Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Tín dụng nhà nước ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (24 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TÊ
NGHIÊM QUÝ HÀO
TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC
m
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tê chính trị
Mã số: 60 31 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TÊ CHÍNH TRỊ
• • •
NGƯỜI HUỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS PHẠM VĂN DŨNG
ĐAI HỌC QUÒC GIA HA NOI
TRUNG TẨM THÕNG TIN 1HƯ V1ẺN
\i 7l o /7%
HÀ NỘI - 2008
2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng nhà nước ở Việt Nam
thời gian qua 49
2.2.1. Chính sách tín dụng nhà nước ở Việt Nam thời gian qua 49
2.2.2. Thực trạng tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng hỗ trợ
xuất khẩu của nhà nước tại Việt Nam thời gian qua 59
2.3. Đánh giá hoạt động tín dụng nhà nước ở Việt Nam thời gian
qua 66
2.3.1. Đóng góp của tín dụng nhà nước cho nền kinh tế
66
2.3.2. Những vấn đề tồn tại hiện nay của tín dụng nhà nước

70
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TÍN DỰNG
NHÀ NƯỚC Ỏ VIỆT NAM 82
3.1. Quan điểm, định hướng phát triển tín dụng nhà nước trong


điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 82
3.1.1. Tín dụng nhà nước là cần thiết và có ý nghĩa lâu dài 82
3.1.2. Tín dụng nhà nước cần được thực hiện theo các nguyên tắc
thị trường 85
3.1.3. Tín dụng nhà nước phải phù hợp với các cam kết quốc tế

88
3.2. Một số giải pháp phát triển tín dụng nhà nước ở Việt Nam

91
3.2.1. Xây dựng khung thể chế phù hợp cho sự phát triển lâu dài
của tín dụng nhà nước trong nền kinh tế thị trường và điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế 91
3.2.2. Đổi mới cơ chế hoạt động tín dụng nhà nước ở Việt Nam 94
3.2.3. Đổi mới tổ chức thực hiện tín dụng nhà nước ở Việt Nam 101
KẾT LUẬN 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 106
PHỤ LỤC 112
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tát Chữ đầy đủ tiếng Việt- tiếng Anh
CP Chính phú
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
GDP Tổng sản phẩm quốc nội - Gross Domestic Product
HĐBT Hội đổng bộ trưởng
HTPT (Quỹ) hổ trợ phát triển
NĐ Nghị định
NHCSXH Ngân hàng Chính sách xã hội
NHNN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NHPT Ngân hàng Phát triển Việt Nam

NSNN Ngân sách nhà nước
NXB Nhà xuất bản
ODA Hỗ trợ phát triển chính thức- Official Development Aids
QĐ Quyết định
TP Thành phố
TPCP Trái phiếu Chính phủ
TP HCM Thành phố Hồ Chí Minh
TTg Thủ tướng Chính phủ
XHCN Xã hội chủ nghĩa
XNK Xuất nhập khẩu
WTO Tổ chức thương mại thế giới - World Trade Organization
3
MỞ ĐẨU
1. Tính cấp thiết cùa đé tài
Về khách quan, cơ chế kinh tế thị trường khó tránh khỏi các thất bại
thị trường - một thuộc tính của nền kinh tế thị trường - hay còn gọi là mặt
trái của kinh tế thị trường như tính chu kỳ trong phát triển kinh tế, sự phân
hóa giàu nghèo, ô nhiễm môi trường gia tăng Khắc phục, hạn chế các
khuyết tật của thị trường chính là một trong số những lý do kinh tế căn bản
cho sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế. Nhà nước can thiệp vào nền
kinh tế thông qua những công cụ kinh tế như cơ chế, luật lệ, tín dụng, trợ
cấp, trợ giá, miễn giảm thuế và các công cụ phi kinh tế khác. Trong đó,
tín dụng nhà nước là một công cụ hữu hiệu.
Tín dụng nhà nước là các hoạt động của quan hệ vay - trả giữa nhà
nước với các tác nhân hoạt động trong nền kinh tế, phục vụ cho mục tiêu
định hướng của nhà nước nhằm thực hiện các chương trình, dự án, kinh tế
lớn của nhà nước trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ.
Tín dụng nhà nước sẽ đóng vai trò như một khoản chi của ngân sách
nhà nước (thông qua tổ chức thực hiện tín dụng nhà nước) cho đầu tư phát
triển, cho vay với lãi suất thấp (lãi suất ưu đãi) hơn mặt bằng lãi suất thị

trường, theo kế hoạch hoặc mục tiêu, định hướng của nhà nước để khuyến
khích các nhà đầu tư bỏ một phần vốn tự có của mình, cùng với phần vốn
vay lãi suất ưu đãi từ tín dụng nhà nước tham gia đầu tư hình thành nên tài
sản cố định, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội để phục vụ cho phát triển kinh tế
- xã hội.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, sự tồn tại của tín dụng nhà nước hay
nói cách khác, vai trò của tín dụng nhà nước đối với nền kinh tế là một đòi
hỏi khách quan trong sự phát triển của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn
lịch sử nhất định. Đặc biệt, đối với các nền kinh tế đang phát triển, khi mà
khu vực ngoài nhà nước còn hạn chế về khả năng tích tụ vốn, khả năng thực
hiện các dự án có quy mô vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, phục vụ cho
4
tiện ích công cộng , tín dụng nhà nước càng có vai trò quan trọng, nhất là
các dự án phát triển cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. Là một nước đang phát
triển, với cơ sở hạ tầng nghèo nàn, lạc hậu, lại bị tàn phá nặng nề trong các
cuộc chiến tranh, để thực hiện quá trình cồng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, phát triển cơ sờ hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế ở Việt Nam là một
đòi hỏi bức thiết, tất yếu.
Trong thời gian qua, tín dụng nhà nước, cụ thể là tín dụng đầu tư phát
triển và hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước ở Việt Nam đã phát huy vai trò quan
trọng của mình trong nền kinh tế, trở thành công cụ quan trọng của Chính
phủ trong chỉ đạo, điều hành và triển khai các dự án lớn, các chương trình
trọng điểm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xoá đói giảm nghèo nhằm
thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Trong tiến trình đổi mới ờ nước ta, sớm nhận thức được tính tất yếu
khách quan của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã coi hội
nhập kinh tế quốc tế là một bộ phận không thể tách rời của đổi mới. Và
không chỉ dừng lại ở nhận thức, trên thực tế, Việt Nam đã liên tục, nhất
quán thực hiện các bước hội nhập kinh tế quốc tế quan trọng, trong đó, gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) có thể coi là bước quan trọng

