Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ở Việt Nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 138 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
_____




KIM NGỌC ANH


PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG LĨNH VỰC PHÁT THANH -
TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM: THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ XHCN
Mã số: 5. 02. 01


LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ


Người hướng dẫn: TIẾN SỸ TẠ ĐỨC KHÁNH








HÀ NỘI, 12/2005




MỤC LỤC



Mục lục
Trang


Danh mục chữ viết tắt
1


Phần mở đầu
3
Chương 1

NGUỒN NHÂN LỰC VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
9
1.1

NGUỒN NHÂN LỰC VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC
9

1.1.1

Nguồn nhân lực
9
1.1.1.1

Quan niệm về nguồn nhân lực
9
1.1.1.2

Vai trò của nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị trường
12
1.1.2

Phát triển nguồn nhân lực
14
1.1.2.1

Quan niệm về phát triển nguồn nhân lực
14
1.1.2.2

Đặc điểm của phát triển nguồn nhân lực
15
1.1.2.3

Nội dung phát triển nguồn nhân lực
19
1.2


ĐẶC ĐIỂM NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC
PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH VÀ KINH NGHIỆM
CỦA MỘT SỐ NƯỚC
23
1. 2.1

Đặc điểm nguồn nhân lực trong lĩnh vực phát thanh -
truyền hình
23
1.2.1.1

Sản phầm và dây chuyền công nghệ
23
1.2.1.2

Đặc điểm nguồn nhân lực phát thanh - truyền hình
26
1.2.2

Kinh nghiệm của một số nước về phát triển nguồn nhân
lực trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình
29
1.2.2.1

Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc - CCTV
29
1.2.2.2

Đài Phát thanh - Truyền hình Malaisia - RMT
35

1.2.2.3

Đài phát thanh Hà Lan - RNTC
37
Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG LĨNH VỰC PT - TH VIỆT NAM
40
2.1

KHÁI QUÁT VỀ PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH
VIỆT NAM
40

2.1.1

Vai trò của Phát thanh - Truyền hình trong hệ thống
của các phương tiện truyền thông đại chúng
40
2.1.2

Sơ lược về quá trình xây dựng và trưởng thành của
Phát thanh - Truyền hình Việt Nam
41
2.1.2.1

Các giai đoạn phát triển của Đài Tiếng nói Việt Nam
(TNVN) và Truyền hình Việt Nam (THVN)
41

2.1.2.2

Chức năng, nhiệm vụ của Đài TNVN và Đài THVN
42
2.1.2.3

Cơ cấu tổ chức và các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của Đài
TNVN, Đài THVN hiện nay
44
2.2

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC TẠI ĐÀI TNVN VÀ ĐÀI THVN
50
2.2.1

Tổng quan về nguồn nhân lực của Đài TNVN và Đài
THVN
50
2.2.2

Đánh giá về chất lượng nguồn nhân lực và phát triển
nguồn nhân lực Đài TNVN và THVN thời gian qua
53
2.2.2.1

Trong công tác quy hoạch đội ngũ lãnh đạo, quản lý
54
2.2.2.2


Trong công tác tuyển dụng nguồn nhân lực
55
2.2.2.3

Về công tác bố trí, sử dụng lao động
58
2.2.2.4

Về công tác đào tạo, phát triển nhân lực
59
2.2.2.5

Công tác đào tạo nguồn nhân lực tại các Trường nghiệp
vụ PTTH
62
2.2.2.6

Về lương bổng và đãi ngộ vật chất đối với nhân lực tại
Đài TNVN và THVN
63
2.2.3

Những hạn chế
64
2.2.3.1

Về chất lượng nguồn nhân lực
64
2.2.3.2


Trong công tác quy hoạch cán bộ
67
2.2.3.3

Trong công tác thu hút, tuyển dụng, bố trí, sử dụng nhân
lực
68
2.2.3.4

Trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
69
2.2.3.5

Về cơ chế, chính sách tạo động lực cho nguồn nhân lực
phát triển
71

2.2.4

Nguyên nhân của hạn chế
73
2.2.4.1

Mô hình quản lý hệ thống PTTH chưa phù hợp với tình
hình hiện nay
73
2.2.4.2

Chưa làm tốt khâu quy hoạch nguồn nhân lực
73

2.2.4.3

Chính sách tuyển dụng nhân lực còn nhiều hạn chế
75
2.2.4.4

Chính sách sử dụng, bố trí nhân lực còn nhiều hạn chế
77
2.2.4.5

Công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chưa hiệu
quả
78
2.2.4.6

Chế độ lương và đãi ngộ vật chất đối với nguồn nhân lực
còn bất cập
81
Chương 3

TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN PHÁT THANH -
TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC THỜI GIAN TỚI
85
3.1

TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN CỦA PHÁT THANH -
TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
85
3.1.1.


Những yếu tố tác động đến sự phát triển của Phát thanh
- Truyền hình Việt Nam trong thời gian tới
85
3.1.1.1

Nhu cầu về thông tin của công chúng
85
3.1.1.2

Quan điểm, chính sách của Nhà nước
86
3.1.2

Triển vọng phát triển Truyền hình Việt Nam trong thời
gian tới
88
3.1.3

Triển vọng phát triển Phát thanh Việt Nam trong thời
gian tới
93
3.2

MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CẦN QUÁN TRIỆT ĐỂ PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC
PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH THỜI GIAN TỚI
97
3.2.1


Quán triệt quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng
về công tác phát triển nguồn nhân lực
97
3.2.2

Công tác phát triển nguồn nhân lực cần phải bám sát
chiến lược phát triển và đặc thù của ngành
98
3.2.3

Đổi mới cách nhận thức về vị trí và chức năng của
99

người làm phát thanh - truyền hình.
3.2.4

Đổi mới chính sách phát triển nhân lực tiến hành cùng
với việc đổi mới chính sách phát triển có liên quan chặt
chẽ và chi phối chính sách phát triển nhân lực.
99
3.2.4.1

Nghiên cứu đổi mới mô hình quản lý hệ thống PTTH Việt
Nam
99
3.2.4.2.

