ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH
QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM – HOA KỲ
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Ngƣời hƣớng dẫn: GS.TS. Nguyễn Thiết Sơn
Hà nội - 2005
123
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1 7
TẦM QUAN TRỌNG CỦA QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VỚI HOA KỲ
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT
NAM 7
1.1. PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ,
SỰ TẤT YẾU TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP CỦA NƢỚC TA 7
1.1.1. Xu hƣớng cơ bản của nền kinh tế, thƣơng mại thế giới 7
1.1.2. Định hƣớng phát triển thƣơng mại quốc tế vủa Việt Nam trong
quá trình hội nhập 11
1.1.3. Hoa Kỳ và vị thế của Hoa Kỳ trong nền kinh tế, thƣơng mại thế
giới 14
1.1.4. Lợi ích của quan hệ thƣơng mại với Hoa Kỳ trong quá trình hội
nhập của Việt Nam 22
1.2. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC VỀ PHÁT TRIỂN QUAN
HỆ THƢƠNG MẠI VỚI HOA KỲ VÀ KHẢ NĂNG VẬN DỤNG
CỦA VIỆT NAM 24
1.2.1. Kinh nghiệm của một số nƣớc trong khu vực có quan hệ
thƣơng mại với Hoa Kỳ 24
1.2.2. Khả năng vận dụng của Việt Nam. 30
CHƢƠNG 2 32
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM -
HOA KỲ 32
2.1. THỰC TRẠNG THƢƠNG MẠI HAI CHIỀU TỪ KHI HOA KỲ
BỎ CẤM VẬN ĐẾN TRƢỚC HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI VIỆT
NAM - HOA KỲ (1994 - 2001) 32
2.1.1. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá thời kỳ 1994 - 2001 33
2.1.2. Thực trạng nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 1994 -2001 37
124
2.2. HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI SONG PHƢƠNG VIỆT NAM -
HOA KỲ VÀ QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ SAU
KHI CÓ HIỆP ĐỊNH 40
2.2.1. Tổng quan về Hiệp định thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ 40
2.2.2. Ý nghĩa sự ra đời Hiệp định thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ 44
2.2.3. Tình hình quan hệ thƣơng mại hai chiều sau Hiệp định thƣơng
mại 47
2.3. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ TRONG THỜI
GIAN QUA 55
2.3.1. Những đổi mới trong chính sách thƣơng mại quốc tế của Việt
Nam 55
2.3.2. Những nhân tố thúc đẩy từ phía Hoa Kỳ 59
2.4. VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG PHÁT TRIỂN
QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VỚI HOA KỲ 61
CHƢƠNG 3 67
TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG
MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ 67
3.1. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT
NAM -HOA KỲ 67
3.1.1. Những cơ hội thuận lợi để phát triển quan hệ thƣơng mại Việt
Nam- Hoa Kỳ 68
3.1.2. Những khó khăn và thách thức trong phát triển quan hệ
thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ. 70
3.2. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT VÀ NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG
CHUNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA
KỲ. 76
3.2.1. Phấn đấu gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trƣờng Hoa Kỳ.
76
3.2.2. Nỗ lực giải quyết những hạn chế nhập khẩu đối với hàng hoá
của Hoa Kỳ 79
125
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ TRONG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MAỊ VIỆT NAM -
HOA KỲ. 82
3.3.1. Những quan điểm cơ bản về phát triển quan hệ thƣơng mại
Việt Nam - Hoa Kỳ 82
3.3.2. Một số kiến nghị và giải pháp 83
KẾT LUẬN 104
PHỤ LỤC 1 106
Tài liệu trong nƣớc 117
Tài liệu nƣớc ngoài, tài liệu điện tử 121
1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài luận văn
Toàn cầu hoá kinh tế là một sự phát triển tất yếu khách quan, một xu
hướng bao trùm của sự vận động kinh tế thế giới ngày nay. Do tác động của
viễn thông, công nghệ và vốn, các hoạt động kinh tế và thương mại của mỗi
nước đã gia tăng mạnh mẽ, vượt ra khỏi biên giới quốc gia, liên kết trên một
chỉnh thể thị trường toàn cầu. Đồng thời với quá trình đó là sự hình thành và
hoàn thiện các định chế tổ chức kinh tế quốc tế tương thích nhằm quản lý và
điều hành các hoạt động kinh tế đã ngày càng lệ thuộc chặt chẽ giữa các quốc
gia và khu vực.
Với quan điểm chủ đạo của Đảng và Nhà nước ta là “đa phương hóa và
đa dạng hóa trên cơ sở công bằng lợi ích giữa các đối tác, tận dụng mọi
khả năng để tăng mức xuất khẩu trên tất cả các thị trường đã có, song song
với việc đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường có sức mua lớn nhưng hiện
còn chiếm tỷ trọng thấp, mở ra các thị trường mới và tích cực tăng cường tiếp
cận các thị trường cung ứng công nghệ nguồn” [10, P.III, M.II,C], thì Hoa Kỳ
đã trở thành một trong những trọng điểm quan trọng trong chiến lược phát
triển thương mại quốc tế của Việt Nam. Việc tăng cường, đẩy mạnh hơn nữa
quan hệ hợp tác thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ là nhu cầu bức thiết nhằm đa
dạng hóa thị trường, thúc đẩy xuất khẩu hướng tới một thị trường có tính ổn
định cao, và tiếp cận nhập khẩu "công nghệ nguồn". Hơn nữa, Hoa Kỳ còn là
một trong những nhà đàm phán lớn cho việc Việt Nam gia nhập WTO.
Tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là Hoa Kỳ và Việt Nam có quá nhiều
điểm khác biệt không chỉ về chế độ chính trị, mà cả kinh tế, ngoại giao, chính
sách thương mại Xét ở khía cạnh khác, trải qua 30 năm liên tục bị Hoa Kỳ
cấm vận đã làm cho thị trường Hoa Kỳ tuy hấp dẫn nhưng đầy mới mẻ, xa lạ
2
với Việt Nam. Hàng loạt chính sách, luật lệ phức tạp chưa được chúng ta
tìm hiểu, nắm bắt và cập nhật đầy đủ vì vậy các hoạt động kinh tế hai chiều
hàm chứa nhiều rủi ro.