nhất.
Gia nhập WTO cũng có nghĩa là Việt Nam có nghĩa vụ thực thi các
cam kết với cộng đồng quốc tế trên tư cách thành viên của tổ chức kinh tế -
thương mại lớn nhất hành tinh này. Thực tế đó đã và đang đặt ra yêu cầu tất
yếu đổi mới chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của
Nhà nước với mục tiêu tín dụng nhà nước tiếp tục là công cụ của Chính phủ
thúc đẩy đầu tư, thúc đẩy xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời
phù hợp với các quy định của WTO về hỗ trợ phát triển.
Chính vì những lý do nêu trên, việc nghiên cứu về tín dụng nhà nước
nói chung, nghiên cứu để hoàn thiện chính sách tín dụng nhà nước trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là việc làm cần thiết, có tính cấp bách, có
ý nghĩa quan trọng cả về lý luận, nhận Ihức và đóng góp thực tiễn.
5
2. Tình hình nghiên cứu
Tín dụng nhà nước, tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển ở Việt
Nam đã giành được sự quan tâm nghiên cứu, phân tích của nhiều cơ quan,
tổ chức, cá nhân ở những góc nhìn khác nhau, tiêu chí, mục đích khác nhau.
Trong Đề tài khoa học cấp Bộ Hoàn thiện chính sách và cơ chê quản
lý tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển ở Việt Nam, Viện Nghiên cứu tài
chính, Bộ Tài chính (2001), các tác giả đã tập trung nghiên cứu về những
vấn đề cơ bản của tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển; phân tích và
đánh giá thực trạng chính sách, cơ chế quản lý tín dụng nhà nước cho đầu tư
phát triển ở Việt Nam giai đoạn 1991 - 2000; đề xuất các giải pháp hoàn
thiện chính sách, cơ chế tín dụng đầu tư phát triển. Đề tài chủ yếu đi sâu
vào phân tích nội dung các cơ chế, chính sách của nhà nước về hoạt động
đầu tư xây dựng cơ bản nói chung, về hoạt động tín dụng của nhà nước cho
đầu tư phát triển nói riêng. Trên cơ sở chỉ ra thực trạng về chính sách và cơ
chế quản lý tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển, các tác giả nêu lên các
giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện về cơ chế, chính sách cho tín dụng
đầu tư phát triển của nhà nước (về cơ chế, chính sách huy động vốn, cơ chế,

chính sách cho vay, cơ chế, chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, cơ chế,
chính sách bảo lãnh tín dụng đầu tư, hoàn thiện và nâng cao năng lực quản
lý vốn tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển ).
Trong Luận án tiến sỹ kinh tế Hoàn thiện cơ chê tín dụng đầu tư phát
triển của nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt
Nam, Học viện tài chính, tác giả Hoàng Văn Quỳnh (2002), đã hệ thống
hóa một số vấn đề lý luận về đầu tư và đầu tư phát triển, vốn đầu tư, vốn
đầu tư cơ bản; phân tích đánh giá thực trạng tình hình đầu tư của xã hội và
cơ chế tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước; đề xuất một số giải pháp
hoàn thiện cơ chế tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước. Luận án đi sâu
nghiên cứu về nội dung chính sách tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
giai đoạn 1999 - 2000. Tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp định tính
trong đánh giá về hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước bằng
6
việc nêu ra các chỉ số tăng trưởng chung của nền kinh tế. Tiếp cận dưới góc
độ coi tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một cơ chế ƯU đãi của nhà
nước dành cho các đối tượng thụ hưởng, tác giả kiến nghị nhà nước tiếp tục
dành ưu đãi hơn nữa về mức lãi suất cho vay, mức vốn cho vay đối với các
doanh nghiệp vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
Trong Luận văn thạc sỹ kinh tế Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động tín dụng của Quỹ Hỗ trợ phát triển ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay, Học viện Ngân hàng, tác giả Trần Thị Mỹ Hạnh (2003) đã đặt vấn đề
về sự cần thiết khách quan của tín dụng nhà nước, đặc điểm của tín dụng
nhà nước, hoạt động tín dụng nhà nước trong nền kinh tế thị trường và vai
trò tín dụng nhà nước trong chính sách đầu tư phát triển; trình bày về sự ra
đời của Quỹ HTPT, thực trạng hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT, đánh giá
hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT ở Việt Nam trong thời gian qua
và đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trong luận văn này, tác giả đi sâu phân
tích, khái quát hoá về mặt lý luận những vấn đề hiệu quả hoạt động tín dụng

của Quỹ HTPT như quan điểm về hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ
HTPT, sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng, các nhân tô'
ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng và các chỉ tiêu đánh giá hiệu
quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT.
Trong Luận văn thạc sỹ kinh tế Một sô' giải pháp nhằm náng cao
hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước qua hệ thống
Quỹ Hỗ trợ phát triển, Trường Đại học Thương mại, tác giả Nguyễn Gia
Thế (2004) đã tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tín dụng của
Quỹ HTPT và hiệu quả của nó; phân tích thực trạng hoạt động của Quỹ
HTPT, đánh giá những kết quả đạt được, các hạn chế trong hoạt động tín
dụng đầu tư phát triển của nhà nước qua hệ thống Quỹ HTPT; để ra những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của
nhà nước qua hệ thống Quỹ HTPT ở nước ta hiện nay. Luận văn đi sâu vào
nghiên cứu về hình thức tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển. Luận văn
7
xuất phát từ quan điểm: Quỹ HTPT là cơ quan được giao nhiệm vụ thực
hiện chính sách tín dụng hỗ trợ phát triển của nhà nước do vậy việc nâng
cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển chính là nâng cao hiệu
quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước qua hệ thống Quỹ
HTPT. Trên cơ sở đó, tác giả đề ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động của các nghiệp vụ của Quỹ HTPT như đa dạng hoá hình thức huy
động vốn, nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án, hoàn thiện hệ
thống các quy chế, quy trình nghiệp vụ quản lý vốn tín dụng đầu tư phát
triển của nhà nước, đẩy mạnh công tác thu hồi nợ và xử lý nợ vay, tãng
cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Trong Luận văn thạc sỹ kinh tế Một số giải pháp nâng cao hiệu quả
tín dụng xuất khẩu tại Quỹ Hỗ trợ phát triển, Trường Đại học Thương mại,
tác giả Trần Anh Tú (2004) đã tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản
về tín dụng hỗ trợ xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường; đánh giá thực
trạng hoạt động tín dụng ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu ở Quỹ HTPT; đưa ra

