Tải bản đầy đủ (.pdf) (154 trang)

Sự phát triển của thị trường tài chính ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 154 trang )







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ



NGUYỄN THỊ HỒNG HẢI


SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM



LUẬN VĂN THẠC SỸ



Người hướng dẫn: TS. Vũ Đức Thanh






Hà nội - 2004






Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 1 -
MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT - 3 -
C h ư ơ n g 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ - 8 -
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ PHÁT TRIỂN TTTC - 8 -
1.1 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH - 8 -
1.1.1 Những khái niệm cơ bản và cấu thành của thị trƣờng tài chính - 8 -
1.1.2 Vai trò của thị trƣờng tài chính - 21 -
1.1.2.1 Vai trò của thị trường tài chính ở cấp độ vĩ mô - 21 -
1.1.2.2 Vai trò của thị trường tài chính ở cấp độ vi mô - 22 -
1.2 KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƢỚC CHÂU Á TRONG VIỆC XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN TTTC - 23 -
1.2.1 Xây dựng kết cấu hạ tầng vững chắc cho TTTC - 24 -
1.2.2 Phải có một hệ thống ngân hàng mạnh và lành mạnh - 29 -
1.2.3 Có một cơ chế giám sát tài chính hiệu quả - 33 -
1.2.4 Tự do hoá tài chính theo một lộ trình thích hợp - 36 -
C h ư ơ n g 2 THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM-
42 -
2.1 KHÁI QUÁT VỀ SỰ HÌNH THÀNH TTTC VIỆT NAM - 42 -
2.1.1 Các thị trƣờng cấu thành - 42 -
2.1.2 Sự hình thành các định chế tài chính - 43 -
2.2 HOẠT ĐỘNG CỦA TTTC VIỆT NAM NHỮNG NĂM QUA - 48 -
2.2.1 Hoạt động của thị trƣờng tiền tệ - 48 -

2.2.1.1 Thị trường Nội tệ liên ngân hàng - 48 -
2.2.1.2 Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng - 50 -
2.2.1.3 Thị trường tín phiếu kho bạc - 54 -
2.2.1.4 Nghiệp vụ thị trường mở - 55 -
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 2 -
2.2.1.5 Thị trường mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn khác - 57 -
2.2.2 Thị trƣờng vốn - 58 -
2.2.2.1 Thị trường cổ phiếu - 58 -
2.2.2.2.Thị trường cổ phiếu phi chính thức - 63 -
2.2.2.3 Thị trường tín dụng ngân hàng - 71 -
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TTTC VIỆT NAM - 85 -
2.3.1 Thị trƣờng tài chính Việt Nam đã hình thành, đang phát triển và
bƣớc đầu đƣợc vận hành có hiệu quả - 85 -
2.3.2 Một số hạn chế của TTTC Việt Nam - 91 -
2.3.3 Những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng kém phát triển của
TTTC - 101 -
C h ư ơ n g 3 ĐỊNH HƢỚNG CƠ BẢN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN TTTC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI - 110 -
3.1. BỐI CẢNH KINH TẾ VÀ ĐỊNH HƢỚNG CHO SỰ PHÁT TRIỂN
TTTC VIỆT NAM - 110 -
3.1.1 Bối cảnh kinh tế hiện nay - 110 -
3.1.2 Định hƣớng cơ bản cho sự phát triển TTTC trong giai đoạn mới -
113 -
3.2 CÁC GIẢI CƠ BẢN NHẰM PHÁP PHÁT TRIỂN TTTC VIỆT NAM -
121 -
3.2.1. Xây dựng kết cấu hạ tầng cho TTTC - 121 -
3.2.2 Tăng cƣờng hoạt động thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng - 130 -
3.2.3 Tiếp tục phát triển các thị trƣờng cấu thành TTTC - 132 -
3.2.4 Có chiến lƣợc đầu tƣ hợp lý cho phát triển và đào tạo nguồn nhân

lực - 147 -
KẾT LUẬN - 149 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO - 151 -


Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 3 -


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CK
Chứng khoán
CtyCK
Công ty chứng khoán
CtyCP
Công ty cổ phần
CtyTC
Công ty tài chính
DNNN
Doanh nghiệp Nhà nƣớc
KBNN
Kho bạc Nhà nƣớc
NHLD
Ngân hàng liên doanh
NHNN
Ngân hàng Nhà nƣớc
NHTM
Ngân hàng Thƣơng mại
NHTMCP
Ngân hàng Thƣơng mại cổ phần

NHTMQD
Ngân hàng Thƣơng mại quốc doanh
TPCP
Trái phiếu Chính phủ
TPCT
Trái phiếu Công ty
TTGDCK
Trung tâm giao dịch chứng khoán
TTCK
Thị trƣờng chứng khoán
TTTC
Thị trƣờng tài chính
UBCKNN
Uỷ ban chứng khoán Nhà nƣớc

Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 4 -
LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Đã hơn một thập kỷ qua Việt Nam tiến hành đổi mới toàn diện hệ thống
kinh tế, chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trƣờng
theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Cho đến nay, có thể khẳng định rằng thành
tựu của quá trình đổi mới là hết sức lớn lao và không thể đảo ngƣợc. Đồng
thời, quá trình đổi mới cũng đã tạo ra một hệ thống các thị trƣờng trong đó có
thị trƣờng tài chính.
Thị trƣờng tài chính nƣớc ta hiện nay tuy còn non trẻ, song đã có cấu
trúc tƣơng đối hoàn chỉnh. Thị trƣờng tiền tệ đã bƣớc đầu tạo cơ sở cho
NHNN thực thi linh hoạt hơn CSTT. Thị trƣờng chứng khoán ra đời mở ra
cho nền kinh tế một kênh huy động vốn mới tiềm tàng bên cạnh nguồn tín
dụng truyền thống của hệ thống ngân hàng thƣơng mại. Tuy nhiên, về cơ bản

