Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Phát triển dịch vụ bưu chính Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.06 MB, 120 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
*****



NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH


PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BƯU CHÍNH VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60.31.01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS PHẠM VĂN DŨNG













Hà Nội – Năm 2006




i
MỤC LỤC
Mục lục.
i
Danh mục bảng biểu.
iii
Các chữ viết tắt
iv
Mở đầu
1
Chương I:
Cơ sở lý luận và kinh nghiệm phát triển dịch vụ
bưu chính của một số nước trên thế giới
6
1.1.
Cơ sở lý luận về phát triển dịch vụ bưu chính.
6
1.1.1.
Khái quát về dịch vụ bưu chính.
6
1.1.2.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ bưu chính.

11
1.2.
Một số kinh nghiệm quốc tế trong phát triển dịch vụ bưu chính.
16
1.2.1.
Tình hình phát triển Bưu chính ở một số quốc gia.
16
1.2.2.
Một số bài học kinh nghiệm trong việc phát triển các dịch vụ Bưu
chính đối với Việt Nam.
27
Chương II:
Thực trạng phát triển dịch vụ Bưu chính
ở Việt nam trong thời gian qua
31
2.1.
Đổi mới kinh tế và tác động của nó tới sự phát triển dịch vụ
Bưu chính tại Việt nam.
31
2.1.1.
Khái lược về quá trình đổi mới kinh tế ở Việt nam.
31
2.1.2.
Các chính sách của Nhà nước tác động đến sự phát triển của dịch
vụ Bưu chính (từ những năm 1990 đến nay)
36
2.2.
Tình hình phát triển dịch vụ Bưu chính Việt nam trong thời
gian qua
44

2.2.1.
Về quy mô toàn ngành
44
2.2.2.
Về loại hình dịch vụ
49
2.2.3.
Về chất lượng dịch vụ
52
2.2.4
Về chất lượng phục vụ
57
2.2.5
Sự tham gia của các thành phần kinh tế trong cung ứng dịch vụ
Bưu chính
58
2.3.
Đánh giá sự phát triển dịch vụ Bưu chính Việt Nam thời gian
qua.
63


ii
2.3.1.
Nhng im mnh v thnh tu ó t c trong phỏt trin dch
v Bu chớnh Vit Nam thi gian qua.
64
2.3.2.
Mt s hn ch v nguyờn nhõn.
66

2.3.3
Mt s vn t ra trong thi gian ti
72
Chng 3:
Trin vng v nhng gii phỏp ch yu nhm
phỏt trin dch v Bu chớnh Vit Nam trong thi gian ti
75
3.1.
Bi cnh hin nay v nh hng ca nú ti vic phỏt trin dch
v Bu chớnh Vit Nam.
75
3.1.1.
Bi cnh trong nc
75
3.1.2.
Bi cnh quc t.
80
3.2.
Trin vng ca Bu chớnh Vit Nam trong nhng nm ti.
89
3.2.1.
D bỏo n nm 2010.
89
3.2.2.
Tim nng phỏt trin.
91
3.2.3.
Mt s quan im nh hng phỏt trin dch v bu chớnh trong
thi gian ti.
95

3.3.
Mt s gii phỏp nhm phỏt trin dch v Bu chớnh Vit Nam.
95
3.3.1.
Gii phỏp t phớa Chớnh ph.
95
3.3.2.
Nhng gii phỏp t phớa cỏc doanh nghip hot ng trong lnh
vc bu chớnh.
100
Kt lun
107
Phụ lục 1:
Các dịch vụ B-u chính do Thụy Điển cung cấp.
v
Phụ lục 2:
Các sản phẩm và dịch vụ do B-u chinh Singapore.
vi
Phụ lục 3:
Hệ thống các chỉ tiêu phát triển ngành B-u chính Việt nam trong quy
hoạch tổng thể phát triển đến năm 2010.
vii
Danh mục tài liệu tham khảo
x



iv
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Tiếng Anh:

UPU
Universal Postal Union
Liên Minh Bưu chính Thế giới
APPU
Asean Pacific Postal Union
Liên minh Bưu chính khu vực Châu
á - Thái Bình Dương
ASEAN
Association of South East Asian
Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á
EU
European Union
Liên minh Châu Âu
WEF
World Economic Forum
Diễn đàn Kinh tế Thế giới
WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại Thế giới
2. Tiếng Việt:
XHCN

Xã hội chủ nghĩa
DNNN

Doanh nghiệp nhà nước
MPT

Bộ Bưu chính Viễn thông

VNPT

Tổng công ty Bưu chính Viễn thông
Việt Nam
VPS

C«ng Ty B-u chÝnh Liªn tØnh vµ
Quèc tÕ



iii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1
Một số tiêu chí cơ bản về Bưu chính Việt nam giai đoạn
2003-2005.

Bảng 2
So sánh về lĩnh vực chuyển phát thư giai đoạn 2003-2005

Biểu đồ
Biểu đồ tỷ trọng phân loại khách hàng sử dụng dịch vụ Bưu
chính năm 2005

Bảng 3
So sánh sản lượng các dịch vụ bưu chính qua các năm từ
2003-2005

Bảng 4
Doanh thu bưu chính theo các dịch vụ từ năm 2003 – 2005


Bảng 5
Bảng đánh giá về một số dịch vụ cơ bản của Bưu chính Viễn
thông

Bảng 6
Một số chỉ số cơ bản của các doanh nghiệp bưu chính giai
đoạn từ năm 2003-2005

Bảng 7
Kết quả kinh doanh các dịch vụ Bưu chính Việt nam từ năm 1996
– 2004

Bảng 8
Dự báo phát triển các dịch vụ Bưu chính đến năm 2010




1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Sản xuất ngày càng phát triển, thu nhập dân cư và mức sống ngày
càng được cải thiện thì nhu cầu sử dụng các dịch vụ trong đó có dịch vụ
bưu chính cũng ngày càng cao. Vì vậy, ở Việt Nam, cùng với Viễn thông,
Bưu chính đã được Đảng, Nhà nước và Chính phủ đánh giá là ngành kinh
tế mũi nhọn, được ưu tiên đầu tư phát triển. Những năm gần đây, dịch vụ
Bưu chính đã có những bước phát triển nhất định cả về chất lượng và loại
hình dịch vụ; từng bước đáp ứng được những đòi hỏi của người dân, các
doanh nghiệp cung như toàn xã hội trong tình hình mới… Với trên 82 triệu

dân, kinh tế đang tăng trưởng liên tục với tốc độ cao, thị trường trong nước
là một thị trường rộng lớn, đầy tiềm năng cho sự phát triển và đa dạng hóa
các loại hình dịch vụ bưu chính. Song, việc phát triển dịch vụ bưu chính ở
nước ta đang gặp rất nhiều khó khăn do: Thiếu hụt các nguồn lực phát
triển, biện pháp, cách thức tổ chức quản lý chưa phù hợp, tình trạng cơ sở
vật chất kỹ thuật tương đối lạc hậu, năng suất lao động thấp, nguồn vốn
đầu tư phát triển còn rất hạn chế
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra cho Bưu chính Việt
Nam những yêu cầu mới để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng, đòi
hỏi ngày càng cao của xã hội Vì vậy, vấn đề làm thế nào để phát triển, đa
dạng hơn nữa loại hình và nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ, đưa các
dịch vụ bưu chính phổ cập tới mọi tầng lớp dân cư đáp ứng nhu cầu của
các doanh nghiệp là vấn đề mang tính cấp thiết hiện nay.
Do đó, tác giả đã chọn đề tài cho luận văn thạc sỹ của mình là "Phát
triển dịch vụ Bưu chính Việt Nam trong quá trình Hội nhập Kinh tế
Quốc tế".


