, tình hình đào tạo và sử dụng
LĐKT.

4
- Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng và sử dụng có hiệu quả
lực lượng LĐKT ở Hà Nam trong giai đoạn tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là nâng cao chất lượng LĐKT ở Hà Nam.
- Phạm vi nghiên cứu là chất lượng LĐKT ở Hà Nam trong giai đoạn 2005 – 2010
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Xuất phát từ những nguyên lý chung dưới góc độ kinh tế chính trị, luận văn sử
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn
sử dụng một số phương pháp khác như: Phân tích, tổng hợp, thống kế, so sánh … để
nghiên cứu và giải quyết các vấn đề đặt ra.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về nâng cao chất lượng LĐKT.

- Làm rõ thực trạng chất lượng LĐKT ở Hà Nam, trên cơ sở đó đề xuất phương
hướng và giải pháp nâng cao chất lượng LĐKT cho đất nước.
- Cung cấp cứ liệu khoa học để các cấp lãnh đạo tham khảo, hoạch định chính sách
để nâng cao chất lượng LĐKT phục vụ cho quá trình CNH - HĐH đất nước.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về nâng cao chất lượng LĐKT.
Chương 2: Thực trạng nâng cao chất lượng LĐKT ở Hà Nam hiện nay
Chương 3: Định hướng và các giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng LĐKT ở Hà
Nam.

5
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
LAO ĐỘNG KỸ THUẬT
1.1. Lao động và LĐKT.
1.1.1. Khái niệm lao dộng và LĐKT
a) Khái niệm lao động.
Lao động trong kinh tế học, được hiểu là một yếu tố sản xuất do con người tạo ra và
là một dịch vụ hay hàng hoá. Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con
người nhằm tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần xã hội. Do đó, lao động là
hoạt động quan trọng nhất của con người, là tiêu thức để phân biệt hoạt động của con
người với hoạt động theo bản năng của con vật.
Như vậy, lao động được hiểu ở hai mặt cơ bản, một mặt tạo ra của cải vật chất cho
xã hội, mặt khác còn cải tạo bản thân con người, phát triển con người cả về thể lực và trí
lực. Các Mác đã khẳng định: “Lao động trước hết là quá trình diễn ra sự tác động giữa
con người với con người và giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng
sự hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi
chất giữa họ và tự nhiên. Trong khi tác động vào tự nhiên ở bên ngoài thông qua sự vận
động đó và làm thay đổi tự nhiên, con người cũng đồng thời làm thay đổi bản tính của
chính nó”. [26, tr.230]

Cũng trong kinh tế học, những người trong lực lượng lao động là những người cung
cấp lao động. Thông thường, lực lượng lao động bao gồm tất cả những người đang ở
trong độ tuổi lao động (thường là trong khoảng từ 14 đến 16 tuổi) và chưa đến tuổi nghỉ
hưu (thường là trong khoảng từ 60 đến 65 tuổi) đang tham gia lao động. Những người
không được tính vào lực lượng lao động là những học sinh - sinh viên, người nghỉ hưu,
những người không có ý định tìm việc làm. Một phần trong lực lượng lao động đang tìm
kiếm việc làm nhưng không thể tìm được việc làm tạo thành đội quân thất nghiệp.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là tỷ lệ giữa lực lượng lao động và toàn bộ những
người trong độ tuổi lao động. Tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động là chìa khoá, nhân
tố quan trọng và có tính quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế.

6
Tổng hợp thể lực và trí lực của con người gọi là sức lao động. Con người tiêu dùng
sức lao động của mình trong quá trình lao động sản xuất gọi là lao động sản xuất. Như
vậy, sức lao động là khả năng của lao động, còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động
đó.
Vậy, lao động là quá trình con người dùng sức lao động tác động vào đối tượng lao
động để tạo ra của cải nuôi sống bản thân và góp phần phát triển xã hội. Lao động là
hoạt động diễn ra thường xuyên và không ngừng từ lúc con người xuất hiện. Trong quá
trình lao động, con người không ngừng tích luỹ kinh nghiệm sản xuất, làm giàu tri thức
của mình, hoàn thiện thể lực, trí lực. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao
là nhân tố quyết định sự tồn tại của xã hội loài người và sự phát triển của mỗi quốc gia.
Với những quan điểm đó, có thể khẳng định rằng, lao động là quyền lợi và nghĩa vụ
của mỗi con người trong mỗi quốc gia, dân tộc; Lao động đóng một vị trí đặc biệt quan
trọng trong tiến trình phát triển và đi lên của đất nước. Một đất nước có nguồn lao động
trẻ dồi dào, có kỹ năng và trình độ sẽ mang lại rất nhiều lợi thế trong quá trình mở cửa
hội nhập trong giai đoạn hiện nay. “Học vấn, kỹ năng, tay nghề là cái kho, lao động là
chìa khoá để mở cái kho đó”. Chính vì vậy mà chúng ta cần phải chú trọng hơn nữa tới
lao động, đặc biệt là LĐKT.
b) Khái niệm LĐKT.