thị trƣờng tài chính nƣớc ta vẫn còn phát triển ở trình độ thấp. Thị trƣờng tiền
tệ còn hạn chế nhiều khả năng sử dụng có hiệu lực các công cụ tiền tệ và chƣa
tạo đƣợc những tiền đề cần thiết cho sự phát triển năng động, có hiệu quả của
nền kinh tế. Thị trƣờng vốn chƣa là kênh phân bổ vốn đa dạng, có hiệu quả
của nền kinh tế. Vốn cho hoạt động SXKD vẫn phải dựa quá mức vào nguồn
tín dụng ngân hàng, đặc biệt là hệ thống ngân hàng thƣơng mại quốc doanh,
trong khi chất lƣợng tín dụng không cao và nợ quá hạn còn lớn. Đặc biệt,
trong bối cảnh thực hiện các cam kết của Hiệp định thƣơng mại Việt Nam -
Hoa Kỳ và gia nhập Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO), thì bên cạnh
những thuận lợi, hệ thống tài chính nƣớc ta cũng sẽ phải đối mặt không ít
thách thức. Phát triển và hoàn thiện thị trƣờng tài chính đang là một nhiệm vụ
cấp bách đối với nƣớc ta.
Xuất phát từ thực tiễn đó, em đã lựa chọn đề tài: “Sự phát triển của thị
trường tài chính ở Việt Nam”.
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 5 -
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, đã có nhiều công trình và bài viết nghiên cứu về thị trƣờng
tài chính. Có thể nêu một số nhƣ sau:
- Nguyễn Sơn, Thị trường tài chính và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu
thành, Chƣơng trình hợp tác nghiên cứu Việt Nam - Nhật Bản.
- Nguyễn Thị Mùi và các tác giả khác, Những giải pháp nhằm mở rộng và
nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường ngoại hối ở Việt Nam hiện nay,
Trƣờng Đại học Tài chính Kế toán, 2000.
- Trần Thị Hà, Một số nhân tố thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường
tài chính Việt Nam, Luận án Phó tiến sỹ khoa học kinh tế, 1992.
- Viện NCQLKTTƢ, Tóm tắt đề án: Phát triển và hoàn thiện thị trường vốn và
thị trường tiền tệ ở Việt Nam
Bên cạnh đó, trong thời gian qua cũng đã có nhiều bài báo, bài viết
đăng trên các báo và tạp chí bàn về vấn đề này nhƣ:

- Tô Kim Ngọc, Thực trạng hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng
ở Việt Nam thời gian qua, Tạp chí Ngân hàng, số 1 năm 2001.
- Vũ Đồng Tiến, Một số vấn đề về vai trò điều tiết thị trường tiền tệ của
NHNN Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 11/2001.
Các công trình và bài viết nói trên là những biểu hiện tiêu biểu về
những cách tiếp cận khác nhau, trong các thời điểm và hoàn cảnh khác nhau
đối với thị trƣờng tài chính. Mặc dù vậy, chƣa có tài liệu nào đề cập một cách
hệ thống về các giải pháp thúc đẩy sự phát triển thị trƣờng tài chính Việt Nam
nhƣ một chỉnh thể. Bởi vậy, nghiên cứu một cách có hệ thống về thị trƣờng
tài chính, đánh giá thực trạng thị trƣờng tài chính ở Việt Nam và tìm kiếm
những giải pháp để hoàn thiện nó là một yêu cầu bức thiết nhằm góp phần
phát huy tác dụng của thị trƣờng tài chính trong nền kinh tế thị trƣờng.
3. Mục đích nghiên cứu
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 6 -
Trên cơ sở phân tích thực trạng của thị trƣờng tài chính, luận văn làm
rõ những vấn đề đặt ra trong việc phát triển thị trƣờng tài chính ở nƣớc ta. Từ
đó, đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển thị trƣờng tài chính ở Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Dƣới góc độ kinh tế chính trị, luận văn nghiên cứu thị trƣờng tài chính
nhƣ là một bộ phận của thị trƣờng xã hội, nơi diễn ra giao dịch của các tác
nhân trong nền kinh tế về một thứ hàng hoá đặc biệt - tiền tệ, chứng khoán và
giấy tờ có giá.
Về mặt lý luận, có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với thị trƣờng tài
chính. Tuy nhiên, khi phân tích thị trƣờng tài chính Việt Nam, luận văn chủ
yếu dựa trên cách tiếp cận về thời hạn của hàng hoá giao dịch trên thị trƣờng.
Nói cụ thể, luận văn nghiên cứu thị trƣờng tài chính nhƣ một hệ thống cấu
thành bởi hai bộ phận - Thị trƣờng tiền tệ và thị trƣờng vốn (bao gồm thị
trƣờng cổ phiếu, thị trƣờng trái phiếu và tín dụng ngân hàng).
Mặt khác, thị trƣờng tài chính ở Việt Nam chỉ bắt đầu hình thành từ khi

tiến hành đổi mới kinh tế. Do vậy, đây cũng là giới hạn về thời gian trong khi
nghiên cứu thị trƣờng tài chính Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn sử dụng những phƣơng pháp
chung trong nghiên cứu kinh tế chính trị là: chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Luận văn đặc biệt chú ý tới phƣơng pháp lôgic kết hợp với lịch sử,
phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp phân tích kết hợp với tổng hợp…
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về thị trƣờng tài chính, cấu trúc của thị
trƣờng tài chính và mối quan hệ nội tại giữa các bộ phận của thị trƣờng tài
chính.
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 7 -
- Phân tích thực trạng TTTC Việt Nam hiện nay và chỉ ra những bất cập
trong hoạt động của thị trƣờng tài chính.
- Đƣa ra các quan điểm định hƣớng và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng
cƣờng sự phát triển của thị trƣờng tài chính Việt Nam thời gian tới.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thị trƣờng tài chính và kinh
nghiệm quốc tế về phát triển thị trƣờng tài chính
Chương 2: Thực trạng Thị trƣờng tài chính Việt Nam
Chương 3: Định hƣớng cơ bản và một số giải pháp phát triển thị
trƣờng tài chính ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 8 -
C h ư ơ n g 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ

KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ PHÁT TRIỂN TTTC
1.1 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH

1.1.1 Những khái niệm cơ bản và cấu thành của thị trường tài chính

Hệ thống tài chính là một tổ hợp của TTTC, các định chế tài chính, các
“luật chơi” và các kỹ thuật giao dịch trên thị trƣờng. TTTC là nơi trao đổi,
giao dịch các loại "hàng hoá" của thị trƣờng - tức là các quyền đòi nợ tài
chính (financial claims).
1.1.1.1 Các thị trường cấu thành của thị trường tài chính
TTTC đƣợc cấu thành bởi những thị trƣờng bộ phận, tuỳ theo những
cách thức phân chia khác nhau. Theo thời gian đáo hạn của các công cụ tài
chính, TTTC đƣợc phân thành thị trƣờng tiền tệ và thị trƣờng vốn. Theo cách
thức huy động vốn, TTTC đƣợc phân thành thị trƣờng nợ và thị trƣờng cổ
phiếu. Theo thời điểm các công cụ tài chính đƣợc đƣa ra thị trƣờng, TTTC lại
bao gồm thị trƣờng sơ cấp và thị trƣờng thứ cấp. Dƣới đây sẽ làm rõ các loại
hình thị trƣờng cấu thành của TTTC theo các cách phân loại vừa nêu.
 Thị trường tiền tệ và thị trường vốn
Thị trường tiền tệ là thị trƣờng phát hành và mua bán lại các công cụ tài
chính ngắn hạn (kỳ hạn dƣới 1 năm). Thị trƣờng tiền tệ (thƣờng) bao gồm thị
trƣờng nội tệ liên ngân hàng, thị trƣờng ngoại tệ liên ngân hàng và thị trƣờng
đấu thầu tín phiếu kho bạc. Các chủ thể tham gia thị trƣờng tiền tệ bao gồm
NHTW, các NHTM, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, Chính phủ, các
doanh nghiệp, các cá nhân và các nhà môi giới tiền tệ.
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 9 -
Các công cụ của thị trƣờng tiền tệ bao gồm tín phiếu kho bạc, chứng
chỉ tiền gửi, thƣơng phiếu, chấp phiếu của ngân hàng, thoả thuận mua lại, tín
phiếu NHTW. Đặc điểm của các công cụ này là có độ rủi ro thấp và có tính
thanh khoản cao.