Tuyển dụng và sắp xếp lại nhân lực
100
3.2.4.3


Về tiền lương.
101
3.2.4.4

Thu nhập khác ngoài lương
101
3.2.4.5

Vấn đề đào tạo đội ngũ
102
3.2.5

Đổi mới chính sách phát triển nguồn nhân lực trong
điều hiện hiện nay không thể tiến hành tràn lan mà có
trọng điểm và qua thí điểm, đúc rút kinh nghiệm rồi
mới triển khai diện rộng
103
3.3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC PHÁT THANH -
TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
104
3.3.1

Chú trọng công tác quy hoạch nguồn nhân lực
105
3.3.2


Đổi mới chính sách tuyển dụng, sử dụng nguồn nhân
lực
106
3.3.2.1

Đổi mới tư duy quản lý nhân sự
106
3.3.2.2

Có chính sách sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực bên
ngoài xã hội
107
3.3.2.3

Nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng nhân lực
108
3.3.3

Có chính sách điều tiết hợp lý trong chế độ tiền lương
và đãi ngộ vật chất đối với nguồn nhân lực
109
3.3.3.1

Tiến hành thí điểm khoán kinh phí cho các đơn vị sản
xuất
109
3.3.3.2

Nghiên cứu, đề xuất đổi mới chế độ lương và đãi ngộ
110

3.3.3.3

Xây dựng chế độ bảo hiểm hay trợ cấp thất nghiệp cho
lao động trong ngành phát thanh - truyền hình
111

3.3.4

Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
111
3.3.4.1

Công tác đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nhân lực
111
3.3.4.2

Công tác đào tạo nguồn nhân lực tại các trường nghiệp
vụ phát thanh - truyền hình
119


KẾT LUẬN
121


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
124





1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


ABU

Asia Broadcasting Union - Hiệp hội phát thanh - truyền
hình Châu á Thái Bình Dương
ACCT

Cơ quan hợp tác Văn hoá, Khoa học kỹ thuật thuộc Đại sứ
quan Pháp
AFTA

Asean Free Trade Agency - Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN
AIBD

Asia Institus Broadcasting Development - Viện phát
triển phát thanh - truyền hình Châu á Thái Bình Dương
AIF

Tổ chức liên Chính phủ Pháp ngữ
ASEAN

Asian South east Acociation Nations - Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam á
CCTV


Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc
CIRTEF

Hiệp hội các Đài Phát thanh, Truyền hỡnh cỏc nước sử
dụng tiếng Pháp
CNH, HĐH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CTQG

Chính trị quốc gia
DW

Đài Phát thanh - Truyền hỡnh Làn súng Đức
Đài TNVN

Đài Tiếng nói Việt Nam
Đài THVN

Đài Truyền hình Việt Nam
GDP

Thu nhập bình quân đầu người
ILO

International Labours Organization - Tổ chức Lao động
quốc tế
NXB

Nhà xuất bản

OIJ

Organization International Journalists - Tổ chức Quốc
tế cỏc Nhà bỏo
PTTH

Phát thanh - Truyền hình
RMT

Đài Phát thanh - Truyền hình Malaisia


2
RNTC

Trung tâm Đào tạo phát thanh Hà Lan
SEF

Tổ chức Quỹ Môi trường Thụy Điển
SIDA

Cơ quan phát triển quốc tế Thuỵ Điển
UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Văn hoá và Khoa học của Liên hợp
quốc
UNICEF

Tổ chức chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em của Liên
hiệp quốc

UBND

Uỷ ban Nhân dân
WTO

World Trade Organization - Tổ chức Thương mại quốc
tế
VOV

Voice of Vietnam - Đài Tiếng nói Việt Nam
VTV

Vietnam Television - Đài Truyền hình Việt Nam




























3
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ cuối năm 1986, Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới, trọng tâm là
lĩnh vực kinh tế. Công cuộc đổi mới đã đem lại nhiều thành tựu quan trọng trên
các mặt kinh tế xã hội. Những thành tựu đó đã khắc phục được tình hình khủng
hoảng kinh tế xã hội, tạo các tiền đề để nước ta bước vào thời kỳ phát triển mới.
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, văn hoá - xã hội, báo chí nước nhà đã có
sự phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Sự phát triển đó là kết
quả của những thành tựu chung của công cuộc đổi mới diễn ra hết sức sâu rộng,
nhưng đồng thời bản thân báo chí cũng tự đổi mới vươn lên mạnh mẽ và đã có
những đóng góp quan trọng đối với sự nghiệp đổi mới của đất nước. Báo chí đã
vượt lên những yếu kém để hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình. Bước trưởng
thành quan trọng của báo chí không chỉ thể hiện về số lượng mà còn thể hiện rõ
ở nội dung và những đóng góp của báo chí đối với công cuộc đổi mới. Đó là
luôn tuyên truyền, cổ vũ cho đường lối đổi mới của Đảng, góp phần quan trọng
vào thắng lợi chung của cách mạng, vào việc thực hiện những nhiệm vụ thường
xuyên và đột xuất, về đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước, vào việc nâng
cao dân trí, bảo vệ và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, lựa

chọn tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại Hoạt động báo chí, đặc
biệt là với chức năng làm cầu nối, diễn đàn của nhân dân, đã tạo ra bầu không
khí cởi mở, dân chủ trong xã hội. Báo chí cũng đã góp phần tích cực đưa thông
tin ra nước ngoài, giúp cho nhân dân thế giới, nhất là cộng đồng người Việt hiểu
rõ tình hình đất nước, góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá Việt
Nam trên lĩnh vực thông tin, tư tưởng, văn hoá.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
VIII khi đánh giá về thành tựu trong hoạt động của hệ thống thông tin đại chúng
đã chỉ rõ: “ Nói chung hệ thống thông tin đại chúng (báo chí, phát thanh, truyền
hình ) hoạt động đúng định hướng của Đảng, Nhà nước, phục vụ đắc lực và có


