Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Rủi ro trong thanh toán quốc tế tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 118 trang )



117

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ


PHÙNG MẠNH HÙNG





RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI
NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI









NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS HÀ VĂN HỘI






Hà Nội - 2006



118

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ


PHÙNG MẠNH HÙNG





RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI
NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM

Chuyên ngành : Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế
Mã số : 60 31 07


LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI








NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS HÀ VĂN HỘI




Hà Nội – 2006



1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ
VÀ RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ

1.1. TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ
1.1.1. Cơ sở hình thành thanh toán quốc tế
Cùng với sự phát triển của lực lƣợng sản xuất, hoạt động thƣơng mại
đã có sự phát triển vƣợt bậc, quá trình trao đổi hàng hóa - dịch vụ đã vƣợt qua
biên giới của một nƣớc. Một thƣơng vụ thƣờng kết thúc bằng việc bên mua
thanh toán và nhận hàng, bên bán giao hàng và nhận tiền theo các điều kiện
quy định trong hợp đồng mua bán. Hai bên mua bán có thể thỏa thuận các
phƣơng thức thanh toán nhƣ ứng trƣớc, ghi sổ, nhờ thu hay tín dụng chứng
từ,…Thông qua đó ngƣời mua trả tiền, còn ngƣời bán thu tiền. Thông thƣờng,
ngƣời mua và ngƣời bán không thanh toán trực tiếp cho nhau mà thông qua sự
trợ giúp của ngân hàng, từ đó hình thành hoạt động thanh toán quốc tế.
Hoạt động thanh toán quốc tế bắt nguồn từ hoạt động ngoại thƣơng.

Mục đích chính của hoạt động thanh toán quốc tế là để hỗ trợ và phục vụ cho
hoạt động xuất nhập khẩu giữa các nƣớc diễn ra một cách trôi chảy và hiệu
quả. Hơn nữa, hoạt động ngoại thƣơng và hoạt động thanh toán quốc tế liên
quan và gắn liền với nhiều lĩnh vực hoạt động khác. Mỗi lĩnh vực hoạt động
là một mắt xích không thể thiếu trong một dây chuyền hoạt động kinh tế đối
ngoại của mỗi quốc gia nói riêng và trên toàn thế giới nói chung. Tuy nhiên,
thanh toán quốc tế là khâu quan trọng và là khâu quyết định đến hiệu quả và
tăng trƣởng ngoại thƣơng, bởi vì chỉ khi hoạt động thanh toán có an toàn và
trôi chảy thì ngƣời mua mới trả tiền và ngƣời bán mới đƣợc thu tiền. Đây
cũng chính là nền tảng cho hoạt động xuất nhập khẩu tồn tại và phát triển.
Tóm lại, cơ sở hình thành hoạt động thanh toán quốc tế là hoạt động
ngoại thƣơng. Ngày nay, nói đến hoạt động ngoại thƣơng là nói đến thanh
toán quốc tế và ngƣợc lại. Vì hoạt động thanh toán quốc tế đƣợc thực hiện


2
thông qua hệ thống ngân hàng, cho nên khi nói đến hoạt động thanh toán quốc
tế là nói đến hoạt động thanh toán của ngân hàng thƣơng mại. Không một
ngân hàng thƣơng mại nào lại không muốn phát triển các nghiệp vụ ngân
hàng quốc tế, trong đó lấy hoạt động thanh toán quốc tế làm trọng tâm phát
triển.
1.1.2. Khái niệm thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền
hƣởng lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế
giữa các tổ chức, cá nhân này với tổ chức, cá nhân nƣớc khác, hay giữa một
tổ chức quốc tế thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nƣớc liên
quan.
Thanh toán quốc tế phục vụ cho hai lĩnh vực hoạt động là kinh tế và
phi kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế giữa hai lĩnh vực hoạt động này thƣờng
giao thoa với nhau và không có ranh giới rõ rệt. Hơn nữa, do hoạt động thanh

toán quốc tế đƣợc hình thành trên cơ sở hoạt động ngoại thƣơng và phục vụ
chủ yếu cho hoạt động ngoại thƣơng. Chính vì vậy, trong các quy chế về
thanh toán và thực tế tại các ngân hàng thƣơng mại, ngƣời ta phân hoạt động
thanh toán quốc tế thành hai lĩnh vực là: Thanh toán trong ngoại thƣơng và
thanh toán phi ngoại thƣơng.
Thanh toán quốc tế trong ngoại thƣơng là việc thực hiện thanh toán
trên cơ sở hàng hóa xuất nhập khẩu và cung ứng các dịch vụ thƣơng mại cho
nƣớc ngoài theo giá cả thị trƣờng quốc tế. Cơ sở để các bên tiến hành mua
bán và thanh toán cho nhau là hợp đồng mua bán ngoại thƣơng.
Thanh toán phi ngoại thƣơng là việc thanh toán không liên quan đến
hàng hóa xuất nhập khẩu cũng nhƣ cung ứng lao vụ cho nƣớc ngoài, nghĩa là
thanh toán cho các hoạt động không mang tính thƣơng mại.
1.1.3. Vai trò của thanh toán quốc tế


3
Trƣớc xu thế nền kinh tế thế giới ngày càng đƣợc quốc tế hóa, các
quốc gia đang ra sức phát triển nền kinh tế thị trƣờng, mở cửa hợp tác và hội
nhập. Trong bối cảnh đó, thanh toán quốc tế nhƣ là chiếc cầu nối giữa nền
kinh tế trong nƣớc với nền kinh tế bên ngoài. Thanh toán quốc tế có tác dụng
bôi trơn và thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, đầu tƣ
nƣớc ngoài, thu hút kiều hối và các quan hệ tài chính quốc tế. Hoạt động
thanh toán quốc tế ngày càng đƣợc khẳng định trong hoạt động kinh tế quốc
dân nói chung và hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng. Đặc biệt, trong bối
cảnh hiện nay khi tất cả mỗi quốc gia đều đặt hoạt động kinh tế đối ngoại lên
hàng đầu, coi hoạt động kinh tế đối ngoại là con đƣờng tất yếu trong chiến
lƣợc phát triển kinh tế của mỗi nƣớc. Hoạt động thanh toán quốc tế có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Vai trò của thanh toán quốc
tế đƣợc thể hiện chủ yếu trên các mặt sau:
- Bôi trơn và thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của nền kinh tế nhƣ

một tổng thể.
- Bôi trơn và thúc đẩy hoạt động đầu tƣ nƣớc ngoài.
- Thúc đẩy và mở rộng các hoạt động dịch vụ khác nhƣ du lịch, hợp
tác quốc tế…
- Tăng cƣờng thu hút kiều hối và các nguồn lực tài chính khác.
- Thúc đẩy thị trƣờng tài chính quốc gia hội nhập quốc tế.
1.1.4. Ngân hàng thƣơng mại với thanh toán quốc tế
1.1.4.1. Vai trò của ngân hàng thƣơng mại với thanh toán quốc tế
Trong thƣơng mại quốc tế, không phải lúc nào các nhà nhập khẩu
cũng có thể thanh toán tiền hàng trực tiếp cho nhau mà thƣờng phải thông qua
ngân hàng thƣơng mại với mạng lƣới chi nhánh và hệ thống ngân hàng đại lý
rộng khắp toàn cầu. Khi thay mặt khách hàng thực hiện dịch vụ thanh toán
quốc tế, các ngân hàng trở thành cầu nối trung gian thanh toán giữa hai bên
mua và bán. Với vai trò trung gian thanh toán, các ngân hàng tiến hành thanh