Thị trường vốn là thị trƣờng phát hành và mua bán lại các công cụ tài
chính (các công cụ nợ và các công cụ vốn) có thời hạn trên 1 năm. Thị trƣờng
vốn lại bao gồm thị trƣờng vay nợ dài hạn (thị trƣờng tín dụng) và TTCK (thị
trƣờng cổ phiếu và thị trƣờng trái phiếu). Các chủ thể chính tham gia thị
trƣờng vốn là NHTM, tổ chức tài chính phi ngân hàng, Chính phủ, các doanh
nghiệp, các cá nhân, các nhà môi giới chứng khoán.
Hàng hoá đƣợc giao dịch trên thị trƣờng vốn bao gồm cổ phiếu, TPCP,
TPCty, khế ƣớc thế chấp và tín dụng trung - dài hạn của ngân hàng. Các công
cụ của thị trƣờng vốn thƣờng có độ rủi ro lớn hơn và có mức lợi tức cao hơn
các công cụ của thị trƣờng tiền tệ.
Thị trường vốn và thị trường tiền tệ có mối liên hệ qua lại mật thiết với
nhau. Trong một TTTC phát triển, những biến động trong nền kinh tế lúc đầu
tác động lên một thị trƣờng cấu thành sau đó sẽ dễ dàng lan truyền đến các thị
trƣờng khác trong toàn hệ thống. Chẳng hạn, việc lãi suất thay đổi sẽ có tác
động lan tỏa lên cả thị trƣờng tiền tệ lẫn thị trƣờng vốn. Tỷ giá hối đoái biến
động sẽ tác động lên các dòng vốn ngắn hạn cũng nhƣ dài hạn.
Ngày nay, khi TTTC ngày càng phát triển, các công cụ tài chính đƣợc
sử dụng đan xen giữa các thị trƣờng. Những công cụ mới không ngừng ra đời
và mang đặc trƣng của nhiều loại công cụ tài chính khác. Chính vì vậy, ranh
giới phân định giữa các công cụ tài chính hoặc giữa các thị trƣờng cấu thành
của TTTC ngày càng mang tính tƣơng đối. Thị trƣờng tiền tệ và thị trƣờng
vốn do đó càng trở nên gắn bó với nhau chặt chẽ hơn.
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 10 -
 Thị trường nợ và thị trường cổ phiếu
Thị trường nợ là thị trƣờng trong đó ngƣời cần vốn huy động vốn bằng
cách phát hành các công cụ vay nợ hay thực hiện một món vay thế chấp.
Ngƣời vay nợ thanh toán cho ngƣời nắm giữ các công cụ nợ một khoản tiền
cố định trong những khoảng thời gian đều đặn (thanh toán lãi suất tiền gửi)
cho tới một thời điểm quy định trƣớc (ngày đáo hạn) là lúc đợt thanh toán

cuối cùng đƣợc thực hiện. Kỳ hạn thanh toán của một công cụ nợ là thời gian
tính tới ngày kết thúc của công cụ vay nợ. Công cụ vay nợ có thể có kỳ hạn
thanh toán ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn. Công cụ nợ ngắn hạn có thời
gian đáo hạn từ 1 năm trở xuống; công cụ nợ trung hạn có thời gian đáo hạn
từ 1 năm tới 10 năm; và công cụ nợ dài hạn có thời gian đáo hạn trên 10 năm.
Thị trường cổ phiếu là thị trƣờng trong đó ngƣời cần vốn huy động vốn
bằng cách phát hành các cổ phiếu. Các cổ phần là quyền đƣợc chia phần trên
lãi ròng (sau khi trừ chi phí và thuế) và tài sản của các công ty phát hành cổ
phiếu. Ngƣời nắm giữ cổ phiếu đƣợc gọi là cổ đông. Các cổ đông thƣờng
đƣợc thanh toán cổ tức theo định kỳ. Các cổ phiếu không có thời gian đáo hạn
và đƣợc coi là các chứng khoán dài hạn.
 Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
Thị trường sơ cấp là nơi diễn ra các hoạt động mua bán lần đầu các
công cụ tài chính - các chứng khoán. Thị trƣờng này thu hút các khoản tiết
kiệm của các hộ gia đình và các khoản vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp và
của Chính phủ thành các khoản đầu tƣ vốn. Điều này có nghĩa là các chủ thể
phát hành thu đƣợc tiền từ việc bán các công cụ tài chính để tài trợ cho việc
đầu tƣ ngắn hạn hoặc dài hạn.
Thị trường thứ cấp là nơi diễn ra các hoạt động mua bán lại các chứng
khoán đã đƣợc phát hành trên thị trƣờng sơ cấp. Khác với thị trƣờng sơ cấp,
khoản tiền thu từ bán chứng khoán trên thị trƣờng thứ cấp thuộc về các nhà
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 11 -
đầu tƣ, các nhà kinh doanh chứng khoán/tự doanh chứng khoán (dealer) chứ
không thuộc về các chủ thể phát hành chứng khoán.
1.1.1.2 Các loại hình định chế tài chính
Các chủ thể tham gia trên TTTC bao gồm các doanh nghiệp, các nhà
đầu tƣ, cá nhân, Chính phủ và các định chế tài chính trung gian. Trong đó, các
định chế tài chính trung gian là các chủ thể quan trọng nhất tham gia thị
trƣờng.