Đứng trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế hiện nay thì nhu cầu tuyển dụng
người lao động là rất lớn. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại thực tế là: chúng
ta có lực lượng lao động dồi dào, lao động trẻ và có khả năng thích ứng với nhanh với
những ngành nghề mới nhưng chất lượng lao động còn thấp, chưa đáp ứng được nhu
cầu phát triển của đất nước trong hiện tại và những năm tiếp theo. Trình độ CMKT của
người lao động còn thấp và cơ cấu các loại trình độ cũng như cơ cấu ngành ngề chưa
hợp lý, có nhiều ngành nghề đào tạo thừa không sử dụng hết, song lại có nhiều ngành
nghề quá thiếu, đặc biệt là thiếu hụt đội ngũ CNKT rất cần cho nền kinh tế.
Thuật ngữ “LĐKT”, trên thực tế, được dùng khá phổ biến, với quan niệm rất khác
nhau:

7
Số liệu thống kê lao động - việc làm ở Việt Nam do Nxb Lao động – Xã hội phát
hành hàng năm trên cơ sở kết quả điều tra lao động - việc làm sử dụng khái niệm “Lao
động CMKT” để phân chia lao động theo trình độ CMKT, bao gồm không có CMKT,
sơ cấp/ học nghề trở lên. Theo khái niệm này, lao động CMKT là lao động được đào tạo
từ sơ cấp trở lên đến ĐH và sau ĐH, còn lại là lao động không có CMKT.
Đề án nghiên cứu tổng thể về giáo dục – đào tạo và phân tích nguồn nhân lực Việt
Nam (VIE/89/022) do UNESCO, UNDP, Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện đã đưa ra
khái niệm “lao động kỹ thuật” và cho rằng LĐKT là lao động qua đào tạo được cấp
bằng hoặc chứng chỉ của các bậc đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất.
Như vậy, theo khái niệm này, người lao động được xếp vào loại LĐKT nến hội tụ đủ hai
điều kiện:
- Được đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất.
- Được cấp bằng hoặc chứng chỉ của các bậc đào tạo.
LĐKT theo quan niệm này thực chất đồng nghĩa với khái niệm “Lao động qua đào
tạo” hay khái niệm “Lao động CMKT” được sử dụng trong thống kê nhà nước, nghĩa là
lao động được đào tạo và được cấp bằng hoặc chứng chỉ.
LĐKT theo dự án VIE/89/022 xét về tính chất lao động bao gồm hai loại:
- LĐKT mang tính thực hành.

- Lao động chuyên môn (quản lý, nghiên cứu và chuyên gia) mang tính chất hàn
lâm.
Như vậy, khái niệm LĐKT ở đây được hiểu theo hai cấp độ:
- Theo nghĩa rộng: LĐKT là loại lao động qua đào tạo, được cấp bằng và chứng chỉ
của các bậc đào tạo nói chung.
- Theo nghĩa hẹp: LĐKT là loại lao động được đào tạo, được cấp bằng hoặc chứng
chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và có kỹ
năng hành nghề để thực hiện các công việc có độ phức tạp với các công nghệ khác nhau,
phù hợp với ngành nghề ở các cấp trình độ khác nhau, trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng
hoá và dịch vụ phục vụ quốc kế dân sinh.

8
Như vậy, khái niệm LĐKT theo nghĩa hẹp, đó là loại lao động mang tính chất thực
hành. Trong điều kiện giới hạn, luận văn chỉ đề cập đến LĐKT theo nghĩa hẹp này.
Khái niệm LĐKT theo quan niệm mới phù hợp với chiến lược phát triển giáo dục
2001 – 2010 mà Chính phủ phê duyệt (Quyết định số 201/2001/QĐ – TTg ngày
28/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ), trong đó chỉ rõ cần hình thành hệ thống đào tạo
kỹ thuật thực hành đáp ứng nhu cầu phát triển KT - XH, trong đó chú trọng đào tạo
CNKT, kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ trình độ cao. Đồng thời, cũng phù hợp với
quy hoạch mạng lưới trường dạy nghề giai đoạn 2001 – 2010 mà Chính phủ đã phê
duyệt chuẩn (Quyết định số 48/2002/QĐ-TTg ngày 14/04/2002 của Thủ tướng Chính
phủ) và quy hoạch mạng lưới các trường ĐH và CĐ giai đoạn 2006 - 2020 mà chính
phủ đã duyệt (Quyết định 121/2007/QĐ-TTg ngày 27/7/2007 của Thủ tướng Chính
phủ), trong đó đều xác định, hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành theo 3 cấp
trình độ (bán lành nghề, lành nghề và trình độ cao), chú trọng đào tạo CNKT, kỹ thuật
viên và nhân viên nghiệp vụ trình độ cao.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, LĐKT được hiểu là lao động có
kiến thức, có kỹ năng, có trình độ đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư trong quá
trình hội nhập. LĐKT phải được thực hiện trên 3 mặt của chất lượng nhân lực: thể lực,
trí lực và phẩm chất.

