Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Phát triển dịch vụ y tế tư nhân ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 100 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




NGUYỄN THỊ HỒNG MINH



PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ Y TẾ
TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ










HÀ NỘI - 2011

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ






NGUYỄN THỊ HỒNG MINH



PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ Y TẾ
TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ


Người hướng dẫn khoa học: TS.TRẦN ĐỨC HIỆP







HÀ NỘI - 2011

94
MỤC LỤC


DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT……………………………………… i
DANH MỤC CÁC BẢNG………………………………………………… ii
PHẦN MỞ ĐẦU 1
Chương 1: DỊCH VỤ Y TẾ TƯ NHÂN: LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM
QUỐC TẾ 9
1.1. Hàng hóa dịch vụ y tế: Khái niệm và đặc điểm 9
1.1.1.Khái niệm về hàng hóa dịch vụ y tế 9
1.1.2.Đặc điểm hàng hóa dịch vụ y tế. 10
1.2. Khu vực kinh tế tư nhân trong cung ứng dịch vụ y tế 14
1.2.1. Quan niệm về dịch vụ y tế tư nhân 14
1.2.2. Tác động của khu vực kinh tế tư nhân trong việc cung ứng dịch
vụ y tế 15
1.2.3. Một số tiêu chí phản ánh hiệu quả dịch vụ y tế 23
1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc phát triển dịch vụ y tế
tư nhân và bài học cho Việt Nam 25
1.3.1.Kinh nghiệm phát triển dịch vụ y tế tư nhân ở Trung Quốc và bài
học cho Việt Nam 25
1.3.2. Kinh nghiệm phát triển dịch vụ y tế tư nhân ở Thái Lan và bài
học cho Việt Nam 28
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ Y TẾ TƯ NHÂN Ở
VIỆT NAM 32
2.1. Khái quát về dịch vụ y tế ở Việt Nam 32
2.2. Chính sách về y tế tư nhân ở Việt Nam. 36
2.3. Tình hình phát triển dịch vụ y tế tư nhân ở Việt Nam trong giai
đoạn từ năm 2000 đến 2010. 43

95
2.3.1. Số lượng dịch vụ y tế tư nhân 44
2.3.2 Quy mô của hệ thống y tế tư nhân 48
2.3.3. Phân bố các dịch vụ y tế tư nhân 52

2.3.4. Chất lượng dịch vụ y tế tư nhân. 56
2.4. Kết quả hoạt động và một số vấn đề đặt ra đối với sự phát triển của
dịch vụ y tế tư nhân ở Việt Nam 61
Chương 3 : MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH
VỤ Y TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM 75
3.1. Bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế tác động đến khu vực y tế
tư nhân ở Việt Nam 75
3.1.1. Bối cảnh quốc tế 75
3.1.2. Bối cảnh trong nước 77
3.2. Quan điểm, định hướng phát triển dịch vụ y tế tư nhân ở Việt Nam 79
3.3. Giải pháp phát triển dịch vụ y tế tư nhân ở Việt Nam 82
3.3.1.Cải thiện chính sách phát triển dịch vụ y tế tư nhân 82
3.3.2.Tăng cường công tác quản lý thanh tra, kiểm tra, giám sát 84
3.3.3.Cải thiện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế tư nhân 85
KẾT LUẬN 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
PHỤ LỤC


i
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

STT
Ký hiệu
Diễn giải
1
BHYT
Bảo hiểm y tế
2
BV

Bệnh viện
3
CSSK
Chăm sóc sức khoẻ
4
CSSKND
Chăm sóc sức khoẻ nhân dân
5
DN
Doanh nghiệp
6
FDI
Vốn đầu tư nước ngoài
7
GCN
Giấy chứng nhận
8
GTGT
Giá trị gia tăng
9
HNYDTN
Hành nghề y dược tư nhân
10
KCB
Khám chữa bệnh
11
TNDN
Thu nhập doanh nghiệp
12
XHCN

Xã hội chủ nghĩa
13
XHH
Xã hội hoá
14
WTO
Tổ chức thương mại thế giới












ii
DANH MỤC CÁC BẢNG

STT
Bảng
Nội dung
Trang
1
Bảng 2.1
Hệ thống chính sách về y tế tư nhân Việt Nam
37

2
Bảng 2.2
Số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y tế
và các hoạt động bảo trợ xã hội
45
3
Bảng 2.3
Số lượng Bệnh viện tư nhân giai đoạn 1997-2010
46
4
Bảng 2.4
Số Bệnh viện tư nhân ở Việt Nam chia theo quy mô
giường bệnh tính đến 24/05/2010
49
5
Bảng 2.5
Số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y tế
và các hoạt động bảo trợ xã hội chia theo quy mô lao
động
51
6
Bảng 2.6
Số lượng bệnh viện tư nhân theo tỉnh/thành phố số liệu
cập nhật đến ngày 24/05/2010
53
7
Bảng 2.7
Phân bố số người hành nghề y tư nhân trên cả nước theo
vùng và khu vực.
54

8
Bảng 2.8
Kết quả hoạt động bệnh viện tư nhân giai đoạn 2008-2009
57
9
Bảng 2.9
So sánh số giường thực kê giai đoạn 2008-2009
58
10
Bảng 2.10
Số lượt khám, điều trị ngoại trú theo các tuyến điều trị năm
2008-2009
59
11
Bảng 2.11
Phân loại phẫu thuật theo tuyến bệnh viện năm 2009
60