Các định chế tài chính đƣợc phân loại theo nhiều cách nhƣ: theo các
đặc trƣng về chấp nhận rủi ro, theo thời hạn của các khoản vay và các khoản
cho vay hoặc theo cách chuyển đổi các thoả thuận tài chính. Thông thƣờng,
các định chế tài chính đƣợc phân loại theo loại hình dịch vụ cung cấp, bao
gồm: (1) Các định chế tài chính nhận tiền gửi nhƣ NHTM, ngân hàng tiết
kiệm tƣơng hỗ, hợp tác xã tín dụng; (2) Các định chế tiết kiệm theo hợp đồng
nhƣ CtyBH nhân thọ và phi nhân thọ, quỹ hƣu trí; và (3) Các định chế đầu tƣ
nhƣ CtyTC, quỹ đầu tƣ, ngân hàng đầu tƣ, quỹ đầu tƣ tƣơng hỗ. Cách phân
loại các định chế tài chính chỉ mang tính tƣơng đối.
 Các định chế tài chính nhận tiền gửi
Các định chế tài chính nhận tiền gửi thƣờng nhận tiền gửi từ các cá
nhân và các tổ chức khác rồi sau đó cho vay lại. Các định chế này có đặc
điểm chung là đều nhận tiền gửi từ dân cƣ và các pháp nhân. Số tiền gửi này
đƣợc đem cho vay trực tiếp tới những cá nhân hay tổ chức khác cần vốn, một
phần khác có thể đƣợc đầu tƣ vào các chứng khoán. Thu nhập của các định
chế này đƣợc tạo ra từ hai nguồn: thu nhập từ các khoản cho vay và mua
chứng khoán; và thu nhập từ các khoản lệ phí. Các định chế nhận tiền gửi bao
gồm các NHTM, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay, các ngân hàng tiết kiệm
tƣơng hỗ (mutual savings banks), và các liên hiệp tín dụng (credit unions).
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 12 -
Ngân hàng thương mại. NHTM có hai chức năng cơ bản là cung cấp
dịch vụ thanh toán và tái phân bổ vốn từ ngƣời tiết kiệm (có vốn nhàn rỗi)
sang ngƣời vay tiền (có nhu cầu về vốn). NHTM đóng vai trò trung gian giữa
ngƣời tiết kiệm và ngƣời đi vay. NHTM huy động vốn bằng 2 cách chủ yếu là
nhận tiền gửi và phát hành trái phiếu. NHTM sử dụng vốn huy động đƣợc để
cho vay lại và mua chứng khoán.
Hiệp hội tiết kiệm và cho vay. Nguồn vốn hàng đầu của các hiệp hội
này là các khoản tiền gửi tiết kiệm, các khoản tiền gửi có kỳ hạn, các khoản
tiền gửi có thể chuyển thành séc. Thông thƣờng, các nguồn vốn thu đƣợc

dùng để cho vay thế chấp. Ngày nay, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay đƣợc
phép phát hành các tài khoản séc, thực hiện các khoản cho vay tiêu dùng và
thực hiện nhiều hoạt động trƣớc đây chỉ dành cho các NHTM. Tƣơng tự nhƣ
các NHTM, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay cũng đƣợc yêu cầu gửi tiền tại
NHTW.
Ngân hàng tiết kiệm tương hỗ. Hoạt động của các ngân hàng tiết kiệm
tƣơng hỗ tƣơng đối giống với các quỹ tiết kiệm và cho vay. Họ nhận các
khoản tiền gửi và dùng chúng trƣớc hết là để cho vay thế chấp. Cấu trúc tổ
chức của các ngân hàng tiết kiệm tƣơng hỗ hơi khác các quỹ tiết kiệm và cho
vay ở chỗ họ luôn đƣợc tổ chức nhƣ có sự “tƣơng trợ” lẫn nhau, tức là họ hoạt
động nhƣ một “hợp tác xã” trong đó những ngƣời sở hữu tiền gửi lại là các
chủ sở hữu ngân hàng. Ngày nay, các ngân hàng tiết kiệm tƣơng hỗ cũng có
thể phát hành séc và thực hiện các khoản cho vay khác với các khoản cho vay
thế chấp.
Liên hiệp tín dụng. Các liên hiệp tín dụng là các tổ chức cho vay rất
nhỏ có tính chất nhƣ các hợp tác xã đƣợc tổ chức xung quanh một nhóm xã
hội đặc biệt. Các thành viên của quỹ tín dụng là những ngƣời lao động của
một công ty nào đó. Họ thu nhận vốn từ các khoản tiền gửi và trƣớc hết là
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 13 -
thực hiện các khoản cho vay. Các quỹ tín dụng cũng đƣợc phép phát hành các
khoản tiền gửi có thể chuyển thành séc và có thể thực hiện các khoản cho vay
tiêu dùng.
 Các định chế tiết kiệm theo hợp đồng
Các định chế chức tiết kiệm theo hợp đồng là những định chế tài chính
nhận vốn theo định kỳ trên cơ sở các hợp đồng. Do có thể dự tính đƣợc những
khoản phải thanh toán trong tƣơng lai, các định chế tiết kiệm này không phải
lo lắng nhiều về việc thiếu hụt vốn nhƣ các định chế tài chính nhận tiền gửi.
Do vậy, tính thanh khoản không phải là một yêu cầu cấp bách nhƣ các định
chế tài chính nhận tiền gửi. Các định chế tiết kiệm theo hợp đồng có xu hƣớng

đầu tƣ vốn vào các chứng khoán dài hạn nhƣ TPCty, cổ phiếu và các khoản
cho vay thế chấp. Các định chế tiết kiệm theo hợp đồng chủ yếu bao gồm các
CtyBH và các quỹ hƣu trí.
Công ty bảo hiểm. CtyBH là định chế tài chính đảm nhận việc thực hiện
một khoản thanh toán mỗi khi có một sự việc xảy ra với một khoản đóng góp
trƣớc đó của ngƣời tham gia bảo hiểm. CtyBH hoạt động với tƣ cách là ngƣời
chấp nhận rủi ro. CtyBH thu phí bảo hiểm từ những ngƣời mua bảo hiểm để
huy động vốn và sau đó chủ yếu đầu tƣ khoản tiền nhận đƣợc vào chứng
khoán. Có 2 loại hình CtyBH chính là các CtyBH nhân thọ và các CtyBH phi
nhân thọ.
Quỹ hưu trí. Các quỹ hƣu trí đƣợc công ty tƣ nhân, Chính phủ hoặc
chính quyền địa phƣơng, các nghiệp đoàn lao động đại diện cho các thành
viên của mình, và các cá nhân có nhu cầu thành lập để thanh toán những
khoản phúc lợi cho ngƣời lao động khi họ về hƣu. Đặc điểm của các quỹ này
là chúng liên quan đến việc đầu tƣ vào một tài sản có tính thanh khoản rất
thấp, đó là hợp đồng hƣu trí. Một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển
nhanh chóng của các quỹ hƣu trí là các khoản đóng góp của chủ sử dụng lao
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 14 -
động và của ngƣời lao động cũng nhƣ các khoản thu đƣợc từ tài sản của quỹ
đều không bị đánh thuế. Về thực chất, quỹ hƣu trí là một hình thức trả công
cho ngƣời lao động mà không bị đánh thuế cho đến khi số tiền này đƣợc rút
ra; nó có tác dụng khuyến khích ngƣời lao động ở lại với doanh nghiệp.
 Các định chế đầu tư trung gian
Công ty tài chính. Các CtyTC thƣờng huy động vốn bằng cách bán
thƣơng phiếu (công cụ nợ ngắn hạn) và phát hành các cổ phiếu và trái phiếu.
Các CtyTC có thể cho vay tiêu dùng và cho các doanh nghiệp vay để đầu tƣ.
Một số CtyTC do công ty mẹ thành lập còn với mục đích hỗ trợ tín dụng mua
hàng của công ty mẹ.
Quỹ đầu tư. Quỹ đầu tƣ là một tổ chức tài chính phi ngân hàng huy