1.1.2. Chất lượng LĐKT và các tiêu chí đánh giá chất lượng LĐKT.
a) Chất lượng LĐKT
*) Chất lượng:
Hiện nay, chất lượng là mối quan tâm hàng đầu của mọi tổ chức mà không phải chỉ
của riêng ngành nào. Chất lượng là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của một tổ
chức. Chất lượng là vấn đề rất trừu tượng, không ai nhìn thấy được và cảm nhận được
một cách trực tiếp bằng các giác quan của mình, không thể đo lường bằng các công cụ
đo lường thông thường. Tuy nhiên trên thực tế, ai cũng công nhận vai trò quan trọng của
chất lượng, nhưng đang có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về chất
lượng và quản lý chất lượng đào tạo nhân lực, trong đó có đào tạo LĐKT.

9
Theo từ điển Tiếng Việt phổ thông, chất lượng là tổng thể những tính chất, thuộc
tính cơ bản của sự vật, hiện tượng làm cho sự vật hiện tượng này phân biệt với các sự
vật, hiện tượng khác.
Chất lượng là tiềm năng của một sản phẩm hay dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu của
người sử dụng (tiêu chuẩn Pháp NFX50-109)
Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể đó
khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra hoặc những nhu cầu tiềm ẩn (TCVN ISO
8402)
Như vậy có thể thấy, chất lượng là sự thoả mãn của khách hàng. Chất lượng được
đảm bảo và đánh giá theo một quá trình, từ đầu vào - đến quá trình - đầu ra, cùng với sự
cải tiến chất lượng nhằm tối ưu hoá sự thoả mãn của khách hàng.
*) Chất lượng LĐKT
Chất lượng LĐKT là trạng thái nhất định của LĐKT, biểu hiện mối quan hệ giữa
các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của LĐKT. Nó là toàn bộ khả năng và hiệu
quả làm việc của LĐKT, có thể thoả mãn được nhu cầu của người sử dụng lao động
trong quá trình sản xuất. Chất lượng LĐKT không những là một trong những chỉ tiêu
phản ánh trình độ phát triển kinh tế, mà còn là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển về
mặt đời sống xã hội, bởi lẽ chất lượng LĐKT cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ hơn với tư

cách không chỉ là nguồn lực của sự phát triển mà còn thể hiện mức độ văn minh của một
xã hội nhất định.
Chất lượng LĐKT hiện nay được thể hiện qua một hệ thống các chỉ tiêu, trong đó có
các chỉ tiêu chủ yếu:
- Trình độ học vấn của người lao động;
- Trình độ tay nghề của người lao động;
- Sức khoẻ của người lao động;
- Trình độ ngoại ngữ của người lao động;
- Các yếu tố thuộc về thái độ, hành vi và đạo đức nghề nghiệp của người lao
động.

10
Như vậy, chất lượng LĐKT cuối cùng thể hiện ở năng lực hành nghề của người lao
động được đào tạo ở cấp trình độ tương ứng. Tức là thể hiện ở sự hiểu biết công việc,
nghề nghiệp, khả năng thực hiện công việc với độ phức tạp nhất định (hoạt động thực
tiễn) và kết quả thực hiện (sản phẩm đầu ra) với năng suất và kết quả đáp ứng các tiêu
chuẩn chất lượng đòi hỏi ở từng cấp trình độ tương đương.
b) Các tiêu chí đánh giá chất lượng LĐKT:
- Phát triển và tăng trưởng kinh tế là những mục tiêu quan trọng của chiến lược phát
triển KT - XH, đồng thời cũng là chỉ tiêu chủ yếu đánh giá trình độ phát triển của quốc
gia. Trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, nguồn nhân lực chất lượng cao,
nhất là lực lượng LĐKT là nguồn lực quan trọng, là yếu tố quyết định nhất của lực
lượng sản xuất, của nền KT - XH và sử dụng tiến bộ KH - CN mới vào sản xuất và do
đó là một trong những yếu tố quyết định nhất của tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững. Ngược lại, sự phát triển và tăng trưởng kinh tế là tiêu chí quan trọng để đánh giá
chất lượng của LĐKT. Chất lượng LĐKT thể hiện trước hết ở tiêu chí định tính, đó là:
+ Trình độ học vấn.
Trình độ học vấn là trình độ văn hoá của người lao động, chuẩn mực này nhằm xác
định khả năng tiếp thu những kiến thức cơ bản, thực hiện những công việc đơn giản để
duy trì cuộc sống. Trình độ học vấn được cung cấp qua hệ thống giáo dục chính quy và