một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngắn hạn hỗ
trợ xuất khẩu ở Quỹ HTPT. Luận văn đã dành một số lượng trang thích
đáng để trình bày về kinh nghiệm quốc tế về hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất
khẩu, đặc biệt là hoạt động của một số ngán hàng xuất nhập khẩu chuyên
doanh (Exlm Bank) ở Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc. Qua đó
làm rõ hơn cơ sở lý luận về chính sách tài trợ tín dụng xuất khẩu ở hầu hết
các quốc gia trên thế giói với tính chất là một hình thức tín dụng nhà nước.
Đồng thời, qua kinh nghiệm quốc tế, tác giả kiến nghị thực hiện các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng xuất khẩu như đa dạng hoá các hình
thức cho vay xuất khẩu, áp dụng các hình thức tài trợ tín dụng nhà nước mới
cho xuất khẩu như tín dụng người mua, thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm xuất
khẩu
Trong Luận án tiến sỹ kinh tế Năng cao hiệu quả hoạt động tín dụng
đầu tư phát triển của nhà nước, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, tác giả
Trần Công Hoà (2007) đã đề ra các mục tiêu nghiên cứu sau: nghiên cứu
8
những vấn đề cơ bản về hoạt động tín dụng đầu lư phát triển và hiệu quả
hoạt động tín dụng đầu lư phát triển của nhà nước; phân tích, đánh giá thực
trạng hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ở Việt
Nam; đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ở Việt Nam. Trong luận án này, tác
giả đã tập trung xây dựng cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động tín dụng đầu
tư phát triển của nhà nước, hệ thống các chỉ tiêu đánh giá và phương pháp
đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước trên cả
phương diện định tính và định lượng, ở tầm vi mô và vĩ mô. Đóng góp nổi
bật của luận án này là tác giả đã thiết lập hệ thống chỉ tiêu đánh giá theo
phương pháp định lượng trên cơ sở sử dụng mô hình toán kinh tế và toán
thống kê để phân tích thực trạng hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát
triển của nhà nước trong giai đoạn 2000 - 2006 trên các phương diện: hiệu
quả đối với nền kinh tế, hiệu quả đối với tổ chức thực hiện tín dụng đầu tư

phát triển của nhà nước, hiệu quả đối với việc phát triển sản xuất của các
doanh nghiệp. Bôn cạnh đó, luận án cũng chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng tới
hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, bao gồm: các
nhân tố về môi trường chính trị, pháp lý, kinh tế xã hội; cơ chế hoạt động
tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước; năng lực của các tổ chức thụ
hưởng. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư
phát triển của nhà nước, trên cơ sở chỉ ra các nhân tố ảnh hường tới hiệu
quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển, tác giả nêu ra các giải pháp, kiến
nghị nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
Trong Luận án tiến sỹ kinh tế Nâng cao năng lực hoạt động của
Ngân hàng Chinh sách xã hội Việt Nam, Học viện Ngân hàng, tác giả Lê
Hồng Phong (2007) đã giải quyết các vấn đề lý luận về sự cần thiết hình
thành Ngàn hàng chính sách xã hội, tính ưu việt của mô hình Ngân hàng
chính sách xã hội ở Việt Nam trong thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi
của nhà nước đối với nhóm người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội
khác; năng lực hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội và các nhân tố
9
ảnh hưởng đến năng lực hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội; phân
tích thực trạng tài trợ vốn cho đối tượng chính sách ở Việt Nam, thực trạng
nàng lực hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam, đánh giá
nàng lực hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam; các giải
pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực hoạt động của Ngân hàng chính
sách xã hội Việt Nam để thực hiện có hiệu quả tín dụng chính sách của nhà
nước, trong đó tập trung vào công tác trọng tâm của tổ chức này là tín dụng
xoá đói giảm nghèo.
Trong các đề tài, nghiên cứu kể trên, các tác giả, ở các góc độ khác
nhau, mặc dù bàn về tín dụng nhà nước song mới chỉ dừng lại hoặc ở tín
dụng đầu tư phát triển, hoặc ở tín dụng xuất khẩu chứ chưa thể hiện đúng
thực trạng của tín dụng nhà nước bao gồm tín dụng nhà nước cho đầu tư
phát triển, tín dụng nhà nước cho thúc đẩy xuất khẩu và kể cả tín dụng nhà

nước dưới góc độ tín dụng chính sách của nhà nước cho xoá đói giảm
nghèo. Các đề tài, nghiên cứu nói trên chủ yếu đi sâu vào phân tích thực
trạng hiệu quả của tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển, trong đó nhấn
mạnh nhiều đến hiệu quả hoạt động của tổ chức thực hiện tín dụng nhà
nước cho đầu tư phát triển là Quỹ Hỗ trợ phát triển ở Việt Nam; chưa khắc
hoạ rõ nét vai trò của tín dụng nhà nước đối với nền kinh tế, chưa đặt tín
dụng nhà nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là trong
bối cảnh nên kinh tế đã chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế
quốc tế. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu đề tài này vẫn rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Từ việc làm rõ thực trạng tín tín dụng nhà nước trong nền kinh tế thị
trường mở cửa hội nhập ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra những ưu nhược điểm
trong lĩnh vực này, Luận văn đưa ra các giải pháp nhằm phát huy vai trò của
tín dụng nhà nước trong bối cảnh mới của đất nước.
10
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái quát đặc điểm, bản chất, vai trò của tín dụng nhà nước trong
nền kinh tế thị trường;
- Đánh giá những mặt được, chưa được trong chính sách tín dụng nhà
nước ở Việt Nam;
- Đề xuất định hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính
sách tín dụng nhà nước để tín dụng nhà nước tiếp tục phát huy vai trò của
mình trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: tín dụng nhà nước và tín dụng nhà nước ở
Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: tín dụng nhà nước ở Việt Nam, trọng tâm là tín
dụng đầu tư phát triển, tín dụng xuất khẩu của nhà nước giai đoạn 2000 -