2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Phát triển các dịch vụ Bưu chính là một vấn đề được các nhà hoạch
định chính sách, các cơ quan và nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trong nước
cũng như quốc tế quan tâm. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay phần lớn các
đề tài nghiên cứu về Bưu chính Viễn thông chỉ đề cập đến phát triển dịch
vụ Viễn thông. Những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu đã
công bố và tài liệu được ấn hành liên quan đến Bưu chính như:
- ThS. Nguyễn Thượng Thái biên dịch: "Thị trƣờng Bƣu chính
trong bối cảnh toàn cầu hóa", NXB Bưu điện, Hà nội, tháng 11/2004.
- ThS. Nguyễn Thượng Thái biên dịch: ”Bƣu chính các xu hƣớng
và vấn đề nổi bật", NXB Bưu điện, Hà nội, tháng 11/2004.

- ThS. Nguyễn Thượng Thái biên dịch: ”Sự thay đổi của môi
trƣờng và những giải pháp thích ứng của các nhà khai thác bƣu chính”,
NXB Bưu điện, Hà nội, tháng 11/2004.
- ThS. Nguyễn Thượng Thái biên dịch: ”Bƣu chính với sự phát
triển xã hội và kinh tế", NXB Bưu điện, Hà nội, tháng 11/2004.
- ThS. Nguyễn Thượng Thái biên dịch: ”Sự mua lại, sáp nhập và
liên minh chiến lƣợc", NXB Bưu điện, Hà nội, tháng 11/2004.
- TS. Nguyễn Thương Thái : “ Một số vấn đề về đổi mới bƣu chính
sau khi chia tách Viễn thông”, NXB Bưu điện, Hà nội, tháng 12/2005.
- ThS. Lê Minh Toàn, ThS. Dương Hải Hà: "Hiện trạng và quy
hoạch phát triển Bƣu chính Việt Nam đến năm 2010" (Tạp chí Bưu chính
Viễn thông & Công nghệ thông tin kỳ 1 - tháng 11/2005)


3
- ThS. Dương Hải Hà: "Hƣớng đi nào để bƣu chính kinh doanh có
lãi trong mô hình tập đoàn Bƣu chính Viễn thông" (Tạp chí Thông tin
KHKT và Kinh tế Bưu điện - 10/2005).
- Đỗ Đức Huấn: “Trở thành Tập đoàn, Bƣu chính phải “ra riêng”
nhƣ thế nào?” (Đặc san Tài liệu tham khảo phục vụ lãnh đạo và cán bộ
quản lý Bưu chính Viễn thông – Trung tâm Thông tin Bưu điện 8/2006)
- Tổng cục Bưu điện : “Đổi mới Bƣu chính kinh nghiệm của một số
nƣớc trên Thế giới” - NXB Bưu điện, Hà nội, tháng 10/2001.
Các tài liệu, bài viết trên đã đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực
tiễn của Bưu chính Việt Nam nói chung cũng như việc phát triển dịch vụ
bưu chính nói riêng, nhưng về cơ bản các giải pháp, chính sách đưa ra
nhằm phát triển dịch vụ này đã gặp phải những hạn chế nhất định do hoàn
cảnh, địa điểm và thời gian nghiên cứu. Vì vậy, việc nghiên cứu đề xuất
các giải pháp phù hợp với bối cảnh mới của thị trường Bưu chính thế giới
vẫn là một đòi hỏi đặt ra hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của luận văn là đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ Bưu
chính ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế; qua đó đề xuất các giải pháp
nhằm phát triển dịch vụ bưu chính trong thời gian tới. Mục đích này được
triển khai thông qua một số nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể là:
- Hệ thống hóa các cơ sở lý luận cơ bản và kinh nghiệm một số nước
trên thế giới về phát triển dịch vụ bưu chính.
- Đi sâu phân tích thực trạng phát triển dịch vụ Bưu chính ở Việt
Nam; làm rõ sự cần thiết phải phát triển dịch vụ.


4
- Đề xuất một số giải pháp vĩ mô cơ bản để phát triển dịch vụ Bưu
chính ở Việt Nam hiện nay và trong tương lai.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu sự vận động phát triển dịch vụ Bưu chính ở
Việt Nam trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh
tế quốc tế.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động dịch vụ
Bưu chính từ những năm 1990 đến nay. Đây là thời kỳ Ngành Bưu chính
Viễn thông chuyển đổi cơ chế quản lý từ bao cấp sang hạch toán kinh
doanh; nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động trong
lĩnh vực bưu chính xuất hiện.
+ Về không gian: Luận văn nghiên cứu hoạt động cung ứng dịch vụ
Bưu chính của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận để nghiên cứu là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu

cụ thể là: trừu tượng hóa khoa học, phân tích - tổng hợp, logic - lịch sử,
thống kê - so sánh, đối chiếu, phân tích dự báo, khảo sát
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Khái quát kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc phát triển
dịch vụ Bưu chính.