không chính quy, qua quá trình học tập của mỗi cá nhân. Người lao động có trình độ học
vấn càng cao thì khả năng nhận thức, học hỏi, tiếp thu những kiến thức mới càng tốt; có
ý thức kỷ luật trong công việc. Thị trường lao động quốc tế ngày càng đòi hỏi người lao
động nói riêng và LĐKT nói chung phải có trình độ học vấn cao để sử dụng sáng tạo
dây truyền máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại cũng như hiểu và thực hiện tốt các yêu
cầu của người sử dụng lao động.
+ Trình độ tay nghề.
Trình độ tay nghề là những kiến thức, kỹ năng hay khả năng thành thạo một nghề,
một lĩnh vực của người lao động. Người có trình độ tay nghề là những người đã tham
gia các khoá đào tạo nghề tại các trường dạy nghề chuyên nghiệp hoặc các trung tâm
dạy nghề dưới các hình thức:

11
 Đào tạo nghề ngắn hạn: thời gian đào tạo là dưới 1 năm, chủ yếu là trang bị cho
người lao động những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp phổ thông.
 Đào tạo nghề dài hạn: thời gian đào tạo từ 1 đến 3 năm, kết thúc khoá học người lao
động được cấp bằng CNKT hoặc nhân viên nghiệp vụ.
 Đào tạo nghề theo môđun: giúp người lao động nói chung, LĐKT nói riêng có thể
chủ động tham gia các chương trình đào tạo nghề phù hợp với điều kiện, hoành cảnh
của mình, có thể vừa học vừa làm. Hình thức này rất phù hợp với các DN có nhu cầu
nâng cao tay nghề cho người lao động hoặc khi DN có sự thay đổi công nghệ sản
xuất.
Người lao động có tay nghề tốt, có khả năng thường được trọng dụng và có mức
lương cao hơn so với LĐPT, chưa được đào tạo nghề. Hơn nữa, các DN nhập khẩu lao
động luôn muốn tuyển chọn những lao động đã có nghề để giảm bớt chi phí đào tạo, tận
dụng tối đa năng lực sản xuất để thực hiện công việc.
+ Sức khoẻ
Sức khoẻ vừa là mục đích vừa là điều kiện để phát triển mọi mặt của con người. Sức
khoẻ là sự phát triển hài hoà của con người cả về thể chất và tinh thần. Sức khoẻ có thể
là sự cường tráng, là năng lực hoạt động chân tay. Sức khoẻ tinh thần là sự dẻo dai của

hoạt động thần kinh, là khả năng vận động của trí tuệ, biến tư duy thành hành động thực
tiễn. Một số chỉ tiêu cơ bản để đánh giá thực trạng sức khoẻ gồm: chiều cao, cân nặng,
tình hình bệnh tật, thể trạng và trạng thái tinh thần … Sức khoẻ là một trong những nhân
tố căn bản để đánh giá chất lượng nguồn LĐKT. LĐKT có sức khoẻ tốt có thể mang lại
NSLĐ cao nhờ sự bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung trong khi làm việc. Nếu sức
khoẻ kém sẽ làm giảm NSLĐ và ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm họ làm ra. Lực
lượng lao động nói chung và LĐKT nói riêng của Việt Nam thường bị hạn chế về sức
khoẻ do xuất phát từ những vùng nông thôn nghèo, cuộc sống còn nhiều thiếu thốn,
không được chăm sóc y tế đầy đủ nên thể lực yếu. trong khi đó, yêu cầu của quá trình
sản xuất công nghiệp với những dây truyền máy móc, thiết bị hiện đại đòi hỏi người lao
động phải có sức chịu đựng dẻo dai, luôn tỉnh táo, tinh thần sảng khoái để điều khiển