2007.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử và kinh tế học hiện đại. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể là phân tích
- tổng hợp; logic - lịch sử
6. Dự kiến những đóng góp mới của đề tài
Dự kiến, Luận văn có những đóng góp chủ yếu là:
- Làm rõ hơn lý luận về tín dụng nhà nước trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế; tổng kết kinh nghiệm của một số nước trong thực hiện tín
dụng nhà nước nhằm rút ra bài học đối với Việt Nam;
- Phân tích thực trạng tín dụng nhà nước trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam; chỉ ra những bất cập cần bổ sung về chính
sách tín dụng nhà nước trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập kinh tế thế giới
và Việt Nam phải đáp ứng các điều kiện, thực thi các cam kết khi hội nhập
kinh tế quốc tế, gia nhập WTO;
11
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện và phát huy vai
trò của tín dụng nhà nước, đáp ứng được các điều kiện khi hội nhập kinh tế
quốc tế. phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam.
7. Bó cục của luận vãn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Luận văn được kết cấu thành ba
chương:
Chương 1: Tín dụng nhà nước trong nền kinh tế thị trường: cơ sờ lý
luận và thực tiễn.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng nhà nước ở Việt Nam
trong thời gian qua.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp phát triển tín dụng nhà nước ờ
Việt Nam.
12
Chương 1

TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC TRONG NEN k in h t ế t h ị t r ư ờ n g
Cơ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẺN
1.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng nhà nước
1.1.1. Khái niệm vé tín dụng nhà nước
- Thuật ngữ Tín dụng xuất phát từ chữ Latinh “Creditium” với nghĩa
là “sự tin tưởng, tín nhiệm”. Trong tiếng Anh, từ “Credit” theo nghĩa thông
thường cũng có nghĩa là “sự tin tưởng, tin cậy”.
Credit với nghĩa Tín dụng trong tiếng Anh được định nghĩa như sau:
“Là một cụm thuật ngữ nghĩa rộng liên quan đến hoạt động kinh doanh hay
các bản kê khai có liên quan đến việc cho vay tiền, thường là cho vay ngắn
hạn. Cho vay tín dụng là cho vay một cách trực tiếp hoặc gián tiếp để chi
tiêu và hoàn trả lại trong tương lai”. [26]
Theo Từ điển Kinh tế Tài chính Ngân hàng (Lê Văn Tề biên soạn từ
cuốn Dictionary of Economic - của hai giáo sư kinh tế học người Anh là
Chiristipher Pass và Bryan Lower), cụm từ “tín dụng” được định nghĩa: “là
một phương thức tài chính giúp một cá nhân hoặc doanh nghiệp vay tiền để
mua sản phẩm, nguyên vật liệu v.v và có thể hoàn trả với thời hạn được
xác định”. [32]
Theo Từ điển tiếng Việt: tín dụng là “Sự vay mượn tiền mặt và vật tư
hàng hóa”. [49]
Trong Giáo trình Lý thuyết tài chính - tiền tộ, Trường Đại học Kinh
tế, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, tác giả Nguyễn Ngọc Hùng định
nghĩa: Theo nghĩa hẹp “Tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một
lượng giá trị nhất định dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ trong một thời
gian nhất định từ người sở hữu sang người sử dụng và khi đến hạn, người sử
dụng phải hoàn trả lại cho người sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn,
khoản giá trị dôi ra này được gọi là lợi tức tín dụng”; theo nghĩa rộng
13
“Quan hệ tín đụng gồm hai mặt: huy động vốn và tiến hành cho vay”. Bản
chất của tín dụng được các nhà nghiên cứu kinh tế ghi nhận là “một quan hệ

kinh tế giữa người cho vay và người đi vay giữa họ có mối liên hộ với nhau
thông qua vận động giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thái tiền
tệ hoặc hàng hoá”.[22]
- Căn cứ vào chủ thể trong quan hệ tín dụng, người ta có thể chia
thành các hình thức tín dụng sau:
+ Tín dụng thương mại: là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh
nghiệp, được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá;
+ Tín dụng ngân hàng: là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ
chức tín dụng khác với các nhà doanh nghiệp và cá nhân;
+ Tín dụng nhà nước: là quan hệ tín dụng mà trong đó nhà nước là
người đi vay để đảm bảo các khoản chi tiêu của NSNN đồng thời là người
cho vay để thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình trong quản lý kinh
tế- xã hội và phát triển quan hệ đối ngoại.
- Như vậy, có thể khái quát lại: Tín dụng nhà nước là các hoạt động
vay trả giữa nhà nước với các tác nhân khác trong nền kỉnh tế, phục vụ cho
mục đích của nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng nhà nước
Tín dụng nhà nước cũng hoạt động theo nguyên tắc vay trả và có sinh
lợi tức như các loại hình tín dụng khác nhưng tín dụng nhà nước có những
đặc điểm riêng, phân biệt nó với các hình thức tín dụng khác, thể hiện ở các
đặc điểm chủ yếu sau:
Ị .1.2.1. Chủ thể nhà nước trong quan hệ tín dụng
Trong hoạt động tín dụng nhà nước luôn có một bên tham gia là chủ
thể nhà nước so với các loại hình tín dụng khác mà trong đó chủ thể nhà
nước là không bất buộc. Ví dụ, tổ chức thực hiện tín dụng nhà nước luôn do
Chính phủ thành lập 100% vốn nhà nước, không thực hiện cổ phần hoá.
Hiện nay, 02 tổ chức cho vay chính sách, thực hiện chính sách tín dụng nhà
nước ở Việt Nam là Ngân hàng Chính sách xã hội và Ngân hàng Phát triển
14
Việt Nam đều do Chính phủ thành lập, có thời hạn hoạt động là 99 năm.

Trong khi đó, hiện nay, bên cạnh các tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước
ngoài, tất cả các tổ chức tín dụng thương mại trong nước khác, kể cả 04
ngân hàng thương mại quốc doanh lớn (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn; Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam; Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam; Ngân hàng Công thương Việt Nam) đều hoạt động
thec mồ hình doanh nghiệp cổ phần hoặc theo kế hoạch sẽ lần lượt được
thực hiện cổ phần hoá, đa dạng hóa sở hữu.
1.1.2.2. Mục đích của tín dụng nhà nước
Mục đích của tín dụng nhà nước là hỗ trợ các dự án, các sản phẩm
trọng điểm thuộc một số ngành then chốt, lĩnh vực quan trọng, chương trình
kinh tế lớn có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế nhằm tập trung
phát triển các ngành, các sản phẩm này hoặc ưu tiên, khuyên khích đầu tư
cho các vùng, miền khó khăn, khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo điều
kiện để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, thực hiện các định hướng,
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ của Chính phủ.
1.1.2.3. Đối tượng của tín dụng nhà nước
Do mục đích của tín dụng nhà nước như nêu trên nên đối tượng của
tín dụng nhà nước thường là các tổ chức, doanh nghiệp hoặc chủ thể khác
thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của nhà nước (như
chương trình cho vay cơ khí, chương trình cho vay đóng tàu đánh bắt hải
sản xa bờ, chương trình mía đường ), các chương trình quốc gia về việc
làm, chương trinh xoá đói giảm nghèo và các vùng khó khãn cần khuyến
khích đầu tư chứ không phải là các đối tượng thuộc tất cả các lĩnh vực, các
ngành nghề trong nền kinh tế như đối tượng phục vụ của tín dụng ngân
hàng, tín dụng thương mại hay tín dụng tiêu dùng của các tổ chức tín dụng
thương mại.
1.1.2.4. Nguyên tắc hoạt động của tín dụng nhà nước
Từ mục đích, đối tượng được xác định như vậy, tín dụng nhà nước
hoạt động theo nguyên tắc bổ sung thay vì cạnh tranh với các ngân hàng
15