4
hiệu quả sự nghiệp đổi mới; Báo chí góp phần đổi mới tư duy trên nhiều lĩnh
vực, tham gia tổng kết sâu sắc lý luận thực tiễn góp phần hoàn thiện đường lối
đổi mới của Đảng ta ”.
Như vậy, hoà mình vào hoạt động báo chí, Phát thanh - Truyền hình Việt
Nam đã đóng góp phần quan trọng vào thành tựu chung ấy, trở thành món ăn
tinh thần không thể thiếu trong đời sống của mọi tầng lớp nhân dân.
Những thành tựu, tiến bộ và đổi mới trong thời gian qua của báo chí là tín
hiệu rõ rệt và rất đáng phấn khởi. Tuy nhiên cũng giống như nhiều lĩnh vực khác
trong đời sống xã hội, bên cạnh mặt tích cực và cơ bản đó, báo chí nói chung và
Phát thanh - Truyền hình Việt Nam nói riêng cũng đang đứng trước những yêu
cầu, những đòi hỏi mới, bên cạnh sự phát triển toàn diện như đã trình bày thì
công tác phát triển nguồn nhân lực càng phải làm tốt.
Trong nền kinh tế hiện đại, nguồn nhân lực vừa là nguồn lực to lớn vừa là
động lực làm tăng năng suất lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế, là yếu tố quyết định
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Bởi vỡ chỉ cú nguồn nhõn lực mới cú
khả năng phát minh, tiếp thu và áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ

mới, công nghệ cao, sử dụng hiệu quả các nguồn lực vật chất khác trong quá
trỡnh sản xuất xó hội, trở thành lực lượng xung kích, đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập, đi tới nền kinh tế tri thức. Phát triển
nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa
ở Việt Nam là một trong những giải phỏp đột phá nhằm thực hiện thắng lợi
chiến lược phát triển cả ở cấp cơ sở (doanh nghiệp, đơn vị kinh tế, địa phương)
và cấp quốc gia.
Phân tích thực trạng chất lượng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân
lực trong lĩnh vực phát thanh - truyền hỡnh Việt Nam tỏc giả thấy cũn bộc lộ
nhiều hạn chế và bất cập: Với phương thức tổ chức và quản lý nguồn nhân lực
như hiện nay sẽ không giải quyết được nhiệm vụ tập trung trí lực của rộng rãi
các thành phần sáng tạo trong xã hội nhằm làm các chương trình phát sóng có


5
chất lượng cao. Phải chuyển từ cơ chế quản lý nhân lực theo mô hình của đơn vị
hành chính là chủ yếu sang mô hình đơn vị sản xuất đặc thù. Nói cách khác,
phải có cơ chế sử dụng có kế hoạch, phù hợp với đặc điểm riêng biệt về chính trị
cũng như nghiệp vụ của phỏt thanh truyền hình, các nguồn nhân lực từ xã hội.
Mặt khác, thực trạng chất lượng nguồn nhân lực Đài phát thanh và Đài Truyền
hỡnh quốc gia cũng cũn nhiều điều phải bàn: có quá ít các chuyên gia đầu
ngành, mới có 0,3% tiến sỹ; chưa đến 2% có trỡnh độ thạc sỹ; Phát thanh -
truyền hỡnh đũi hỏi một đội ngũ nhân lực có tri thức cao, trong khi vẫn cũn cú
29,7% tổng số nhân lực cú trỡnh độ trung cấp, công nhân (tỷ lệ này là quá cao so
với cơ cấu trỡnh độ thực tế đũi hỏi) và chỉ cú 21,7% cú trỡnh độ ngoại ngữ trong
khi yêu cầu này ngày càng đũi hỏi cao trước xu thế hội nhập; cơ cấu lao động có
đến 36,4% dưới 30 tuổi cho thấy lực lượng lao động xung kích khá đông đảo
nhưng lại báo động về chất lượng công tác, vỡ lực lượng này chưa có tích luỹ
nhiều về kinh nghiệm,
Những vấn đề vừa trình bày ở trên cho thấy, công tác phát triển nguồn

nhân lực trong lĩnh vực Phát thanh - Truyền hình Việt Nam thời gian qua tự thân
đang đặt ra một yêu cầu khách quan cần nghiên cứu tổng kết thực tiễn và có giải
pháp nhằm phát huy những thế mạnh và khắc phục những hạn chế về công tác
này nhằm hoàn thành nhiệm vụ và nâng cao vai trò của phát thanh - truyền hình
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Luận văn Thạc sỹ kinh tế chính trị: “Phỏt triển nguồn nhõn lực trong
lĩnh vực Phát thanh - Truyền hình Việt Nam: Thực trạng và giải pháp” trên
cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn của quá trình xây dựng và phát
triển tại Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Truyền hình Việt Nam nhằm giúp phần
nào giải quyết được những đũi hỏi khỏch quan, cấp thiết của quỏ trỡnh đổi mới
của hệ thống phát thanh - truyền hỡnh Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Vì vậy, việc nghiên cứu, tổng kết đưa ra những giải pháp cho công tác
phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình Việt Nam là