5
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển Bưu chính từ 1990 đến nay
để từ đó thấy được những thành công và những mặt còn tồn tại, hạn chế
trong sự phát triển dịch vụ Bưu chính.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
dịch vụ Bưu chính Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm phát triển dịch vụ Bưu
chính của một số nước trên thế giới
Chương II: Thực trạng phát triển dịch vụ Bưu chính ở Việt Nam
Chương III: Quan điểm định hướng và những giải pháp chủ yếu
nhằm phát triển dịch vụ của Bưu chính Việt Nam trong thời gian tới


6
CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN
DỊCH VỤ BƢU CHÍNH CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.1. Cơ sở lý luận về phát triển dịch vụ Bƣu chính
1.1.1. Khái quát về dịch vụ Bưu chính
- Khái niệm về dịch vụ bưu chính

Dưới nhiều góc độ nhìn nhận, đánh giá khác nhau, trong các giai
đoạn lịch sử khác nhau nên đã có một số khái niệm về dịch vụ bưu chính
được các nhà nghiên cứu đưa ra. Hiện nay, trong ngành bưu chính, khái
niệm sau được sử dụng tương đối phổ biến:
Dịch vụ bưu chính là dịch vụ công cộng, bao gồm nhiều loại hình dịch
vụ: chuyển phát bưu phẩm, bưu kiện, tiền bạc, hàng hoá… nhằm đáp ứng
các yêu cầu cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhu cầu vật chất
và tình cảm của dân cư
Dịch vụ Bưu chính là loại hình dịch vụ công cộng vì các dịch vụ này
đều sử dụng hạ tầng cơ sở chung của mạng lưới bưu chính công cộng.
Những người hoạt động trong lĩnh vực này hàng ngày phải tiếp xúc với mọi
tầng lớp xã hội để tiếp nhận các yêu cầu giao dịch của các cá nhân, doanh
nghiệp, tổ chức cơ quan. Yêu cầu đặt ra với dịch vụ bưu chính là: nhanh
chóng, thuận tiện, an toàn, giá cả hợp lý.
Tuy có thể xuất phát từ nhiều góc độ để nhìn nhận, đánh giá và xem
xét song các quan niệm về dịch vụ bưu chính đều liên quan đến phục vụ
nhu cầu của khách hàng, có doanh thu, lợi nhuận. Từ đó, có thể thấy rằng,
bản chất khái niệm dịch vụ bưu chính: là những dịch vụ công cộng sử dụng
hạ tầng cơ sở của mạng lưới bưu chính công cộng; nhằm đáp ứng nhu cầu
nhiều mặt của nhiều loại chủ thể khác nhau; mục đích của hoạt động cung
ứng dịch vụ là lợi nhuận.


7
- Vị trí, vai trò của dịch vụ Bưu chính trong nền kinh tế thị trường
Lịch sử phát triển của Bưu chính gắn liền với lịch sử phát triển của
mỗi quốc gia. Dịch vụ bưu chính đã, đang và sẽ đóng vai trò quan trọng đối
với sự phát triển kinh tế, xã hội mỗi nước. Hầu hết Chính phủ các quốc gia
phát triển đều nhận thấy nghĩa vụ của mình là phải đảm bảo cho mọi người
dân khả năng tiếp cận dịch vụ bưu chính thường xuyên với mức giá chấp

nhận được. Bưu chính được xem như là phương tiện quan trọng để đảm
bảo quyền thông tin của mọi công dân. Vì vậy, dưới một góc độ nào đó, sự
phát triển của các loại hình cũng như chất lượng dịch vụ bưu chính cũng là
một trong các tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của cơ sở hạ tầng kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, người ta phân nền kinh tế thành 3 lĩnh
vực cơ bản: Công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; trong đó, Bưu chính-Viễn
thông là một ngành dịch vụ thuộc kết cấu hạ tầng của nền kinh tế quốc dân,
là điều kiện chung cho mọi hoạt động của xã hội. Nền kinh tế của một
nước càng phát triển thì tỉ trọng ngành dịch vụ trong tổng thu nhập quốc
dân sẽ càng cao, nhu cầu về Bưu chính-Viễn thông cũng tăng lên tương
ứng. Bưu chính là lĩnh vực phục vụ công ích cho xã hội. Trên góc độ
ngành, Bưu chính - Viễn thông có hai nhiệm vụ chủ yếu là kinh doanh và
phục vụ. Hai nhiệm vụ này có quan hệ mật thiết, gắn bó, hỗ trợ cho nhau
và có quan hệ nhân quả với nhau vì có phục vụ tốt thì kinh doanh mới phát
triển được và ngược lại, có kinh doanh hiệu quả thì mới có khả năng cải
thiện chất lượng phục vụ.
Trong bất cứ thời kì nào dịch vụ Bưu chính cũng có vai trò rất quan
trọng đối với mỗi quốc gia, tổ chức, doanh nghiệp và người dân. Bưu chính
là công cụ, phương tiện giao lưu tình cảm của nhân dân đồng thời là
phương tiện để nâng cao dân trí. Bằng hoạt động của mình thông tin bưu
chính nối liền sản xuất với sản xuất, sản xuất với tiêu dùng, rút ngắn thời
gian và không gian sản xuất, làm năng suất lao động xã hội tăng lên. Mặt
khác, Bưu chính cũng đóng góp một phần không nhỏ vào việc duy trì, mở
rộng và phát triển mối quan hệ giữa các quốc gia, khu vực trên thế giới…
Như vậy, các dịch vụ bưu chính đóng vai trò cầu nối hết sức quan trọng


8
không chỉ đối với mỗi quốc gia mà còn với mỗi doanh nghiệp cũng như
từng người dân. Vai trò của nó đặc biệt quan trọng hơn trong nền kinh tế

thị trường do nhu cầu giao thương giữa các chủ thể kinh tế là rất lớn.
- Tính chất, đặc điểm của dịch vụ Bưu chính
+ Tính chất: Dịch vụ Bưu chính phần lớn được xây dựng trên cơ sở
công hữu về tư liệu sản xuất; vì vậy, phương tiện dịch vụ Bưu chính là của
toàn dân và mọi tầng lớp dân cư cũng chính là đối tượng phục vụ của nó.
Trong quá trình sản xuất, dịch vụ Bưu chính luôn có sự hiện diện của
khách hàng; có sự tham gia của khách hàng ở khâu đầu tiên và khâu cuối
cùng của quá trình sản xuất. Vì vậy, dịch vụ Bưu chính mang tính phổ cập.
+ Đặc diểm của dịch vụ Bưu chính
Bưu chính là một bộ phận quan trọng và cơ bản của lĩnh vực Bưu
chính - Viễn thông. Bên cạnh những đặc điểm chung giống như những
ngành thông tin khác thì dịch vụ Bưu chính có một số đặc điểm riêng, như:
Tin tức trong Bƣu chính đƣợc truyền đƣa nguyên kiện trong quá
trình chuyển - nhận: Các bưu gửi, thư gửi được chấp nhận như thế nào ở
người gửi thì khi phát cho người nhận cũng như vậy; không có sự biến đổi
về nội dung cũng như hình thức. Tin tức chỉ được chuyển rời vị trí theo
không gian và thời gian mà không thay đổi về cả nội dung và hình thức.
Như vậy các bưu gửi phải được an toàn 100% không được để mất mát,
rách nát và hư hỏng, không được tiết lộ nội dung. Khách hàng đến Bưu
điện sử dụng các dịch vụ thông tin Bưu chính không như các sản phẩm
khác họ có thể mang về nhà ngay, còn dịch vụ Bưu chính họ chỉ cảm nhận
được công dụng của nó là hiệu quả có ích của công việc truyền đưa những
bưu gửi cho người nhận. Vì thế, trong quá trình sản xuất, nếu nội dung
hình thức tin tức, bưu gửi bị thay đổi hình dạng thì nó đã mất đi giá trị sử
dụng.
Quá trình sản xuất mang tính dây chuyền: Quá trình truyền đưa tin
tức, vật phẩm trong Bưu chính luôn diễn ra từ hai phía (có người gửi và
người nhận). Người gửi và người nhận luôn ở hai vị trí khác nhau, có thể ở
trong một vùng của một nước hoặc hai nước khác nhau. Vì vậy, để truyền