thương mại với đặc điểm của khoản vay thường có thời hạn dài, đầu tư vào
các lĩnh vực sinh lợi thấp, có nhiều rủi ro, thâm dụng vốn mà các ngân hàng
thương mại thường không đủ tiềm lực tài chính hoặc không muốn cho vay
do khó thu được lợi nhuận. Vì vậy, hoạt động tín dụng nhà nước thường là
hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, lãi suất cho vay của tín dụng nhà
nước thường là lãi suất ưu đãi, thấp hơn lãi suất thị trường, thời gian cho vay
dài hơn, cơ chế bảo đảm tiền vay ưu đãi hơn. Phần chênh lệch giữa lãi suất
ưu đãi và lãi suất thị trường do Nhà nước cấp bù cho tổ chức thực hiện tín
dụng nhà nước.
ỉ .1.2.5. Tính lịch sử của tín dụng nhà nước
Xuất phát từ mục đích, đối tượng và nguyên tắc hoạt động của minh,
tín dụng nhà nước ra đời, tồn tại, phát triển gắn với từng nhiệm vụ, mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ nhất định của mỗi quốc gia; nó
vừa phục vụ mục tiêu kinh tế vừa mang tính chính trị xã hội, thể hiện các
mục tiêu phát triển của quốc gia.
Nói tóm lại, tín dụng nhà nước có đặc điểm là loại hình tín dụng của
nhà nước cho vay với lãi suất un đãi, theo kế hoạch, chủ trương của nhà
nước để thực hiện mục tiêu, định hướng của nhà nước.
1.2. Sự cần thiết của tín dụng nhà nước
1.2.1. Khắc phục, hạn chế các khuyết tật thị trường
Những đặc điểm nêu trên của tín dụng nhà nước cũng đã phần nào
giải thích về sự cần thiết của tín dụng nhà nước nói chung và tín dụng nhà
nước trong nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập.
Như chúng ta đều biết, cơ chế kinh tế thị trường luôn chứa đựng các
khiếm khuyết của thị trường (hay còn gọi là mặt trái của kinh tế thị trường)
như tính chu kỳ trong phát triển kinh tế, sự phân hóa giàu nghèo, ô nhiễm
môi trường gia tăng Khắc phục các khuyết tật của thị trường, sửa chữa,
hạn chế các khuyết tật của thị trường chính là một trong số những lý do
kinh tế căn bản cho sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế. Nhà nước
can thiệp vào nền kinh tế thông qua những công cụ kinh tế như cơ chế, luật

16
lệ, tín dụng, trợ cấp, trợ giá, miễn giảm thuế và các công cụ phi kinh tế
khác. Trong đó, tín dụng nhà nước là một công cụ hữu hiệu đã được chứng
minh ờ cả các nước phát triển và các nước đang phát triển.
1.2.2. Thực hiện chức năng kinh té và vai trò điêu tiết của nhà
nước
Đối với các nền kinh tế nói chung và đặc biệt là các nền kinh tế
chuyển đổi từ mô hình kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường, trong việc can thiệp vào nền kinh tế của nhà nước, bên cạnh việc
khắc phục các khuyết tật của thị trường, nhà nước còn thực hiện chức năng
kinh tế và vai trò điều tiết của mình đối với nền kinh tế thông qua công cụ
tín dụng nhà nước.
Một là, trong quá trinh phát triển của mình, Nhà nước ở bất kỳ quốc
gia nào, trong thời kỳ nào, dù theo đuổi mô hình phát triển kinh tế nào cũng
đều có chức nâng cung cấp các “hàng hoá” mà người dân cần có như an
ninh, quốc phòng, dịch vụ hành chính Trong nền kinh tế thị trường hiện
đại, Nhà nước phải đảm trách việc sản xuất, cung cấp các “hàng hóa” công
cộng thuần tuý (quốc phòng, an ninh ) và cả các “hàng hoá” công cộng
không thuần tuý. Lý do là vì các chủ thể khác không có khả nàng, hoặc
không muốn cung cấp hoặc không được phép cung cấp. Các chi phí phát
sinh khi nhà nước thực hiện việc cung cấp các hàng hóa, dịch vụ công cộng
đó cần phải được trang trải và thu hồi để tiếp tục duy trì việc cung cấp.
Công cụ để Nhà nước thực hiện việc thu hồi là thông qua các khoản thu từ
thuế, phí, lệ phí Đó là phạm trù tài chính công.
Tài chính công là sự tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tộ của nhà nước
bằng việc sử dụng quyền lực hợp pháp của nhà nước (trước hết là quyền lực
chính trị) phân phối và phân phối lại của cải xã hội, để thực hiện các chức
năng kinh tế và xã hội, không vì mục tiêu lợi nhuận của nhà nước. [23]
Hai là, chức năng kinh tế và xã hội của nhà nước phát triển đến đâu
thì thu chi của nhà nước cũng sẽ phải thay đổi cho phù hợp đến đó. Nhà