6
một yêu cầu cấp bách, một đòi hỏi khách quan xuất phát từ thực tiễn đời sống xã
hội của báo chí.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu:
Để duy trỡ và nõng cao chất lượng nguồn nhân lực luôn theo kịp với nhịp
độ phát triển chung của toàn xó hội đũi hỏi mỗi tổ chức, mỗi ngành cần phải cú
một chiến lược về phát triển nguồn nhân lực phù hợp với tỡnh hỡnh thực tế và
nguồn lực hiện cú. Chính vì vậy, phát triển nguồn nhân lực đó được rất nhiều cơ
quan, tổ chức và các nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu như: “Phát
triển nguồn nhân lực khu vực Đông Á thông qua giáo dục, đào tạo - Kinh
nghiệm Đông Á” của tỏc giả Lờ Thị Lóm, Viện nghiờn cứu kinh tế thế giới do
NXB Khoa học Xó hội xuất bản năm 2003; “Phát triển nguồn nhân lực công
nghiệp cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam” của Tiến sỹ Trương Thị Minh
Sâm, Viện khoa học và xó hội Tp Hồ Chớ Minh thuộc Trung tõm Khoa học xó

hội nhõn văn quốc gia do NXB Khoa học Xó hội xuất bản năm 2003; “Phát triển
nhân lực khoa học công nghệ ưu tiên ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá” của Đặng Bá Lâm và Trần Khánh Đức, do NXB Giáo dục
xuất bản năm 2002; “Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở
Việt Nam hiện nay” của TS. Hồ Anh Dũng, NXB Khoa học xã hội 2002; “Sử
dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam” của tiến sỹ Nguyễn Hữu
Dũng, NXB Lao động - xó hội 2003,…
Ngoài ra còn một số bài viết trên các báo, tạp chí đề cập tới vấn đề phát
triển nguồn nhân lực, song vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
đầy đủ, có hệ thống về chính sách phát triển nguồn nhân lực phỏt thanh - truyền
hình Việt Nam. Mọi nghiên cứu chỉ dừng ở mức báo cáo kinh nghiệm hay thực
hiện một cách bị động, định lượng, thiếu tính hệ thống chưa có cơ sở khoa học
vững chắc. Do đó đề tài hy vọng góp phần làm sáng tỏ thêm về vấn đề này.
3. Mục đích nghiờn cứu
Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng chất lượng nguồn nhân
lực, cũng như thực trạng phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực phát thanh -


7
truyền hình Việt Nam, luận văn đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm phát triển
nguồn nhân lực trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiờn cứu
Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng nguồn nhân lực và công tác phát triển
nguồn nhân lực trong lĩnh vực PTTH Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Nguồn nhân lực và công tác phát triển nguồn nhân
lực nguồn nhân lực tại Đài TNVN và THVN trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt từ
năm 1993 trở lại đây, năm Chính phủ ban hành Nghị định 52/CP và 53/CP về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Đài THVN và Đài
TNVN, đánh dấu cho sự phát triển mạnh mẽ của hai loại hình báo chí: phát
thanh và truyền hình. Việc nghiên cứu đưa ra những giải pháp phát triển nguồn

nhân lực cho toàn ngành phát thanh, truyền hình từ tổng kết thực tiễn tại hai Đài
Trung ương là đầy đủ vì:
Thứ nhất, hai Đài quốc gia là hai mô hình có tính điển hình nhất, tiên tiến
nhất về quá trình hình thành, phát triển (ngay từ năm 1945), về công nghệ, về
đội ngũ, hội nhập quốc tế ;
Thứ hai, tuy phân tách về chủ thể quản lý nhưng cả hai Đài quốc gia và
các Đài địa phương lại cùng có một chức năng chung là cùng với hai Đài quốc
gia thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị trên mặt trận tư tưởng - văn hoá, là tiếng nói
của đảng, nhà nước và nhân dân;
Thứ ba, hệ thống các Đài Phát thanh - Truyền hình địa phương còn chịu
sự chi phối về nghiệp vụ, nội dung chương trình, truyền dẫn phát sóng, quy
hoạch, kế hoạch phát triển ngành. của hai Đài Trung ương.
Phát triển nguồn nhân lực là một phạm trù rất rộng lớn. Nhưng do đặc
điểm của ngành mà phạm vi đề tài chỉ tập trung nghiên cứu và đưa ra những giải
pháp dưới góc độ thu hút, phát huy, nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu qủa
của nguồn nhân lực hiện có phù hợp với yêu cầu của ngành trong giai đoạn tới.
5. Phƣơng phỏp nghiờn cứu


8
Xuất phỏt từ những nguyờn lý chung dưới góc độ kinh tế chính trị, luận
văn sử dụng tổng hợp cỏc phương phỏp nghiờn cứu duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử. Các phương pháp cụ thể sử dụng là: Phõn tớch, tổng hợp, thống kế,
so sỏnh, phỏng vấn,
6. Dự kiến những đóng gúp mới của đề tài
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực và phỏt triển
nguồn nhõn lực trong nền kinh tế thị trường.
- Làm rừ thực trạng phỏt triển nguồn nhân lực tại Đài Tiếng nói Việt Nam
và Truyền hỡnh Việt Nam: Chỉ ra những mặt mạnh, những hạn chế và những
nguyên nhân trong phát triển nguồn nhân lực tại Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài

Truyền hỡnh Việt Nam thời gian qua.
- Đề xuất những giải phỏp cơ bản nhằm phỏt triển nguồn nhõn lực trong
lĩnh vực phát thanh - truyền hình thời gian tới.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: NGUỒN NHÂN LỰC VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN
Chương 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC TẠI ĐÀI TNVN VÀ ĐÀI THVN THỜI GIAN QUA.
Chương 3: TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN CỦA PHÁT THANH -
TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC PHÁT THANH –
TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM.







9




Chương 1
NGUỒN NHÂN LỰC VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


1.1. NGUỒN NHÂN LỰC VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
1.1.1. Nguồn nhân lực
1.1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực được xem xét dưới hai góc độ: Năng lực xó hội và tính
năng động xó hội của con người [11.1.9]. Ở góc độ thứ nhất, đó là nguồn cung
cấp sức lao động cho xó hội, là bộ phận quan trọng nhất của dõn số, cú khả năng
tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần cho xó hội (của cải vật chất, văn hoá và
dịch vụ). Ở góc độ này, về cơ bản, có thể hiểu nguồn lực con người hay nguồn
nhân lực là tổng thể những tiềm năng của con người (trước hết và cơ bản nhất là
tiềm năng lao động) của một quốc gia (một vùng lónh thổ) cú trong một thời kỳ
nhất định (có thể tính cho 1 năm, 5 năm hay 10 năm) phù hợp với chiến lược và
kế hoạch phát triển.
Tiềm năng đó bao hàm tổng hoà năng lực về thể lực, trí lực, nhân cách
của con người (lao động) của một quốc gia (một vùng lónh thổ), đáp ứng với
một cơ cấu nhất định của con người (lao động) do nền kinh tế - xó hội đũi hỏi.
Thực chất đó là tiềm năng của con người về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Toàn bộ tiềm năng đó hỡnh thành năng lực xó hội của con người. Xem xét
nguồn nhân lực dưới góc độ tiềm năng của nguồn nhân lực là rất quan trọng vỡ
nú cho ta định hướng phát triển nguồn nhân lực như thế nào để đảm bảo không
ngừng nâng cao năng lực xó hội của nguồn nhõn lực thụng qua giỏo dục, đào
tạo, chăm sóc sức khoẻ, Đối với từng quốc gia, năng lực xó hội của con người