9
đưa bưu gửi từ người gửi đến người nhận thường phải có hai hay nhiều cơ
sở (bưu cục) cùng tham gia; mỗi cơ sở chỉ tham gia thực hiện một công
đoạn, một khâu nhất định của quá trình truyền đưa. Như vậy, tham gia vào
quá trình truyền đưa tin tức bưu gửi có cá nhân, tập thể, xí nghiệp, thậm chí
còn có sự tham gia của nhiều nước trên thế giới. Muốn cho quá trình truyền
đưa thực hiện được phải thống nhất về thể lệ thủ tục, quy trình khai thác,
thống nhất về thời gian biểu hoạt động, thống nhất trong công tác đào tạo
nguồn nhân lực có như vậy các đơn vị cá nhân mới hoạt động thống nhất
với nhau như một dây chuyền.
Tính vô hình của sản phẩm. Tính vô hình của sản phẩm được thể
hiện khi sử dụng các sản phẩm dịch vụ thông tin Bưu chính khách hàng
không nhận biết được qua các giác quan trực tiếp như các sản phẩm khác.
Các dịch vụ là vô hình, không tồn tại dưới các dạng của vật thể, không phải
là vật chế tạo mới cũng không phải là hàng hóa cụ thể mà người tiêu dùng
chỉ có thể nhận biết được tính hiệu quả có ích của việc truyền đưa tin từ
người này đến người khác mà thôi. Cũng do tính vô hình, do không phải là
vật chất cụ thể tồn tại ngoài quá trình sản xuất nên không thể cất trữ, hay
thay thế được. Vì vậy, ngành Bưu điện buộc phải dự trữ năng lực thiết bị
sản xuất để thỏa mãn nhu cầu của xã hội (ở mức tối đa có thể) và phải đặc
biệt quan tâm đến vấn đề chất lượng.
Quá trình sản xuất gắn liền với quá trình tiêu thụ: Quá trình sản xuất
sẽ bắt đầu khi chúng ta nhận bưu gửi của khách và cũng bắt đầu khi chúng
ta phát bưu gửi cho khách hàng, khi phát bưu gửi cho khách hàng cũng là
lúc chấm dứt quá trình sản xuất và cũng chấm dứt quá trình sử dụng, tiêu
dùng sản phẩm dịch vụ bưu chính của khách hàng. Trong lĩnh vực Bưu
chính, người nhận chỉ có thể nhận được thông tin (bưu gửi) sau khoảng
thời gian nhất định (có thể sau một ngày, vài ngày, có thể là vài giờ). Để lý
giải vấn đề trên chúng ta phải hiểu đối tượng của Bưu chính là thông tin và

thông tin này là do chính khách hàng (người gửi) mang đến và nó được
chứa đựng trong một cái vỏ vật chất nào đó. Ở đây bức thư chỉ là cái vỏ
mang thông tin, do đó khi người nhận đọc hết lá thư đó tức là họ đã nhận
được hết thông tin trong lá thư đó, lúc đó người nhận cảm nhận được lợi


10
ích của quá trình đưa tin tức của Bưu chính đem lại, lúc đó sản phẩm của
Bưu chính đã được tiêu dùng. Như vậy, đối với ngành bưu chính, quá trình
tiêu thụ gắn liền với quá trình sản xuất và ngược lại.
Tải trọng không đồng đều theo thời gian và không gian: Tải trọng là
lượng tin tức được yêu cầu chuyển đi trong một khoảng thời gian nhất
định. Tải trọng của Bưu chính luôn phụ thuộc vào khách hàng nên có sự
giao động không đồng đều giữa các giờ trong ngày, các ngày trong tuần,
các tháng trong năm. Do đó để có thể đảm bảo lưu thoát hết mọi nhu cầu
về truyền đưa tin tức cần phải có một lượng dự trữ đáng kể trang thiết bị
cũng như lao động vì như đã đề cập ở trên, sản phẩm của dịch vụ bưu
chính không dự trữ được. Điều đó có nghĩa là năng lực sản xuất kinh doanh
phải bảo đảm được nhu cầu về tải trọng là lớn nhất được dự báo. Vấn đề
này dẫn đến việc ngay trong cùng một ngày thậm chí là một ca làm việc thì
có những giờ mà công suất sử dụng máy móc thiết bị cũng như lao động là
rất thấp. Đây là một vấn đề phức tạp và rất khó có phương án tối ưu về mặt
hiệu quả kinh tế đối với mọi quốc gia trên thế giới - dư thừa năng lực sản
xuất trong những thời điểm nhất định.
- Phân loại dịch vụ Bưu chính.
Hiện nay, có nhiều cách phân loại dịch vụ bưu chính khác nhau; mỗi
cách phân loại lại dựa vào một số tiêu chí nhất định làm cơ sở phân loại.
Có thể nêu ra một số cách phân loại thường thấy sau:
+ Dịch vụ Bưu chính bao gồm 3 loại hình dịch vụ cơ bản là: Bưu
phẩm - Bưu kiện, Chuyển tiền và Phát hành báo chí (PHBC).

+ Dịch vụ Bưu chính phân theo tính chất của loại hình dịch vụ được
phân thành hai loại hình dịch vụ là truyền thống và không truyền thống
(hay dịch vụ Bưu chính mới); cụ thể:
Dịch vụ Bƣu chính truyền thống bao gồm: (1) Bưu phẩm thường
gồm: Thư, bưu thiếp, ấn phẩm, gói nhỏ, học phẩm người mù. (2) Bưu
phẩm ghi số; (3) Bưu kiện; (4) Chuyển phát nhanh; (5) Chuyển tiền trong
nước và quốc tế; (6) Điện hoa; (7) Tem Bưu chính; (8) Phát hành báo chí.