nước truyền thống trước kia không thực hiệnrvai trò nhà đáu -tư-, mủt iể-ehức
17
ĐẠI HỘC QUO C G ỈA HA N ồ
TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIỀN
kinh tế tham gia vào nền kinh tế mà chủ yếu thực hiện chức nãng cai trị,
bảo vệ lãnh thổ. Nhà nước hiện đại, bên cạnh các chức năng này còn tham
gia vào các hoạt động kinh tế. Trong bối cảnh đó, tài chính công đóng vai
trò là công cụ để nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội cùa mình.
Mục đích của tài chính công là nhằm phục vụ cho nhà nước hiện đại
thực hiện các chức năng kinh tế xã hội của mình thông qua việc cung cấp
các hàng hóa công cộng cho cộng đồng. Thu của tài chính công từ các
khoản bán, cho thuê tài sản nhà nước, đóng góp của dân (thuế, phí ), vay
nợ, nhận viện trợ Chi của tài chính công cho các hoạt động cung cấp hàng
hoá công cộng như đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng, đầu tư
cho y tế, giáo dục, văn hoá, thể thao, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, giải
quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo , vừa có tác dụng thúc đẩy phát triển
kinh tế nói chung, vừa để giải quyết các vấn đề hiệu quả, công bằng, ổn
định trong quá trình phát triển của toàn bộ nền kinh tế xã hội.
Tài chính công, theo mục đích và cơ chế hoạt động có thể chia thành:
- Các quỹ tài chính cồng trong Ngân sách nhà nước (NSNN)
- Các quỹ tài chính cồng ngoài Ngân sách nhà nước (NSNN)
ở Việt Nam, Quỹ NSNN được quản lý tại Kho bạc nhà nước. Quỹ
NSNN nằm trong dự toán do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định
và thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của nhà nước. Còn các Quỹ tài chính công ngoài NSNN có thể kể như Quỹ
bảo hiểm xã hội, Quỹ dự trữ quốc gia, Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam,
Quỹ quốc gia về việc làm, Quỹ hỗ trợ phát triển trước kia nay là Ngân hàng
Phát triển Việt Nam
Các quỹ tài chính ngoài NSNN có chức năng chủ yếu là công cụ để
nhà nước thực hiện những nhiệm vụ kinh tế xã hội của mình.

Các quỹ tài chính này hoạt động theo cơ chế trong đó nhà nước vừa
là người đi vay để đảm bảo các khoản chi tiêu của NSNN đồng thời vừa là
người cho vay, tài trợ để thực hiện các chức nãng, nhiệm vụ của nhà nước
trong quản lý kinh tế xã hội. Đây chính là quan hệ tín dụng giữa một bên là
18
chủ thể nhà nước và một bên các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, dân cư.
Quan hệ tín dụng này chính là quan hệ tín dụng nhà nước.
Như trên đã nói, công cụ tín dụng nhà nước không chỉ cần thiết đối
với các quốc gia phát triển mà còn cần thiết hơn đối với các quốc gia đang
phát triển, nơi mà chức năng kinh tế xã hội của các nhà nước này đối với
cộng đồng còn nặng nề hơn bởi trình độ phát triển kinh tế xã hội, tiềm lực
tài chính công của các nhà nước này thấp kém xa so với các nước phát triển.
Đối với Việt Nam, khi chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN, tất yếu cần có vai trò điều tiết của nhà nước, trong đó có
công cụ tín dụng nhà nước. Bởi lẽ:
Thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam có xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng
lạc hậu, thấp kém, đòi hỏi phải được đầu tư để cải tạo, sửa chữa và xây dựng
mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của các chủ thể thuộc các thành
phần kinh tế tham gia thị trường. Trong khi đó, để thực hiện nhiệm vụ này,
nguồn vốn đầu tư cấp phát không hoàn lại từ NSNN không đáp ứng nổi.
Cùng với quá trình xoá bao cấp đầu tư từ NSNN, việc mở rộng phạm vi của
tín dụng nhà nước nhằm tài trợ cho các hoạt động chi đầu tư phát triển, kể
cả các dự án có khả năng thu hồi vốn thấp là một giải pháp thích hợp.
Thứ hai, khu vực doanh nghiệp quốc doanh, vốn được bao cấp về
nguyên nhiên vật liệu đầu vào, bao cấp về vốn kinh doanh, về tiền lương,
chi phí nhân công khi bước vào cơ chế kinh tế thị trường, chuyển sang
hạch toán kinh doanh, chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế sử dụng tín
dụng nhà nước, có vay trả, với lãi suất ưu đãi hơn lãi suất thị trường của tín

dụng ngân hàng thương mại chính là bước quá độ cần thiết, tránh đổ vỡ,
thua lỗ.
Thứ ba, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta chủ
trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chù đạo, là lực lượng vật chất
19
quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng, điều tiết vĩ mô nền kinh
tế. Để kinh tê nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, nhà nước sử dụng
tín dụng nhà nước để hỗ trợ các dự án đầu tư thuộc khu vực kinh tế nhà
nước, của các tổng công ty lớn của nhà nước nhằm đám báo các cân đối lớn
của nền kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
1.3. Vai trò của tín dụng nhà nước trong nền kinh tê thị trường
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của nhà nước hiện đại trong nền
kinh tế thị trường như phân tích ở trên, tín dụng nhà nước ở Việt Nam có
những vai trò chủ yếu sau đây:
1.3.1. Tín dụng nhà nước có tác dụng nâng cao hiệu quả đầu tư
nhà nước, xoá bao cấp vé đầu tư
Trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng được mở rộng về quy mô, tăng
cường về số lượng, chất lượng sức sản xuất, NSNN ngày càng cần được bồi
đắp để chi tiêu tương ứng cho các nhu cầu về kết cấu hạ tầng kinh tế và xã
hội nhằm đáp ứng cho các hoạt động kinh tế xã hội ngày càng gia tăng của
các chủ thể trong nền kinh tế. Phát triển tín dụng nhà nước có tác dụng
giảm các hoạt động bao cấp của nhà nước trong chi tiêu cho đầu tư phát
triển. Do tính hoàn trả của cơ chế tín dụng, nhà nước có điều kiện để quay
vòng, truy hoàn nguồn vốn đầu tư thay vì cơ chế cấp phát không hoàn lại
như trước, đảm bảo việc mở rộng đầu tư của nhà nước vào các lĩnh vực then
chốt, xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế, qua đó góp phần nâng cao
hiệu quả đầu tư chung của nền kinh tế.
1.3.2. Tín dụng nhà nước là công cụ đắc lực để lành mạnh hoá
nền tài chính tiền tệ quốc gia