10
hay tiềm năng của con người là rất khác nhau, nhưng nói chung tiềm năng đó là
vô hạn. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại xem xét nguồn nhân lực dưới dạng tiềm
năng, thỡ chưa đủ. Vấn đề quan trọng là khai thác tiềm năng đó như thế nào và
bằng biện pháp gỡ để biến tiềm năng đó thành hiện thực. Từ đó, nguồn nhân lực
phải được xem xét dưới góc độ thứ 2. Đó là tính năng động xó hội của con

người.
Nguồn nhân lực ở dạng tiềm năng là ở trạng thái tĩnh, mặc dù nguồn nhân
lực lực luôn luôn được phát triển. Nguồn lực đó phải được chuyển sang trạng
thái động, tức là được phân bố hợp lý và sử dụng cú hiệu quả. Ở đây phải làm
thế nào để chuyển nguồn nhân lực dưới dạng tiềm năng đó thành “vốn con
người - vốn nhân lực - Human Capital”. Điều căn bản nhất ở đây là phải làm thế
nào để không ngừng nõng cao tính năng động xó hội của con người, thông qua
các chính sách, thể chế và giải pháp giải phóng triệt để tiềm năng con người
(trong đó quan trọng nhất là giải phóng sức lao động). Con người với tiềm năng
vô tận, nếu được tự do phát triển, tự do tư duy sáng tạo và cống hiến, được đánh
giá đúng giá trị lao động, giá trị sáng tạo và cống hiến thỡ tiềm năng vô tận đó
của nguồn nhân lực sẽ được khai thác và phát huy, trở thành nguồn vốn vô cùng
to lớn. Khai thác tối đa tiềm năng con người, đặc biệt là tiềm năng trớ tuệ và tay
nghề là một trong những chỉ bỏo quan trọng phản ỏnh trỡnh độ phát triển của
một quốc gia. Kinh nghiệm các nước, ngay cả các nước phát triển, cho thấy việc
khai thác tiềm năng con người cũn rất hạn chế.
Như vậy, nguồn lực con người được hiểu là tổng hoà trong thể thống nhất
hữu cơ giữa năng lực xó hội của của người (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính
năng động xó hội của con người. Tính thống nhất đó được thể hiện ở quá trỡnh
biến nguồn lực con người thành vốn con người. Có thể biểu diễn mối quan hệ
này bằng mụ hỡnh sau:



Nguồn
nhõn
lực
Năng lực xó hội của con người
Tính năng động xó hội của con người
Nguồn

vốn nhõn
lực


11



Theo quan điểm của Đảng ta: “Nguồn nhân lực bao gồm cả sức lao động,
trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc ta” (Bỏo Nhõn dõn, ngày
26/8/1998). Đó là một quan niệm rất đúng đắn, có cơ sở khoa học và rất khỏi
quỏt.
Nguồn nhân lực, theo cách tiếp cận mới, có nội hàm rất rộng, bao gồm
các yếu tố cấu thành về lực lượng, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến
thức, tính năng động xó hội và sức sỏng tạo, truyền thống và lịch sử, nền văn
hoá, Có thể cụ thể hoá và phân loại các yếu tố cấu thành nguồn nhân lực theo
các nhóm sau đây:
- Quy mô, cơ cấu lao động và sức trẻ của nguồn nhân lực. Nhóm này
liên quan đến các vấn đề về lao động tham gia vào quá trỡnh sản xuất
kinh doanh của một quốc gia (vựng lónh thổ), hay tổ chức kinh tế,
trong một thời kỳ nhất định.
- Trỡnh độ và chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực. Đây là yếu tố
cấu thành đặc biệt quan trọng có tính chất quyết định nguồn nhân lực
trong tiếp thu, làm chủ và thích nghi với kỹ thuật, cụng nghệ cao và
quản lý nền kinh tế tri thức. Nhúm này liờn quan và phụ thuộc vào sự
phỏt triển của giỏo dục - đào tạo và dạy nghề của một quốc gia trong
điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập trong xu thế toàn
cầu hoá.
- Nhúm yếu tố cấu thành nguồn nhân lực thể hiện ở tính năng động xó
hội hội và sức sỏng tạo của con người. Nhóm này liên quan đến môi

trường pháp luật, thể chế và chính sách, cơ chế giải phóng sức lao
động, tạo động lực để con người phát triển, phát huy tài năng và sức
sáng tạo của mỡnh trong nền kinh tế thị trường định huớng xó hội chủ
nghĩa.