4
toán theo yêu cầu của khách hàng, bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong
giao dịch thanh toán, tƣ vấn, hƣớng dẫn khách hàng những biện pháp kỹ thuật
nghiệp vụ thanh toán quốc tế nhằm hạn chế rủi ro, tạo sự tin tƣởng cho khách
hàng trong quan hệ giao dịch mua bán với nƣớc ngoài. Mặt khác, trong quá
trình thực hiện thanh toán quốc tế, khách hàng không đủ năng lực về vốn sẽ
cần đến sự tài trợ của ngân hàng, ngân hàng sẽ thực hiện tài trợ xuất nhập
khẩu cho khách hàng một cách chủ động và tích cực.
Nhìn chung, ngân hàng là ngƣời cung cấp hoàn hảo các dịch vụ kỹ
thuật và tài chính nhằm hỗ trợ cho khách hàng các dịch vụ thƣơng mại quốc
tế. Nếu không có hệ thống ngân hàng thƣơng mại hiện đại nhƣ ngày nay thì
hoạt động thƣơng mại quốc tế không những không phát triển mà còn rất khó
tồn tại theo đúng nghĩa của nó. Nhƣ vậy, hoạt động thƣơng mại quốc tế luôn
cần đến sự tham gia, hỗ trợ về kỹ thuật nghiệp vụ và tài chính của ngân hàng.

Ngân hàng cung cấp các phƣơng án, lựa chọn phƣơng thức thanh toán quốc
tế, tài trợ xuất nhập khẩu, đảm bảo an toàn và quyền lợi cho cả bên bán và bên
mua. Thông qua đó thúc đẩy hoạt động ngoại thƣơng phát triển và mở rộng
quan hệ với các quốc gia trên thế giới.
Tóm lại, trong dây chuyền hoạt động kinh tế đối ngoại của quốc gia,
hệ thống ngân hàng tham gia và đóng vai trò trung tâm trong hầu hết các giai
đoạn nhƣ: thanh toán quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ, bảo
lãnh ngân hàng trong ngoại thƣơng,…Thanh toán giữa các nƣớc sẽ đƣợc thực
hiện thông qua ngân hàng và vai trò của ngân hàng trong thanh toán quốc tế
chính là chất xúc tác, là cầu nối, là điều kiện đảm bảo an toàn và hiệu quả cho
các bên tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, đồng thời tài trợ cho các doanh
nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu.
1.1.4.2. Thanh toán quốc tế-hoạt động sinh lời của ngân hàng thƣơng mại
Trong thời gian gần đây, hoạt động thanh toán quốc tế tại các ngân
hàng thƣơng mại Việt Nam đều đƣợc quan tâm đầu tƣ phát triển hơn bao giờ


5
hết nhƣ đầu tƣ đào tạo cán bộ chuyên gia thanh toán quốc tế, đầu tƣ lớn cho
công nghệ thanh toán hiện đại, tổ chức lại mạng lƣới thanh toán quốc tế trong
hệ thống đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế…Chính vì vậy, dịch vụ thanh toán
quốc tế của các ngân hàng thƣơng mại đã thu đƣợc những kết quả rõ rệt. Tuy
nhiên, một thực tế mà hầu hết các ngân hàng thƣơng mại mới chỉ tập trung
chủ yếu vào khâu làm thế nào để mở rộng và hạn chế rủi ro trong hoạt động
thanh toán quốc tế mà chƣa chú trọng đến khâu phân tích, đánh giá hiệu quả
kinh tế của hoạt động này.
Ngày nay, hoạt động thanh toán quốc tế là dịch vụ trở nên quan trọng
đối với các ngân hàng thƣơng mại. Nó mang lại nguồn thu đáng kể và là một
mắt xích quan trọng chắp nối và thúc đẩy phát triển, mở rộng các hoạt động
kinh doanh khác của ngân hàng nhƣ kinh doanh ngoại tệ, tài trợ xuất nhập

khẩu, bảo lãnh ngân hàng trong ngoại thƣơng, tăng cƣờng nguồn vốn huy
động đặc biệt là vốn bằng ngoại tệ,…Việc hoàn thiện và phát triển hoạt động
thanh toán quốc tế có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng.
Nó không chỉ là một dịch vụ thanh toán thuần túy mà còn là khâu trung tâm
không thể thiếu trong dây chuyền hoạt động kinh doanh, bổ sung và hỗ trợ
cho các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng.
Ngày nay, do nghiệp vụ ngân hàng quốc tế phát triển mạnh mẽ, thuận
tiện, an toàn và hiệu quả nên hầu hết các hoạt động thanh toán quốc tế đều
diễn ra thông qua hệ thống ngân hàng. Đồng thời, hoạt động thanh toán quốc
tế đã phát triển theo một tập quán thống nhất trên quy mô toàn thế giới thông
qua các phƣơng thức thanh toán quốc tế khác nhau.
Thông qua cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế cho khách hàng, ngân
hàng thu một khoản phí để bù đắp chi phí của ngân hàng và tạo ra lợi nhuận
kinh doanh cần thiết. Tùy theo phƣơng thức thanh toán, môi trƣờng cạnh
tranh và độ tín nhiệm của khách hàng mà biểu phí và mức dịch vụ áp dụng có
thể là khác nhau cho các khách hàng khác nhau. Một thực tế là đối với các


6
ngân hàng thƣơng mại hiện đại thì thu nhập từ phí dịch vụ có xu hƣớng ngày
một tăng không những về số lƣợng mà còn về tỷ trọng. Hơn nữa, các ngân
hàng thƣơng mại ngày nay hoạt động đa năng, tạo ra một mắt xích không thể
thiếu trong đó nghiệp vụ thanh toán quốc tế đƣợc xác định là nghiệp vụ căn
bản, làm tiền đề cho các nghiệp vụ khác phát triển. Do đó, việc các ngân hàng
thƣơng mại chú trọng mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế là một tất yếu.
1.1.5. Hệ thống văn bản pháp lý điều chỉnh thanh toán quốc tế
Để điều chỉnh các quan hệ trong nƣớc, mỗi nƣớc phải xây dựng cho
mình hệ thống pháp luật riêng phù hợp với thể chế chính trị, xã hội, tập quán
và trình độ phát triển. Chính vì vậy, luật pháp giữa các nƣớc thƣờng là khác
nhau. Tuy nhiên, khi tham gia vào các hoạt động quốc tế, các nƣớc đều bình

đẳng với nhau nên không thể dùng luật pháp của một nƣớc nào đó áp đặt buộc
các nƣớc khác phải theo. Để giải quyết vấn đề mâu thuẫn luật pháp giữa các
nƣớc trong quan hệ quốc tế, ngƣời ta xây dựng một hệ thống pháp luật thống
nhất mang tính quốc tế để điều chỉnh các hoạt động quốc tế, trong đó có hoạt
động thanh toán quốc tế. Các văn bản pháp lý điều chỉnh thanh toán quốc tế
gồm:
 Quy tắc và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ
Quy tắc và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ (Uniform Customs
and Practice for Documentary Credit, gọi tắt là UCP) do Phòng thƣơng mại
quốc tế (International Chamber of Commerce - ICC) ban hành. Bản quy tắc
đầu tiên đƣợc soạn thảo năm 1933 và đƣợc tu chỉnh gần đây nhất là năm 1993
với sản phẩm UCP 500. UCP chỉ áp dụng trong thanh toán quốc tế, không áp
dụng trong thanh toán nội địa. UCP là văn kiện tập hợp toàn bộ những quy tắc
và định nghĩa thống nhất về tín dụng chứng từ, đƣợc hầu hết các quốc gia
(hơn 165 quốc gia) công nhận trong đó có Mỹ và Canada coi UCP là một bộ
luật cấu thành luật quốc gia.