12
các máy móc, thiết bị đòi hỏi độ chính xác và đảm bảo an toàn, đáp ứng được quá trình
sản xuất liên tục.
+ Trình độ ngoại ngữ:
Trong điều kiện hội nhập toàn cầu và sự phát triển mạnh mẽ của KH-CN như hiện
nay thì khả năng về ngoại ngữ của LĐKT là một tiêu chí quan trọng để đánh giá khả
năng tiếp thu những công nghệ sản xuất mới, hiện đại. Khả năng về ngoại ngữ tốt giúp
cho người lao động có thể nghiên cứu các tài liệu nước ngoài và giao tiếp với các
chuyên gia kỹ thuật của nước ngoài nhờ đó mà tiếp thu tốt hơn các thành tựu mới của
nhân loại về KH - CN và các dây truyền sản xuất mới.
+ Các yếu tố thuộc về thái độ, hành vi và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.
Ngoài các yếu tố thể lực và trí tuệ, trong quá trình lao động đòi hỏi người lao động
phải có hàng loạt các phẩm chất như tính kỷ luật, tự giác, tinh thần hợp tác, phong cách
công nghiệp, linh hoạt, tinh thần trách nhiệm cao … Những yếu tố này chịu ảnh hưởng
của phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá của địa phương – nơi người lao động sinh
sống. Đồng thời, nó cũng được tạo ra từ quá trình giáo dục, quá trình công nghiệp hoá
và phát triển kinh tế thị trường.
Người lao động Việt Nam nói chung và LĐKT nói riêng có đức tính cần cù, chịu

khó, sáng tạo, thông minh nhưng trong đó không ít người có phong cách sống và làm
việc cá nhân, tự do, thiếu tinh thần hợp tác, tác phong sản xuất thủ công, nhỏ lẻ, ít có cơ
hội giao tiếp, tìm hiểu thế giới bên ngoài nên thiếu thông tin, ý thức chấp hành kỷ luật
và thực hiện hợp đồng lao động của một số lao động còn kém. Họ thường ứng xử theo
cảm tính, không có nhận thức về quan hệ chủ thợ, bỏ qua những quy định, luật lệ của
nơi mà họ đang làm việc nên dẫn tới những tranh chấp trong quan hệ lao động. Đây là
những nhược điểm chính của LĐKT Việt Nam trong tiến trình công nghiệp hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế.
Cùng với xu thế hội nhập, phát triển đòi hỏi LĐKT Việt Nam phải xoá bỏ tác phong
chậm chạp, lề mề, ý thức kỷ luật kém, vô tổ chức để thay bằng tác phong công nghiệp
(khẩn trương, đúng giờ …), ý thức kỷ luật, tự giác cao, có niềm say mê nghề nghiệp,
sáng tạo và năng động trong công việc.

13
- Tiêu chí định lượng về chất lượng LĐKT mặc là rất khó xác định đối với bậc Thạc
sỹ. Tuy nhiên, tác giả luận văn cho rằng có thể lấy số LĐKT được sử dụng trong các
ngành kinh tế và sự đóng góp của họ cho tăng trưởng kinh tế thông qua NSLĐ, thông
qua sự lao động hăng say nhiệt tình làm việc, có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật để
giảm chi phí, tăng lợi nhuận … nhất là sự hài lòng của các nhà tuyển dụng LĐKT vì đã
đem lại lợi ích thiết thực cho sự phát triển của đơn vị và của toàn bộ nền kinh tế nói
chung.
1.1.3. Sự cần thiết nâng cao chất lượng LĐKT
Nâng cao chất lượng LĐKT của một quốc gia là cần thiết. sự cần thiết đó là do sự
phát triển mạnh mẽ của KH - CN; của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và
đang diễn ra quá trình di chuyển mạnh các dòng vốn, KH - CN, nguồn lao động có chất
lượng giữa các nước, nhất là những nước có nền kinh tế đang phát triển. Ở những nước
này, một mặt tiếp nhận nguồn lao động có chất lượng (LĐKT) từ bên ngoài di chuyển
đến, để góp phần đẩy nhanh sự phát triển KT - XH đất nước. Mặt khác, nguồn LĐKT từ
bên ngoài di chuyển đến sẽ đem đến sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động quốc
gia. Sự cạnh tranh này, nếu lao động nội địa không được đào tạo nâng cao chất lượng thì