12
- Cuối cùng, nhóm yếu tố cấu thành nguồn nhân lực liên quan đến
truyền thống lịch sử và nền văn hoá một quốc gia, một tổ chức kinh
tế, Nó bồi đắp và kết tinh trong mỗi con người và cả cộng đồng, hun
đúc nên bản lĩnh, ý chớ, tỏc phong của con người trong lao động.
1.1.1.2. Vai trò của nguồn nhõn lực trong phỏt triển kinh tế thị trường
Trong thế giới hiện đại, khi chuyển sang nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri
thức và trong xu thế toàn cầu hoỏ, hội nhập kinh tế quốc tế, chỳng ta ngày càng
nhận thức rừ hơn về vai trũ quyết định của nguồn nhân lực trong phát triển. Các
lý thuyết tăng trưởng kinh tế gần đây đó chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng
trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất 3 trụ cột cơ bản là: Áp dụng
công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực. Trong đó, yếu tố và cũng là động lực quan trọng nhất của sự tăng
trưởng kinh tế bền vững chính là con người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất
lượng, tức là con người được đầu tư phát triển, tạo lập kỹ năng, kiến thức, tay
nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo để trở thành “nguồn vốn - vốn con người,
vốn nhân lực”. Bởi vỡ, trong một nền kinh tế toàn cầu đầy biến động và cạnh
tranh quyết liệt lúc này ưu thế cạnh tranh nghiêng về các quốc gia có nguồn
nhân lực chất lượng cao, môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư và một xó hội
ổn định. Một số nước đang phát triển và phát triển trong khu vực Đông Nam Á
(Singapore, Mailaisia) hay Hàn Quốc, đang điều chỉnh chiến lược cạnh tranh
trong tương lai, khi phát triển nền kinh tế tri thức, đó xỏc định phát triển nguồn
vốn nhân lực như là yếu tố cạnh tranh cơ bản nhất.
Nếu xem xét dưới góc độ phát triển bền vững, bao gồm tăng trưởng kinh

tế, an toàn xó hội và bảo vệ môi trường, thỡ phỏt triển nguồn vốn con người,
vốn nhân lực vừa là nguồn lực, vừa là mục tiêu cuối cùng, là đỉnh cao nhất của
quá trỡnh phỏt triển ở mỗi quốc gia. Con người ở đây được xem xét trong mối
quan hệ thống nhất giữa 2 mặt sau:
Một là, con người với tư cách là chủ thể sáng tạo ra mọi của cải vật chất
và tinh thần. Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người bằng sức lao động


13
của mỡnh, là yếu tố, là lực lượng sản xuất cơ bản nhất của quá trỡnh sản xuất
(yếu tố CUNG).
Hai là, con người, mặt khác lại là người sử dụng và tiêu dùng của cải vật
chất và tinh thần để tồn tại và phát triển thông qua quá trỡnh phõn phối, tỏi phõn
phối (yếu tố CẦU).
Giữa CUNG và CẦU luụn luụn cú mối quan hệ với nhau. Nú tồn tại,
thống nhất và phỏt triển trong một thực thể con người và trong mối quan hệ với
cộng đồng, xó hội. Từ đó, phát triển nguồn nhân lực trở thành nhu cầu trước
tiên, nhu cầu cơ bản nhất và là trung tâm của mọi quá trỡnh phỏt triển. Nhu cầu
đó nếu được đáp ứng sẽ trở thành động lực to lớn và nguồn lực nội sinh vô hạn
quyết định thúc đẩy phát triển xó hội. Ngược lại, nhu cầu phát triển nguồn nhân
lực không được định hướng đúng thỡ ý nghĩa phủ định của nó cũng rất lớn, có
thể làm cản trở, làm trỡ trệ, thậm chớ trở thành lực lượng tàn phá, dẫn đến đảo
lộn, tan ró một xó hội, tổ chức kinh tế.
Thực tế này thấy rất rừ ở mụ hỡnh tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên
thế giới và trong khu vực. Đồng thời, cũng chứng minh từ thực tế Việt Nam qua
gần 20 năm đổi mới. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, Nhà nước đó cú nhiều
chớnh sỏch phỏt huy mọi nguồn lực, nhất là nội lực nguồn nhõn lực, lao động
lành nghề, lao động chất xám tạo ra sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao đó gúp
phần tăng trưởng kinh tế nước ta ở mức cao và ổn định, nhiều sản phẩm có sức
cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu.

Chớnh vỡ vậy, ngay khi khởi xướng công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà
nước ta đó nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của yếu tố con người và xác định:
“Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển” (Nghị quyết Đại
hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam). Nghị quyết Đại hội Đảng VIII cũng nhấn
mạnh “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững”. Tổng kết thực tiễn 15 năm đổi mới và nghiên cứu lý
luận, Đảng và Nhà nước ta một lần nữa khẳng địng trong Nghị quyết Đại hội IX:


14
“Con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.

1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực
1.1.2.1. Quan niệm về phát triển nguồn nhân lực
Cho đến nay, xuất phát từ cách tiếp cận khác nhau nên khi bàn về phát
triển nguồn nhân lực vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau. Sau đây xin được trình
một số quan niệm về phát triển nguồn nhân lực:
UNESCO sử dụng khỏi niệm phỏt triển nguồn nhõn lực theo nghĩa hẹp
và quan niệm rằng, phát triển nguồn nhân lực đó là làm cho toàn bộ sự lành
nghề của dân cư luôn luôn phù hợp trong mối quan hệ với sự phát triển của đất
nước.
CÁC NHÀ KINH TẾ: Cú quan niệm phỏt triển nguồn nhõn lực gần với
quan niệm của UNESCO là phải gắn với phát triển sản xuất và chỉ nên giới hạn
phát triển nguôn nhân lực trong phạm vi phát triển kỹ năng lao động và thích
ứng với yêu cầu về việc làm.
ILO: lại cho rằng phát triển nguồn nhân lực bao hàm phạm vi rộng hơn.
Không chỉ là sự chiếm lĩnh trỡnh độ lành nghề hoặc bao gồm ngay cả vấn đề
đào tạo nói chung, mà cũn là phỏt triển năng lực và sử dụng năng lực đó của con
người để tiến tới có được việc làm hiệu quả, cũng như thoả món nghề nghiệp và

cuộc sống cỏ nhõn. Sự lành nghề được hoàn thiện nhờ bổ sung, nõng cao kiến
thức trong quỏ trỡnh sống và làm việc.
LIấN HỢP QUỐC: Nghiêng về sử dụng khái niệm phát triển nguồn nhân
lực con người theo nghĩa rộng, bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng
con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xó hội và nõng cao chất lượng cuộc
sống. Như vậy cách hiểu của hệ thống Liên hiệp quốc bao quát hơn và nhấn
mạnh khía cạnh xó hội của nguồn nhõn lực. Nú vừa là yếu tố của sản xuất, của
tăng trưởng kinh tế (yếu tố đầu vào), vừa là mục tiêu của phát triển và tăng
trưởng kinh tế (yếu tố đầu ra). Cách tiếp cận này xuất phát từ lý thuyết mới về