Thứ nhất, tín dụng nhà nước ra đời nhằm thực hiện một chức năng cơ
bản là bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước, bù đắp các khoản chi tiêu của
NSNN cho đầu tư phát triển kinh tế. Trong giai đoạn mà NSNN ở Việt Nam
còn thường xuyên bị bội chi, tích lũy không đủ bù cho chi tiêu thì việc sử
dụng tín dụng nhà nước có tác dụng giúp NSNN đáp ứng được nhu cầu vốn
cho NSNN đầu tư cho phát triển, thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung vốn
20
cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội. Một trong những nhiệm vụ
quan trọng của nhà nước là đảm bảo việc đầu tư thiết lập các công trình kết
cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Các công trình này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời
gian thu hồi vốn dài, thông thường các thành phần kinh tế khác không
muốn hoặc không có khả năng đầu tư. Trong điều kiện nguồn thu NSNN
còn hạn chế, nhà nước sử dụng công cụ tín dụng nhà nước cho đầu tư phát
triển để có thể huy động nguồn vốn lớn đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển
kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
Thứ hai, đối với lĩnh vực điều hành nền tài chính quốc gia, tín dụng
nhà nước có tác dụng tích cực đối với việc tạo dựng và phân bổ nguồn vốn
xã hội một cách hiệu quả. Nếu nguồn vốn NSNN chủ yếu được sử dụng
thông qua kênh cấp phát, không hoàn lại, sử dụng không hiệu quả thì khả
năng huy động, tập trung nguồn vốn để đầu tư trở lại nền kinh tế của nhà
nước rất hạn chế. Để đảm bảo nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế, giả sử nhà
nước dùng cách tãng thuế, phí, lệ phí để bù đắp thâm hụt, tăng chi đầu tư
phát triển thì sẽ có tác động làm méo mó sản xuất kinh doanh, tãng chi phí
cơ hội của nền kinh tế. Nhờ cơ chế tín dụng, nhà nước có thể huy động
được nguồn vốn lớn để đầu tư phát triển kinh tế. Đổng thời các chủ thể khác
trong nền kinh tế được nhận lại, phân phối lại một phần tài nguyên vốn của
xã hội từ ngân sách nhà nước thông qua cơ chế tín dụng nhà nước.
Thứ ba, đối với lĩnh vực điều hành tiền tộ quốc gia, tín dụng nhà nước
có tác dụng làm lành mạnh hoá khu vực tiền tệ ngân hàng, hoạt động ngân
hàng của các tổ chức tín dụng, ngân hàng. Cơ chế tín dụng nhà nước giúp

cho nhà nước có thể giảm dần và xoá bỏ cơ chế tiền tộ hoá thâm hụt ngân
sách, bù đắp thiếu hụt NSNN bằng cách phát hành thêm tiền, qua đó làm cơ
sở cho việc lành mạnh hoá khu vực tiền tệ quốc gia. Cơ chế tín dụng nhà
nước còn tạo cơ sở để xoá bỏ sự can thiệp mang tính hành chính của cơ
quan nhà nước đối với hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại
quốc doanh (trong các hoạt động cho vay theo chỉ định của Chính phủ), tạo
cơ sở tách bạch tín dụng un đãi, cho vay chính sách, ra khỏi tín dụng
21
thương mại. Tạo điều kiện để cơ cấu lại hệ thống ngân hàng theo hướng
phân biệt chức năng cho vay của các ngân hàng chính sách với chức năng
kinh doanh tiền tộ của các ngân hàng thương mại; bảo đảm quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm trong kinh doanh của các ngân hàng thương mại, để các
ngân hàng thương mại kiện toàn thành những doanh nghiệp kinh doanh tiền
tệ tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh, có uy tín, năng lực cạnh
tranh trên thị trường. Việc tách bạch tín dụng ưu đãi, cho vay chính sách ra
khỏi tín dụng thương mại còn giúp cho các ngân hàng thương mại quốc
doanh lành mạnh hoá tình hình kinh doanh, hạn chế rủi ro, nhất là rủi ro về
tính thanh khoản trong hoạt động của mình. Các ngàn hàng thương mại nói
chung, đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh thường là các
trung gian tài chính, huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư với thời
hạn ngắn để cấp tín dụng ngắn hạn cho các tổ chức, dân cư. Các ngân hàng
thương mại thường không có nguồn vốn huy động trong thời hạn dài, lãi
suất thấp. Nếu buộc phải cấp tín dụng để tài trợ cho các khoản vay trung dài
hạn sẽ tăng nguy cơ mất tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại.
Thứ tư, sự ra đời của tín dụng nhà nước còn góp phần tạo dựng và
duy trì, phát triển thị trường chứng khoán trong đó chủ yếu là các công cụ
nợ dài hạn. Từ nhu cầu huy động vốn trên thị trường bằng công cụ trái
phiếu Chính phủ, tín dụng nhà nước gián tiếp thúc đẩy phát triển thị trường
vốn. Lượng vốn huy động bằng trái phiếu Chính phủ với quy mô lớn, tính
thanh khoản cao, đến lượt mình lại trở thành công cụ lãi suất chỉ đạo trên

thị trường vốn.
1.3.3. Tín dụng nhà nước là công cụ điểu tiết vĩ mô nền kinh tế
Thứ nhất, thông qua việc phát hành trái phiếu Chính phủ để huy động
vốn với quy mô lớn, Chính phủ có thể hút được một lượng tiền lớn trong lưu
thông, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, kiềm chế lạm phát,
góp phần ổn định giá cả thị trường, thực hiện các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của
nền kinh tế.
22
Thứ hai, tín dụng nhà nước là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế
thông qua các hoạt động khuyến khích đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
điều chỉnh cơ cấu kinh tế, khắc phục, giảm thiểu các tác động ngược chiều
của kinh tế thị trường.
Trong kinh tế thị trường, các nhà đầu tư tư nhân thường tập trung
vốn, nhân lực đầu tư vào các ngành, lĩnh vực, địa bàn có khả năng sinh lợi
nhuận cac để tối đa hoá lợi nhuận. Trong khi đó, để thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế xã hội đề ra, cần phải phát triển cân đối, đồng bộ giữa các
ngành, lĩnh vực, các vùng; cần phải đầu tư cho các ngành, lĩnh vực thiết yếu
để nền kinh tế có thể phát triển bền vững. Đồng thời, nhà nước cần tập trung
ưu tiên đầu tư cho một số ngành, lĩnh vực mới, các ngành mũi nhọn, có tác
dụng lôi kéo, thúc đẩy các ngành, lĩnh vực khác, tạo ra lợi thế cạnh tranh
trong sản xuất, xuất khẩu hàng hoá. Bên cạnh việc khuyến khích thúc đẩy
phát triển mạnh một số ngành, lĩnh vực có tính chất ưu tiên, mũi nhọn, nhà
nước cũng chủ trương khuyên khích đầu tư vào các vùng, các địa bàn kinh
tế xã hội khó khăn, vùng miền núi, hải đảo, biên giới để giảm bớt khoảng
cách chênh lệch về mức sống, điều kiện sống giữa các vùng, miền, đảm bảo
ổn định xã hội, giữ vững an ninh chính trị ở các vùng miền dân tộc, miền
núi, hải đảo. Tín dụng nhà nước sẽ là công cụ để nhà nước thực hiện các
chủ trương chính sách nêu trên.
1.3.4. Tín dụng nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng đầu tư,
nàng cao sức cạnh tranh doanh nghiệp và quốc gia