Mặc dù vậy, vẫn phải khẳng định rằng kể từ khi bình thường hoá quan
hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ, quan hệ kinh tế, thương mại đã có bước
phát triển rất lớn, đặc biệt là sau khi Hiệp định thương mại song phương giữa
hai nước được ký kết vào cuối năm 2001. Hoa Kỳ cũng đã có những khoản
viện trợ cho Việt Nam, tuy không nhiều và phần lớn là phi Chính phủ.
Nói chung, bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được, quan hệ
kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ còn nhiều tồn tại, thách thức,
chưa tương xứng với tiềm năng và mong muốn của cả hai bên. Điều này cho
thấy việc nghiên cứu phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ là rất
cần thiết. Đó cũng là lý do chúng tôi chọn đề tài: “Quan hệ thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ, Thực trạng và giải pháp” làm chủ đề nghiên cứu của luận
văn.
Đề tài được thực hiện nhằm luận giải cơ sở thực tiễn của việc phát triển
quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, trên cơ sở đó có những giải pháp
thích ứng để đẩy mạnh việc khai thác hiệu quả tiềm năng của cả hai bên, góp
phần làm căn cứ cho việc điều chỉnh các quan hệ buôn bán quốc tế cũng như
các chính sách thương mại của Việt Nam. Trong bối cảnh và xu hướng quốc
tế hoá hiện nay, việc nghiên cứu có hệ thống các vấn đề trên là rất cần thiết,
góp phần đáp ứng được những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, đưa Việt Nam hội nhập nhanh và hiệu quả vào nền kinh tế thế giới và
khu vực.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở trong và ngoài nƣớc
Trong xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa đang phát triển như vũ bão
hiện nay, hợp tác kinh tế, thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế đang là
những vấn đề thực tiễn nóng bỏng, sôi động, được cả giới khoa học và chính
3
khách quan tâm. Do vậy quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại quốc tế của
Việt Nam với các nước, các khu vực nói chung và với Hoa Kỳ nói riêng
không phải là một chủ đề hoàn toàn mới. Việc nghiên cứu các vấn đề hợp tác
kinh tế, thương mại với Hoa Kỳ được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới,
song liên quan tới Việt Nam thì cho đến nay, chúng tôi chưa tiếp cận được đề
tài nghiên cứu nào được công bố - thực hiện ở nước ngoài, loại trừ một số
bài viết, tham luận ngắn dành cho các hội thảo, đăng trên các tạp chí, các kỷ
yếu, hoặc trong các báo cáo của một số tổ chức như STAR, USAID, WB,
IMF Ở trong nước, cũng đã có các công trình nghiên cứu vấn đề này,
nhưng chủ yếu nghiên cứu quan hệ kinh tế Việt Nam - Hoa Kỳ nói chung,
những sự chuẩn bị để đi đến ký kết Hiệp định thương mại song phương hoặc
đề cập một cách tổng quát về chính sách và thị trường Hoa Kỳ. Một số công
trình có đề cập tới quan hệ mậu dịch hàng hoá hai nước song phần lớn được
xem như là một yêu tố cấu thành trong nghiên cứu tổng thể quan hệ kinh tế.
Có thể nêu một số công trình như: "Hợp tác và đấu tranh trong quan hệ giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ hiện nay"- Viện quan hệ quốc tế- Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 1998, "Quan hệ kinh tế Việt Nam - Hoa Kỳ"- TS Đỗ
Đức Định- NXB Thế giới 2000, "Tiếp cận thị trường Hoa Kỳ" - Bộ Thương
mại"- 2003. Đề tài cấp Bộ, "Việt nam - Hoa Kỳ, Quan hệ thương mại và đầu
tư" - Nguyễn Thiết Sơn - NXB KHXH, 2004 v.v
Cho đến nay, chưa có nhiều công trình nhấn mạnh đến thực trạng quan
hệ thương mại hàng hoá giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sau khi Việt Nam và Hoa
Kỳ ký kết Hiệp định thương mại song phương và các giải pháp để phát triển
quan hệ này trong giai đoạn Việt Nam tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đặc
biệt từ cách tiếp cận của chuyên ngành kinh tế chính trị.
4
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Luận văn hướng tới hai mục đích cơ bản sau:
- Thứ nhất, làm rõ tầm quan trọng của việc phát triển quan hệ thương
mại quốc tế nói chung và thương mại với Hoa Kỳ nói riêng trong bối cảnh
toàn cầu hoá và khu vực hoá trên cơ sở những điều kiện thực tế khách quan và
định hướng cơ bản của Đảng và Nhà nước ta.
- Thứ hai, nghiên cứu thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ dựa trên những động thái chính trị, kinh tế để từ đó đánh giá được thực
trạng, tìm ra các nguyên nhân cơ bản nhằm cải thiện quan hệ tương xứng với
khả năng và mong muốn của cả hai quốc gia. Từ đó đề xuất một số kiến nghị
về chính sách và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển quan hệ thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan hệ thương mại giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ trên cơ sở các động thái chủ quan và khách quan chi phối các
mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội; là các giải pháp nhằm thúc đẩy, phát
triển quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ trong xu hướng toàn cầu hóa và
khu vực hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại của Việt Nam - Hoa Kỳ bao gồm
rất nhiều các hình thức phong phú, linh hoạt, đa dạng. Luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu một lĩnh vực, được coi là một trong những động lực tăng trưởng
mạnh nhất của nền kinh tế Việt Nam hiện nay là thương mại hàng hóa.
5
Ngoài những nghiên cứu về vai trò và thực trạng của mối quan hệ, chủ đề
nghiên cứu bao gồm sự tăng trưởng kim ngạch xuất - nhập khẩu, vấn đề về thị
trường, hàng rào thương mại, cán cân thương mại
Sự khảo cứu của luận văn được giới hạn trong khoảng thời gian từ năm
1995 đến nay và dự báo triển vọng tới năm 2010.