11
Dịch vụ Bƣu chính không truyền thống bao gồm: (1) Dịch vụ Bƣu
phẩm không địa chỉ: Loại hình dịch vụ này phục vụ khách hàng gửi với số
lượng nhiều mà không cần ấn định chi tiết địa chỉ người nhận. Bưu điện sẽ
phát đến các đối tượng mà khách yêu cầu. Dịch vụ này cước phí hấp dẫn có
thể trả sau khi gửi hoặc theo thỏa thuận ghi trong hợp đồng trước. (2) Dịch
vụ đại lý bƣu điện: Đây là một mô hình nhằm mở rộng mạng lưới phục vụ
của bưu điện đến với người sử dụng một cách tiện lợi. Đại lý Bưu điện là
một mô hình tương tự như một bưu cục loại III. Trong đó, mặt bằng, con
người không thuộc Bưu điện quản lý, Bưu điện có nhiệm vụ quản lý chất
lượng các dịch vụ do đại lý nhận làm ủy thác. Đại lý được Bưu điện sở tại
ủy thác bán các dịch vụ Bưu chính -Viễn thông, quản lý chất lượng dịch vụ,
kế toán (3) Dịch vụ tiết kiệm Bƣu điện: Là dịch vụ nhằm thu hút các khoản
tiền nhàn rỗi trong dân để bổ sung cho vốn đầu tư phát triển; bao gồm : Tiết
kiệm không kỳ hạn, Tiết tiệm có kỳ hạn và Tiết kiệm gửi góp. (4) Dịch vụ
Bƣu chính ủy thác: Là dịch vụ trong đó người gửi ủy quyền hoàn toàn cho
Bưu điện trong việc chuyển phát trả hàng hoá của họ (kể cả các yêu cầu đặc
biệt) trên có sở các điều kiện đã thoả thuận với Bưu điện. Khách hàng
thường sử dụng loại hình dịch vụ này khi có tổng khối lượng hàng hóa cần
vận chuyển lớn (hàng tấn trở lên) hoặc khối lượng hàng hóa lớn hơn khối
lượng của bưu kiện được quy định. (5) Dịch vụ Datapost - dịch vụ lai ghép

điện tử: Là dịch vụ lai ghép giữa Bưu chính - Tin học - Viễn thông nhằm tạo
ra một công nghệ chuyển thư tín đến nhiều khách hàng với số lượng lớn và
trong thời gian ngắn nhất. Điểm mạnh của Datapost chính là việc kết hợp
được thế mạnh của Bưu phẩm truyền thống (phát đến tay người nhận) với
thế mạnh của công nghệ thông tin. Datapost mang lại khả năng cho phép
khách hàng có thể gửi thư tín ấn phẩm có nội dung giống hoặc khác nhau tới
nhiều người nhận và số lượng không hạn chế. Dịch vụ này vừa tăng tốc độ
chuyển tin tức và đồng thưòi hạ thấp giá thành. Do vậy loại dịch vụ này
nâng cao khả năng cạnh tranh của Bưu chính đối với các dịch vụ viễn thông.
1.1.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến sự phát triển dịch vụ Bƣu chính
Do tính chất là ngành sản xuất đặc biệt, sản phẩm của Bưu chính
không phải là vật chế tạo mới mà là những tin tức, vật phẩm do khách hàng


12
mang đến. Nó được hoàn thành do nhiều khâu, nhiều bộ phận, nhiều người
và nhiều tập thể cùng tham gia sản xuất. Chất lượng dịch vụ Bưu chính được
phản ánh qua quá trình truyền đưa tin tức, quá trình nhận gửi, vận chuyển
khai thác và phát đến tay người nhận. Nếu một khâu trong dây chuyền sản
xuất làm không tốt sẽ làm cho sản phẩm không đạt được giá trị sử dụng. Vì
vậy khi nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ bưu
chính phải xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ Bưu chính. Các yếu tố đó là:
- Yếu tố con người:
Cũng như các ngành kinh tế khác, yếu tố con người - Lao động trong
ngành bưu chính là một trong 3 yếu tố quan trọng nhất trong quá trình sản
xuất và đóng vai trò quyết định. Cho dù trình độ kỹ thuật, công nghệ có
hiện đại đến đâu thì cũng phải cần đến yếu tố con người, không thể loại bỏ
yếu tố con người trong quá trình sản xuất. Con người luôn giữ vai trò chủ
đạo trong hệ thống. Trình độ chuyên môn tay nghề, kinh nghiệm, ý thức

trách nhiệm, tính kỷ luật, tinh thần hiệp tác phối hợp khả năng thích ứng
với mọi sự thay đổi, nắm bắt thông tin của mọi thành viên trong doanh
nghiệp có tác động trực tiếp tới chất lượng dịch vụ Bưu chính.
- Yếu tố quản lý.
Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý
nhằm đạt được mục tiêu doanh nghiệp đề ra. Một mục tiêu quan trọng của
hoạt động quản lý bưu chính là nâng cao chất lượng dịch vụ. Sản phẩm
Bưu chính sau khi sản xuất xong được đưa đến tay người tiêu dùng ngay và
không thể kiểm tra chất lượng được. Vì vậy, việc quản lý chất lượng để
đưa ra biện pháp chủ yếu là để phòng ngừa đến mức tối thiểu sai phạm có
thể xảy ra. Quản lý chất lượng Bưu chính phải thường xuyên đánh giá đúng
tình hình chất lượng cung cấp để đề ra các biện pháp thích hợp, kịp thời
nhằm đảm bảo, nâng cao chất lượng các dịch vụ cung cấp cho khách hàng.
Để đánh giá đúng tình hình thực hiện chất lượng các dịch vụ thì yếu tố ban
đầu quyết định tính đúng đắn của biện pháp quản lý đưa ra chính là yếu tố
điều tra chất lượng.


13
- Yếu tố công nghệ và mạng lưới dịch vụ.
+ Công nghệ cho nghiệp vụ Bƣu chính.
Muốn có những dịch vụ thông tin chất lượng cao thì yếu tố đặc biệt
quan trọng đó là công nghệ. Yếu tố công nghệ sẽ quyết định quy trình khai
thác, công nghệ càng hiện đại thì quy trình khai thác càng đơn giản, hiệu
quả cao và chất lượng tốt.
+ Mạng lƣới các điểm dịch vụ.
Phần lớn, mạng lưới dịch vụ Bưu chính ở các quốc gia hiện nay được
phân theo thành hai thành phần cơ bản: Mạng bưu cục, mạng vận chuyển
và được phân cấp theo cấp hành chính như sau:
Mạng cấp I: Làm nhiệm vụ liên tỉnh và quốc tế.