Thông thường, các tổ chức cho vay cấp tín dụng cho doanh nghiệp
với loại hình tín dụng ngắn hạn, thời hạn vay chủ yếu là 1-2 năm, lãi suất
vay là lãi suất thị trường. Thời hạn vay ngắn và chi phí vốn cao như vậy
mâu thuẫn với nhu cầu của doanh nghiệp là luôn muốn được sử dụng vốn
trong thời hạn dài với chi phí thấp để đầu tư chiều sâu, đầu tư mở rộng sản
xuất kinh doanh. Tín dụng nhà nước với thời hạn cho vay dài (lên đến 10 -
12 năm), lãi suất ưu đãi (lãi suất thấp chỉ bằng 1/2 lãi suất thị trường) rõ
ràng là cơ hội tài chính để doanh nghiệp tài trợ cho các dự án đầu tư mở
23
rộng sản xuất, nâng cao nãng lực sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh
cho sản phẩm của doanh nghiệp, qua đó nâng cao sức cạnh tranh của doanh
nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia.
1.4. Kinh nghiệm của một sô nước về tín dụng nhà nước
ỉ.4.1. Tình hình thực hiện cơ chế tín dụng nhà nước ở một số nước
Theo thống kê chưa đầy đủ, tính đến thời điểm này, trên thế giới có
khoảng hơn 500 tổ chức có chức năng cho vay chính sách, gọi chung là các
định chế tài trợ phát triển.
Qua quan sát, người ta thấy bắt đầu từ những năm 1950 của thế kỷ
trước (thế kỷ 20), sau chiến tranh thế giới thứ hai, một số quốc gia đã thành
lập một cơ cấu tài chính - tín dụng mới với nhiệm vụ nặng nề nhất được đặt
ra là tái thiết lại nền kinh tế, tập trung nguồn lực đầu tư cho cơ sở hạ tầng,
một số ngành, lĩnh vực ưu tiên cao, phát triển một số ngành công nghiệp
then chốt của nền kinh tế nhằm nhanh chóng tạo tiền đề cho các ngành kinh
tế phát triển, thúc đẩy xuất khẩu, tạo nguồn tích luỹ, đẩy mạnh công nghiệp
hoá.
Thực hiện mục tiêu này, các quốc gia đã xây dựng và phát triển các
công cụ của mình nhằm huy động nguồn lực, giúp Chính phủ phân bổ các
nguồn lực của nhà nước một cách có hiệu quả vào các lĩnh vực ưu tiên. Đó
chính là các tổ chức tài trợ phát triển dưới tên gọi Ngân hàng phát triển.
1.4.1.1. CHLB Đức

Nhằm khuyến khích tái thiết nền kinh tế sau chiến tranh thế giới thứ
hai, Ngân hàng tái thiết Đức (tiếng Đức: Kreditanstalt fur Wiederaufbau-
KfW) là một tổ chức tài chính công được thành lập vào tháng 11/1948.
KfW hoạt động theo Luật đặc biệt về ngân hàng KfW, không chịu sự điều
chỉnh của luật hoạt động của ngân hàng Đức. KfW được giám sát bởi Bộ
Tài chính Đức. Hoạt động của KfW được miễn thuế. Được bảo lãnh trực
tiếp và toàn diện bởi Chính phủ liên bang Đức.
Ban đầu, Ngân hàng KfW cung cấp nguồn tài chính dài hạn cho các
ngành công nghiệp cơ bản như than, thép Năm 1952 KfW bắt đầu cung
24
cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho hỗ trợ xuất khẩu. Năm 1961 Luật bổ
sung KfW đã quy định rộng hơn mục đích hoạt động của KfW nhằm tái
thiết hoặc đẩy mạnh nền kinh tế của Đức và KfW có thể tham gia hoàn toàn
vào chương trình cho vay phát triển các vùng trong nước, cho vay khuyến
khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các dự án có tính hiệu quả kinh tế.
Cuối những năm 1960, KfW bắt đầu thiết lập một chương trình cung
cấp các khoản vay của mình cho các nước đang phát triển. Đến năm 1973,
Ngân hàng thực hiện thêm chức năng bảo lãnh.
Từ những năm 1980, KfW lại tập trung cho vay trong nước đối với
các dự án bảo vệ môi trường; cho vay đối với các chính quyền các bang để
mở rộng xuất khẩu ra nước ngoài.
Từ năm 1990, cùng với sự thống nhất Đông Đức và Tây Đức, nhiệm
vụ của quốc gia lúc này là tái thiết và hoà hợp quốc gia, nhiệm vụ của KfW
lúc này lại bắt đầu một chương trình tái thiết lại Đông Đức cũ.
Từ năm 1994, KfW lại đưa ra một chương trình khuyên khích nghiên
cứu và phát triển trong nước.
Vốn của KfW hiện nay là 150 triệu DM (vốn uỷ quyền là 1 tỷ DM),
trong đó chính quyền Liên bang cấp 80% vốn và 20% vốn còn lại là từ
chính quyền các bang. Doanh số chính của KfW là từ cho vay.
Nguồn vốn hoạt động và nguồn vốn chính dành cho tài trợ đầu tư của

KfW là từ vốn tự có của KfW và chủ yếu dựa vào việc phát hành trái phiếu
và các khoản vay của các quỹ xã hội (như quỹ ngân sách liên bang, quỹ đặc
biệt của Chương trình tái thiết châu Âu). Trong cơ cấu trái phiếu của KfW,
chỉ có 10% huy động từ thị trường Đức, còn lại là huy động từ các thị
trường ờ nước ngoài: châu Âu (50%), châu Á (25%), Bắc Mỹ (10%), còn lại
ở các thị trường khác.
Chức năng của KfW gồm:
- Tài trợ cho các khoản vay cần thiết cho các dự án phục vụ cho công
cuộc tái thiết hoặc thúc đẩy nền kinh tế Đức.
25

×