Những tư liệu thống kê, phân tích hoặc các so sánh ngoài đối tượng và
phạm vi nghiên cứu trên chỉ là những đối chứng cần thiết nhằm đảo bảo tính
logíc của luận văn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử , kết hợp với quan điểm lý thuyết hệ thống hiện đại.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh, phân loại và dự báo
6. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn làm rõ tầm quan trọng của sự phát triển quan hệ thương mại
giữa Việt Nam với Hoa Kỳ; phát hiện những nhân tố, những động lực thúc
đẩy, gắn kết nền kinh tế, thương mại Việt Nam hội nhập và phát triển cùng
với các nền kinh tế, thương mại trong khu vực và toàn thế giới.
- Phân tích, đánh giá một cách toàn diện về thực trạng quan hệ thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ, triển vọng của mối quan hệ này qua những cơ hội,
những tồn tại và thách thức.
- Trên cơ sở đó, cùng với những kinh nghiệm tham khảo từ một số
nước trong khu vực có phát triển quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, xác định
những phương hướng và đưa ra những kiến nghị thích hợp nhằm phát triển
6
quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong xu hướng toàn cầu
hóa và khu vực hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Tên luận văn: Quan hệ thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Thực trạng
và Giải pháp
Bố cục luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo; nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Tầm quan trọng của quan hệ thƣơng mại với Hoa Kỳ
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Chƣơng 2: Thực trạng phát triển quan hệ thƣơng mại Việt Nam -
Hoa Kỳ.
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp phát triển quan hệ thƣơng
mại Việt Nam - Hoa Kỳ
7
CHƯƠNG 1
TẦM QUAN TRỌNG CỦA QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VỚI
HOA KỲ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC
TẾ CỦA VIỆT NAM
1.1. PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ, SỰ TẤT
YẾU TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP CỦA NƢỚC TA
1.1.1. Xu hƣớng cơ bản của nền kinh tế, thƣơng mại thế giới
a. Như một xu thế khách quan, toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế đang
diễn ra ngày một sôi động. Toàn cầu hoá là giai đoạn phát triển cao của quá
trình quốc tế hoá đời sống kinh tế. Theo UNCTAD, bản chất của toàn cầu hoá
là sự tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự tác động và phụ thuộc lẫn nhau
của tất cả các nước, các khu vực [62, tr. 23]. Toàn cầu hoá chỉ có thể được
giải quyết ở quy mô toàn cầu trên cơ sở hợp tác của các quốc gia, không phân
biệt trình độ phát triển, trình độ chính trị, xã hội. Do đó, có thể nói toàn cầu
hoá là một xu thế tích cực, phát triển như một thực tế khách quan của văn
minh nhân loại.
Do có vị trí đặc biệt trong nền kinh tế thế giới, chính sách của các trung
tâm kinh tế lớn đương nhiên có ảnh hưởng nhiều đến chiều hướng và nội
dung của quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát
triển, những mục tiêu và toan tính ban đầu của các cường quốc này dần trở
thành động lực khách quan, thúc đẩy sự tự do cạnh tranh trên quy mô rộng
lớn. Toàn cầu hoá kinh tế một mặt đưa đến sự hình thành một thị trường thế
giới tự do, một hệ thống tài chính, tín dụng toàn cầu, sự phát triển phân công
lao động quốc tế và mở rộng giao lưu kinh tế, khoa học công nghệ giữa các
quốc gia trên phạm vi toàn thế giới. Mặt khác, toàn cầu hoá làm gia tăng tính
tuỳ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế, có nhiều vấn đề trở thành vấn đề
chung của nhân loại, nhiều sản phẩm hàng hoá và dịch vụ mang tính quốc tế
8
Tất cả những đặc trưng đó của thế giới hiện đại đã nảy sinh nhu cầu hợp
tác đa dạng nhiều chiều, ổn định và bền vững đối với mọi quốc gia trên thế
giới. Nền kinh tế của mỗi dân tộc được đặt trong mối quan hệ ràng buộc, phụ
thuộc với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế có nghĩa là tham gia vào quá trình toàn cầu hoá
và khu vực hoá, tham gia vào hệ thống thương mại và tài chính quốc tế, hệ
thống phân công lao động quốc tế để phát huy tối đa lợi thế cá biệt; đồng thời
có cơ hội tận dụng các lợi thế khu vực, lợi thế từ bên ngoài. Mặt khác, chính
sự phân công lao động toàn cầu lại tạo ra một khuynh hướng cạnh tranh ngày
càng mạnh mẽ và khốc liệt. Sự cạnh tranh diễn ra trong mọi lĩnh vực, và đặc
biệt là trong các hoạt động kinh tế đối ngoại. Điều đó buộc mọi quốc gia dù
thuộc mô hình và trình độ phát triển nào, cũng phải cải cách và chuyển đổi
tích cực để trở thành một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thế giới đang được
hình thành như một thể thống nhất. Thực tế đã cho thấy dù là một mô hình
kinh tế thị trường tự do với điển hình là Hoa Kỳ, hay mô hình thị trường xã
hội của các nước thành viên EU, hoặc mô hình thị trường hỗn hợp như Nhật
Bản thì cũng đang đều phải cải tổ lại một cách sâu sắc. Đồng thời, đây cũng là
thách thức lớn, buộc các nước đang phát triển phải có những đối sách thật phù
hợp, để không bị tuột dốc trong cuộc chiến kinh tế toàn cầu.
b. Khi đi sâu nghiên cứu về phân công lao động trong quá trình quốc tế
hoá đời sống kinh tế, chúng ta thấy sự phân công lao động quốc tế đang ngày
càng đi vào chiều sâu. Điều này là do có sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
công nghệ và hệ thống các công ty đa quốc gia. Quá trình phân công theo
ngành và theo sản phẩm đang được chuyển dần sang phân công theo chi tiết
và từng công đoạn của quy trình công nghệ. Khác biệt về điều kiện tự nhiên
không còn đóng vai trò quyết định trong phân công lao động quốc tế nữa, mà
9
khả năng về kỹ thuật và công nghệ đang dần dần trở thành yếu tố quan
trọng trong sự phân công lao động mới.