động vốn bằng hình thức hùn vốn đầu tƣ (investment pool) thông qua việc
phát hành các cổ phiếu hoặc các chứng chỉ hƣởng lợi. Việc hùn vốn đảm bảo
cho các thành viên của quỹ mua đƣợc cổ phiếu và trái phiếu với chi phí giao
dịch thấp. Các cổ đông cũng có thể bán cổ phiếu của mình có trong Quỹ vào
bất kỳ lúc nào với giá trị của các cổ phiếu sẽ phụ thuộc vào giá trị của các cổ
phiếu hay chứng khoán mà Quỹ đã đầu tƣ tại thời điểm đó.
Các quỹ đầu tƣ thực hiện các hoạt động đầu tƣ vốn bằng hai cách: trực
tiếp (tức là tham gia vào một công ty với tƣ cách là một cổ đông) và gián tiếp
(tham gia TTCK, hoặc cho thực hiện các khoản cho vay có thể chuyển đổi
thành cổ phần)
Quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ. Các quỹ tƣơng hỗ thị trƣờng tiền tệ
phát hành các cổ phiếu để thu hút vốn, sau đó vốn này đƣợc dùng để mua các
công cụ tài chính trên thị trƣờng tiền tệ. Lãi suất thu đƣợc từ các công cụ tài
chính đƣợc đem thanh toán cho các cổ đông. Các cổ đông của quỹ có thể phát
hành séc ứng với giá trị phần tài sản cổ phần của họ trong quỹ. Tuy vậy, quỹ
này cũng có những hạn chế đối với việc sử dụng đặc quyền phát séc. Séc
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 15 -
thƣờng không đƣợc phát hành với một tổng giá trị nhỏ hơn mức tối thiểu đã
định.
Ngân hàng đầu tư. Ngân hàng đầu tƣ thƣờng tiến hành các hoạt động
sau: (i) Hỗ trợ các doanh nghiệp huy động vốn trên TTCK nhƣ tƣ vấn phát
hành cổ phiếu, trái phiếu và bảo lãnh phát hành; (ii) Kinh doanh chứng khoán
nhƣ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, và quản lý quỹ đầu tƣ
chứng khoán; và (iii) Tƣ vấn về việc sát nhập và mua lại công ty.
Ngày nay, các ngân hàng đầu tƣ có xu hƣớng mở rộng hoạt động sang
lĩnh vực hoạt động của các NHTM. Các ngân hàng đầu tƣ cũng nhận tiền gửi
và cho vay. Điều này tạo áp lực cạnh tranh lớn lên các NHTM.
1.1.1.3 Các loại hình công cụ tài chính
Các công cụ tài chính đƣợc hiểu là những quyền đòi nợ tài chính nhƣ

chứng chỉ, cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, hợp đồng bảo hiểm ở mỗi bộ phận
cấu thành của TTTC lại có những công cụ đặc thù khác nhau.
 Các công cụ của thị trường tiền tệ
Tín phiếu kho bạc (treasury bill) là công cụ nợ ngắn hạn của Chính phủ
và thƣờng đƣợc phát hành với kỳ hạn thanh toán là 3, 6 và 12 tháng để tài trợ
ngân sách. Tín phiếu kho bạc đƣợc thanh toán theo một khoản định sẵn khi
đến kỳ hạn thanh toán và không phải trả một khoản lãi nào. Trên thực tế,
chúng đƣợc thanh toán lãi do việc bán lần đầu có chiết khấu, tức là với giá
thấp hơn so với khoản tiền đã định đƣợc thanh toán khi đáo hạn. Tín phiếu
kho bạc là loại công cụ có tính thanh khoản cao nhất và an toàn nhất trong số
các loại công cụ của thị trƣờng tiền tệ. Lý do là hiếm khi xảy ra tình trạng mất
khả năng thanh toán (phá sản) của chủ thể phát hành tín phiếu kho bạc (là
Chính phủ) đối với tiền lãi hoặc toàn bộ số tiền của ngƣời sở hữu khi tín phiếu
kho bạc đến kỳ hạn thanh toán. Tín phiếu kho bạc đƣợc các nhà đầu tƣ nắm
giữ để điều tiết thanh khoản trong ngắn hạn. Tín phiếu kho bạc thƣờng chủ
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 16 -
yếu do các ngân hàng nắm giữ; phần còn lại do các hộ gia đình, các công ty
và các trung gian tài chính khác nắm giữ.
Các khoản vay liên ngân hàng. Theo quy định của NHTW, các định
chế nhận tiền gửi phải có một tỷ lệ dự trữ bắt buộc để đáp ứng nhu cầu rút
tiền của những ngƣời gửi tiền. Một số định chế nhận tiền gửi có thể thừa dự
trữ trong khi một số khác lại có thể thiếu. Các tổ chức nhận tiền gửi có thể
mua bán các khoản dự trữ này trên thị trƣờng liên ngân hàng.
Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận (Chấp phiếu). Một hối phiếu
đƣợc ngân hàng chấp nhận là một hối phiếu (một sự hứa hẹn thanh toán tƣơng
tự một tấm séc) do một công ty phát hành, đƣợc thanh toán trong tƣơng lai và
đƣợc ngân hàng bảo đảm với một khoản lệ phí bằng cách ngân hàng đóng dấu
“đã chấp nhận” lên hối phiếu. Công ty phát hành công cụ này phải gửi một
khoản tiền bắt buộc vào tài khoản của mình tại ngân hàng đủ để trả cho hối