7
Ngoại trừ Mỹ và Colombia, đối với các nƣớc còn lại nếu UCP có mâu
thuẫn với luật pháp quốc gia thì luật pháp quốc gia sẽ vƣợt lên trên về mặt
pháp lý và đƣợc áp dụng để giải quyết các tranh chấp.
Tại Việt Nam, tất cả các ngân hàng thƣơng mại đƣợc phép hoạt động
nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối khi tiến hành các giao dịch thanh toán theo
phƣơng thức tín dụng chứng từ, để có cam kết tuân thủ thực hiện văn bản
UCP hiện hành (Bản UCP 500).
 Quy tắc thống nhất về nhờ thu
Tƣơng tự nhƣ UCP, nhằm thống nhất trên phạm vi quốc tế về nghiệp
vụ nhờ thu trong thƣơng mại quốc tế, Phòng thƣơng mại quốc tế đã soạn thảo
và ấn hành văn bản “Quy tắc và thực hành thống nhất về nhờ thu” (Uniform

Rules for Collection – URC). Cho đến nay, bản quy tắc này đã đƣợc hơn 60
quốc gia tuân thủ thực hiện trong nghiệp vụ nhờ thu.
Bản URC đầu tiên ra đời năm 1956, sau đó đƣợc chỉnh sửa vào các
năm 1967 và 1978. Bản sửa đổi năm 1978 có hiệu lực từ ngày 1/1/1979 với
tên gọi “URC 1979 Revision – ICC Publication No. 322, gọi tắt là URC No.
322. Nhằm đáp ứng sự phát triển của thƣơng mại quốc tế trên cơ sở những ý
kiến đóng góp, nhận định từ các phòng thƣơng mại quốc gia, các ngân hàng
thƣơng mại, ICC đã tiến hành chỉnh sửa một số nội dung của URC No. 322
cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Từ đó ra đời ấn phẩm URC No. 522,
1995 Revision, có hiệu lực 1/1/1996, thay thế cho URC No. 322.
 Luật Hối phiếu
Trong thanh toán nói chung (nội địa và quốc tế), các phƣơng tiện đƣợc
sử dụng chủ yếu là Hối phiếu và Séc. Trong phạm vi quốc gia, hầu hết các
nƣớc đều có nguồn luật của riêng mình để điều chỉnh Hối phiếu và Séc. Do
vai trò ngày càng tăng của Hối phiếu trong thƣơng mại quốc tế đòi hỏi phải
xây dựng một luật quốc tế thống nhất.


8
Trên thế giới hiện nay có các nguồn luật điều chỉnh Hối phiếu nhƣ:
Công ƣớc Geneve năm 1930, Luật thống nhất về Hối phiếu (Uniform Law for
Bill of Lading of Exchange-ULB), Luật Hối phiếu của Anh năm 1882 (Bill of
Exchange Act 1882 - BEA), Công ƣớc Liên hợp quốc về Hối phiếu và lệnh
phiếu quốc tế (International Bill of Lading and International Promissory Note
– UN convention 1980).
 Luật điều chỉnh quan hệ về thanh toán Séc
Séc đƣợc coi là phƣơng tiện thanh toán nội địa khá phổ biến ở các
nƣớc. Nhìn chung, các quốc gia sử dụng Séc làm phƣơng tiện thanh toán quốc
tế đều áp dụng những qui định có liên quan tới việc lƣu thông Séc trong công
ƣớc Geneve 1931 (Geneve convention for Check 1931).

Ngoài công ƣớc Geneve 1931, hiện nay hệ thống về Séc của Anh –
Mỹ cũng đƣợc áp dụng trong thƣơng mại quốc tế.
 Quy tắc thống nhất về hoàn trả liên hàng
Mặc dù khối lƣợng hoàn trả giữa các ngân hàng đã tăng lên đáng kể,
nhƣng việc hoàn trả giữa các ngân hàng vẫn còn là vấn đề tùy thuộc vào tập
quán của địa phƣơng trong các khu vực tài chính trên thế giới. Để đáp ứng sự
cần thiết về tiêu chuẩn quốc tế thống nhất và nhằm hỗ trợ cho nền thƣơng mại
toàn cầu. Ủy ban Ngân hàng của ICC đã thành lập Ban soạn thảo vào năm
1993 nhằm soạn thảo “Quy tắc thống nhất về hoàn trả tiền hàng theo tín dụng
chứng từ”. Quy tắc này đã đƣợc ban hành và có hiệu lực từ 1/7/1996, với tên
gọi “Quy tắc thống nhất về hoàn trả liên hàng theo tín dụng chứng từ, Phòng
Thƣơng mại quốc tế, số 525, 1995 hiệu lực 01/07/1996.
1.1.6. Các phƣơng thức thanh toán quốc tế chủ yếu trong ngoại thƣơng
1.1.6.1. Phƣơng thức chuyển tiền (Remittance)
Phƣơng thức chuyển tiền là một phƣơng thức thanh toán quốc tế,
trong đó ngƣời nhập khẩu yêu cầu ngân hàng chuyển một số tiền cho ngƣời
xuất khẩu. Phƣơng thức này còn đƣợc gọi là phƣơng thức chuyển ngân.


9
Các hình thức chuyển tiền quốc tế gồm có:
- Hình thức điện báo (T/T- Telergaphic Transfer Remittance) tức
Ngân hàng chuyển tiền cho ngƣời hƣởng lợi ra lệnh bằng điện cho ngân hàng
đại lý của mình ở nƣớc ngoài để trả cho ngƣời xuất khẩu.
- Hình thức thƣ chuyển tiền (M/T- Mail Transfer) có nghĩa là Ngân
hàng chuyển tiền cho ngƣời hƣởng lợi ra lệnh bằng cách gửi thƣ cho ngân
hàng đại lý của mình ở nƣớc ngoài để trả cho ngƣời xuất khẩu.
Hai hình thức chuyển tiền nêu trên, mỗi hình thức đều có những ƣu và
nhƣợc điểm riêng. Với M/T chi phí thấp, thủ tục khá đơn giản nhƣng thời
gian thanh toán chậm nên ít đƣợc sử dụng. Với T/T chi phí cao hơn, tốc độ xử

lý nhanh hơn nhƣng lại không thể xác nhận đƣợc chữ ký vì thế xu thế chung
trên thế giới ngày nay hình thức chuyển tiền điện thông qua mạng SWIFT
ngày càng trở nên phổ biến và chiếm tỷ trọng lớn hơn so với chuyển tiền bằng
thƣ.
Tóm lại, phƣơng thức thanh toán chuyển tiền là phƣơng thức đơn giản
về thủ tục và thanh toán tƣơng đối nhanh. Tuy nhiên, trong phƣơng thức này
ngân hàng chỉ đóng vai trò trung gian thu hộ tiền một cách đơn thuần. Hơn
nữa, trong phƣơng thức này thƣờng thì ngƣời nhập khẩu sau khi nhận đƣợc
hàng rồi mới thanh toán tiền, do đó việc nhận đƣợc tiền hay không phụ thuộc
rất nhiều vào thiện chí và khả năng thanh toán của ngƣời nhập khẩu. Vì thế,
quyền lợi bên xuất khẩu có thể không đƣợc đảm bảo, khả năng rủi ro tƣơng
đối nhiều. Trong thực tiễn, phƣơng thức chuyển tiền thƣờng đƣợc sử dụng
trong những trƣờng hợp các bên có quan hệ mua bán tin tƣởng, tín nhiệm
nhau, thanh toán những hợp đồng có giá trị nhỏ, các khoản tiền ứng trƣớc, đặt
cọc tiền hàng, thanh toán tiền dịch vụ (phí vận tải, bảo hiểm,…) tiền hoa hồng
đại lý, các khoản tiền thừa, thiếu cần thanh toán bổ sung trong quá trình thực
hiện hợp đồng ngoại thƣơng.
1.1.6.2. Phƣơng thức nhờ thu (Collection of payment)