Cơ cấu ngành và cơ cấu địa lý của phân công lao động quốc tế cũng có
sự thay đổi. Trước đây các nước khối Nam
1
thường tập trung vào những
ngành có hàm lượng lao động và nguyên liệu cao trong khi các nước khối Bắc
phát triển những ngành thiên về hàm lượng vốn và công nghệ. Sự phân công
như vậy đã tạo tiền đề cho thương mại hàng hoá giữa Bắc và Nam. Tuy nhiên,
với triển vọng phát triển kinh tế "mềm", các nước khối Bắc sẽ đi dần vào các
sản phẩm có hàm lượng chất xám cao và các dịch vụ có nền móng là công
nghệ thông tin trong khi các nước khối Nam tiếp nhận vai trò cung ứng các
sản phẩm có hàm lượng công nghệ trung bình. Tỷ trọng của trục Bắc-Nam
trong thương mại hàng hoá quốc tế có thể sẽ giảm dần trước sự lớn mạnh của
trục Nam - Nam.
Trước diễn biến của sự phân công lao động quốc tế theo cả chiều rộng
lẫn chiều sâu, đòi hỏi mỗi quốc gia phải xác định vị trí của mình, xác định có
thể đảm nhiệm được khâu nào trong quá trình này, nhằm giành thế tích cực và
chủ động khi tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế.
c. Vừa là nguyên nhân lại vừa là kết quả của những xu hướng đang chi
phối đời sống thế giới nêu trên, thương mại quốc tế ngày càng có vai trò to
lớn đối với sự tăng trưởng kinh tế, chiếm một tỷ lệ đáng kể trong GDP của
các quốc gia. Một mặt, thương mại quốc tế là phương tiện để cung cấp các
yếu tố đầu vào cho nền sản xuất, quyết định khả năng và trình độ sản xuất của
một nước. Mặt khác, thương mại quốc tế là đòn bẩy của tăng trưởng kinh tế
theo nghĩa là phương thức để một ngành sản xuất có thể mở rộng quy mô của
mình tới mức tối ưu, để một quốc gia có khả năng và cơ hội khai thác tối đa
lợi thế so sánh của mình.
1
Các nước Nam: các nước đang phát triển, Các nước Bắc: các nước công nghiệp phát triển
10
Xét về sự phát triển cơ cấu ngành hàng, các ngành giàu hàm lượng
chất xám sẽ phát triển mạnh. Chu kỳ đổi mới công nghệ và sản phẩm được rút
ngắn, lợi thế so sánh của các quốc gia luôn thay đổi dẫn đến sự chuyển dịch
thường xuyên hơn về cơ cấu kinh tế. Đối tượng thương mại được mở rộng,
không chỉ bao gồm các sản phẩm hữu hình của nền sản xuất truyền thống mà
cả các sản phẩm vô hình như các sản phẩm dịch vụ, vốn và công nghệ; và các
sản phẩm của tri thức như quyền sở hữu trí tuệ và các sản phẩm khác.
Một đặc điểm đáng chú ý nữa trong quan hệ thương mại toàn cầu là sự
gia tăng mạnh của thương mại dịch vụ (vận tải, viễn thông, bảo hiểm, ngân
hàng ) so với thương mại hàng hoá. Điều này phản ánh sự thay đổi trong cơ
cấu tiêu dùng do ảnh hưởng của sự phát triển khoa học - công nghệ. Khái
niệm thương mại quốc tế hiện nay bao gồm sản phẩm "cứng", các Hiệp định
dịch vụ đi kèm và cả các sản phẩm trí tuệ hay còn gọi là các sản phẩm
"mềm".
e. Mặt khác, sự phát triển của khoa học và công nghệ sẽ còn tạo ra
những thay đổi căn bản về phương thức tiến hành thương mại trên phạm vi
toàn cầu. Mức độ phổ cập của mạng internet sẽ khiến tỷ trọng của thương mại
điện tử tăng rất nhanh và thông qua đó thay đổi một cách sâu sắc trong tư duy
kinh doanh, chiến lược tiếp thị cũng như phương thức kinh doanh của mọi
doanh nghiệp. Cùng với việc đem lại các cơ hội thị trường mới, thương mại
điện tử cũng sẽ làm cho quá trình cạnh tranh trở nên gay gắt hơn. Sự phát
triển đó đã, đang và sẽ làm suy giảm các lợi thế so sánh cổ điển như lợi thế tự
nhiên và giá lao động thấp mà lợi thế này hiện đang là một ưu thế quan trọng
của các nước đang phát triển. Thay vào đó là ưu thế so sánh của các nền kinh
tế dựa vào công nghệ tiên tiến và các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao.
Chính vì vậy, thị trường thế giới vừa có thể là động lực, là môi trường
cho sự phát triển kinh tế lại vừa là thách thức đối với các nền kinh tế. Hơn ai
11
hết các quốc gia đang phát triển, đang trên con đường công nghiệp hoá
chịu sự ảnh hưởng rất nhiều của thương mại quốc tế trong định hướng phát
triển của mình.
f. Trong trật tự kinh tế thế giới hiện nay, Hoa Kỳ với thực lực kinh tế,
sức mạnh quân sự vẫn đang là một quốc gia chiếm ưu thế lớn nhất thế giới.
Bên cạnh đó, các nước EU, Nhật bản, Nga, Trung Quốc và nhiều nước khác
đang có những bước phát triển kinh tế mạnh mẽ sẽ là những đối tác có nhiều
tiềm năng.
Xét về sự năng động của quá trình tăng trưởng, theo dự báo của nhiều
chuyên gia nghiên cứu kinh tế có uy tín, có nhiều khả năng thế kỷ 21 là thế kỷ
của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Khu vực này hiện chiếm 24% sản
xuất của cả thế giới, đến năm 2010 có khả năng chiếm tới 35%. Trong thập kỷ
tới, khu vực này vẫn là khu vực năng động nhất về phát triển kinh tế, là khu
vực thu hút sự quan tâm chú ý của thế giới và là đối tượng tranh giành ảnh
hưởng của ba trung tâm kinh tế là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản.
Trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, các nước Đông Nam Á lại
đang trỗi lên nhanh chóng, trở thành tâm điểm cạnh tranh của các công ty
xuyên quốc gia. Tỷ trọng của các nước này trong GDP thế giới đã tăng từ
2,4% năm 1970 lên 5% năm 1995 và 5,7% vào năm 2000. Đến năm 2010
nhiều dự báo cho rằng các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam tiếp tục
đạt mức tăng trưởng kinh tế khá cao từ 7-9%/ năm.
1.1.2. Định hƣớng phát triển thƣơng mại quốc tế vủa Việt Nam
trong quá trình hội nhập
Đáp ứng những điều kiện khách quan của đời sống kinh tế thế giới hiện
đại, kể từ Đại hội VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương phát
triển một nền kinh tế mở theo nguyên tắc chung của thị trường thế giới. Đồng
12
thời nhấn mạnh chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, coi xuất
khẩu là hướng ưu tiên và trọng điểm trong kinh tế đối ngoại; khuyến khích
hoạt động hội nhập vào các tổ chức và diễn đàn khu vực, quốc tế với bước đi
thích hợp; khẳng định chính sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước ngoài
với các hình thức thích hợp [21, tr. 90,94]
Cụ thể hoá tư tưởng trên, Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khóa VIII đã
đề ra những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể cho hoạt động kinh tế đối ngoại theo
hướng: “Tích cực, chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường thế giới”
[23,tr.3] thông qua các hoạt động:
1) Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho xuất khẩu, từ chính
sách tự do xuất khẩu đến hỗ trợ tài chính, thành lập các khu mậu dịch tự do,
khu chế xuất ;
2) Thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên
ngoài thông qua các hoạt động mở cửa thị trường trong nước, chính sách
khuyến khích tài chính và cải thiện môi trường đầu tư ;
3) Chủ động hội nhập vào các tổ chức khu vực và quốc tế thông qua
công tác chuẩn bị về tiềm lực cạnh tranh, về thể chế pháp lý và con người
Tư tưởng chủ đạo này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng IX.
Theo tinh thần đó ngày 27/11/2001, Tổng bí thư đã ký ban hành Nghị
quyết số 07-NQ/TW của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế. Theo đó,
Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh
thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong vấn đề phát triển thương mại với các nước trên thế giới, Đảng và
Nhà nước chỉ đạo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau. Đổi mới và phát triển thương mại quốc tế trước
13
hết là phải xuất phát từ lợi ích của quốc gia dân tộc bao gồm cả lợi ích
chính trị, kinh tế. Mục tiêu của thương mại quốc tế là [10, P.II, M.II]:
+ Nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh
CNH-HĐH, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ; đảm bảo nhu cầu về hàng hoá
cho sản xuất và tiêu dùng thông qua các hình thức xuất nhập khẩu hàng hoá,
dịch vụ và sự giúp đỡ của quốc tế.
+ Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia
tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công
nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ;
+ Về nhập khẩu chú trọng thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất,
nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức hợp lý, tiến
tới cân bằng kim ngạch xuất - nhập khẩu;
+ Tăng cường phương thức kinh doanh theo hướng văn minh, hiện đại.
Tiếp cận những phương thức kinh doanh tiên tiến, nhất là thương mại điện tử,
hoàn thiện cơ chế thương mại phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN và quá trình hội nhập.
+ Mở rộng và đa dạng hóa thị trường. Hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu
vực và thế giới.
Để thực hiện các mục tiêu chiến lược trên đây, cần phải tiến hành đồng
bộ nhiều hoạt động, mà một trong những hoạt động đó là chiến lược phát triển
thị trường. Theo dự báo của Bộ thương mại Việt Nam, tỷ trọng của các thị
trường xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới (2010) như sau:
Châu Á : 46 - 50%
Nhật bản: 17 - 18%
ASEAN: 15 - 16%
Trung Quốc, Đài Loan, Hồng kông: 14 - 16%
Châu Âu: 27 - 30%
14
EU: 25 - 27%
SNG và Đông Âu: 3 - 5%
Bắc Mỹ (chủ yếu là Hoa Kỳ): 15 - 20%
Australia và New Zealand: 5%
Trước mắt, định hướng phát triển thị trường của Việt Nam tập trung vào
những thị trường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch thương mại thế
giới- những thị trường chắc chắn ảnh hưởng đến quy mô và nhịp độ xuất nhập
khẩu của nước ta như: Hoa Kỳ, EU và một số nước Châu Á.
1.1.3. Hoa Kỳ và vị thế của Hoa Kỳ trong nền kinh tế, thƣơng mại thế
giới
1.1.3.1. Tiềm lực của Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là một quốc gia hùng mạnh cả về kinh tế, chính trị, quân sự,
khoa học công nghệ và tài chính Về tiềm lực kinh tế, kể từ 1991 cho đến
nay, liên tục GDP của Hoa Kỳ chiếm khoảng 30,0% GDP toàn cầu, với con
số tuyệt đối năm 2000 là 10.000 tỷ USD (GDP năm 2000 cả thế giới là 33.110
tỷ USD). Trong danh sách 500 công ty đa quốc gia lớn nhất hành tinh thì có
hơn 300 công ty mang quốc tịch Hoa Kỳ. Các chuyên gia kinh tế dự báo đến
năm 2020, Hoa Kỳ vẫn là siêu cường duy nhất trên thế giới. [51, tr.240, 385]
Bảng 1: Vị trí cuả Hoa Kỳ trong nền kinh tế thế giới (% trong GDP thế giới)
1971-1980
1981-1990
1991-2000
2000
Hoa Kỳ
16,8
19,4
28,4
30,6
EU
17,4
18,4
30,3
28,0
Nhật bản
5,8
9,0
15,9
14,0
Nguồn: Kinh tế tài chính thế giới, NXB Tài chính, 2/2000
Hiện tại, nền kinh tế Hoa Kỳ đã phát triển ở mức rất cao. Trong nhiều
ngành quan trọng, các nhà sản xuất Hoa Kỳ có khả năng cạnh tranh hơn bất
15
kỳ đối thủ nào khác. Hoa Kỳ đã theo đuổi chính sách tự do hoá thương
mại và đầu tư toàn cầu kể từ nhiều thập kỷ trước đây. Hoa Kỳ cũng là một thị
trường lớn có sức hấp dẫn các nước và các nhà đầu tư nước ngoài hơn bất kỳ
nơi nào khác trên thế giới.