phiếu; nếu công ty không làm đƣợc nhƣ vậy, thì sự bảo đảm của ngân hàng có
nghĩa là ngân hàng buộc phải bồi hoàn số tiền của hối phiếu. Lợi ích cho công
ty này là ở chỗ hối phiếu đó có thêm khả năng đƣợc chấp nhận khi mua hàng
hoá ở nƣớc ngoài vì nhà xuất khẩu ngoại quốc biết rằng ngay cả trƣờng hợp
công ty mua hàng hoá đã phá sản thì hối phiếu ngân hàng vẫn đƣợc thanh
toán đủ. Chấp phiếu thƣờng đƣợc bán lại trên thị trƣờng thứ cấp với giá thấp
hơn, và nhƣ vậy, có tác dụng tƣơng tự nhƣ tín phiếu kho bạc.
Thoả thuận mua lại (Repo) là những khoản vay ngắn hạn (thƣờng với
kỳ hạn thanh toán ngắn hơn 2 tuần), trong đó các tín phiếu kho bạc đƣợc dùng
làm tài sản bảo đảm mà ngƣời cho vay nhận đƣợc nếu ngƣời đi vay không
thanh toán đƣợc nợ. Thoả thuận mua lại đƣợc tạo ra nhƣ sau: Một công ty lớn
có một số vốn nhàn rỗi trong tài khoản ngân hàng và công ty này muốn đem
cho vay ngắn hạn (chẳng hạn 1 tuần). Công ty này dùng số tiền nói trên để
mua tín phiếu kho bạc ở một ngân hàng đồng ý sẽ mua lại sau 1 tuần với giá
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 17 -
cao hơn một chút so với giá mà công ty đã mua. Tác dụng của sự thoả thuận
này là ở chỗ công ty cho ngân hàng vay số tiền trên để thanh toán hết món nợ.
Thoả thuận mua lại là một nguồn vốn quan trọng đối với các ngân hàng và
ngƣời cho vay quan trọng nhất ở thị trƣờng này là các công ty lớn.
Thương phiếu
1
là công cụ vay nợ ngắn hạn do các ngân hàng, các
CtyTC hay các công ty lớn phát hành thƣờng dùng để đáp ứng các giao dịch
vãng lai cũng nhƣ thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Thƣơng phiếu chủ yếu
đƣợc giao dịch trên thị trƣờng sơ cấp. Tuy nhiên, cơ hội bán lại (tính thanh
khoản) của thƣơng phiếu đã tăng lên đáng kể trong những năm gần đây.
Thƣơng phiếu thực sự là một trong các công cụ thị trƣờng tiền tệ phát triển
nhanh nhất.
Chứng chỉ tiền gửi (CD) là một công cụ vay nợ do ngân hàng bán cho

ngƣời gửi tiền. Chứng chỉ tiền gửi thanh toán tiền lãi hàng năm theo một
khoản đã định và khi đến kỳ hạn thanh toán thì hoàn trả hết giá mua ban đầu.
Chứng chỉ tiền gửi đƣợc phát hành bởi hầu hết các NHTM và có thể đƣợc bán
lại ở thị trƣờng thứ cấp.
 Các công cụ của thị trường vốn
Các công cụ của thị trƣờng vốn có thời gian đáo hạn trên một năm. Các
công cụ này bao gồm các công cụ nợ (debt instruments) và công cụ vốn
(capital instruments). Các công cụ của thị trƣờng vốn có mức giá biến động
mạnh hơn so với các công cụ của thị trƣờng tiền tệ và đƣợc coi là những
khoản đầu tƣ rủi ro cao.
Cổ phiếu là một loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu và lợi ích
hợp pháp đối với thu nhập và tài sản của một CtyCP. Cổ phiếu là một loại
chứng khoán vốn. Cổ phiếu thể hiện quan hệ đồng sở hữu giữa ngƣời phát


1
Thƣơng phiếu là một trong các công cụ thị trƣờng tiền tệ xuất hiện sớm nhất, vào thế kỷ 18 ở Mỹ (Rose
2003).
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 18 -
hành và nhà đầu tƣ. Ngƣời mua cổ phiếu gọi là cổ đông của công ty và trở
thành ngƣời sở hữu một phần công ty, đƣợc hƣởng các quyền đối với công ty
với mức độ tƣơng ứng với tỷ lệ cổ phần mà họ nắm giữ. Khi công ty làm ăn
thua lỗ, các cổ đông phải chịu thiệt hại tƣơng ứng với giá trị cổ phiếu của họ.
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của ngƣời phát
hành phải trả một khoản tiền xác định cho ngƣời nắm giữ trái phiếu trong
những khoảng thời gian cụ thể và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi
đáo hạn. Trái phiếu là chứng khoán nợ. Ngƣời nắm giữ trái phiếu là chủ nợ và
chủ thể phát hành là con nợ. Lãi suất của các trái phiếu rất khác nhau và đƣợc
quy định bởi các yếu tố cung cầu vốn trên thị trƣờng tín dụng, mức rủi ro của

mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành, và thời gian đáo hạn của trái
phiếu. Trái phiếu bao gồm: (i) TPCP (do Chính phủ phát hành nhằm bù đắp
thâm hụt ngân sách; tài trợ cho các công trình công ích; hoặc làm công cụ điều
tiết tiền tệ); (ii) trái phiếu công trình (do Chính phủ hoặc chính quyền địa
phƣơng phát hành nhằm huy động vốn cho những mục đích cụ thể); và (iii)
TPCty (do các công ty phát hành để vay vốn dài hạn tài trợ cho các hoạt động
kinh doanh)
Khế ước thế chấp (mortgage) là một thoả thuận về khoản tiền mà các
cá nhân hay các công ty kinh doanh vay để mua nhà, đất, hoặc những công
trình kiến trúc khác, trong đó các công trình kiến trúc và đất đƣợc dùng làm
vật thế chấp cho món vay. Những hiệp hội tiết kiệm và cho vay và những
ngân hàng tiết kiệm tƣơng hỗ là những ngƣời cho vay hàng đầu trong thị
trƣờng cho vay thế chấp nhà ở; tuy nhiên, các NHTM cũng đã bắt đầu tham
gia tích cực hơn vào thị trƣờng này. Đa số những món cho vay thế chấp
thƣơng mại và nông trại do các NHTM và các CtyBH thực hiện.
Những khoản vay thương mại và vay tiêu dùng là những khoản vay
dành cho ngƣời tiêu dùng và cho những công ty kinh doanh. Các khoản vay
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 19 -
này có thể đƣợc các ngân hàng hoặc các CtyTC cấp. Thƣờng không có thị
trƣờng thứ cấp để mua bán lại những món vay này và do đó, chúng đƣợc coi
là có tính thanh khoản thấp nhất trong các công cụ của thị trƣờng vốn.
 Các công cụ tài chính phái sinh (derivative instruments)
Công cụ tài chính phái sinh là một tài sản tài chính có giá trị trong
tƣơng lai phụ thuộc vào giá trị của một hay một số tài sản tài chính tài sản cơ
sở (underlying assets) tại thời điểm hợp đồng đƣợc ký kết. Chúng gồm các
loại sau:
Hợp đồng kỳ hạn (forwards) là một thoả thuận, trong đó một ngƣời
mua và một ngƣời bán chấp thuận thực hiện một giao dịch với khối lƣợng xác
định tại một thời điểm xác định trong tƣơng lai với một mức giá đƣợc ấn định