10
Nhờ thu là phƣơng thức thanh toán mà ngƣời bán, sau khi thực hiện
nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ cho khách hàng thì kí phát hối
phiếu đòi tiền ngƣời mua, rồi đến ngân hàng nhờ thu hộ số tiền mình ghi trên
hối phiếu đó.
Nhờ thu có hai loại: Nhờ thu hối phiếu phiếu trơn (Clean collection)
và nhờ thu kèm chứng từ (Documentary collection).
Nhờ thu phiếu trơn là phƣơng thức thanh toán mà ngƣời bán sau khi
giao hàng sau thì ký phát hối phiếu và nhờ ngân hàng thu hộ tiền của hối
phiếu ở ngƣời mua mà không kèm theo điều kiện gì cả. Cùng với việc gửi

hàng cho ngƣời mua, ngƣời bán gửi thẳng chứng từ cho ngƣời mua để ngƣời
mua đi nhận hàng.
Nhờ thu kèm chứng từ là trƣờng hợp ngƣời bán chuyển cho ngân hàng
hối phiếu cùng với một bộ chứng từ gửi hàng để nhờ thu tiền ở ngƣời mua với
điều kiện là ngƣời mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu (hối phiếu có
kỳ hạn trong trƣờng hợp bán chịu) thì ngân hàng mới giao toàn bộ chứng từ
để đi nhận hàng.
Nhờ thu kèm chứng từ đƣợc thực hiện theo hai dạng thức sau:
 Nhờ thu trả tiền đổi chứng từ (D/P-Documentary against
payment)
Phƣơng thức này đƣợc sử dụng trong trƣờng hợp mua hàng trả tiền
ngay. Ngƣời bán, sau khi giao hàng, lập đầy đủ các chứng từ cần thiết (theo
thoả thuận trong hợp đồng) mang đến ngân hàng nhờ thu hộ. Ngân hàng này
chọn đại lý ở nƣớc ngƣời mua để thu hộ số tiền đó. Ngân hàng đại lý báo cho
ngƣời mua biết và chỉ trao chứng từ cho ngƣời mua đi nhận hàng nếu ngƣời
mua đến trả tiền ngay hối phiếu đó (ngƣời nhập khẩu thanh toán hối phiếu để
nhận chứng từ sở hữu hàng hoá). Sau khi thu đƣợc tiền, ngân hàng đại lý
chuyển số tiền nhờ thu cho ngân hàng uỷ thác để giao cho ngƣời bán, đồng
thời thu phí thu hộ và các chi phí khác liên quan.


11
 Nhờ thu chấp nhận trả tiền đổi chứng từ (D/A-Documentary
against acceptance)
Phƣơng thức này đƣợc sử dụng trong trƣờng hợp bán hàng với điều
kiện cấp tín dụng cho ngƣời mua. Trình tự tiến hành và nội dung giống nhƣ ở
D/P, chỉ khác là ngƣời nhập khẩu chấp nhận trả tiền hối phiếu (có kì hạn) để
nhận chứng từ sở hữu hàng hoá để đi nhận hàng. Bằng việc chấp nhận hối
phiếu, ngƣời nhập khẩu công nhận trách nhiệm thanh toán vô điều kiện của
mình theo các điều khoản của hối phiếu. Hối phiếu có chữ ký chấp nhận của

ngƣời mua đƣợc ngân hàng hoàn chuyển cho ngƣời bán. Đến khi hối phiếu
đến hạn trả tiền, ngƣời mua phải trả tiền cho ngƣời hƣởng lợi của hối phiếu.
1.1.6.3. Phƣơng thức tín dụng chứng từ
Điều 2 Bản điều lệ giải thích: “Trong phạm vi của Bản điều lệ 500,
các thuật ngữ “Tín dụng chứng từ” và “Tín dụng dự phòng” nghĩa là bất cứ
thoả thuận đƣợc gọi hoặc mô tả nhƣ thế nào, theo đó ngân hàng (ngân hàng
phát hành) hành động đúng yêu cầu và theo chỉ thị của khách hàng (ngƣời yêu
cầu mở thƣ tín dụng) hoặc nhân danh cho đúng bản thân mình:
- Thanh toán cho hoặc theo lệnh của phía thứ ba (ngƣời hƣởng) hoặc
chấp nhận và thanh toán do ngƣời đƣợc hƣởng ký phát hoặc
- Uỷ quyền cho ngân hàng khác thanh toán và thanh toán hối phiếu,
đó hoặc cho phép ngân hàng khác chiết khấu chứng từ quy định trong thƣ tín
dụng với điều kiện các chứng từ phù hợp với tất cảc các điều khoản và điều
kiện của thƣ tín dụng”
Trong phƣơng thức thanh toán tín dụng chứng từ các bên tham gia có
quan hệ chặt chẽ với nhau: ngƣời yêu cầu mở L/C, ngƣời thụ hƣởng L/C và
ngân hàng.
- Ngƣời yêu cầu mở L/C ( Applicatn for the Credit): Còn gọi là ngƣời
mua (Buyer), ngƣời nhập khẩu(importer), ngƣời mở (opener), ngƣời trả tiền
(accountee), ngƣời chủ yếu (principal).


12
- Ngƣời mua: Khi hợp đồng mua bán áp dụng phƣơng thức thanh toán
tín dụng chứng từ thì việc ngƣời mua mở thƣ tín dụng là điều kiện tiên quyết
để ngƣời bán thực hiện hợp đồng.
- Ngân hàng phát hành (Issuing bank): Hay ngân hàng mở tín dụng
(openning bank) phát hành thƣ tín dụng theo yêu cầu của ngƣời xin mở tín
dụng (ngƣời mua). Ngân hàng mở thƣ tín dụng có nghĩa vụ căn cứ vào đơn
yêu cầu, mở thƣ tín dụng cho ngƣời bán và tìm cách thông báo việc mở thƣ

tín dụng này cho ngƣời bán biết. Ngân hàng mở thƣ tín dụng chịu trách nhiệm
thẩm tra các chứng từ do ngƣời bán xuất trình xem bề ngoài có phù hợp với
những điều kiện của thƣ tín dụng hay không. Nếu phù hợp thì ngân hàng phải
thanh toán tiền cho ngƣời bán và nhận chứng từ, nếu ngân hàng làm sai thì
ngân hàng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm.
- Ngân hàng thông báo (Advice bank) còn đƣợc gọi là ngân hàng giao
dịch (Correspondent Bank) hoặc ngân hàng đại lý đƣợc ngân hàng phát hành
yêu cầu thông báo cho ngƣời xuất khẩu về việc mở L/C .
- Ngân hàng xác nhận (thƣờng là ngân hàng thông báo) là ngân hàng
theo yêu cầu của ngân hàng mở thƣ tín dụng đứng ra xác nhận trả tiền cho
ngân hàng mở thƣ tín dụng.
- Ngân hàng đƣợc chỉ định thanh toán là ngân hàng với thoả thuận
trong thƣ tín dụng đƣợc uỷ quyền để thanh toán, tiến hành thanh toán và chấp
nhận hối phiếu. Trừ khi tín dụng nói rõ là chỉ có ngân hàng mở thƣ tín dụng
có quyền chỉ định thì ngân hàng mở mới chỉ định một ngân hàng khác.
- Ngân hàng thanh toán có thể là ngân hàng đã mở thƣ tín dụng hoặc
là một ngân hàng khác đƣợc ngân hàng mở thƣ tín dụng uỷ thác trả tiền cho
ngƣời bán. Nếu trả tiền tại nƣớc ngƣời bán thì ngân hàng trả tiền thƣờng là
ngân hàng thông báo. Khi nhận đƣợc các chứng từ do ngƣời xuất khẩu xuất
trình, ngân hàng kiểm tra nếu thấy phù hợp với các điều khoản và điều kiện
của thƣ tín dụng thì tiến hành thanh toán cho ngƣời xuất khẩu.