1
PHẦN MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường hàng hóa dịch vụ công là một xu thế mà hầu hết các nước
trên thế giới áp dụng hoặc là đang xem xét áp dụng. Một trong những dịch vụ
công được rất nhiều quốc gia quan tâm đến chính là dịch vụ y tế, bởi dịch vụ
y tế là một hàng hóa không những liên quan đến sức khỏe đời sống của con
người, liên quan đến nguồn lực của cả một quốc gia mà còn liên quan đến sự
phát triển lâu dài và bền vững của toàn bộ quốc gia đó.
Việt Nam là một đất nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, nền kinh
tế trong thời gian qua có rất nhiều đổi mới, Việt Nam đã chủ động mở cửa,
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Chính vì vậy, xu hướng thị trường hóa
ngành dịch vụ y tế đã có tác động không nhỏ đến lĩnh vực dịch vụ y tế ở Việt
Nam. Một trong những biểu hiện của xu thế đó là sự gia nhập của khu vực
kinh tế tư nhân trong việc cung cấp dịch vụ y tế, ngành dịch vụ vốn được cho
là ngành do nhà nước độc quyền cung ứng. Nguyên nhân trực tiếp kéo khu
vực kinh tế tư nhân tham gia vào lĩnh vực này là do dịch vụ y tế công quá tải,
không đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Vì vậy mà dịch vụ
y tế tư nhân ở Việt Nam xuất hiện ngày càng phổ biến và cạnh tranh mạnh mẽ
với dịch vụ y tế công.
Chủ trương xã hội hoá và đa dạng hoá ngành y tế Việt Nam với việc coi
“sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ là trách nhiệm của cộng đồng và của mỗi
người dân, là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng và chính quyền, các đoàn thể
nhân dân và các tổ chức xã hội, trong đó ngành y tế giữ vai trò nòng cốt”
(Nghị quyết 04/NQ-TW năm 2003) đã trở thành một điều kiện tiền đề quan
trọng trong quá trình đổi mới hoạt động cung ứng dịch vụ y tế ở Việt Nam.
Mục tiêu của chủ trương xã hội hoá dịch vụ y tế là nhằm huy động các nguồn

2

lực (vốn, tài sản, sức lao động, trí tuệ,…) trong toàn xã hội tham gia đóng
góp, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân, đặc biệt là đối tượng
chính sách và người nghèo, tiếp cận được với các dịch vụ y tế cơ bản và có
chất lượng.
Trên thực tế, dịch vụ y tế tư nhân ở Việt Nam đã có những đóng góp
đáng kể vào việc cải thiện sức khoẻ cho mọi người, nâng cao chất lượng phục
vụ, đáp ứng một phần nhu cầu khám chữa bệnh của người dân. Tuy nhiên,
dịch vụ y tế tư nhân ở Việt Nam cũng có những hạn chế nhất định do chịu tác
động mạnh mẽ của cơ chế thị trường.
Vậy thực chất hiện trạng phát triển của hệ thống y tế tư nhân ở Việt
Nam ra sao? Vai trò của y tế tư nhân trong cung cấp dịch vụ y tế như thế nào?
Cần phải có giải pháp gì để thúc đẩy y tế tư nhân phát triển thực sự vì cả lợi
ích của người dân và xã hội? Đó chính là cơ sở để tác giả lựa chọn vấn đề:
“Phát triển dịch vụ y tế tư nhân ở Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Khi bàn về kinh tế tư nhân trong việc cung cấp dịch vụ y tế (hay gọi tắt
là y tế tư nhân) ở Việt Nam, đề tài sẽ đề cập đến các mảng vấn đề lớn như:
Kinh tế tư nhân, dịch vụ y tế, kinh tế tư nhân trong cung cấp dịch vụ y tế, và
thực tiễn các vấn đề này ở Việt Nam. Các vấn đề này đã được nhiều nhà kinh
tế quan tâm nghiên cứu như sau:
Kinh tế tư nhân là đối tượng đã được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu, cụ
thể là trong các tác phẩm:
- Minh Phương, Trần Quế, Hà Huy Thành, Kinh tế tư nhân Việt Nam
sau 20 năm đổi mới – Thực trạng và những vấn đề, Nxb: Khoa học xã hội –
2005. Cuốn sách phân tích thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
giai đoạn 1986 -2005 từ đó đưa ra những giải pháp, chính sách phát triển kinh
tế tư nhân Việt Nam thời kỳ đổi mới.

3
- Trịnh Thị Hoa Mai, Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội

nhập, Nxb: Thế Giới – 2005. Trình bày về tổng quan kinh tế tư nhân với
những ưu thế và hạn chế vốn có của nó, phân tích đánh giá vai trò của khu
vực kinh tế tư nhân trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Nguyễn Thanh Tuyền, Nguyễn Quốc Tế, Lương Minh cừ, Sở hữu tư
nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, Nxb: Chính Trị Quốc Gia – 2006. Cuốn sách trình bày lý
luận chung về sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân, thực trạng
phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta, những chính sách và giải pháp thúc đẩy
sự phát triển của kinh tế tư nhân.
- Đinh Thị Thơm, Kinh tế tư nhân sau hai thập kỷ đổi mới, Nxb Khoa
học xã hội – 2006. Tác giả đã phân tích, đánh giá, kiến giải và những giải
pháp được đúc kết trong những công trình, bài viết của nhiều nhà nghiên cứu
Việt Nam về khu vực kinh tế tư nhân sau năm 1986 ở Việt Nam. Qua đó đánh
giá được vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế
- Hà Văn Tuấn , Phát triển kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại ở
nước ta hiện nay: LATS Kinh tế: 62.34.10.01,H - 2010: Đánh giá thực trạng
phát triển kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại hiện nay, đề xuất định
hướng và giải pháp thúc đẩy hoạt động này trong thời gian tới
Các công trình trên đã cho thấy khu vực kinh tế tư nhân đã được đánh
giá nhìn nhận một cách toàn diện, từ bản chất đến vai trò của kinh tế tư nhân,
đến tình trạng và sự vận động của kinh tế tư nhân Việt Nam.
Y tế là một ngành dịch vụ quan trọng trong đời sống của con người, tác
động lớn đến mọi mặt của xã hội. Vấn đề này đã được nghiên cứu trong các
tác phẩm như là:

4
- Phùng Kim Bảng, Lê Quang Hoành (chủ biên), Hồ Hữu Anh, Y tế
công cộng và chăm sóc sức khoẻ ban đầu, Nxb Y học – 1997, cuốn sách trình

bày lý luận chung của y học xã hội và tổ chức y tế, y tế cộng đồng và chăm
sóc sức khoẻ ban đầu Lịch sử y học, tâm lý học, đạo đức học. Y tế công
cộng và công tác y tế. Thống kê y tế. Chăm sóc sức khoẻ ban đầu và giáo dục
sức khoẻ. Pháp luật trong ngành y tế. Tổ chức và hoạt động của ngành y tế.
Quản lý y tế - kinh tế y tế.
- Trương Việt Dũng, Nguyễn Duy Luật (chủ biên), Nguyễn Văn Hiến,
Bài giảng quản lý và chính sách y tế: Dùng cho đối tượng sau đại học, Nxb Y
học - 2002: Đại cương về tổ chức và hệ thống y tế. Hệ thống tổ chức y tế Việt
Nam. Quản lý y tế (quản lý nhân lực, quản lý thông tin, quản lý tài chính và
vật tư). Xây dựng chính sách y tế công cộng
- Nguyễn Trung sưu tầm, Những quy định về chính sách xã hội hoá các
hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, Nxb Lao động –
2001, công trình tập hợp những văn bản pháp luật về chính sách xã hội hoá
các hoạt động giáo dục, văn hoá, y tế, thể thao, các chính sách khuyến khích,
quản lý tài chính đối với các cơ sở ngoài công lập hoạt động trong các lĩnh vực y
tế, thể thao, giáo dục
Bên cạnh việc tồn tại hệ thống y tế công là sự tồn tại của hệ thống y tế tư
nhân, hệ thống này cũng có những đặc điểm, cơ chế hoạt động riêng, vấn đề về y
tế tư nhân đã được nghiên cứu ở một số tác phẩm sau:
- Scientific works: Scientific works of prof. Pham Huy Dung in English
1988-1998/Pham Huy Dung - 1998-Vol.2. Cuốn sách tập hợp các công trình
khoa học của PGS. PTS. Phạm Huy Dũng từ năm 1988-1998 về một số vấn
đề y tế tư nhân: Vai trò của thành phần y tế tư nhân ở Việt Nam, sự phát triển
của y tế tư nhân tại Việt Nam, chi phí cho các dịch vụ y tế và người nghèo ở
Việt Nam

5
- Trịnh Minh Hoan, Vai trò y tế tư nhân qua nghiên cứu các trường hợp
tại thành phố Đà Nẵng: LATS xã hội học: 5.01.09. Luận Án nêu nên thực
trạng vai trò y tế tư nhân trong chăm sóc sức khoẻ hiện nay. Những tác nhân

ảnh hưởng đến hoạt động của y tế tư nhân và dự báo xu hướng biến đổi của y
tế tư nhân theo định hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- Nguyễn Nguyệt Nga, Sự phát triển của khu vực y tế và cải cách kinh
tế trong một nền kinh tế đang chuyển đổi: Việt Nam 1989-1997: Luận án PTS
KH kinh tế/. Luận án trình bày vấn đề các chính sách thu viện phí, chính sách
bảo hiểm y tế và sự phát triển của khu vực y tế tư nhân và ảnh hưởng của nó
đến việc sử dụng các dịch vụ y tế và hoạt động của ngành y tế.
- Quy trình và danh mục thanh tra hành nghề y tư nhân. Giới thiệu các
văn bản pháp luật về qui trình và danh mục thanh tra hành nghề y tế tư nhân.
Nhìn chung, các công trình đều nghiên cứu về kinh tế tư nhân, dịch vụ
y tế, nhưng hai vấn đề này được nghiên cứu riêng rẽ, độc lập với nhau. Và có
một số tác phẩm khác thì nói về dịch vụ y tế tư nhân nhưng theo quan điểm
của nhà xã hội học chứ không phải là trên giác độ kinh tế chính trị. Hơn nữa,
sự nhìn nhận, đánh giá về y tế tư nhân từ thực tiễn và lý luận vẫn có nhiều
luồng tư tưởng khác nhau. Chính vì vậy, trên cơ sở kế thừa các công trình đã
nghiên cứu, vấn đề: “Phát triển dịch vụ y tế tư nhân ở Việt Nam” đã được lựa
chọn làm đề tài nghiên cứu


6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu:
Phân tích, đánh giá thực trạng của kinh tế tư nhân trong việc cung cấp
dịch vụ y tế ở Việt Nam, từ đó đưa ra một số định hướng giải pháp nhằm thúc
đẩy dịch vụ y tế tư nhân phát triển.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện các mục tiêu trên, đề tài sẽ thực hiện các nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
- Làm rõ bản chất của kinh tế tư nhân trong việc cung cấp dịch vụ công
- Khái quát tình hình phát triển dịch vụ y tế tư nhân ở Việt Nam, đánh

giá hiệu quả của dịch vụ này ở Việt Nam
- Đề xuất một số định hướng giải pháp để thúc đẩy dịch vụ y tế tư nhân ở
Việt Nam phát triển
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu về kinh tế tư nhân trong việc cung cấp dịch
vụ y tế
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu y tế tư nhân Việt Nam dưới giác độ kinh tế chính trị:
Dịch vụ y tế tư nhân được xem xét như là một ngành kinh tế trong đó khu vực
kinh tế tư nhân cùng tham gia cung cấp một dịch vụ xã hội, dịch vụ công là
chăm sóc sức khoẻ cho người dân.
Thời gian nghiên cứu của đề tài là từ năm 2000 đến 2010
Đề tài chỉ nghiên cứu các cơ sở y tế tư nhân có đăng ký và được phép
kinh doanh theo pháp luật Việt Nam

7
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sẽ sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp biện chứng duy vật
Trong luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng để nghiên cứu
kinh tế tư nhân trong mối quan hệ tương tác giữa các thành phần kinh tế khác,
giữa kinh tế tư nhân trong thị trường dịch vụ y tế và các thị trường dịch vụ khác.
Từ đó đánh giá được hoạt động của dịch vụ y tế tư nhân ở Việt Nam.
- Phương pháp trìu tượng hóa khoa học
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu này để gạt bỏ khỏi quá
trình nghiên cứu các hiện tượng ngẫu nhiên, tạm thời của kinh tế tư nhân để
từ đó rút ra được những đặc trưng, tính ổn định, bản chất của kinh tế tư nhân
đặc biệt là trong việc cung cấp dịch vụ y tế, một thị trường rất mới và có
nhiều tiềm năng.

- Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp phân tích tổng hợp là một phương pháp quan trọng mà
luận văn sử dụng để phân tích các bảng, biểu số liệu, từ đó đưa ra những đánh
giá và nhận xét về đặc điểm của dịch vụ y tế tư nhân ở Việt Nam

- Phương pháp thống kê so sánh
Luận văn sử dụng phương pháp thống kê so sánh là dựa trên số liệu từ
các nguồn thu nhập được, so sánh với việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân
giai đoạn trước, dự đoán tương lai và so sánh bản thân khu vực kinh tế tư
nhân với các khu vực kinh tế công trong nền kinh tế
- Phương pháp logic
Phương pháp logic là phương pháp nhằm đi sâu tìn hiểu cái bản chất,
cái phổ biến, cái lặp lại của các sự vật, hiện tượng. Muốn vậy phải đi sâu vào
nhiều hiện tượng, phân tích, so sánh, tổng hợp…để tìn ra bản chất của các
hiện tượng, sự vật.

8
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Góp phần phân tích làm rõ khái niệm dịch vụ y tế tư nhân
- Góp phần phân tích và đánh giá thực trạng phát triển của dịch vụ y tế
tư nhân ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 đến nay, trên cơ sở đó chỉ ra
những bất cập trong việc phát triển dịch vụ y tế tư nhân ở Việt Nam
- Góp phần đưa ra một số định hướng và giải pháp phát triển dịch vụ y
tế tư nhân ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1: Dịch vụ y tế tư nhân: Lý luận và kinh nghiệm quốc tế
Chương 2: Thực trạng phát triển dịch vụ y tế tư nhân ở Việt Nam
Chương 3: Một số định hướng giải pháp phát triển dịch vụ y tế tư nhân ở

Việt Nam



9
Chương 1
DỊCH VỤ Y TẾ TƯ NHÂN: LÝ LUẬN VÀ
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

1.1. Hàng hóa dịch vụ y tế: Khái niệm và đặc điểm
1.1.1. Khái niệm về hàng hóa dịch vụ y tế
Hàng hoá dịch vụ
Theo quan điểm về hàng hoá trong kinh tế chính trị Mác – Lênin thì
hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con
người thông qua trao đổi và mua bán. Hàng hoá là một trong những phạm trù
cơ bản của kinh tế chính trị, về bản chất hàng hoá là vật chất tồn tại có hình
dạng xác định trong không gian và có thể trao đổi, mua bán được.
Trong lịch sử phát triển của ngành kinh tế học, khái niệm hàng hoá đã
được mở rộng bao gồm tất cả những gì có thể trao đổi và mua bán được. Theo
quan điểm đó hàng hoá được phân làm hai loại: Một là, hàng hoá hữu hình
bao gồm các sản phẩm có cấu tạo vật chất, có hình dạng xác định đó là các
sản phẩm vật chất như là: Sắt, thép, lương thực, thực phẩm….Hai là, hàng
hoá vô hình hay được gọi là hàng hoá dịch vụ như là: Dịch vụ thương mại,
dịch vụ vận tải, dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục…
Hàng hoá dịch vụ có những đặc điểm sau: Tính đồng thời: Sản xuất và
tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời; Tính không thể tách rời: Sản xuất và tiêu
dùng dịch vụ không thể tách rời. Thiếu mặt này thì sẽ không có mặt kia; Tính
chất không đồng nhất: Không có chất lượng đồng nhất; Tính vô hình:
Không có hình hài rõ rệt, không thể thấy trước khi tiêu dùng; Không lưu trữ
được: Không lập kho để lưu trữ như hàng hóa hữu hình được.

Hàng hoá dịch vụ là một loại hàng hoá đặc biệt, đóng vai trò ngày càng
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của một đất nước. Tỷ lệ

10
hàng hoá dịch vụ chính là một thước đo quan trọng để đánh giá trình độ phát
triển của một đất nước. Cùng với sự phát triển của các nền kinh tế thì hàng
hoá dịch vụ cũng phát triển ngày càng đa dạng về loại hình, tăng về chất
lượng, tăng về quy mô.
Hàng hoá dịch vụ y tế
Một trong những nhu cầu thiết yếu của đời sống con người là nhu cầu
được chăm sóc về sức khoẻ. Dịch vụ y tế ra đời gắn liền với nhu cầu đó của
xã hội con người. Dịch vụ y tế là một ngành dịch vụ quan trọng trong quá
trình phát triển của mỗi quốc gia. Dịch vụ y tế cũng mang đầy đủ những đặc
điểm của một loại hàng hoá thông thường và cũng mang những đặc trưng chỉ
có ở bản thân ngành dịch vụ này.
Hàng hóa dịch vụ y tế là tất cả các loại hình dịch vụ chăm sóc, tư vấn
liên quan đến sức khoẻ con người. Các loại hình dịch vụ y tế phổ biến như là:
Dịch vụ khám, phòng chống và chữa bệnh, dịch vụ bảo hiểm y tế, hệ thống
hành nghề dược, y học cổ truyền…
Cùng với trình độ phát triển về kinh tế, trình độ của dịch vụ y tế cũng
phát triển đáng kể. Hiện nay dịch vụ y tế ngày càng đa dạng về quy mô, các
loại hình, mức độ dịch vụ cũng ngày càng linh hoạt và tiên tiến hơn, đáp ứng
ngày càng hiệu quả nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của con người.
1.1.2. Đặc điểm hàng hóa dịch vụ y tế.
Dịch vụ y tế là một loại hàng hoá mang đầy đủ các đặc điểm của một
loại hàng hoá thông thường, cũng bao gồm giá trị và giá trị sử dụng.
Về giá trị, giá trị của hàng hoá là lượng lao động kết tinh trong hàng
hoá đó, giá trị của dịch vụ y tế được tạo nên bởi thời gian lao động xã hội cần
thiết của các nhân viên trong ngành dịch vụ y tế.
Về giá trị sử dụng, dịch vụ y tế là một loại hàng hoá có giá trị sử dụng