vào thời điểm thoả thuận hợp đồng. Hợp đồng kỳ hạn đƣợc thoả thuận và ký
kết trực tiếp bởi hai bên ký hợp đồng. Hợp đồng kỳ hạn thƣờng đƣợc mua bán
trên thị trƣờng phi tập trung và đƣợc thanh toán vào ngày đáo hạn.
Hợp đồng tương lai (futures) cũng là hợp đồng mua hoặc bán một
lƣợng xác định các đơn vị tài sản cơ sở tại một thời điểm xác định trong
tƣơng lai với một mức giá xác định ngay tại thời điểm thoả thuận hợp đồng.
Hợp đồng tƣơng lai đƣợc mua bán trên thị trƣờng tập trung và đƣợc thực
hiện thông qua các trung gian thanh toán bù trừ (clearing house). Hợp đồng
tƣơng lai đƣợc tính hàng ngày theo mức giá thị trƣờng (marking to market
daily), nghĩa là các khoản lãi hay lỗ đƣợc tính hàng ngày (cộng vào hay trừ đi
từ tài khoản của các bên ký hợp đồng) theo sự biến động của giá tƣơng lai.
Việc tính toán này nhằm giảm thiểu rủi ro cho công ty thanh toán bù trừ trong
trƣờng hợp một bên của hợp đồng không có khả năng thanh toán khi đáo hạn.
Quyền chọn (options) là một công cụ cho phép ngƣời nắm giữ có quyền
mua hoặc bán một số lƣợng xác định các đơn vị tài sản cơ sở tại hay trƣớc
một thời điểm xác định trong tƣơng lai với một mức giá xác định ngay tại thời
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 20 -
điểm thoả thuận. Có 2 loại quyền chọn chủ yếu là quyền chọn mua (call
option) và quyền chọn bán (put option). Quyền chọn mua trao cho ngƣời mua
(ngƣời nắm giữ) quyền (nhƣng không phải nghĩa vụ) mua một tài sản cơ sở
vào một thời điểm hay trƣớc một thời điểm trong tƣơng lai với mức giá xác
định. Quyền chọn bán trao cho ngƣời mua (ngƣời nắm giữ) quyền (nhƣng
không phải nghĩa vụ) bán một tài sản cơ sở vào một thời điểm hay trƣớc một
thời điểm trong tƣơng lai với mức giá xác định.
Quyền mua trước (rights) là quyền ƣu tiên các cổ đông đƣợc mua cổ
phiếu (chứng khoán) mới phát hành (theo tỷ lệ với số lƣợng cổ phiếu mà cổ
đông đang nắm giữ) với mức giá xác định (thƣờng rẻ hơn giá thị trƣờng) và
trong một thời hạn nhất định (thƣờng có thời hạn rất ngắn, có khi chỉ vài tuần)
trƣớc khi cổ phiếu đƣợc bán ra thông qua chào bán cổ phiếu lần đầu (IPO).

Chứng quyền (warrants) là quyền cho phép các cổ đông mua một số cổ
phần nhất định theo một mức giá xác định trong một thời hạn tƣơng đối lâu
(hàng năm). Chứng quyền tƣơng tự quyền chọn mua, song thời hạn của chứng
quyền dài hơn nhiều (hàng năm) trong khi thời hạn của quyền mua trƣớc ngắn
hơn (hàng tháng). Hơn nữa, chứng quyền đƣợc phát hành và bảo đảm bởi một
công ty trong khi quyền mua trƣớc chỉ là một công cụ tài chính và không
đƣợc các công ty phát hành
2
.
Mặc dù có vai trò quyết định trong phân bổ hiệu quả các nguồn lực tài
chính, TTTC vẫn ẩn chứa trong nó những vấn đề cố hữu và rủi ro có thể phát
sinh. Đó là chi phí giao dịch cao, sự bất đối xứng về thông tin, những bất ổn
mang tính hệ thống và các rủi ro liên quan đến tự do hoá tài chính và bùng
phát khủng hoảng tài chính - tiền tệ.



2
Theo Từ điển Baystreet CA
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 21 -
1.1.2 Vai trò của thị trường tài chính

1.1.2.1 Vai trò của thị trường tài chính ở cấp độ vĩ mô
Ở cấp độ vĩ mô, TTTC đóng vai trò là:
- Kênh huy động và phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả
Chức năng này thƣờng đƣợc coi là quan trọng nhất của TTTC. Thông
qua các giao dịch tài chính, TTTC có chức năng cân đối nhu cầu về vốn của
các nhà phát hành các thoả thuận tài chính và những ngƣời nắm giữ các thoả
thuận tài chính. Thông qua lợi thế kinh tế nhờ qui mô và việc giảm thiểu các

chi phí giao dịch, các định chế tài chính đóng vai trò huy động và phân bổ
nguồn vốn một cách có hiệu quả từ các cá nhân và tổ chức thừa vốn tới những
cá nhân và tổ chức thiếu vốn. Bằng cách đó, hệ thống tài chính không những
thỏa mãn nhu cầu tiết kiệm trong nền kinh tế mà còn tạo điều kiện tích lũy
nguồn vốn đầu tƣ vốn rất quan trọng cho tăng trƣởng và phát triển kinh tế.
Thị trƣờng tiền tệ giúp tăng khả năng thanh khoản cho các công cụ tài
chính, hỗ trợ vốn lƣu động cho các doanh nghiệp. Trong khi đó, thị trƣờng
vốn đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ các khoản đầu tƣ dài hạn cho
Chính phủ, các doanh nghiệp và các hộ gia đình.
Ngoài ra, TTTC phát triển lành mạnh là một nhân tố cần thiết đảm bảo
khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế chủ yếu
thông qua việc nâng cao hiệu suất của nền kinh tế (năng suất các nhân tố tổng
hợp), mà không đơn thuần tăng khối lƣợng đầu tƣ (tốc độ tích luỹ vốn).
- Ổn định kinh tế vĩ mô, giảm thiểu rủi ro khủng hoảng tài chính - tiền tệ
TTTC là một kênh quan trọng mà qua đó Chính phủ thực thi các chính
sách kinh tế, nhất là chính sách tài chính - tiền tệ của mình để ổn định kinh tế
và kiểm soát lạm phát.
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 22 -
Trong khi thị trƣờng tiền tệ cung cấp lãi suất tham chiếu cho thị trƣờng
vốn và tăng khả năng kiểm soát cung tiền của NHTW thì thị trƣờng vốn, nhất
là TTCK, phát triển còn đƣợc xem là “hàn thử biểu” đo sức khoẻ của nền kinh
tế.
Một TTTC phát triển lành mạnh tạo điều kiện giảm thiểu vấn đề "sai
lệch kép"
3
, trong đó thị trƣờng trái phiếu và phái sinh đóng vai trò quan trọng
nhất. Lý do là thị trƣờng TPCty tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành các
trái phiếu dài hạn bằng đồng nội tệ tài trợ cho hoạt động đầu tƣ kinh doanh
dài hạn trong nƣớc, giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn vốn vay từ hệ thống