13
- Ngân hàng chiết khấu là ngân hàng đứng ra mua hối phiếu có kỳ hạn
chƣa đến hạn trả tiền do ngƣời bán cho ngân hàng trả tiền theo yêu cầu của
ngân hàng mở thƣ tín dụng. Việc mua lại này thƣờng đƣợc đảm bảo là có thể
truy đòi, nghĩa là ngân hàng mở không thể thanh toán cho ngân hàng chiết
khấu, ngân hàng chiết khấu sẽ thu lại tiền đã thanh toán cho ngƣời xuất khẩu.
- Ngƣời thụ hƣởng (Beneficiary) còn đƣợc gọi là ngƣời bán (Buyer),

ngƣời xuất khẩu (Exporter), ngƣời ký phát hối phiếu (Drawer) và L/C đƣợc
mở cho ngƣời này hƣởng.
- Ngƣời bán: Ngƣời bán chỉ giao hàng khi nào đƣợc biết ngƣời mua đã
mở thƣ tín dụng cam kết trả tiền cho mình. Ngƣời bán phải kiểm tra thƣ tín
dụng xem có đúng với nội dung của hợp đồng mua bán hay không, nếu sai
với hợp đồng mua bán hoặc có những điều kiện gì không rõ ràng, không có
lợi cho mình thì có quyền yêu cầu ngƣời mua sửa đổi hoặc bổ xung thƣ tín
dụng. Nội dung sửa đổi thƣ tín dụng phải đƣợc ngân hàng mở thƣ tín dụng
xác nhận thì mới có hiệu lực thanh toán.
Trong phƣơng thức L/C, quyền lợi của ngƣời xuất khẩu hay nhập khẩu
đều đƣợc đảm bảo hơn so với phƣơng thức nhờ thu.
 Đối với người xuất khẩu
Khả năng thanh toán cao hơn. Ngƣời trả tiền cho nhà xuất khẩu là
ngân hàng mở L/C. Ngân hàng không quan tâm đến tình trạng hàng hóa mà
căn cứ vào bộ chứng từ phù hợp về mặt hình thức với L/C và xuất trình trong
thời gian hiệu lực của L/C là ngân hàng sẽ trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền cho
ngƣời bán.
Khả năng gom hàng của ngƣời xuất khẩu cũng cao hơn. Thông thƣờng
trong mua bán hàng hóa quốc tế, ngƣời xuất khẩu không phải lúc nào cũng là
ngƣời sản xuất hàng hóa, nhiều khi họ chỉ là trung gian gom hàng từ ngƣời
cung cấp để bán cho ngƣời nhập khẩu. Họ thƣờng không trả tiền ngay cho nhà
cung cấp khi gom hàng mà đợi khi ngƣời nhập khẩu trả tiền cho mình thì mới


14
trả. Nếu sử dụng L/C thì nhà cung cấp chắc chắn đƣợc ngƣời xuất khẩu đảm
bảo thanh toán hơn.
Mặt khác trong phƣơng thức thanh toán tín dụng chứng từ, khả năng
vay vốn của ngƣời xuất khẩu theo L/C cũng cao hơn. Trong kinh doanh các
doanh nghiệp xuất khẩu thƣờng đi vay vốn từ các đối tác khác. Ngƣời cho vay

thấy rằng nếu nhà xuất khẩu sử dụng phƣơng thức L/C thì khả năng đƣợc
thanh toán cao hơn, do vậy khả năng trả tiền cho họ cao hơn nên họ sẵn sàng
cho vay.
 Đối với người nhập khẩu
Áp dụng phƣơng thức L/C, nhà nhập khẩu có thể tin tƣởng vào bộ
chứng từ hoàn hảo ít có sơ suất do ngân hàng kiểm tra hơn là khi tự mình
kiểm tra chứng từ. Mặt khác, dù ngân hàng có trả tiền cho nhà xuất khẩu
nhƣng nhà xuất khẩu vẫn kiểm tra bộ chứng từ một lần nữa, nếu thấy phù hợp
với L/C thì trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền, nếu thấy không phù hợp thì có
quyền từ chối thanh toán. Ngoài ra, khi sử dụng L/C, nhà nhập khẩu có thể
đƣợc ngân hàng ƣu đãi bằng cách cho vay tín dụng theo cách ký quỹ nhỏ hơn
100% trị giá L/C hoặc thanh toán cho nhà xuất khẩu trƣớc khi đòi tiền nhà
nhập khẩu.
Tuy nhiên, chính trong phƣơng thức L/C lại mang lại nhiều rủi ro cho
ngân hàng hơn so với phƣơng thức nhờ thu hay các phƣơng thức khác. Ngân
hàng có trách nhiệm kiểm tra bề ngoài của bộ chứng từ trong thời hạn quy
định do ngƣời xuất khẩu gửi đến. Nếu xét thấy bộ chứng từ phù hợp với
những quy định trong L/C và không mâu thuẫn lẫn nhau thì phải trả tiền cho
nhà xuất khẩu và đòi lại tiền từ ngƣời nhập khẩu, ngƣợc lại thì sẽ từ chối
thanh toán. Nhƣng nếu kiểm tra không kỹ, ngƣời nhập khẩu khi kiểm tra lại
thấy bộ chứng từ không hoàn hảo sẽ có quyền từ chối thanh toán lại cho ngân
hàng và ngân hàng sẽ gặp rủi ro.


15
Tóm lại, L/C đƣợc coi là phƣơng thức thanh toán thông dụng nhất với
khối lƣợng và phạm vi thanh toán ngày càng rộng lớn. Do những quy định
chặt chẽ trong quy trình thanh toán, vì thế quyền lợi của ngƣời xuất khẩu và
ngƣời nhập khẩu đều đƣợc đảm bảo an toàn hơn so với những phƣơng thức
khác.

1.2. RỦI RO THANH TOÁN QUỐC TẾ
1.2.1. Khái niệm rủi ro và rủi ro thanh toán quốc tế
Rủi ro nói chung là một hiện tƣợng khách quan có liên quan và/hoặc
ảnh hƣởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến mục tiêu hoạt động của con ngƣời mà
con ngƣời có thể nhận biết đƣợc nhƣng con ngƣời không thể lƣợng hóa đƣợc
những rủi ro xảy ra ở đâu, lúc nào và mức độ tác động xấu đến mục đích của
con ngƣời nhƣ thế nào. Khi nói đến rủi ro ngƣời ta thƣờng nghĩ đến một điều
không tốt lành hoặc thiệt hại, hoặc sự tổn thất nào đó về vật chất hữu hình
hoặc vô hình bất ngờ mang đến do những nguyên nhân chủ quan hoặc khách
quan gây nên.
Còn rủi ro trong kinh doanh có phạm vi hẹp hơn. Đó là những rủi ro
gây ra sự thiệt hại về vật chất hữu hình hay vô hình cho một cá nhân hay tổ
chức trong quá trình hoạt động kinh tế ngƣời ta gọi chung là rủi ro về kinh tế.
Nếu chỉ xét trong phạm vi hoạt động thanh toán quốc tế, thì rủi ro
thanh toán quốc tế là những rủi ro về kinh tế phát sinh trong quá trình thực
hiện hoạt động thanh toán quốc tế, do các nguyên nhân phát sinh từ quan hệ
giữa các bên tham gia thanh toán quốc tế hoặc những nguyên nhân khách
quan khác.
1.2.2. Các loại rủi ro thanh toán quốc tế của ngân hàng thƣơng mại
1.2.2.1. Rủi ro tác nghiệp
Đây là những rủi ro trong quá trình thao tác nghiệp vụ thanh toán quốc
tế. Do vậy, những rủi ro này mang tính chủ quan, do trình độ, kỹ năng xử lý
nghiệp vụ của cán bộ thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thƣơng mại.