rất quan trọng, thoả mãn một trong những nhu cầu thiết yếu của con người là

11
nhu cầu cần được chăm sóc sức khỏe. Trong bất kỳ xã hội nào dù trình độ phát
triển hay không phát triển thì nhu cầu cần được chăm sóc sức khoẻ luôn là một
nhu cầu được quan tâm hàng đầu. Gắn với nhu cầu đó, hàng hoá dịch vụ y tế
cũng có lịch sử phát triển sớm hơn các ngành dịch vụ khác.
Bên cạnh những đặc điểm chung giống các loại hàng hoá khác, dịch vụ
y tế cũng có những đặc điểm không giống các loại dịch vụ khác, dịch vụ y tế
có một số đặc điểm khác biệt sau:
Tính không thể đoán trước.
Tính không dự đoán được ẩn nấp ở mọi nơi, mọi chốn trong thị trường
chăm sóc sức khoẻ. Rất nhiều khi người ta quyết định sử dụng dịch vụ y tế vì
những gì có vẻ như là ngẫu nhiên – đó là khi con người bị những tai nạn ngẫu
nhiên như là: Khi chân bị gẫy, khi ruột thừa bị viêm, hay khi bị đau tim, nghĩa
là con người không chủ động quyết định được thời gian mắc bệnh của mình…
Cũng nhiều khi con người đến với thầy thuốc vì cho là trong người có thể
đang mắc một bệnh nào đấy, theo một cảm giác chủ quan của con người. Sự
thực thì có bệnh như người ta nghĩ hay không, mức độ của bệnh như thế nào,
người ta không biết được đích xác.
Tính không đoán trước được có thể xuất phát từ phía người bệnh, người
tiêu dùng. Nhưng không phải chỉ thế, cả phía nhà chuyên môn, những người
cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cũng phải đương đầu với sự "không
đoán trước được". Thông thường, với một bệnh cụ thể các thầy thuốc có
những phương thức điều trị rất khác nhau và phương thức điều trị này lại thay
đổi theo thời gian và chẳng ai có thể đoán trước được một cách chắc chắn
rằng bệnh nhân sẽ tiến triển như thế nào với phương thức mà họ dùng cho
bệnh nhân.
"Không đoán trước được" rất hay xảy ra khi sử dụng một loại thuốc
mới và càng hay xảy ra khi áp dụng một kỹ thuật phẫu thuật mới. Để hạn chế


12
tính "không đoán trước được", một mặt người ta kiểm soát chặt chẽ thị
trường, mặt khác người ta lại cho phép những người hành nghề được ra các
quyết định theo ý họ.
Tri thức không đối xứng
Trong kinh tế, khi có hai người đàm phán về giá cả của một loại hàng
hoá, một người có rất nhiều thông tin (tri thức) về loại hàng hoá đó so với
người kia, khi đó khái niệm "không đối xứng" nảy sinh. Ai có nhiều tri thức
người đó có nhiều quyền lực. Tình trạng này hoàn toàn đúng trong mối quan
hệ đàm phán giữa bệnh nhân và thầy thuốc. Thầy thuốc có rất nhiều tri thức,
thông tin về chẩn đoán về điều trị so với bệnh nhân. Không chỉ có thế, kể cả
động cơ để phát hiện ra thông tin của thầy thuốc và bệnh nhân cũng khác
nhau. Đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm cá nhân làm cho người thầy thuốc
muốn cởi mở và chân tình với bệnh nhân. Đối lập với chiều hướng đó, những
lợi ích vật chất nhiều khi khiến cho thầy thuốc lừa dối bệnh nhân để kiếm
tiền. Khi đó bệnh nhân rất dễ bị lừa vì họ thường tin tưởng, trông cậy vào thầy
thuốc; vì với họ, việc chữa khỏi bệnh là điều mong muốn số một.
Việc thầy thuốc lừa dối bệnh nhân cũng tương tự như người sửa xe ô tô
lừa những người đi chữa xe, họ bịa ra những nhu cầu không cần thiết cho việc
chữa xe. Tuy nhiên rõ ràng sự "không đối xứng" trong lĩnh vực y lớn hơn rất
nhiều so với các lĩnh vực khác và vì thế tác hại của nó rất lớn. Trên thực tế,
bệnh nhân hiểu rất ít về bệnh tật và các chỉ định điều trị, do vậy hầu như người
bệnh hoàn toàn dựa vào các quyết định của thầy thuốc trong việc lựa chọn các
dịch vụ y tế.
Tính ngoại ứng
Ngoại ứng xuất hiện khi hành động của một người ảnh hưởng đến lợi
ích của một người khác ngoài cuộc. Trong thị trường chăm sóc sức khoẻ thì
ngoại ứng được dùng để chỉ những tác động gây ra bởi người sử dụng dịch vụ