Mạng cấp II: Làm nhiệm vụ trong nội tỉnh, đảm bảo thông tin từ tỉnh
xuống huyện.
Mạng cấp III: Nội huyện, đảm bảo thông tin từ huyện xuống xã.
- Yếu tố ảnh hưởng thuộc môi trường hoạt động:
Môi trường kinh doanh được hiểu là tất cả các yếu tố thuộc về môi
trường xung quanh tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Môi trường kinh doanh là nhân tố chủ yếu tác động gián tiếp đến
chất lượng dịch vụ Bưu chính; nó bao gồm môi trường cạnh tranh, môi
trường tự nhiên và môi trường công nghệ:
* Môi trƣờng cạnh tranh:
Hàng rào thuế quan đang dần dần được xóa bỏ, hạ tầng cơ sở Viễn
thông ngày càng được cải thiện, sự xuất hiện và tăng cường hợp tác đa
quốc gia trong giao thông và kinh doanh chuyển phát thông tin, tất cả được
kết hợp lại với nhau để tiến tới toàn cầu hóa thương mại. Các nhà khai thác
Bưu chính công cộng đang có sự cạnh tranh nhau ở một số thị trường trong
lĩnh vực Bưu chính không có sự ngăn cản cạnh tranh từ việc hợp tác giữa
các nhà khai thác đáp ứng được trách nhiệm cung cấp dịch vụ phổ cập
trong việc cải thiện mạng lưới quốc tế nhằm đảm bảo cho tất cả các nhà


14
kinh doanh các tổ chức cá nhân đều được sử dụng các dịch vụ Bưu chính
có chất lượng. Tính chất cạnh tranh trên thị trường Bưu chính diễn ra theo
những phạm vi mức độ khác nhau: (1) Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
Bưu chính trong và ngoài nước. (2) Cạnh tranh giữa việc cung cấp một
dịch vụ thuộc các ngành khác nhau. (3) Cạnh tranh giữa các dịch vụ có khả
năng thay thế lẫn nhau.
Cạnh tranh trong từng lĩnh vực Bưu chính buộc các doanh nghiệp
phải phát huy nội lực, tìm ra các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm
cũng như chất lượng phục vụ và tìm cách hạ giá thành để cạnh tranh có

hiệu quả. Sự cạnh tranh lành mạnh sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển và
người hưởng lợi đầu tiên sẽ là khách hàng. Họ được thỏa mãn nhu cầu trao
đổi thông tin với những dịch vụ chất lượng cao.
* Môi trƣờng công nghệ: Cũng như các ngành sản xuất, kinh doanh
khác, môi trường công nghệ không chỉ tác động đến năng suất, chất lượng
mà còn quyết định tới giá thành sản phẩm; tất yếu tác động tới năng lực
cạnh tranh của sản phẩm đó. Với tốc độ phát triển của khoa học kỹ thuật
như hiện nay, tốc độ đổi mới công nghệ ngày càng nhanh chóng hay nói
một cách khác là vòng đời của mỗi chủng lọai, thế hệ công nghệ đang ngày
càng rút ngắn. Vì vậy, chỉ có đánh giá đúng vòng đời của thiết bị máy móc
thì các doanh nghiệp mới có thể đưa ra các quyết định sáng suốt trong việc
đầu tư đổi mới, cải tiến hay thay thế, áp dụng công nghệ mới.
* Môi trƣờng tự nhiên: Ảnh hưởng trực tiếp đến các trang thiết bị,
phương tiện cũng như quá trình cung cấp dịch vụ. Tùy vào điều kiện địa
hình, khí hậu của từng vùng mà ta có các biện pháp xây dựng và tổ chức
mạng lưới bưu chính sao cho phù hợp để hạn chế tới mức tối đa sự ảnh
hưởng của điều kiện tự nhiên đến chất lượng thông tin. Khi xây dựng các
đường thư, tuyến thư cần xác định tuyến dự phòng, các đường thư dự
phòng để nhanh chóng khắc phục hậu quả do thiên tai xẩy ra, các bưu gửi
được vận chuyển nhanh chóng, an toàn, không bị ách tắc.
- Các chính sách của Nhà nước:


15
Các chính sách của Nhà nước là một trong những yếu tố quan trọng
có tác động và ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của các dịch vụ nói
chung và dịch vụ Bưu chính nói riêng. Rõ ràng là, một quốc gia có nền
chính trị ổn định, hệ thống luật pháp rõ ràng và có tính ổn định cao sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nước đó phát triển một cách có
hiệu quả. Khi đó, các nhà quản lý doanh nghiệp không quá khó khăn khi

quản trị rủi ro và điều này sẽ làm tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm,
dịch vụ mà họ cung cấp.
- Môi trường quốc tế:
Ngày nay, không một quốc gia nào trên thế giới có thể tồn tại và phát
triển một cách độc lập tuyệt đối mà phải có sự phụ thuộc tương đối lẫn
nhau; cùng chịu sự chi phối nhất định của một môi trường chung - môi
trường quốc tế. Sự biến động của môi trường quốc tế sẽ có những tác động
tới một số hay toàn bộ các quốc gia trên thế giới. Sự phụ thuộc tương đối
và những tác động theo kiểu hiệu ứng đô-mi-nô này đã thể hiện khá rõ ở
các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á và Mỹ La tinh trong thập
niên 1990 vừa qua Khi nói đến môi trường quốc tế đối với các sản phẩm
dịch vụ tức là đề cập đến các biến động kinh tế trên thị trường thế giới và
các nhân tố chính trị của các quốc gia. Trong đó, (1) Những biến động kinh
tế trên thị trường thế giới (sự xuất hiện hay mất đi của các liên minh kinh
tế, liên minh thuế quan; các thỏa thuận thương mại đa và song phương )
nhất định sẽ tác động tới năng lực cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ
theo nhiều chiều khác nhau. (2) Nhân tố chính trị mà cụ thể hơn là những
bất ổn chính trị (chia rẽ, chiến tranh, khủng bố ), những biến động chính
trị theo chu kỳ (bầu cử Tổng thống, Thủ tướng, Lưỡng Viện ) đều có tác
động nhất định tới giá trị đồng tiền của các quốc gia nên sẽ có những tác
động tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp… Hơn thế nữa có thể
đánh giá về lợi ích có được sau khi ký kết các thỏa thuận song phương với
các quốc gia. Một điều chắc chắn là hội nhập sẽ làm cho biên giới giữa các
quốc gia trở nên "mờ nhạt" hơn; quyền lợi của các quốc gia trở nên đan
xen, phụ thuộc lần nhau hơn.