16
a. Trong phƣơng thức chuyển tiền
Trong phƣơng thức thanh toán này, ngân hàng chỉ đóng trò trung gian
phục vụ theo chỉ dẫn của khách hàng. Trách nhiệm của ngân hàng chuyển tiền
là chuyển tiền theo đúng chỉ dẫn của khách hàng. Trách nhiệm của ngân hàng

trả tiền là chi trả tiền cho đúng ngƣời thụ hƣởng theo chỉ dẫn trên lệnh chuyển
tiền. Trong phƣơng thức chuyển tiền, các điện chuyển tiền (T/T) thông qua hệ
thống SWIFT, Telex hoặc thƣ chuyển tiền (M/T) đƣợc sử dụng nhƣ những
phƣơng tiện thanh toán, thông qua đó ngân hàng chuyển tiền yêu cầu ngân
hàng nhận lệnh chi trả cho ngƣời thụ hƣởng theo chỉ dẫn thanh toán. Nếu cán
bộ của ngân hàng chuyển tiền do sơ suất cung cấp chỉ dẫn sai dẫn đến việc
ngân hàng nhận lệnh không thực hiện chi trả cho đúng ngƣời thụ hƣởng một
cách kịp thời thì ngân hàng phải chịu rủi ro bồi thƣờng những thiệt hại về
kinh tế và uy tín do ngƣời chuyển tiền khiếu nại. Việc chi trả chỉ đƣợc thực
hiện khi ngân hàng trả tiền nhận đƣợc điện chuyển tiền hoặc thƣ chuyển tiền
đảm bảo tính xác thực với chỉ dẫn chi trả rõ ràng và đƣợc báo có cho khoản
tiền cần chi trả trên tài khoản của mình. Nếu ngân hàng trả tiền không kiểm
tra đầy đủ hai điều kiện trên mà đã tiến hành chi trả thì có thể gặp phải rủi ro
mất tiền, do không đƣợc báo có nhƣng đã tiến hành chi trả cho ngƣời thụ
hƣởng, hoặc chi trả sai ngƣời thụ hƣởng và không đòi lại đƣợc từ ngƣời nhận
tiền. Để tránh đƣợc rủi ro có thể xảy ra, các ngân hàng phải nghiên cứu và sử
dụng các phƣơng thức thanh toán (T/T hoặc M/T) một cách chuẩn xác. Hiện
nay, các ngân hàng thƣờng sử dụng điện chuyển tiền để thanh toán vì nó đáp
ứng yêu cầu nhanh chóng, chính xác và bảo mật. Điện chuyển tiền có thể
bằng SWIFT hoặc Telex, trong đó điện SWIFT đƣợc sử dụng phổ biến hơn,
chiếm khoảng 90% giao dịch chuyển tiền quốc tế. Điện chuyển tiền bằng
SWIFT là những mẫu điện MT103, MT202,… đã đƣợc chuẩn hóa bởi tổ chức
SWIFT. Do vậy, điện chuyển tiền bằng SWIFT thƣờng có nội dung chi trả rõ
ràng, chính xác hơn và bảo mật hơn các loại điện chuyển tiền khác.


17
b. Trong phƣơng thức nhờ thu
Giống nhƣ phƣơng thức chuyển tiền, do chỉ đóng vai trò trung gian
nên ngân hàng có thể gặp phải rủi ro khi không thực hiện đúng chỉ dẫn của

các bên liên quan. Ngân hàng gửi nhờ thu (Remitting Bank) khi nhận chứng
từ nhờ thu của nhà xuất khẩu có trách nhiệm kiểm tra kỹ chỉ dẫn nhờ thu: D/P
– trả ngay hay D/A – trả chậm, ngƣời trả tiền, ngân hàng nhờ thu,…Nếu thực
hiện sai chỉ dẫn của khách hàng, gửi bộ chứng từ không đúng địa chỉ, không
đòi đƣợc tiền hoặc làm thất lạc chứng từ của khách hàng trong quá trình xử lý
nghiệp vụ, ngân hàng nhờ thu phải chịu trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại cho
ngƣời xuất khẩu. Trong phƣơng thức nhờ thu, khách hàng muốn thông qua
ngân hàng để ràng buộc việc nhận hàng với nghĩa vụ thanh toán của ngƣời
nhập khẩu, ngân hàng nhờ thu đƣợc chỉ dẫn trả chứng từ nếu nhà nhập khẩu
thanh toán bộ chứng từ D/P hoặc chấp nhận thanh toán bộ chứng từ D/A.
Ngân hàng nhờ thu có thể gặp rủi ro nếu không đọc kỹ chỉ dẫn của bộ chứng
từ nhờ thu, trả chứng từ khi chƣa yêu cầu nhà nhập khẩu nộp tiền để thanh
toán bộ chứng từ D/P hoặc thực hiện thanh toán không đúng chỉ dẫn thanh
toán (Payment Instruction) của ngân hàng nhờ thu, dẫn đến thất lạc hoặc
chậm trễ trong việc chuyển trả tiền.
c. Trong phƣơng thức bảo lãnh
Phƣơng thức này thƣờng đƣợc thực hiện dƣới hai hình thức bảo lãnh
của ngân hàng (Letter of Guarantee) và thƣ tín dụng dự phòng (Standby L/C).
Trong phƣơng thức này, ngân hàng là ngƣời bảo lãnh, cam kết thanh toán cho
ngƣời thụ hƣởng một số tiền nhất định nếu ngƣời đƣợc bảo lãnh vi phạm
nghĩa vụ đã qui định trong thƣ bảo lãnh hoặc tín dụng dự phòng. Ngân hàng
chỉ thực hiện cam kết của mình khi ngƣời đƣợc bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ
của mình. Do đó, không phải trong mọi trƣờng hợp bảo lãnh, ngân hàng đều
phải thanh toán cho ngƣời thụ hƣởng. Có rất nhiều hình thức bảo lãnh quốc tế
nhƣ Bảo lãnh tiền đặt cọc, Bảo lãnh thực hiện hợp đồng, Bảo lãnh dự thầu,