15
phỏt triển con người, nhưng nhấn mạnh phát triển con người thế nào đó để đạt
tới con người trưởng thành, có năng lực hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xó
hội và sử dụng năng lực đó một cách có hiệu qủa. Như vậy phát triển nguồn
nhân lực là quá trỡnh làm biến đổi số lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực
ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nền kinh tế - xó hội.
Tuy nhiên, phát triển nguồn nhân lực ở đây không phải là khái niệm trừu
tượng, mà nó gắn liền với phát triển con người cụ thể, có năng lực hoạt động
kinh tế, chính trị, văn hoá, xó hội. Núi một cỏch khỏc, tức là đạt tới con người
trưởng thành, có năng lực xó hội (thể lực, trớ lực, nhõn cỏch) và tớnh năng
động xó hội cao (được phân bố và sử dụng hiệu quả).
Với nhận thức cơ bản trên đây, có thể xem xét, nhận xét về các thế mạnh
và những hạn chế, bất lợi của nguồn nhân lực ở cấp vĩ mô (một vùng, lónh thổ
hoặc quốc gia, ) hay ở cấp vi mụ (ngành, đơn vị kinh tế, một tỉnh, ), làm cơ sở
định hướng chính sách phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực trong
tương lai, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập.
1.1.2.2. Đặc điểm của phát triển nguồn nhân lực hiện nay
Bối cảnh toàn cầu của sự phát triển nguồn nhân lực. Trên thế giới ngày
nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới đang tạo ra những điều kiện để

chuyển các xã hội công nghiệp sang xã hội tri thức: từ lao động chân tay sang
lao động trí óc; từ sản xuất kiểu vật chất sang sản xuất kiểu phi vật chất; từ tính
khép kín, tính khu vực sang tính mở, tính toàn cầu. Bên cạnh đó, là sự chuyển
biến to lớn và cơ bản về quản lý và tổ chức sản xuất và các quy trình công nghệ
khác. Những điều này sẽ làm thay đổi lực trong các ngành dịch vụ, đặc biệt là
dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao như xử lý thông tin, giao dịch tài chính ngân
hàng, bưu chính viễn thông và các dịch vụ tri thức khác. Và do vậy, đòi hỏi có
sự đổi mới mang tính cách mạng về phát triển nguồn nhân lực ở hầu hết các
quốc gia.
Sự phát triển của kinh tế - xã hội nƣớc ta. Đất nước ta đang trong giai
đoạn chuyển đổi mạnh mẽ sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà


16
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu mà công cuộc đổi mới
đem lại trong thời gian vừa qua là hết sức to lớn và đáng khâm phục, đó là
chúng ta đã hạn chế được đến mức tối thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực, duy trì được mức tăng trưởng
kinh tế ổn định ở mức cao, điều kiện làm việc, điều kiện sống và sinh hoạt của
nhân dân không ngừng được cải thiện, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
ngày càng được nâng cao.
Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập hiện nay, Việt Nam đã chủ động và
tích cực tham gia vào tiến trình hội nhập với khu vực và trên phạm vi toàn thế
giới. Năm 1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á
(ASEAN) và hiện nay đang tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (gọi tắt
là AFTA) và đang có những bước chuẩn bị để gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới (WTO). Khó có thể kể hết những cơ hội mà quá trình hội nhập mang lại cho
nền kinh tế nước ta, nhưng những thách thức đi kèm theo là không nhỏ. Đồng
thời với tiến trình hội nhập, chúng ta cũng đang phải chịu rất nhiều thách thức từ
cả bên trong lẫn bên ngoài đối với việc cải cách hơn nữa nền hành chính quốc

gia, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, lành
mạnh hoá nền kinh tế, tài chính quốc gia. Để tận dụng tối đa những cơ hội và
biến những thách thức thành cơ hội cho sự phát triển của đất nước đòi hỏi phải
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về mọi mặt, năng động, sáng tạo, có khả
năng thích ứng cao với những diễn biến của đời sống kinh tế - xã hội.
Sự tiến bộ của khoa học và công nghệ. Chúng ta đang ở trong giai đoạn
mà khoa học và công nghệ đang phát triển với tốc độ như vũ bão, những tiến bộ
khoa học kỹ thuật mới liên tục ra đời trên nhiều lĩnh vực như công nghệ kỹ thuật
cao, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ điện tử - tin học
mang lại những cơ hội vô cùng to lớn cho mọi quốc gia. Những tiến bộ khoa học
kỹ thuật đang ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội từ nghiên cứu đến sản xuất, quản lý điều hành đang tạo ra những
bước đột phá về năng suất lao động cũng như hiệu lực quản lý. Nước ta là một