16
- Mức độ thu nhập của dân cư:
Khi thu nhập tăng, cầu đối với hầu hết các hàng hóa, dịch vụ đều

tăng do với mức thu nhập cao hơn, người tiêu dùng thương có xu hướng
mua nhiều hàng hóa, sử dụng nhiều dịch vụ hơn. Các nhà nghiên cứu kinh
tế đã cho thấy rằng: Cầu đối với các loại hàng hóa thông thường, dịch vụ
thiết yếu sẽ tăng khi thu nhập của người tiêu dùng tăng và ngược lại với
các lọai hàng hóa, dịch vụ cấp thấp (những lọai hàng hóa, dịch vụ cung cấp
cho những người có mức thu nhập thấp). Hơn thế nữa, cùng với dự gia tăng
về thu nhập của người tiêu dùng, theo thời gian, một lọai hàng hóa, dịch vụ
thông thường hôm nay có thể trở thành hàng cấp thấp trong một tương lai
không xa. Tóm lại, khi mức thu nhập thay đổi, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa
và dịch vụ sẽ có sự thay đổi. Mức độ thay đổi cũng như xu hướng dịch
chuyển (tăng hay giảm về cầu) sẽ khác nhau đối với từng chủng lọai hàng
hóa, dịch vụ cụ thể trong những thời điểm nghiên cứu khác nhau.
Với mức thu nhập thấp, mọi nhu cầu không thuộc nhóm tối thiểu đều
được hạn chế. Bưu chính nằm trong khu vực kinh tế công cộng nên việc
cần đáp ứng nhu cầu của đại đa số quần chúng nhân dân là yêu cầu tối cần
thiết. Khi người ta có mức thu nhập từ mức trung bình trở lên thì họ có nhu
cầu lớn hơn nhu cầu tổi thiểu - nhu cầu giao tiếp xã hội, tuy nhiên khi gặp
phải giới hạn về địa lý thì dịch vụ bưu chính sẽ được lựa chọn Như vậy,
rõ ràng là mức thu nhập sẽ có tác động tới khả năng phát triển của một số
ngành dịch vụ trong đó có bưu chính.
1.2. Một số kinh nghiệm quốc tế trong phát triển dịch vụ bƣu chính
1.2.1. Tình hình phát triển Bưu chính ở một số quốc gia
1.2.1.1. Bƣu chính Thuỵ Điển
- Thực trạng phát triển của bưu chính Thụy Điển
Ngành bưu chính trên toàn thế giới đang phải cạnh tranh với các
phương tiện thông tin khác, các hãng chuyển phát mới. Thuỵ Điển cũng
không phải là ngoại lệ của xu thế này. Những thay đổi về môi trường kinh
doanh đã xác định lại hình thức phát triển sản phẩm, tiếp thị và cơ cấu lại



17
trong nghành Bưu chính Thuỵ Điển. Mục tiêu quan trọng nhất của những
điều chỉnh trong ngành Bưu chính Thuỵ Điển là để phù hợp với tình hình
mới: (1) Cạnh tranh gia tăng mạnh mẽ. (2) Sự phân cấp quản lý trong nước
và quốc tế tạo cho các đối thủ cạnh tranh có khả năng lựa chọn những mảng
kinh doanh hấp dẫn nhất trong lĩnh vực bưu chính. (3) Việc tăng lưu lượng
chuyển tiền tự động (gios) dẫn đến việc tiếp tục giảm nhu cầu sử dụng bưu
cục. (4) Với chức năng của một ngành kinh tế công cộng cũng như những
quy định trong đảm bảo an sinh xã hội đòi hỏi Bưu chính Thuỵ Điển phải
tuân thủ những luật định cùng được áp dụng cho những ngành kinh doanh
khác, như: Những quy định đối với các quỹ hưu trí, mức lợi nhuận trên vốn
đầu tư thương mại, những yêu cầu về cổ tức, mức lương tương ứng và điều
kiện làm việc đối với nhân viên Trong điều kiện như vậy, Bưu chính Thuỵ
Điển đã chú trọng đầu tư khai thác ba thị trường lớn: Thông tin /điện tín;
Vận tải hàng hoá/ hậu cần; Xử lý thanh toán/ các dịch vụ tài chính (Xin tham
khảo Phụ lục I).
+ Thông tin điện tín
Trong thị trường thông tin/điện tín, dịch vụ bưu phẩm của Bưu chính
Thuỵ Điển phải đương đầu với cạnh tranh từ ba lĩnh vực chính: Viễn thông
và truyền số liệu; thông tin trên nền máy tính và các công ty chuyển phát
khác. (1) Viễn thông và truyền số liệu: Trong những năm gần đây, do sự
cạnh tranh từ điện thoại và các loại hình thông tin số liệu (Telefax ) đã
làm giảm sút nhu cầu thông tin qua thư tín. Bưu chính Thuỵ Điển ước tính
rằng một trong ba bức điện telefax đã thay thế một bức thư. (2) Thông tin
trên nền máy tính: Do mức độ phổ cập máy tính ngày càng cao, chi phí
thấp, tiện ích lớn nên thư điện tử trở thành một phương tiện thông tin được
ưa chuộng; và nó đã trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ, chiếm ưu thế
của thư tín thông thường. (3) Các công ty chuyển phát khác: Bên cạnh sự
cạnh tranh trong các dịch vụ chuyển phát thư trong nước, sự cạnh tranh với
các công ty chuyển phát quốc tế và các dịch vụ thư/bưu kiện chuyển phát

nhanh trong thị trường điện tín quốc tế đang diễn ra rất mạnh mẽ. Sự gia
tăng dịch vụ tái gửi là mối đe doạ tới lưu lượng bưu gửi đi quốc tế.


18
+ Vận tải hàng hoá/hậu cần
Cạnh tranh trong lĩnh vực vận tải hàng hoá / hậu cần diễn ra cả trên thị
trường trong nước và quốc tế. Ở thị trƣờng trong nƣớc, cạnh tranh gay gắt
diễn ra trong lĩnh vực phân phối và vận tải hàng hoá. Hãng Bilspedition
(chiếm 36% thị phần); hãng ASG (chiếm 30% thị phần) là những đối thủ
cạnh tranh chính của Bưu chính Thuỵ Điển (23,5% thị phần trên tổng doanh
số). Trong lĩnh vực vận tải hàng hóa, mặc dù chỉ chiếm thị phần nhỏ đối với
hàng hóa nặng nhưng Bưu chính Thuỵ Điện vẫn giữ vị trí chủ đạo trong lĩnh
vực vận tải hàng hoá nhẹ (dưới 35kg). Trên thị trƣờng quốc tế, lợi nhuận
trong thị trường vận tải quốc tế thấp; sự sáp nhập, hợp nhất, mua lại các
công ty và sự liên minh dẫn đến những thay đổi đột biến về vị trí của Bưu
chính Thuỵ Điển. Việc cơ cấu lại trong thị trường này sẽ còn tiếp tục diễn ra,
buộc Bưu chính Thuỵ Điển phải nâng cao năng lực cạnh tranh hơn nữa.
+ Xử lý thanh toán/ các dịch vụ tài chính
Trong thị trường này, đối thủ cạnh tranh của Bưu chính Thụy Điển
chính là các ngân hàng thương mại và các hệ thống thanh toán điện tử. Việc
xoá bỏ độc quyền của công ty Postgirot đối với các khoản thanh toán,
chuyển khoản của chính phủ sẽ tạo điều kiện cho thị trường này được mở
rộng hơn nữa. Hơn thế nữa, trong khoảng 10 năm qua, các giao dịch qua hệ
thống bưu cục đã giảm xuống khoảng hơn 1/3 và xu hướng này chắc chắn sẽ
tiếp tục do tự động hoá trong dịch vụ thanh toán đang ngày càng phổ cập.
- Một số giải pháp đã được bưu chính Thụy Điển triển khai
Bưu chính Thuỵ Điển đang trong quá trình phát triển, đổi mới và cơ
cấu lại để đáp ứng những điều kiện mới hình thành do việc phân cấp quản
lý, công nghệ mới và quốc tế hoá. Năm 1993, Bưu chính Thuỵ Điển đã