Trong lĩnh vực thương mại, Hoa Kỳ có nền ngoại thương rất phát triển.
Tuy bị EU và Nhật Bản cạnh tranh mạnh mẽ, nhưng kể từ thập kỷ 90 của thế
kỷ XX, Hoa Kỳ đã thành công trong việc mở cửa thị trường, đẩy nhanh xuất
khẩu của mình lên vị trí hàng đầu thế giới. Kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ
chiếm 12.5% và kim ngạch xuất khẩu chiếm 15% tổng kim ngạch toàn cầu.
Thị trường nhập khẩu của Hoa Kỳ có dung lượng lớn, phong phú và đa dạng.
Có thể nói, đây là một thị trường có sức hấp dẫn các nước và các nhà đầu tư
nước ngoài, một thị trường chủ yếu của các nước đang phát triển, về quy mô
chỉ đứng thứ 2 sau EU. Hơn thế nữa nếu chỉ xét về kim ngạch các mặt hàng
xuất khẩu của các nước trong phạm vi Châu Á, Hoa Kỳ còn lớn hơn EU. Phần
lớn hàng nhập khẩu từ Châu Á của Hoa Kỳ là hàng công nghiệp chế tạo, kim
ngạch hơn 400 tỷ USD năm 2001, cao hơn 60% so với kim ngạch tương ứng
của EU, về các mặt hàng sử dụng nhiều lao động như may mặc, chế biến, tiêu
dùng, Hoa Kỳ nhập từ Châu Á cao hơn EU 70 - 80%.
Bảng 2: Thị phần của Hoa Kỳ trong mậu dịch thế giới
Đơn vị: %
1970
1980
1985
1990
2000
Xuất khẩu
Hoa Kỳ
15,2
11,6
11,8
11,8
9,8
EU
40,3
36,5
35,9
41,0
44,9
Châu Á- TBD
12,0
14,5
21,2
22,2
31,9
Nhập khẩu
Hoa Kỳ
14,5
13,2
19,1
15,0
10,3
EU
40,7
39,7
35,1
41,0
49,2
16
Châu Á- TBD
12,8
8,0
11,6
13,7
35,1
Nguồn: WB, World Developement Report, 2000
Là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế tài chính quốc tế cũng như các
tổ chức thuộc Liên hợp quốc, Hoa Kỳ có vị trí quan trọng và ở nhiều nơi, có
tiếng nói quyết định. Ngay từ sau Thế chiến thứ II, Hoa Kỳ đã thiết kế hệ
thống tài chính tiền tệ quốc tế nhằm phục vụ cho mục đích bành trướng kinh
tế, quân sự và chính trị của Hoa Kỳ như IMF, WB. Đồng thời Hoa Kỳ cũng là
nước chủ xướng ra hệ thống thương mại toàn cầu nhờ vào tổ chức GATT
trước đây và WTO ngày nay. Hiện tại, Hoa Kỳ là một trong 22 nước giàu nhất
nắm giữ 2/3 số phiếu trong Quỹ tiền tệ quốc tế, số phiếu của Hoa Kỳ gấp 4
lần số phiếu của 47 nước Châu Phi cộng lại. Đồng thời Hoa Kỳ cũng có vai
trò rất lớn trong APEC, NAFTA
Hoa Kỳ còn là nước có tiềm năng phát triển khoa học công nghệ rất cao
và là nước đầu tư lớn nhất cho khoa học và công nghệ. Ngày nay Hoa Kỳ
chiếm ưu thế nổi trội về khoa học, công nghệ cao và có đội ngũ hùng hậu các
nhà khoa học, mạnh cả về khoa học cơ bản cũng như khoa học ứng dụng.
Người Hoa Kỳ luôn luôn tự hào về năng lực kỹ thuật của mình, họ quan niệm
"chỉ với kỹ thuật sẽ làm cho Hoa Kỳ có thể làm được tất cả những gì trên
thế giới mà họ mong muốn và đảm bảo được lợi ích toàn cầu của Hoa Kỳ"
[53, tr.135]
Hiện tại, Hoa Kỳ đang tỏ ra tích cực trong việc đẩy mạnh quan hệ kinh
tế với các nước Châu Á. Hoa Kỳ không ngừng tăng cường ảnh hưởng ở các
nước Đông Dương, giành giật với các nước phát triển khác về thị trường đầu
tư tại những “mảnh đất hoang cuối cùng ở Châu Á”, hình thành một chiến
lược khai thác thị trường Châu Á cả bề rộng lẫn bề sâu và trên mọi hướng.
Hiện tại tỷ trọng buôn bán với các nước khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
chiếm 40% tổng giao dịch ngoại thương của Hoa Kỳ và tạo ra 2,5 triệu công
17
ăn việc làm cho người dân của những nước này. Quan hệ mậu dịch của
Trung Quốc với Hoa Kỳ tăng theo cấp số nhân, buôn bán Hoa Kỳ - Nhật Bản
vẫn đứng đầu thế giới. Các nước ASEAN hiện là thị trường lớn thứ tư của
cường quốc này. Đã từ lâu Hoa Kỳ coi các nước ASEAN là một bên đối thoại
đồng thời là những bạn hàng quan trọng, một số nước đang là "đồng minh
chiến lược" trong khu vực của Hoa Kỳ.