13
hàng hoá y tế, đối với những người không sử dụng dịch vụ hàng hoá này.
Những ngoại ứng gây ra tác động có hại thì gọi là ngoại ứng tiêu cực, những
ngoại ứng gây ra tác động có lợi thì gọi là ngoại ứng tích cực.
Một ví dụ điển hình về tính ngoại ứng tích cực là đối với bệnh nhân
mắc các bệnh nhiễm trùng. Khi một người mắc bệnh sởi hay cúm thì không
chỉ họ mắc mà họ còn có nguy cơ truyền bệnh cho người thân, bạn bè, hàng
xóm,…Khi đó điều trị khỏi các bệnh này không chỉ có bản thân họ mà những
người xung quanh họ cũng được hưởng ích lợi đó. Nhiều hoạt động y tế hoặc
không mang tính ngoại ứng nhưng nếu phân tích theo khía cạnh xã hội thì rất
nhiều các hoạt động liên quan đến y tế mang tính ngoại ứng mà thực tế thì lại
ít khi được biết đến, ví dụ việc làm sạch cống rãnh, việc ngủ màn, tiêm chủng
phòng các bệnh truyền nhiễm,…
Có những việc làm của cá nhân nhưng lại mang tính ngoại ứng tiêu cực
rất lớn, ví dụ như người dùng thuốc kháng sinh không đúng sẽ làm tăng cơ
hội kháng kháng sinh của các chủng vi khuẩn và khi các chủng này kháng
thuốc thì không chỉ kháng đối với bản thân người dùng thuốc mà đối với cả
cộng đồng. Một trường hợp nữa của những ngoại ứng tiêu cực là những bệnh
nhân mắc bệnh truyền nhiễm qua đường hô hấp, ăn uống…mà không chữa trị
và cách ly kịp thời thì sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ của nhiều người khác.
Tính ngoại ứng của dịch vụ y tế trong một số trường hợp đã làm cho
một số người không phải trả tiền mà vẫn được sử dụng dịch vụ như những đối
tượng đã chi trả tiền (Ví dụ: Các dịch vụ y tế dự phòng, giáo dục sức khoẻ có
lợi cho mọi người dân trong khi họ không bỏ tiền ra để trả tiền cho các dịch
vụ này). Chính điều này không tạo ra được động cơ lợi nhuận cho các nhà sản
xuất, không khuyến khích được việc cung ứng các dịch vụ này. Do vậy, để cung
đáp ứng đủ cầu cần có sự can thiệp, hỗ trợ của nhà nước trong cung ứng các dịch
vụ y tế mang tính công cộng.

14

Dịch vụ y tế luôn có rào cản gia nhập ngành.
Dịch vụ y tế là một ngành dịch vụ có điều kiện, tức là có sự hạn chế
nhất định đối với sự gia nhập thị trường của các nhà cung ứng dịch vụ y tế.
Cụ thể, muốn cung ứng dịch vụ y tế cần được cấp giấy phép hành nghề và cần
đảm bảo những điều kiện nhất định về cơ sở vật chất. Dịch vụ y tế là một
ngành cần đầu tư thời gian dài, quay vòng vốn lâu, dịch vụ y tế cung cấp một
loại hàng hoá mang tính chất công cộng…Vì những điều kiện này mà dịch vụ
y tế là một ngành có “Rào cản” khi các doanh nghiệp muốn ra nhập ngành.
1.2. Khu vực kinh tế tư nhân trong cung ứng dịch vụ y tế
1.2.1. Quan niệm về dịch vụ y tế tư nhân.
Hàng hóa dịch vụ y tế tư nhân là loại hàng hóa dịch vụ y tế do khu vực
kinh tế tư nhân cung cấp hay còn gọi là dịch vụ y tế tư nhân. Khái niệm dịch
vụ y tế tư nhân là để phân biệt với loại dịch vụ y tế công. Dịch vụ y tế công
khác biệt với dịch vụ y tế tư nhân ở chỗ đối tượng cung cấp dịch vụ là các tổ
chức công, phi lợi nhuận như: Chính phủ, các tổ chức xã hội, các hiệp hội phi
chính phủ…
Từ trước đến nay, phát triển dịch vụ y tế tư nhân được coi là một nội
dung quan trọng của chính sách xã hội hoá y tế. Vì vậy y tế tư nhân được hiểu
như là một nhân tố trong việc giải phóng nguồn lực, phát triển mạnh chính
sách xã hội hoá y tế. Theo một số quan điểm nhìn nhận mới, dịch vụ y tế tư
nhân là một bộ phận cấu thành nên hệ thống y tế, tồn tại độc lập và tác động
đến bộ phận y tế công. Hệ thống y tế tư nhân cũng có đối tượng phục vụ, có
thị trường và có cơ chế vận hành riêng. Như vậy, dịch vụ y tế tư nhân được
hiểu là một ngành kinh tế trong đó đối tượng phục vụ là tất cả những cá nhân
có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ, đối tượng cung cấp dịch vụ là khu vực kinh tế
tư nhân, lĩnh vực tham gia là tất cả các lĩnh vực được quy định theo pháp luật
của từng đất nước.