vượt kế hoạch lợi nhuận trên vốn đầu tư do nhà nước đặt ra cho năm thứ
sáu và đã đạt được lợi nhuận ròng là 1.363 triệu SKr (Koron Thụy Điển).
Để đạt được mức lợi nhuận này, Bưu chính Thuỵ Điển đã đầu tư để cải tiến
sản xuất cao hơn mức bình thường khoảng 3% trong năm 1993 tương
đương với mức tăng lợi nhuận khoảng 600 triệu SKr. Để đứng vững trên


19
thị trường cạnh tranh, bưu chính Thuỵ Điển đã áp dụng một số giải pháp cơ
bản sau:
+ Phát triển dịch vụ và cung cấp sản phẩm mới: Bưu chính Thuỵ
Điển tiếp tục chỉ đạo các bộ phận phát triển dịch vụ và sản phẩm mới; nâng
cao năng lực cạnh tranh với các đối thủ đến từ các quốc gia khác. Vào đầu
năm 1994, một trong số các sản phẩm mới của bưu chính Thụy Điển là "E-
post", đã được nhận giải thưởng "Ngƣời đổi mới của năm" tại hội chợ công
nghiệp quốc tế.
+ Đẩy mạnh cạnh tranh trong ngành và coi đây nhƣ động lực cho sự
phát triển: Trái với những quan điểm về việc duy trì bảo hộ độc quyền
trong Bưu chính, Bưu chính Thuỵ Điển đã không đòi hỏi bảo hộ độc quyền
để thực thi nghĩa vụ cung cấp dịch vụ phổ cập. Vì vậy, Bưu chính Thuỵ
Điển đã vận động nhằm xoá bỏ độc quyền theo luật pháp về thư tín của
mình. Điều này đã khẳng định rằng lợi ích mà môi trƣờng cạnh tranh mang
lại nhiều hơn lợi ích tối thiểu mà độc quyền đem lại. Trên thực tế, việc bảo
hộ độc quyền đã tác động tiêu cực tới hình ảnh của toàn ngành Bưu chính
Thuỵ Điển; đặc biệt là các lĩnh vực không được bảo hộ. Bưu chính Thụy
Điển đã chủ động đón nhận cạnh tranh. Thực tế là, mặc dù không còn được
bảo hộ, tiếp tục đảm bảo cung cấp dịch vụ phổ cập nhưng Bưu chính Thuỵ
Điển vẫn thu được lợi nhuận. Nguyên nhân cơ bản là lợi nhuận từ những
lĩnh vực kinh doanh cơ bản (đã được thương mại hóa cao độ) đã lớn hơn
yêu cầu được bù lỗ từ những đơn vị kinh doanh không có lãi (đa phần là

các dịch vụ phổ cập). Tuy nhiên, Bưu chính Thuỵ Điển có thể hỗ trợ lợi
nhuận của mình bằng việc nhận sự bù đắp chi phí khi thực hiện một số
nghĩa vụ xã hội. Những vùng và khu vực kinh doanh không có lãi được trợ
giá chéo từ những lĩnh vực kinh doanh cơ bản có lãi của Bưu chính Thuỵ
Điển.
Bưu chính Thuỵ Điển đã nhanh chóng áp dụng công nghệ vào các sản
phẩm mới. Bưu chính hiện đang là nhà cung cấp hàng đầu các dịch vụ điện
tử và dịch vụ lai ghép với khoảng 10% lưu lượng thư tín được truyền dưới
dạng điện tử. Sự cạnh tranh từ các nhà cung cấp khác chắc chắn sẽ thúc đẩy


20
các cơ quan Bưu chính phải đổi mới để tồn tại. Bưu chính Thuỵ Điển đã
thành công và đang dẫn đầu về mặt đổi mới phương thức, biện pháp và
chủng loại dịch vụ để phát triển.
1.2.1.2. Bƣu chính Singapore
Với xu hướng nhu cầu ngày càng tăng, các cơ quan bưu chính dần
thoát khỏi chức năng là một cơ quan cung cấp dịch vụ công cộng và tiến
tới kinh doanh như các doanh nghiệp thương mại; họ cần phải hướng tới
khách hàng, nhanh chóng đáp ứng trong một số lĩnh vực cốt yếu, có khả
năng độc lập về tài chính. Để chuyển đổi sang một tổ chức năng động và
tiên tiến như vậy, các cơ quan Bưu chính cần phải giảm bớt quan liêu, phải
có khả năng thực hiện nhanh chóng các hành động và ý tưởng, phải cải tiến
và có bản sắc riêng. Về các lĩnh vực này, Bƣu chính Singapore là một ví dụ
điển hình về thƣơng mại hóa thành công và đang chuẩn bị hoàn thành
những bƣớc cuối cùng của quá trình tự do hóa Bƣu chính.
Bưu chính Singapore là trường hợp rất đặc biệt do đang thực hiện
các biện pháp đổi mới mặc dù Singapore là một trong số ít nước có cơ quan
Bưu chính cung cấp cho dân chúng dịch vụ bưu chính với chất lượng tốt,
giá cả phải chăng và cũng đã thành công về mặt tài chính. Tuy nhiên, để có

thể tham gia vào môi trường thay đổi nhanh chóng và cạnh tranh ngày càng
gay gắt, chính sách phát triển Bưu chính của Singapore đã đi trước một
bước bằng việc đưa ra phương hướng và quyền hạn cho Bưu chính
Singapore tiếp tục hoàn thiện chính mình để cạnh tranh. Do vậy, trái với
phần lớn các nước, công cuộc đổi mới Bưu chính ở Singapore không
hướng tới mục tiêu phục hồi tình hình khủng hoảng. Điều này là một minh
chứng thực tế rằng chính sách công cộng đã duy trì được mối quan hệ sâu
rộng đối với các hoạt động khai thác của cơ quan Bưu chính và chính sách
quản lý được định hướng cho sự phát triển Bưu chính vì lợi ích xã hội. Do
vậy, trường hợp của Bưu chính Singapore không chỉ là một minh chứng về
việc cơ quan Bưu chính đã có những bước đi phù hợp và cần thiết trong
từng giai đoạn để duy trì tính cạnh tranh của mình mà còn cho thấy môi

×