ngân hàng. Ngoài ra, khi TTTC phát triển thì các đòi hỏi về minh bạch và
công khai hóa thông tin, về chuẩn mực kế toán, kiểm toán, và giám sát sẽ
ngày càng cao; điều này tạo điều kiện cho Chính phủ tăng hiệu quả và hiệu
lực quản lý hệ thống tài chính nói chung và TTTC nói riêng, góp phần giảm
thiểu và ngăn ngừa khủng hoảng tài chính - tiền tệ bùng phát.
1.1.2.2 Vai trò của thị trường tài chính ở cấp độ vi mô
Ở cấp độ vi mô, TTTC có vai trò:
- Góp phần cải thiện và nâng cao năng lực quản trị và sự năng động của các
công ty
Để vay đƣợc vốn từ các định chế tài chính, các công ty buộc phải nỗ
lực nâng cao năng lực quản trị, tính năng động trong điều hành sản xuất kinh
doanh và luôn tìm kiếm các cơ hội đầu tƣ. Thậm chí, ngay cả khi vốn đã đƣợc
giải ngân, các định chế tài chính, với chức năng giám sát các khoản cho vay,
vẫn yêu cầu các công ty vẫn phải đảm bảo đƣợc các điều kiện trên.
- Đa dạng hoá kênh huy động và đầu tư


3
Sai lệch kép” trong bảng cân đối tài sản của một tổ chức (nhƣ ngân hàng, doanh nghiệp) là tình trạng vừa có
sai lệch về cơ cấu thời hạn (các nguồn vốn ngắn hạn đƣợc sử dụng cho dài hạn), vừa có sai lệch về cơ cấu
đồng tiền (có sự khác nhau trong cấu thành đồng nội tệ và ngọai tệ giữa tài sản có và tài sản nợ trong bảng
cân đối tài sản).
Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 23 -
TTTC càng phát triển với nhiều loại hình định chế tài chính và công cụ
tài chính, thì các doanh nghiệp, các nhà đầu tƣ càng có nhiều kênh huy động
vốn (nhƣ bằng cách phát hành cổ phiếu, phát hành trái phiếu hay việc vay từ
các định chế tài chính hoặc nhận đầu tƣ từ các quỹ đầu tƣ mạo hiểm ) và đầu
tƣ (nhƣ cho vay lại hoặc đầu tƣ chứng khoán ).
- Chia sẻ, phân tán rủi ro

TTTC cũng cung cấp cho các nhà đầu tƣ nhiều kênh và cách thức khác
nhau để chia sẻ và phân tán rủi ro, qua đó tăng khả năng sinh lời của đồng
vốn. Các tổ chức tài chính nhƣ các quỹ đầu tƣ cho phép các cá nhân giảm rủi
ro bằng cách đa dạng hoá danh mục đầu tƣ. Các CtyBH cung cấp dịch vụ
phòng vệ rủi ro nhằm tối thiểu hoá các tổn thất trong tƣơng lai bằng cách tập
hợp rủi ro của hàng triệu ngƣời (nguyên tắc lấy số đông bù số ít). Đặc biệt,
việc tạo ra các công cụ tài chính phái sinh là một bƣớc tiến quan trọng trong
việc hạn chế/giảm thiểu rủi ro trong tình hình TTTC có nhiều biến động
mạnh.
- Kênh khai mở tri thức và công nghệ mới
Khi nền kinh tế càng phát triển năng động thì càng nhiều ý tƣởng mới
về cơ hội kinh doanh và công nghệ xuất hiện. Thông qua TTTC, nhất là thị
trƣờng đầu tƣ mạo hiểm, những ý tƣởng sáng tạo, cùng với nỗ lực kinh doanh
và khả năng huy động vốn là động lực cho việc tạo ra công nghệ mới, sản
phẩm mới với hiệu quả mới.

1.2 KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƢỚC CHÂU Á TRONG VIỆC XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN TTTC

Nguyễn Thị Hồng Hải Luận văn thạc sĩ
- 24 -
1.2.1 Xây dựng kết cấu hạ tầng vững chắc cho TTTC

Các nhân tố của kết cấu hạ tầng lĩnh vực tài chính là hệ thống pháp
luật, những quy chế về thu thập số liệu, kế toán và các tiêu chuẩn công khai,
hệ thống thanh toán, và công ty quản lý tài sản. Đối với nhiều nƣớc, phát triển
một kết cấu hạ tầng TTTC mạnh chính là một thách thức lớn. Trong một số
trƣờng hợp, một số nhân tố cần thiết có thể có đƣợc sau một thời hạn ngắn;
nhƣng trong nhiều trƣờng hợp khác, quá trình là rất dài.


Kết cấu hạ tầng pháp luật
Kết cấu hạ tầng luật pháp là một bộ phận cấu thành quan trọng trong
kết cấu hạ tầng TTTC. Đây là nhân tố hàng đầu nhằm duy trì “luật chơi” và
bảo vệ quyền lợi chính đáng của các tác nhân tham gia thị trƣờng.
Tại các nƣớc Châu Á, kết cấu hạ tầng luật pháp đƣợc hình thành trong
thời gian tƣơng đối dài và đang đƣợc “cải tổ” mạnh mẽ trong những năm gần
đây. Trong số này, đáng chú ý nhất là hầu hết các nƣớc đều tập trung vào việc
sửa đổi Luật phá sản ngân hàng.
Luật phá sản ngân hàng đƣợc sửa đổi để cho phép những con nợ phá
sản nhanh hơn và tài sản của họ sẽ đƣợc các chủ nợ nắm giữ. Tại Inđônêxia,
luật phá sản ngân hàng là di sản của hệ thống thuộc địa Hà Lan, tác dụng rất
thấp vì sự kéo dài, tốn kém của nó, và đôi khi cả những thủ tục bất công. Các
chủ nợ sẽ thƣờng rất khó khăn để bù đắp các khoản vay khi các con nợ không
thể trả nợ. Luật phá sản ngân hàng sửa đổi lấy mẫu từ Chƣơng 11 Luật phá
sản ngân hàng Mỹ, đã có hiệu lực vào tháng 8 năm 1998, và một toà án
thƣơng mại để giải quyết các vụ về tịch thu tài sản để thế nợ đƣợc thành lập
sau đó không lâu.
Tại Pakistan, một hệ thống toà án ngân hàng thống nhất đã đƣợc thiết
lập sau đạo luật Banking Companies Act năm 1997. Nó đã thay thế hệ thống

×