Có thể nói, cho đến thời điểm hiện nay, việc thúc đẩy hợp tác kinh tế
với các nước Châu Á - Thái Bình Dương, giữ vững và không ngừng mở rộng
lợi ích kinh tế của Hoa Kỳ trong khu vực, từng bước xây dựng “cộng đồng
Châu Á - Thái Bình Dương” là mục tiêu của chiến lược kinh tế Châu Á - Thái
Bình Dương mới của Hoa Kỳ. Trên thực tế, từ nhiều năm nay buôn bán của
Châu Á với Hoa Kỳ đã lớn hơn là buôn bán của EU với Hoa Kỳ. Trước đây
chỉ có mình Nhật bản nay đã có thêm các nền kinh tế NICs, ASEAN và Trung
Quốc đang vươn lên nhanh chóng, dần dần trở thành những nước có vị trí
hàng đầu trong thương mại quốc tế. APEC đang là một xu hướng chiến lược
quan trọng trong thập kỷ tới của Hoa Kỳ.
1.1.3.2. Chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ
Điểm nổi bật trong điều chỉnh chính sách của Hoa Kỳ những năm đầu
thế kỷ XXI là nhấn mạnh đến việc chấn hưng nền kinh tế trên cơ sở coi trọng
kinh tế đối ngoại nhằm củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo, "định hướng
toàn cầu"
2
của Hoa Kỳ đối với nền kinh tế thế giới. Đứng trước những
khuynh huớng mới của nền kinh tế thế giới, kể từ năm 2000, chiến lược về
kinh tế, của Hoa Kỳ đã được sửa đổi, bổ sung với những hướng chính như sau
[7, tr. 5]:
2
Thông điệp Liên bang của Tổng thống Bill Clinton đọc trước Quốc hội Hoa kỳ ngày 27.1.1998
18
+ Xây dựng nền kinh tế Hoa Kỳ vững mạnh, duy trì vị trí lãnh đạo
của Hoa Kỳ trong nền kinh tế thế giới, coi đây là ưu tiên số một của chiến
lược toàn cầu mới của Hoa Kỳ;
+ Thúc đẩy dân chủ ở nước ngoài, phát huy ưu thế về chính trị cuả Hoa
Kỳ trên thế giới nhằm thiết lập trật tự thế giới do Hoa Kỳ điều khiển.
Đối với lĩnh vực thương mại quốc tế Hoa Kỳ nhằm vào 3 mục tiêu cơ
bản [14,29, tr. 26]:
+ Khuyếch trương tự do hoá kinh tế, thúc đẩy thị trường mậu dịch tự do.
Hoa Kỳ luôn chú tâm thực hiện tự do công bằng nhằm hạn chế những rào cản
thương mại, chống lại sự không công bằng trong giới hạn nhập khẩu của các
bạn hàng của mình;
+ Thúc đẩy xuất khẩu bằng nhiều biện pháp khác nhau;
+ Ổn định đồng đôla, tăng cường sức mạnh của nó trên thị trường thế
giới.
Xét riêng trong khía cạnh nhập khẩu, mục đích của các chính sách của
Hoa Kỳ là phục vụ người tiêu dùng, phát triển các ngành kỹ thuật cao, từ đó
tối ưu hoá cơ cấu nền kinh tế. Cụ thể là đa dạng hoá nền kinh tế, làm tăng tính
năng động cho các ngành sản xuất, các doanh nghiệp của Hoa Kỳ, tăng cường
cơ hội cũng như phạm vi lựa chọn cho người tiêu dùng Hoa Kỳ; tăng sự cạnh
tranh giữa doanh nghiệp Hoa Kỳ với nước ngoài nhằm cải thiện công nghệ
quản lý và kỹ thuật, giảm giá bán cho người tiêu dùng; tạo đối trọng gây sức
ép để các nước mở cửa thị trường cho sản phẩm của Hoa Kỳ; đồng thời đây
cũng chính là công cụ gây áp lực trong quan hệ đối ngoại mà điển hình là biểu
hiện của sự trừng phạt hay trợ giúp kinh tế.
Trong quan hệ thương mại với các nước đang phát triển, Hoa Kỳ đã có
chính sách riêng với từng nhóm nước. Sự phân biệt đối xử của Hoa Kỳ đối
19
với các nhóm nước này thể hiện chủ yếu trong Danh bạ thuế quan HTS
3
hai cột của Hoa Kỳ (tương ứng với quan hệ bình thường hoặc chưa bình
thường của các nước với Hoa Kỳ). Theo cách nhìn nhận riêng của mình, Hoa
Kỳ chia các nước thành các nhóm ví dụ như: Nhóm T (kinh tế thị trường),
nhóm X (các nước XHCN cũ), nhóm Z (các nước bị Hoa Kỳ cấm vận) [7,
tr.6; 29, tr.65]
* Nhóm thứ 1- các nước đang phát triển là thành viên của WTO
Trong các ứng xử thương mại với các nước này, Hoa Kỳ thường dựa trên
cơ sở đạo luật thực hiện những cam kết của Vòng đàm phán thương mại đa
biên Uruguay. Ở đó quy định tất cả các nước là thành viên WTO có quan hệ
thương mại với Hoa Kỳ đều được hưởng Quy chế tối huệ quốc (MFN) hay
Quy chế thương mại bình thường (NTR). Mức thuế dành cho hàng hoá từ tất
cả các nước này đều như nhau và chỉ khoảng 0-3%. Đây là một mức thuế thấp
hơn đáng kể so với mức thuế không được hưởng tối huệ quốc trung bình là 3-
40%. Có trường hợp Hoa Kỳ thay đổi hoặc bỏ mức thuế đối với một hàng hoá
cho một quốc gia nào đó, ngay lập tức sự thay đổi này sẽ được áp dụng cho
toàn bộ hệ thống quốc gia thành viên WTO. Ngoài ra, trong thương mại với
các nước này, Hoa Kỳ còn chấp nhận Hiệp định Định giá hải quan của WTO
làm cơ sở cho Luật định giá tính thuế hải quan của Hoa Kỳ.