15
Pháp lệnh về hành nghề y dược tư nhân năm 1993 có quy định rõ các

hình thức hành nghề y, dược tư nhân ở Việt Nam
1- Các hình thức tổ chức hành nghề y tư nhân bao gồm: Bệnh viện; Nhà
hộ sinh; Phòng khám đa khoa hoặc chuyên khoa; Phòng răng, làm răng giả;
Phòng xét nghiệm, phòng thăm dò chức năng; Phóng chiếu chụp X-quang; Cơ
sở giải phẫu thẩm mỹ; Cơ sở dịch vụ điều dưỡng phục hồi chức năng; Cơ sở
dịch vụ y tế tiêm, chích, thay băng; Cơ sở dịch vụ kế hoạch hoá gia đình.
2- Các hình thức tổ chức hành nghề y học cổ truyền dân tộc tư nhân
bao gồm: Bệnh viện y học cổ truyền dân tộc; Phòng chẩn trị y học cổ truyền
dân tộc; Cơ sở dịch vụ điều dưỡng và phục hồi chức năng bằng y học cổ
truyền dân tộc; Cơ sở dịch vụ y học cổ truyền dân tộc châm cứu, xoa bóp, day
bấm huyệt, xông hơi thuốc.
3- Các hình thức tổ chức hành nghề dược tư nhân bao gồm: Nhà thuốc
tư nhân; Đại lý thuốc cho doanh nghiệp dược; Doanh nghiệp tư nhân, công ty
cổ phẩn, Công ty trách nhiệm hữu hạn kinh doanh dược; Cơ sở Kinh doanh
thuốc y học cổ truyền dân tộc.
1.2.2. Tác động của khu vực kinh tế tư nhân trong việc cung ứng
dịch vụ y tế
1.2.2.1. Tác động tích cực
Một là, góp phần huy động các nguồn lực cho phát triển dịch vụ y tế
Huy động nguồn vốn
Y tế tư nhân góp phần huy động nguồn vốn nhàn rỗi tham gia vào lĩnh
vực y tế, góp phần chia sẻ gánh nặng tài chính với khu vực y tế công.
Dịch vụ y tế là một ngành có rào cản về sự gia nhập ngành bởi nếu
muốn xây dựng một bệnh viện hoặc một khu an dưỡng thì cần nguồn vốn đầu
tư lớn, đòi hỏi phải mua trang thiết bị, máy móc với giá thành cao…tất cả
những điều ấy là một rào cản mà không phải doanh nghiệp tư nhân nào cũng

16
có thể đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ y tế. Trong thực tế thì đã có rất nhiều
doanh nghiệp tư nhân lớn đã mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực y tế, đặc biệt là

các tập đoàn kinh tế nước ngoài. Các doanh nghiệp này có nguồn vốn mạnh,
và họ nhìn thấy được các tiềm năng của ngành dịch vụ y tế. Vì dịch vụ y tế là
một nhu cầu thiết yếu của tất cả các quốc gia trên thế giới từ nước giầu đến
nước nghèo. Đời sống con người càng tăng, nhu cầu về chăm sóc sức khoẻ sẽ
ngày càng tăng, trong khi đó chính phủ của bất kỳ một quốc gia nào cũng
không đủ nguồn ngân sách để đầu tư xây dựng một hệ thống y tế công ngày
càng hiện đại, tiên tiến. Đó chính là động lực để các tập đoàn lớn này tham
gia đầu tư hệ thống dịch vụ y tế. Việc kinh doanh dịch vụ này đã làm tăng
nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực y tế, góp phần làm cho thị trường dịch vụ y tế
ngày càng phát triển. Cả hai hệ thống y tế công và y tế tư tồn tại song song sẽ
tác động và hỗ trợ lẫn nhau.
Mặt khác, đầu tư y tế tư nhân với những mô hình là các cơ sở y tế nhỏ
như các phòng khám, cửa hàng thuốc nhỏ…tại các tuyến xã, huyện đòi hỏi
một lượng vốn không lớn, điều này khuyến khích bộ phận tư nhân vừa và nhỏ
có thể cung ứng dịch vụ y tế. Khi các phòng khám này xuất hiện đã huy động
được một nguồn vốn không nhỏ đầu tư vào lĩnh vực y tế.
Như vậy, trước khi tư nhân tham gia lĩnh vực y tế thì nguồn vốn cung
ứng cho lĩnh vực này chỉ có nguồn duy nhất là ngân sách nhà nước. Sau khi
có dịch vụ y tế tư nhân thì tư nhân đã bổ sung một nguồn vốn đáng kể vào hệ
thống y tế, giúp cho thị trường y tế phát triển, nguồn vốn được sử dụng hiệu
quả hơn ở cả khu vực tư nhân và khu vực công.
Huy động nguồn nhân lực
Khu vực y tế tư nhân phát triển làm tăng cầu về bác sỹ, y tá…, vì vậy
đã tạo động lực kích thích nguồn cung các lực lượng này. Chính là kích thích
sự phát triển của các trường y, các trường đào tạo đội ngũ nhân lực hành nghề

17
y. Từ đó góp phần huy động một nguồn nhân lực đáng kể tham gia lĩnh vực
này trong xã hội.
Ngoài ra, trong lĩnh vực y tế vấn đề nguồn nhân lực là một vấn đề tác

động rất lớn đến hiệu quả làm việc của cơ sở y tế. Một thực trạng tại các nước
cho thấy, ngành dịch vụ công với những hạn chế về nguồn ngân sách, thì vấn
đề nguồn thu nhập cho các cán bộ, công nhân viên tham gia lĩnh vực y tế rất
hạn chế. Với mức lương thấp, không có nguồn thu nhập nào ngoài lương đã
làm cho đời sống của những nhân viên trong lĩnh vực này gặp rất nhiều khó
khăn. Chính điều này đã làm giảm một số lượng lớn nguồn nhân lực muốn
tham gia vào lĩnh vực y tế . Y tế tư nhân đã khắc phục được điều này, y tế tư
nhân hoạt động như một ngành kinh doanh dịch vụ thông thường, mức lương
trả theo trình độ và năng lực làm việc. Y tế tư nhân có thể hợp tác, tận dụng
khai thác nhân lực công trong thời gian nhàn dỗi. Nhiều trường hợp, họ thu
hút cả nhân lực công sang lĩnh vực y tế tư nhân.
Như vậy, y tế tư nhân đã huy động được một nguồn nhân lực không
nhỏ tham gia vào thị trường y tế nói chung.
Hai là, tạo môi trường cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ y tế
Một trong những đặc điểm mang tính bản chất của tư nhân đó chính là
tính cạnh tranh cao. Chính tính cạnh tranh gắn liền với sự phát triển của kinh
tế thị trường đã tạo nên sự lớn mạnh cho khu vực tư nhân như ngày nay.
Tính cạnh tranh là một đặc điểm quan trọng trong hệ thống y tế công tư
hỗn hợp. Thời kỳ trước hệ thống y tế là hoàn toàn do nhà nước cung ứng, vì
vậy tính cạnh tranh là rất ít, hoặc không có. Từ khi tư nhân tham gia vào lĩnh
vực y tế, tính cạnh tranh đã xuất hiện trên nhiều khía cạnh:
Tạo nên sự cạnh tranh giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân
Thị trường dịch vụ y tế lúc này xuất hiện hai nhà cung cấp đó là tư nhân
và nhà nước. Khi tư nhân xuất hiện, với những đặc điểm như: Năng động, cung