18
Bảo lãnh thanh toán,…Yêu cầu phát hành bảo lãnh có thể xuất phát từ chính
khách hàng, ngƣời đƣợc bảo lãnh hoặc từ một ngân hàng. Trong trƣờng hợp

nhận đƣợc đề nghị bảo lãnh từ khách hàng, ngân hàng phải xem xét, đánh giá
năng lực tài chính, uy tín kinh doanh của khách hàng, tính khả thi của dự án
mà khách hàng đề nghị bảo lãnh. Đồng thời phải có biện pháp bảo đảm khả
năng thanh toán nhƣ ký quỹ, thế chấp bằng tài sản đảm bảo,…Trong trƣờng
hợp thứ hai ngân hàng phát hành thƣ bảo lãnh đối ứng (Counter Guarantee)
trên cơ sở cam kết của ngân hàng khác nên cần phải đánh giá năng lực tài
chính, uy tín của ngân hàng đề nghị cùng với điều khoản cam kết hoàn trả của
ngân hàng đó. Trong trƣờng hợp này, nếu có phát sinh việc đòi bảo lãnh từ
ngƣời thụ hƣởng ngân hàng phát hành phải thanh toán ngay trên cơ sở xuất
trình một số chứng từ, thƣờng là văn bản yêu cầu bồi thƣờng của ngƣời thụ
hƣởng do ngƣời đƣợc bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ. Đến lƣợt mình, ngân hàng
bảo lãnh phải đòi đƣợc bồi hoàn từ ngân hàng đề nghị phát hành bảo lãnh đối
ứng. Do vậy, cam kết của ngân hàng đề nghị là vô cùng quan trọng. Nếu ngân
hàng phát hành không xem xét kỹ lƣỡng các cam kết của ngân hàng đề nghị
trƣớc khi phát hành thì có thể gặp phải rủi ro không đƣợc hoàn trả tiền. Các
cam kết của ngân hàng đề nghị liên quan đến thời hạn cam kết, số tiền cam
kết, điều kiện đòi hoàn trả,…phải phù hợp với các cam kết của ngân hàng
phát hành thƣ bảo lãnh đối với ngƣời thụ hƣởng.
d. Trong phƣơng thức thanh toán CAD (Cash against Document)
Là một phƣơng thức thanh toán trong đó nhà xuất khẩu và nhà nhập
khẩu thỏa thuận với nhau chỉ định một ngân hàng thực hiện trả tiền cho nhà
xuất khẩu khi họ xuất trình bộ chứng từ giao hàng tại ngân hàng. Trong
phƣơng thức này, ngân hàng đóng vai trò là ngƣời ủy thác thanh toán hoặc
nhận ủy thác thanh toán trên cơ sở thỏa thuận song biên giữa hai ngân hàng.
Thông thƣờng, nhà nhập khẩu sẽ đề nghị ngân hàng của mình mở một tài
khoản tín thác tại ngân hàng của nhà xuất khẩu (là ngân hàng thanh toán


19
CAD). Ngân hàng thanh toán CAD nhận chứng từ của nhà xuất khẩu, sau khi

kiểm tra số lƣợng chứng từ đúng thỏa thuận sẽ thông báo cho ngân hàng của
nhà nhập khẩu để ngân hàng chuyển tiền thanh toán. Trong vòng 1 hoặc 2
ngày, ngân hàng của nhà nhập khẩu sẽ chuyển tiền vào tài khoản tín thác mở
tại ngân hàng thanh toán CAD để trả cho nhà xuất khẩu. Ngân hàng của nhà
nhập khẩu có thể sẽ gặp phải rủi ro nếu nhƣ ngân hàng thanh toán CAD đòi
tiền sai qui định. Do tính rủi ro cao nhƣ vậy nên phƣơng thức thanh toán này
chỉ đƣợc sử dụng khi ƣu thế thuộc về nhà nhập khẩu. Nhà nhập khẩu và nhà
xuất khẩu có thể thỏa thuận cụ thể, trên cơ sở đó ngân hàng của nhà xuất khẩu
và ngân hàng của nhà nhập khẩu ký thỏa thuận song biên thanh toán theo hình
thức CAD.
e. Trong phƣơng thức tín dụng chứng từ
Trong phƣơng thức này, ngân hàng phát hành đóng vai trò là ngƣời
cam kết trả tiền cho ngƣời hƣởng lợi của L/C. Ngoài nhà xuất khẩu và nhà
nhập khẩu còn có vai trò của các ngân hàng gồm: ngân hàng phát hành, ngân
hàng thông báo, ngân hàng chiết khấu, ngân hàng xác nhận,…Mỗi ngân hàng
liên quan có những trách nhiệm nhất định (đƣợc quy định trong Quy tắc thực
hành thống nhất về tín dụng chứng từ UCP 500 của Phòng thƣơng mại Quốc
tế - ICC và do vậy cũng có thể gặp phải những rủi ro nhất định).
 Đối với ngân hàng phát hành L/C
Ngân hàng phát hành L/C đóng vai trò quan trọng nhất, là chủ thể đƣa
ra cam kết đồng thời chịu trách nhiệm (hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác)
thực hiện cam kết đó thể hiện trong nội dung L/C. Về bản chất, hợp đồng
ngoại thƣơng là văn bản pháp lý ràng buộc trách nhiệm của nhà xuất khẩu và
nhà nhập khẩu, đơn đề nghị mở L/C là văn bản pháp lý ràng buộc trách nhiệm
giữa ngƣời đề nghị mở L/C (nhà nhập khẩu) và ngân hàng phát hành với
ngƣời thụ hƣởng (nhà xuất khẩu). Mặc dù L/C do ngân hàng phát hành nhƣng
nội dung của nó về cơ bản là do nhà nhập khẩu đƣa ra trong đơn đề nghị phát


20

hành L/C. Những yêu cầu của nhà nhập khẩu đối với nhà xuất khẩu trong hợp
đồng đã đƣợc cụ thể hóa thành yêu cầu của ngân hàng phát hành đối với nhà
xuất khẩu và nó ràng buộc trách nhiệm trả tiền của ngân hàng phát hành. Do
vậy, trách nhiệm của ngân hàng phát hành là phải chuyển tải chính xác các
yêu cầu của đơn đề nghị phát hành L/C vào nội dung L/C, để đảm bảo bộ
chứng từ xuất trình phù hợp L/C thì đồng thời cũng phù hợp với yêu cầu của
nhà nhập khẩu. Có nhƣ vậy ngân hàng mới có thể đòi bồi hoàn từ nhà nhập
khẩu.
Khi ngƣời thụ hƣởng xuất trình bộ chứng từ tới ngân hàng phát hành,
ngân hàng phát hành có trách nhiệm kiểm tra bộ chứng từ để quyết định trả
tiền nếu bộ chứng từ hoàn hảo hay từ chối bộ chứng từ nếu bộ chứng từ có bất
đồng. Vì vậy, ngân hàng phát hành phải đánh giá chính xác tình trạng bộ
chứng từ. Nếu xác định sai sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng phát
hành. Khi kiểm tra chứng từ, ngân hàng phát hành có thể rơi vào những tình
huống sau:
- Tình huống thứ 1: Ngân hàng phát hành trả tiền bộ chứng từ hoàn
hảo.
- Tình huống thứ 2: Ngân hàng phát hành từ chối trả tiền bộ chứng từ
bất đồng
- Tình huống thứ 3: Ngân hàng phát hành trả tiền bộ chứng từ bất
đồng.
- Tình huống thứ 4: Ngân hàng phát hành từ chối trả tiền bộ chứng từ
hoàn hảo.
Tình huống thứ nhất và tình huống thứ 2 phù hợp với quyền và trách
nhiệm của ngân hàng phát hành, do vậy không có vấn đề tranh cãi xảy ra.
Tình huống thứ 3 và tình huống thứ 4 là những sai sót của ngân hàng phát
hành trong quá trình tác nghiệp dẫn đến rủi ro. Ở tình huống thứ 3, nhà nhập
khẩu từ chối trả tiền cho ngân hàng phát hành, trong khi ngân hàng phát hành