sẽ bị thua thiêt, mất việc làm, tác động không nhỏ đến KT - XH đất nước. Nền kinh tế
đang phát triển nếu phụ thuộc vào tiền vốn, lao động bên ngoài thì nến kinh tế đó sẽ
không phát triển bền vững, sớm muộn nền kinh tế đó không còn tính độc lập tự chủ
trong điều kiện thế giới phẳng. Vì vậy, để thích ứng hội nhập, thích ứng với sự phát
triển của KH - CN thế giới và nhất là để đáp ứng yêu cầu đặt ra của sự nghiệp phát triển
kinh tế đất nước, việc nâng cao chất lượng LĐKT - nguồn lực đóng vai trò hàng đầu của
sự phát triển nên kinh tế bền vững là tất yếu. Tính tất yếu này là do sự chi phối của một
số tác động sau:
a. Sự phát triển của KH – KT đặt ra yêu cầu nâng cao chất lượng LĐKT.
Bước vào thế kỷ XXI, cuộc cách mạng KH - CN tiếp tục phát triển với những bước
tiến nhảy vọt, trở thành động lực của sự phát triển KT - XH, kéo theo những biến đổi
đột biến, mạnh mẽ và sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của xã hội, đã đưa xã hội
loài người chuyển sang một thời đại văn minh mới với nền tảng của nó là phát triển nền
kinh tế tri thức. Cách mạng KH - CN đưa thế giới chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp

14
sang kỷ nguyên thông tin; ở đó, các ngành sản xuất và dịch vụ chủ yếu dựa vào tri thức
và công nghệ. Cách mạng KH - CN làm cho nhiều ngành, nghề cũ, truyền thống mất đi
và cũng xuất hiện nhiều ngành nghề mới; cơ cấu ngành nghề và tỉ trong cuả nó trong các
lĩnh vực dịch vụ ngày càng thay đổi nhanh chóng. Trước điều kiện đó, yêu cầu về nguồn
nhân lực ngày càng phải cao, trong đó LĐKT là lực lượng nòng cốt.
Nền kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển mới của lực lượng sản xuất loài người, từ
dựa chủ yếu vào nguồn nhân lực vật chất sang nguồn nhân lực trí tuệ (nguồn lực con
người) và làm thay đổi căn bản tính chất lao động. Tỷ trọng lao động trực tiếp giảm
mạnh, lao động gián tiếp và dịch vụ tăng nhanh, xuất hiện và gia tăng nhanh chóng công
nhân trí thức. Lúc này, đòi hòi người lao động không chỉ có kỹ năng nghề nghiệp ở trình
độ cao mà còn phải có nhiều kỹ năng khác nhau. Vì vậy, đào tạo LĐKT để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục nghề nghiệp. Ở Việt
Nam hiện nay, nếu không tập trung vào đào tạo và nâng cao chất lượng LĐKT sẽ dẫn
đến hậu quả nghiêm trọng là không đảm bảo được nhu cầu cung cấp LĐKT cho nền

kinh tế quốc dân.
b. Quá trình hội nhập đặt ra yêu cầu nâng cao chất lượng LĐKT.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan. Quá trình đó đã
tạo ra nhiều cơ hội phát triển cho các quốc gia nhưng cũng không ít thách thức. Toàn
cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ diễn ra sự cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia
ngày càng quyết liệt hơn, đó là quá trình vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Lúc này, ưu thế
cạnh tranh nghiêng về các nước có nền chính trị, xã hội an toàn và ổn định, môi trường
thể chế thuận lợi cho đầu tư và có nguồn nhân lực chất lượng cao, đảm bảo tăng NSLĐ,
nâng cao chất lượng hàng hoá và đổi mới công nghệ một cách nhanh chóng
Toàn cầu hoá có sự phát triển mạnh mẽ của các công nghệ toàn cầu như công nghệ
thông tin, viễn thông, vận tải, hàng không …; là sự mở rộng và phát triển mạnh mẽ của
các loại thị trường, sự phát triển mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia, các tổ chức
kinh tế khu vực và toàn cầu. Quá trình hội nhập đặt ra yêu cầu nâng cao năng lực cạnh
tranh của sản phẩm của DN và của quốc gia; đảm bảo LĐKT, nhất là lao động trình độ
cao, đáp ứng yêu cầu của công nghệ mới.

15
Trong nỗ lực phấn đấu nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của DN và của
quốc gia, nguồn nhân lực có vai trò quan trọng, là con đường cơ bản, giải pháp đột phá
trên cơ sở phát triển, nâng cao chất lượng lao động; nhanh chóng đào tạo LĐKT chất
lượng cao theo chuẩn mực quốc gia và quốc tế về trình độ lành nghề, khả năng tiếp thu
nhanh chóng, sáng tạo và làm chủ công nghệ, khả năng chuyển đổi nghề linh hoạt, tính
chịu trách nhiệm, khả năng nắm bắt và giao tiếp với khách hàng, khả năng làm việc theo
nhóm, làm việc trong môi trường văn hoá đa dân tộc và tôn giáo.
Việt Nam trong quá trình hội nhập có nhiều cơ hội trong việc tạo việc làm mới ở các
khu vực đầu tư nước ngoài với công nghệ cao và khoa học quản lý hiện đại. Ở khu vực
này nhu cầu sử dụng lao động ở các ngành, nghề mới và trình độ cao, nhất là CNKT,
công nhân lành nghề, kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ trình độ cao theo tiêu chuẩn
quốc tế ngày càng lớn. Hơn nữa, quá trình CNH - HĐH rút ngắn đòi hỏi chúng ta phải
ứng dụng có hiệu quả công nghệ nhập khẩu, đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở một số