17
nước đang phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật còn hết sức nghèo nàn, công nghệ
sản xuất lạc hậu dẫn tới năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm không
cao, giá thành cao, do đó sức cạnh tranh rất thấp. Với chiến lược công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước, Đảng ta chủ trương đi tắt - đón đầu trong việc ứng
dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong
những năm qua, dù đất nước còn không ít khó khăn nhưng Đảng và Nhà nước
đã tập trung đầu tư rất mạnh cho phát triển lĩnh vực khoa học và công nghệ,
nhiều khu công nghiệp mới đã xuất hiện, nhiều dây chuyền sản xuất với công
nghệ hiện đại đã được đưa vào áp dụng, nhiều lĩnh vực chủ chốt của đất nước
được đầu tư đổi mới, nâng cấp trang thiết bị công nghệ. Chúng ta có thể điểm ra
đây một số lĩnh vực đã gặt hái được khá nhiều thành công trong việc ứng dụng
công nghệ mới như: sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, bưu chính viễn
thông, điện tử - tin học, phát thanh - truyền hình Không chỉ trong lĩnh vực sản
xuất mà cả trong lĩnh vực quản lý cũng đang ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu

của khoa học và công nghệ. Hiện nay, chúng ta đang triển khai thực hiện Đề án
tin học hoá quản lý hành chính nhà nước (gọi tắt là Đề án 112) với tổng kinh phí
hàng chục ngàn tỷ đồng, thời gian thực hiện từ năm 2001 đến 2005 với mục tiêu
nâng cao một bước đáng kể hiệu lực và hiệu quả quản lý hành chính nhà nước,
tiến tới mục tiêu Chính phủ điện tử.
Để phát huy tối đa những tính ưu việt của các tiến bộ khoa học, công nghệ
đòi hỏi trình độ của đội ngũ nguồn nhân lực phải được nâng cao một cách tương
xứng và phải không ngừng được bổ sung, cập nhật theo kịp với yêu cầu nhiệm
vụ và sự phát triển của khoa học và công nghệ.
Phát triển nguồn nhân lực là tất yếu để thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá hƣớng tới nền kinh tế tri thức. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
con đường tất yếu để đưa đất nước, nhất là những nước đang phát triển thoát
khỏi tình trạng lạc hậu, trở thành các quốc gia văn minh, hiện đại. Trong thời đại
ngày nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể tách rời hội nhập và xu thế
toàn cầu hoá. Chỉ có như thế chúng ta mới có thể đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng


18
cách phát triển với thế giới vì thế giới đã đang trong thời kỳ quá độ chuyển từ
nền kinh tế công nghiệp truyền thống sang nền kinh tế mới mà các nhà khoa học
gọi là Nền kinh tế tri thức.
Nền kinh tế tri thức có nhiều tên gọi khác nhau nhưng đều nhằm diễn đạt
một nội dung cơ bản: Ngày nay sản xuất và truyền tải thông tin - tri thức trở nên
quan trọng hơn nhiều so với sản xuất và phân phối hàng hoá công nghiệp. Vì
thế có thể nói là nền kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa vào tri thức, vì các nguồn
lực đầu vào của quá trình sản xuất như vốn và tài nguyên thiên nhiên đều có
hạn, trong khi tri thức là vô hạn.
Tri thức trở thành nguồn vốn quý nhất, quyền sở hữu tri thức trở thành
quan trọng nhất. Trong nền kinh tế truyền thống, người sở hữu xí nghiệp và tư
liệu sản xuất là người nắm tư bản, còn kỹ thuật, tài năng của người lao động đều

là đối tượng thuê mướn của nhà tư bản. Trong nền kinh tế tri thức thì nguồn sở
hữu các phát minh sáng tạo và tài năng cảu người lao động đều có thể tham gia
cổ phần với tư cách là vốn đàu tư quan trọng và thu được lợi nhuận, thậm chí
phát sinh, sáng tạo và tài năng của nhà doanh nghiệp trở thành tư bản còn tư bản
trở thành đối tượng thuê mướn.
Tri thức điều khiển trực tiếp hầu hết các hoạt động trong nền kinh tế. Theo
đó, làm thay đổi kết cấu lao động ngành nghề theo hướng thu hẹp lao động trong
các ngành sản xuất trực tiếp và mở rộng các ngành phi vật vật thể như phần
mềm công nghệ tin học, thông tin liên lạc, các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm và các hàm lượng có dịch vụ trí tuệ cao.
Lao động có học vấn là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức. Do đó
quá trình phát triển của nền kinh tế tri thức cũng chính là quá trình tri thức hoá
kỹ năng lao động trong mọi lĩnh vực hoạt động. Như vậy xã hội kinh tế tri thức
trở thành một xã hội học tập.
Từ những phân tích trên cho thấy rằng đầu tư cho con người là quan trọng
nhất và đầu tư cho con người cũng là đầu tư cho phát triển và cho tương lai. Đầu
tư cho con người chủ yếu là về học vấn, tri thức và kỹ năng lao động. Tất cả


19
những điều đó đặt lên vai toàn xã hội nói chung và từng ngành, từng cấp một
nhiệm vụ hết sức nặng nề ở trung tâm của nền kinh tế tri thức và sự phát triển
của nó phụ thuộc phần lớn vào công tác phát triển, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
Phát triển nguồn nhân lực để phù hợp với quan hệ sản xuất đã thay
đổi. Đại hội VIII của Đảng đã nêu mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
“Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, ”
Trải qua các thời kỳ phát triển, cơ sở vật chất - kỹ thuật của đất nước đã

từng bước được xây dựng, hình thành, bộ mặt nhiều ngành kinh tế, nhiều vùng
kinh tế đã có những đổi thay. Đặc biệt gần 20 năm đổimới vừa qua, công cuộc
xây dựng và phát triển kinh tế ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa rất quan trọng: đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cơ cấu
kinh tế đã có bước chuyển tích cực, kết cấu hạ tầng kỹ thuật phát triển nhanh,
nền kinh tế có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, tạo thêm những điều
kiện để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tuy nhiên, để sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời gian tới
được triển khai mạnh mẽ hơn, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh hơn, có
hiệu quả và bền vững thì còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu, giải đáp, kể cả điều
kiện vật chất, thể chế chính sách, trình tực thực hiện.
Bên cạnh đó, phát triển đầu tư cho lực lượng sản xuất phát triển cũng là yêu
cầu khách quan làm động lực thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển.
1.1.2.3. Nội dung phát triển nguồn nhân lực
Nội dung cơ bản về phát triển nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị trường
cần phải được xem xét dựa trên những nhận thức mới của lý thuyết phát triển
trong thế giới hiện đại (mô hỡnh phỏt triển, phỏt triển con người, phát triển bền
vững).

×