18
ứng dịch vụ kịp thời, cơ sở hiện đại, tiện nghi, chất lượng phục vụ chu đáo,
nhiệt tình….tất cả những điều ấy đã khiến một lượng ngày càng nhiều người
tìm đến các dịch vụ y tế tư nhân. Một số cá nhân trước kia vẫn lựa chọn y tế
công thì này chuyển hẳn sang lựa chọn y tế tư. Như vậy một lượng nhu cầu đã

chuyển từ khu vực công sang khu vực tư làm giảm tải cho khu vực công và tạo
nên một môi trường cạnh tranh giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân
Chính điều này đã khiến khu vực công phải thay đổi bộ máy quản lý, phải tăng
đầu tư vào cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị, đội ngũ nhân viên… để có thể cạnh
tranh với hệ thống dịch vụ tư nhân. Khu vực y tế tư nhân đã tạo nên một môi
trường cạnh tranh mạnh mẽ giữa khu vực y tế tư nhân và y tế công, cơ sở nào
đáp ứng tốt nhu cầu của người bệnh thì sẽ được xã hội lựa chọn, như vậy đã
góp phần đáng kể vào sự phát triển của toàn bộ hệ thống y tế.
Tạo sự cạnh tranh của bản thân các cơ sở y tế tư nhân.
Bên cạnh việc tạo ra môi trường cạnh tranh giữa khu vực nhà nước và
khu vực tư nhân, thì việc cạnh tranh giữa bản thân các cơ sở y tế tư nhân cũng
là một yếu tố quan trọng, là động lực phát triển của thị trường dịch vụ y tế.
Mặc dù nhà nước đã có nhiều chính sách thúc đẩy y tế tư nhân phát triển,
nhưng dịch vụ y tế công và dịch vụ y tế tư nhân vẫn có nhiều khác biệt. Trong
khi đó các cơ sở y tế tư nhân được coi là những người cùng chơi trong một
sân, vì vậy tính cạnh tranh trong khu vực này rất mạnh mẽ.
Y tế tư nhân lúc này là một ngành kinh tế có các thành phần nhỏ là các
cơ sở y tế tư nhân. Bản thân các cơ sở y tế tư nhân là đối thủ cạnh tranh của
nhau trên mọi mặt từ địa điểm, cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị, thái độ phục
vụ của nhân viên Y tế tư nhân hoạt động dựa trên mục đích là lợi nhuận. Vì
vậy để tăng lợi nhuận các cơ sở này đều phải tự đổi mới mình, tự nâng cao
trình độ nguồn nhân lực, trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, hiệu quả chữa trị
bệnh…để từ đó thu hút một lượng lớn người sử dụng dịch vụ. Nếu tất cả các

19
cơ sở y tế tư nhân đều có ý thức tự nâng cao tính cạnh tranh của mình sẽ tạo
ra một thị trường dịch vụ y tế tư nhân phát triển. Đáp ứng được ngày càng cao
về nhu cầu khám chữa bệnh của xã hội.
Tạo nên năng lực cạnh tranh với các dịch vụ y tế quốc tế
Khi hệ thống y tế trong nước đã phát triển mạnh, thì sự cạnh tranh còn

vượt qua cả biên giới. Lúc này y tế là một lĩnh vực có thể thu hút người có
nhu cầu khám bệnh của cả nước ngoài. Hệ thống y tế được đặt trong cả môi
trường cạnh tranh quốc tế, từ đó có thể học hỏi được nhiều bài học kinh
nghiệm cũng như là có thể chuyển giao trang thiết bị, máy móc cũng như kỹ
thuật chữa bệnh.
Hơn thế nữa, xu hướng dịch vụ y tế du lịch đang ngày càng phát triển
trên thế giới, nhu cầu đi ra nước ngoài KCB ngày càng phổ biến và là sở thích
của những người có điều kiện. Đây chính là một nguồn nhu cầu lớn để dịch
vụ y tế tư nhân của Việt Nam có thể cạnh tranh và phát triển
Ba là, đa dạng hóa sự lựa chọn của người tiêu dùng
Tăng cường sự sẵn có của dịch vụ y tế
Tư nhân tham gia thị trường dịch vụ y tế đã làm tăng thêm sự lựa chọn
cho người có nhu cầu KCB. Nếu như trước kia, người tiêu dùng chỉ có một sự
lựa chọn đó là các cơ sở KCB công hoặc là không đi KCB thì nay ngoài hệ
thống dịch vụ công thì người bệnh đã có thể lựa chọn hình thức y tế tư nhân.
Thực tế cho thấy, việc đa dạng hoá lựa chọn của người tiêu dùng đã góp phần
giải quyết một phần không nhỏ nhu cầu KCB của con người. Và góp phần cải
thiện đáng kể tình hình sức khoẻ của con người cũng như mang lại nhiều hiệu
quả kinh tế cao.
Sở dĩ y tế tư nhân được lựa chọn vì y tế tư nhân có một số ưu điểm nhất
định so với hệ thống dịch vụ công. Một mặt, dịch vụ y tế tư thường được phân
bố ở nhiều vùng, địa bàn rộng, tạo nên sự thuận tiện, làm giảm chi phí về thời

×