ngành và lĩnh vực then chốt, mũi nhọn của nền kinh tế để tạo ra sự nhảy vọt về công
nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực
(công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học…) trên cơ sở hình
thành các khu công nghệ cao.
Như vậy nhu cầu đào tạo ứng dụng các công nghệ nhập khẩu và cung cấp cho các
khu công nghiệp cao sẽ ngày càng tăng, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị và đào tạo đội ngũ
LĐKT tương ứng.
Trong quá trình hội nhập, xuất khẩu lao động và chuyên gia cũng là hướng mũi
nhọn tạo việc làm và tham gia vào thị trường lao động quốc tế và khu vực của Việt
Nam; trong đó chủ yếu là xuất khẩu lao động có nghề và chuyên môn trình độ cao.
Như vậy, việc đào tạo nhằm nâng cao chất lượng lao động nói chung và LĐKT nói
riêng trong quá trình hội nhập là một yêu cầu cấp bách trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
c. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu LĐKT đặt ra yêu cầu nâng cao chất
lượng LĐKT.

16
Chiến lược phát triển KT - XH giai đoạn 2001 – 2010 nêu rõ: phát triển kinh tế,
CNH - HĐH là nhiệm vụ trung tâm. Vấn đề quan trọng nhất trong nội dung CNH -
HĐH là chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH -
HĐH tác động đến việc nâng cao chất lượng LĐKT trên các mặt sau:
- Chuyển quá trình sản xuất vào việc áp dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao,
làm thay đổi cơ cấu giá trị các ngành trong GDP. Chiến lược phát triển KT - XH 10 năm
2001 – 2010 đã xác định đến 2010 tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp là 16 – 17%,
công nghiệp – xây dựng là 40 – 41%, dịch vụ là 42 – 43%. Tương ứng cơ cấu lao động
là 50% - 23% - 27% và tỷ lệ qua đào tạo là 40%, trong đó đào tạo nghề là 26% [3,
tr.127]. Sự tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến cơ cấu lao động và đào tạo
LĐKT là sự tác động khách quan và ràng buộc lẫn nhau trong tổng thể kinh tế vĩ mô
không thể tách rời, vừa là điều kiện, vừa là tiền đề của nhau.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH theo các ngành, thực chất là

chuyển từ nền kinh tế truyền thống ở trình độ thấp, dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang
nền kinh tế hiện đại, trình độ cao, phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ. Quá trình
chuyển dịch này làm cho cơ cấu ngành nghề thay đổi tác động mạnh mẽ đến đào tạo
LĐKT cho phù hợp, số lao động đã được đào tạo theo ngành, nghề cũ cần được đào tạo
lại, đào tạo bổ sung kỹ năng theo yêu cầu của ngành nghề mới. Số lao động mới khi
tham gia đào tạo sẽ được tiếp cận ngay với ngành nghề mới mà thực tế lao động sản
xuất đã xuất hiện và đang phát triển.
Đào tạo LĐKT phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại trở thành nhiệm vụ ngày càng quan trọng, đòi hỏi phải đổi mới một cách
căn bản toàn bộ hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành đáp ứng được yêu cầu của thực tế
và cập nhật công nghệ mới luôn luôn thay đổi.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng kéo theo cơ cấu lại lực lượng lao động theo
vùng và đặt ra yêu cầu mới trong đào tạo LĐKT, nhất là LĐKT tại chỗ nhằm hạn chế
dòng di chuyển LĐKT giữa các vùng và chảy máu chất xám. Với việc Chính phủ quyết
định hình thành các vùng kinh tế trọng điểm và các khu kinh tế mở đều là các khu công
nghiệp tập trung, có đầu tư lớn, liên doanh, liên kết với nước ngoài, áp dụng công nghệ
cao, sản xuất sản phẩm hàng hoá chủ yếu cho xuất khẩu đã tác động đến đào tạo LĐKT