21
đã thanh toán cho ngƣời thụ hƣởng. Trong tình huống thứ 4, ngƣời thụ hƣởng
sẽ kiện ngân hàng phát hành vì không thực hiện cam kết, gây ảnh hƣởng
nghiêm trọng đến tài chính và uy tín của ngân hàng phát hành. Việc xác định
tình trạng bộ chứng từ là vấn đề khó khăn và phức tạp, đòi hỏi cán cán bộ tác
nghiệp phải có trình độ chuyên môn cao, am hiểu nghiệp vụ và thông lệ quốc
tế về thanh toán quốc tế.
Sau khi đã xác định đƣợc tình trạng bộ chứng từ xuất trình, ngân hàng
phát hành phải tiến hành thanh toán hoặc thông báo từ chối do bất đồng. Rủi
ro cũng có thể xảy ra trong bƣớc này, nếu ngân hàng phát hành không thực
hiện đúng quy định. Cụ thể là UCP 500 quy định việc thanh toán hoặc từ chối
chứng từ phải thực hiện trong vòng 7 ngày làm việc sau ngày nhận đƣợc
chứng từ. Nếu quá thời hạn trên ngân hàng phát hành mất quyền từ chối
chứng từ. Ngoài ra, ngân hàng phát hành còn phải chịu rủi ro nếu việc thanh
toán không đƣợc thực hiện đúng theo chỉ dẫn trên bộ chứng từ, dẫn đến tiền bị
thất lạc hoặc chậm trễ.
 Đối với ngân hàng thông báo L/C
Ngân hàng thông báo L/C có trách nhiệm kiểm tra tính chân thật bề
ngoài của L/C trƣớc khi thông báo cho ngƣời thụ hƣởng theo chỉ dẫn của
ngân hàng phát hành. Trong trƣờng hợp quyết định không thông báo L/C thì
phải có ý kiến phản hồi cho ngân hàng phát hành không chậm trễ. Đây là một
trách nhiệm rất quan trọng của ngân hàng thông báo. Thƣ tín dụng là cam kết
trả tiền cho ngân hàng phát hành, dựa trên cam kết đó nhà xuất khẩu tin tƣởng
giao hàng cho nhà nhập khẩu và lập bộ chứng từ đòi tiền ngân phát hành. Nếu
thƣ tín dụng là giả mạo thì ngân hàng phát hành hoàn toàn không bị ràng buộc
vào cam kết này và nhà xuất khẩu không thể đòi tiền từ ngân hàng phát hành.
Có 3 tình huống giả mạo thƣ tín dụng:
- Ngân hàng phát hành không có thực.
- Ngân hàng phát hành có thực nhƣng thƣ tín dụng giả mạo.



22
- Thƣ tín dụng có thực nhƣng sửa đổi, giả mạo.
Trong bất kỳ hình thức giả mạo nào, cam kết của ngân hàng phát hành
đều không có hiệu lực và rủi ro đối với nhà xuất khẩu là chắc chắn xảy ra nếu
không phát hiện kịp thời. Chính vì vậy, bằng các nghiệp vụ của mình, ngân
hàng thông báo phải có trách nhiệm kiểm tra tính chân thật bề ngoài thông
qua chữ ký trên thƣ tín dụng (kiểm tra chữ ký ủy quyền nếu phát hành bằng
thƣ), bằng mã khóa (test key nếu phát hành bằng telex,…) hoặc bằng các mẫu
điện đảm bảo tính xác thực (nếu phát hành bằng SWIFT với các mẫu điện
700, 710, 720,…). Nếu ngân hàng đã sử dụng các biện pháp nghiệp vụ nhƣng
không thể xác định đƣợc tính chân thật bề ngoài của L/C thì phải có ý kiến
phản hồi cho ngân hàng phát hành và từ chối thông báo cho ngƣời thụ hƣởng.
Nếu ngân hàng không kiểm tra tính xác thực của L/C đã thông báo cho nhà
xuất khẩu, để nhà xuất khẩu giao hàng nhƣng không đòi đƣợc tiền do L/C bị
giả mạo, nhà xuất khẩu có quyền yêu cầu ngân hàng thông báo phải bồi
thƣờng. Rủi ro của ngân hàng thông báo lúc này không chỉ cho chính lô hàng
mà còn bị ảnh hƣởng nghiêm trọng đến uy tín của ngân hàng trong hoạt động
thanh toán quốc tế.
 Đối với ngân hàng chiết khấu/thương lượng
Ngân hàng chiết khấu/thƣơng lƣợng là ngân hàng phục vụ ngƣời thụ
hƣởng, có trách nhiệm chiết khấu hoặc thƣơng lƣợng bộ chứng từ do nhà xuất
khẩu xuất trình. Ngân hàng chiết khấu/thƣơng lƣợng có thể đƣợc ngân hàng
phát hành chỉ định trong L/C hoặc do chính ngƣời thụ hƣởng lựa chọn. Thông
qua nghiệp vụ chiết khấu chứng từ, ngân hàng đã trả một khoản tiền cho
ngƣời thụ hƣởng với một tỷ lệ nhất định trên cơ sở trị giá của bộ chứng từ.
Đổi lại, ngân hàng đƣợc hƣởng quyền đòi tiền bộ chứng từ từ ngân hàng phát
hành.
Có hai hình thức chiết khấu là chiết khấu truy đòi và chiết khấu miễn
truy đòi. Đối với hình thức chiết khấu truy đòi, ngân hàng chiết khấu nếu



23
không đòi đƣợc tiền từ ngân hàng phát hành thì có quyền đòi hoàn lại số tiền
đã chiết khấu từ ngƣời thụ hƣởng. Ngƣợc lại, với hình thức chiết khấu miễn
truy đòi, ngân hàng chiết khấu không đƣợc phép đòi lại tiền từ ngƣời thụ
hƣởng. Hình thức chiết khấu miễn truy đòi tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn cho ngân
hàng chiết khấu do vậy tỷ lệ chiết khấu thƣờng nhỏ hơn hình thức chiết khấu
có truy đòi. Để đảm bảo cao nhất khả năng đòi tiền từ ngân hàng phát hành,
điều kiện tiên quyết là bộ chứng từ phải hoàn toàn phù hợp với quy định của
L/C.
Ngân hàng chiết khấu khi quyết định chiết khấu một bộ chứng từ phải
kiểm tra chứng từ một cách cẩn thận để đảm bảo rằng bộ chứng từ hoàn toàn
phù hợp và ngân hàng phát hành không thể từ chối thanh toán. Việc chiết
khấu một bộ chứng từ có bất đồng là cực kỳ rủi ro đối với ngân hàng chiết
khấu vì họ có thể bị từ chối hoàn trả tiền từ ngân hàng phát hành trong khi đã
thanh toán cho ngƣời thụ hƣởng. Cho dù là chiết khấu có truy đòi thì việc đòi
lại tiền từ ngƣời thụ hƣởng cũng rất khó khăn và ảnh hƣởng nghiêm trọng đến
uy tín của ngân hàng.
Ngân hàng thƣơng lƣợng không phải ứng trƣớc tiền cho ngƣời thụ
hƣởng nhƣng việc ngân hàng không phát hiện ra bất đồng của bộ chứng từ và
thông báo cho ngƣời thụ hƣởng kịp thời khiến bộ chứng từ bị từ chối thanh
toán cũng làm ảnh hƣởng nghiêm trọng đến uy tín của ngân hàng. Các nhà
xuất khẩu sẽ không lựa chọn ngân hàng để thƣơng lƣợng hoặc chiết khấu
chứng từ trong giao dịch tiếp theo.
 Đối với ngân hàng xác nhận
Ngân hàng xác nhận có trách nhiệm cùng với ngân hàng phát hành
cam kết thanh toán cho nhà xuất khẩu khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp.
Ngân hàng xác nhận xuất hiện khi ngƣời thụ hƣởng của L/C không tin tƣởng
vào cam kết của ngân hàng phát hành thƣ tín dụng, nên đã yêu cầu một ngân

hàng có uy tín và đáng tin cậy đối với mình xác nhận L/C nói trên. Ngân hàng

×