* Nhóm thứ 2- các nước chưa là thành viên của WTO nhưng đã có Hiệp
định thương mại song phương với Hoa Kỳ
Trong đối sách của Hoa Kỳ, nhóm này bao gồm những nước có Hiệp
định thương mại hay thoả thuận song biên, quan hệ đang ở mức tiếp cận thị
trường lẫn nhau. Việt Nam hiện đang thuộc nhóm nước này. Những nguyên
tắc ứng xử của Hoa Kỳ đối với nhóm nước này trước đây cũng đã áp dụng đối
với Trung Quốc khi Trung Quốc còn chưa là thành viên WTO. Một số trong
3
HTS: Harmonized Taiff Schedule of the United State: Biểu thuế quan hài hoà của Hợp chủng quốc Hoa kỳ
20
các nước thuộc nhóm này hàng năm vẫn phải được gia hạn miễn từ điều
khoản Jackson - Vanik
4
bởi Tổng thống Hoa Kỳ (trường hợp Trung Quốc
việc miễn trừ được thực hiện vào ngày 7/3 hàng năm, Việt Nam vào ngày 3/6
hàng năm). Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng ngay cả việc gia hạn này cũng chỉ
được thực hiện đối với một số nước và ngay cả những nước đã được gia hạn
cũng có thể không được gia hạn nữa tuỳ theo những nhận định chủ quan từ
phiá Hoa Kỳ. Có thể lấy một ví dụ rất gần là liên tục từ 1989 đến 1996, Quốc
hội Hoa Kỳ đưa ra điều luật không tán thành miễn trừ của Tổng thống, thực
chất là để ép Trung Quốc phải đáp ứng những điều kiện về nhân quyền, ngoài
vấn đề tự do di cư. Nói chung, chế độ đối xử này có thể coi là một chế độ
thương mại bình thường có điều kiện, là những bước đi tuần tự tiến đến tư
cách là thành viên đầy đủ của WTO.
* Nhóm thứ 3 - những nước không được hưởng MFN
Đối với các nước thuộc nhóm này, nếu muốn được hưởng MFN của Hoa
Kỳ phải tuân thủ hai quy định cơ bản:
Thứ nhất, phải tuân thủ Điều khoản Jackson - Vanik yêu cầu các nước
không được từ chối hay hạn chế quyền, cơ hội di cư của công dân nước họ.
Thứ hai, phải ký kết Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ
Hiện tại các nước Cuba, Lào, Bắc Triều tiên, Afganistan, Serbia
Mongtenego là các nước thuộc nhóm này trong đối sách của Hoa Kỳ
Libia, Iran, Irac là những nước đã được hưởng MFN song vẫn bị Hoa Kỳ
cấm vận trong quan hệ thương mại bằng các đạo luật khác.
* Nhóm thứ tư - những nước được hưởng ưu đãi đặc biệt của Hoa Kỳ
4
Jackson - Vanik: - Điều luật sửa đổi Đạo luật Thương mại 1974 của Hoa kỳ - điều luật này từ chối dành đãi
ngộ tối huệ quốc đối với các nước có nền kinh tế phi thị trường nếu các nước này (a) từ chối quyền di cư đối
với công dân nước họ, (b) đánh thuế di cư cao hơn mức thuế danh nghĩa và (c) áp dụng mức thu cao hơn mức
danh nghĩa đối với công dân của họ muốn di cư. Tổng thống có thể miễn trừ điều khoản này nếu xác định
được điều khoản đã thúc đẩy đáng kể các quy định về di cư tự do, và nếu Tổng thống được đảm bảo rằng các
thông lệ về di cư của một nước sẽ dẫn đến mục tiêu đó. Điều luật này do thượng nghị sỹ Henry Jackson và hạ
nghị sỹ Charles Vanik đề xuất, ban đầu nhằm vào thực hiện với Liên xô cũ.
21
Một số nước mà Hoa Kỳ nhận thấy có tiềm năng được đối xử mức
thuế quan ưu đãi trên cơ sở đơn phương không yêu cầu có đi có lại. Tất nhiên
đối sách này được áp dụng cho các đối tượng nhất định trong một thời gian
nhất định (thường là xem xét lại hàng năm) và có các đạo luật cụ thể. Có thể
nêu ra một số ví dụ như: Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) miễn thuế
quan với hơn 4400 sản phẩm của 150 quốc gia và vũng lãnh thổ đang phát
triển; sáng kiến Vịnh Caribbean (CBI) miễn hoặc giảm thuế quan cho các sản
phẩm của các nước tham gia khu vực chung Hoa Kỳ - Caribbean; Đạo luật ưu
đãi thương mại Andean (ATAP) ưu đãi thuế quan cho một số sản phẩm từ
Colombia, Bolivia, Peru, Ecuado Ngoài ra Hoa Kỳ còn ký một số Hiệp định
thương mại tự do với một số nước như Israel, NAFTA, và Singapore.
Về phương diện xuất khẩu, các chính sách của Hoa Kỳ luôn thể hiện
chủ trương tạo ra một sân chơi bình đẳng với việc tự do hoá thương mại thế
giới. Chiến lược lâu dài này nhằm vào mục tiêu duy trì vị thế siêu cường của
Hoa Kỳ trong đó lợi ích kinh tế vừa là đích ngắm vừa là bệ đỡ cho vị trí số 1
về chính trị và quân sự. Trước đây, do có khả năng cạnh tranh cao về sản
phẩm, công nghệ, vốn cũng như kỹ năng quản lý, chưa bao giờ Hoa Kỳ phải
đặt ra những chương trình và chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu ra các thị
trường nước ngoài. Song những năm gần đây, cán cân thương mại của Hoa
Kỳ bị thâm hụt rất lớn, một năm lên tới hàng trăm tỷ USD. Cho nên từ cuối
đời Tổng thống Bush "cha" cho tới thời Bush đương nhiệm, ngoài những luật
lệ khuyến khích xuất khẩu, Hoa Kỳ còn nỗ lực giảm thâm hụt cán cân thương
mại bằng Chiến lược xuất khẩu quốc gia với một loạt chính sách và chương
trình hỗ trợ xuất khẩu. Thực tế, chiến lược này đã đem lại kết quả tích cực
cho Hoa Kỳ. Đến 2001, Hoa Kỳ đã giảm được tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ nghèo
đói xuống mức thấp nhất trong suốt 30 năm qua.