17
không chỉ về mặt nâng cao chất lượng đào tạo LĐKT ở trình độ cao đáp ứng yêu cầu
của công nghệ sản xuất hiện đại mà còn đặt ra yêu cầu phải quy hoạch lại mạng lưới các
cơ sở đào tạo, nhất là các trường trọng điểm có quy mô thích hợp ở các vùng đáp ứng
kịp thời, tại chỗ LĐKT phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế các vùng.
d. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế nhiều thành phần trong
đó mọi thành phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển và có cơ hội phát triển
nhưng kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; một nền kinh tế độc lập tự chủ nhưng
không phải là khép kín mà là nền kinh tế mở, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tham
gia vào sự phân công lao động quốc tế với vị thế và hiệu quả cạnh tranh ngày càng cao.
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã đặt ra yêu cầu về việc nâng cao chất

lượng LĐKT trên các mặt:
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải dựa trên sự
hình thành cơ bản về thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để tạo lập khung
khổ pháp lý và tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường, trong đó có thị trường lao
động. Lao động tham gia vào thị trường lao động với sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt.
Người lao động sẽ có nhiều cơ hội việc làm và thắng trong cạnh tranh là người có năng
lực nghề nghiệp và phẩm chất vượt trội phù hợp với yêu cầu của công việc mà người sử
dụng đang cần. Cơ chế cạnh tranh của thị trường lao động sẽ tạo ra động lực khuyến
khích người lao động học tập suốt đời, không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt: Sức
khoẻ, trình độ tay nghề, … Có thể nói, cơ chế thị trường tạo ra nhu cầu về đào tạo
LĐKT của chính người lao động. Đó là nhu cầu khách quan và không ngừng phát triển.
Tiền công, tiền lương trong kinh tế thị trường là giá cả của lao động, là sự biểu hiện
bằng tiền của giá trị lao động. Lao động càng có trình độ cao càng có khả năng nâng cao
NSLĐ, giảm chi phí lao động trong giá trị đơn vị sản phẩm, làm cho tỉ trọng chi phí tiền
lương trong giá trị gia tăng có xu hướng giảm và do đó càng được trả lương, trả công
cao hơn, khi mà sản phẩm có khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường. Hơn nữa, theo
quy luật tối đa hoá lợi nhuận, với một trình độ kỹ thuật và công nghệ nhất định, tổng cầu
lao động phụ thuộc vào độ co giãn của lao động với đầu ra và tương quan giữa chi phí

18
tiền lương với các yếu tố đầu vào khác. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại dựa trên
nền tảng kỹ thuật và công nghệ cao, xu hướng tiền lương tăng lên, dẫn đến việc lựa chọn
sử dụng nhiều tư bản hơn lao động, tức là tăng cầu LĐKT cao, giảm cầu về lao động
không có trình độ LĐKT. Đây cũng là yếu tố khách quan làm tăng cầu LĐKT trình độ
cao trong cơ chế thị trường, dẫn đến tăng nhu cầu đào tạo LĐKT trình độ ngày càng cao
để đáp ứng được yêu cầu của công nghệ mới - hiện đại và sự phát triển của các khu kinh
tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
e. Nhu cầu về LĐKT là cầu dẫn xuất.
Nhu cầu về LĐKT nói riêng và lao động nói chung là nhu cầu dẫn xuất, do nhu cầu
về sản xuất sản phẩm quyết định; nhu cầu về sản xuất sản phẩm lại xuất phát từ nhu cầu

tiêu dùng của con người. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, nhu cầu của
con người ngày càng phong phú và đa dạng, đòi hỏi số lượng sản phẩm sản xuất ngày
càng nhiều hơn, với chất lượng cao hơn. Do đó, nâng cao chất lượng LĐKT là điều kiện
cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất sản phẩm, nhờ đó
mà đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng cũng như của nền sản xuất
xã hội.
g. CNH – HĐH đặt ra yêu cầu nâng cao chất lượng LĐKT.
Quá trình CNH - HĐH đất nước là một xu thế tất yếu của lịch sử, là quá trình trạng
bị kỹ thuật công nghệ hiện đại cho nền kinh tế quốc dân. Qúa trình đó đòi hỏi lực lượng
lao động, nhất là LĐKT ngày càng phải có trình độ học vấn và tay nghề, sức khoẻ và
thái độ, tác phong, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để có thể tiếp cận và sử dụng được
công nghệ đó. Trong khi đó, nước ta tiến hành CNH - HĐH từ mặt bằng kinh tế thấp
kém với một đội ngũ lao động nói chung chất lượng thấp. Vì vậy, trong giai đoạn tới, để
tiến hành CNH-HĐH, một đòi hỏi cấp bách là phải nâng cao chất lượng lực lượng lao
động nói chung và LĐKT nói riêng.
Như vậy, nâng cao chất lượng LĐKT trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam là một
tất yếu khách quan, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi mới của quá trình CNH - HĐH trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý vĩ
mô của nhà nước hiện nay.

×