Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 113 trang )



1

MỤC LỤC



Trang

Phần mở đầu
4

Chƣơng 1: những vấn đề chung về quản lý nhà nƣớc
đối với Kinh tế tƣ nhân
9
1.1.
Khái niệm và đặc điểm của kinh tế tƣ nhân
9
1.1.1.
Quan niệm chung về kinh tế tư nhân
9
1.1.2.
Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

13
1.1.2.1.
Thu hút các nguồn lực trong dân cƣ vào sản xuất, kinh
doanh, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế đất
nƣớc




13
1.1.2.2.
Tạo công ăn việc làm, góp phần thúc đẩy sự hình thành,
phát triển thị trƣờng lao động

16
1.1.2.3.
Tạo ra sự cạnh tranh và góp phần nâng cao hiệu quả huy
động, sử dụng các nguồn lực trong nền kinh tế

18
1.1.2.4.
Thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật và khoa học-công nghệ
20
1.2.
Quản lý nhà nƣớc đối với kinh tế tƣ nhân trong nền
kinh tế thị trƣờng

23
1.2.1.
Quản lý nhà nước về kinh tế
23
1.2.2.
Chức năng của quản lý nhà nước đối với kinh tế tư
nhân ở Việt Nam

24
1.3.

Quá trình đổi mới nhận thức và các chính sách đối
với kinh tế tƣ nhân ở Việt Nam

28
1.3.1.
Hai giai đoạn nhận thức và chính sách đối với kinh tế
tư nhân ở Việt Nam

28


2
1.3.1.1.
Từ 1986 trở về trƣớc
28
1.3.1.2.
Sự đột phá về nhận thức và chính sách đối với kinh tế tƣ
nhân trong những năm Đổi mới

29
1.3.2.
Thể chế hoá những quan điểm, đường lối của Đảng
bằng các văn bản pháp luật
35

Chƣơng 2: Thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với kinh
tế tƣ nhân ở Hà Nội

41



2.1.
Những chủ trƣơng và biện pháp quản lý đã đƣợc áp
dụng

41
2.2.
Những kết quả chủ yếu trong phát triển kinh tế tƣ
nhân ở Hà Nội

48
2.3.
Những hạn chế và vấn đề đặt ra trong quản lý nhà
nƣớc đối với kinh tế tƣ nhân ở Hà Nội

56
2.3.1.
Tình trạng phân biệt đối xử giữa kinh tế tư nhân với
các khu vực kinh tế khác còn tồn tại khá phổ biến

56
2.3.2.
Tình trạng manh mún, liên kết yếu, lạc hậu về công
nghệ của khu vực kinh tế tư nhân chưa được khắc
phục

57
2.3.3.
Quản lý nhà nước về đất đai và mặt bằng sản xuất kinh
doanh chưa thuận lợi cho kinh tế tư nhân


60
2.3.4.
Cơ chế về tài chính, tín dụng chưa khuyến khích kinh
tế tư nhân

61
2.3.5.
Quản lý nhà nước về thị trường chưa đồng bộ
64
2.3.6.
Quản lý nhà nước về khoa học – công nghệ chưa có tác
dụng thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

66
2.4.
Nguyên nhân của những hạn chế trong quản lý nhà



3
nc i vi kinh t t nhõn H Ni

68

Chng 3: Quan im v gii phỏp nõng cao hiu lc,
hiu qu qun lý nh nc i vi kinh t t
nhõn H NI



76
3.1.
Quan điểm
78
3.1.1.
Đổi mới quản lý nhà n-ớc đối với kinh tế t- nhân ở Hà
Nội phải đặt trong xu h-ớng đổi mới và khung khổ
pháp luật chung của cả n-ớc, đồng thời phù hợp với
thực tiễn địa ph-ơng



78
3.1.2.
Đánh giá đúng vị trí, vai trò của kinh tế t- nhân đối với
phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội

79
3.2.
Một số giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản
lý nhà n-ớc đối với kinh tế t- nhân ở Hà Nội

80
3.2.1.
Đổi mới toàn diện quản lý nhà n-ớc đối với kinh tế t-
nhân

80
3.2.2.
Phát triển đồng bộ các thị tr-ờng và đồng bộ hóa các cơ

chế, chính sách

83
3.2.3.
Xây dựng đội ngũ doanh nhân mới; nâng cao chất
l-ợng nguồn nhân lực

93

Kết luận
101

Danh mục tài liệu tham khảo
103







4



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa là nội dung cốt lõi của đường lối Đổi mới mang tính nhất quán của

Đảng Cộng sản Việt Nam kể từ Đại hội lần thứ VI (năm 1986) cho đến
nay. Kết quả thực hiện đường lối đổi mới trong 20 năm qua cho thấy tính
đúng đắn của chủ trương khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển.
Hà Nội là một trong những địa phương nhận thức sớm và sâu sắc
chủ trương phát triển kinh tế tư nhân của Đảng. Ngay từ những năm bắt
đầu thực hiện đường lối Đổi mới, Thành uỷ, Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban
Nhân dân thành phố Hà Nội đã có những biện pháp cụ thể, tạo ra những
điều kiện khuyến khích và thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển.
Vì vậy, cùng với sự phát triển chung của khu vực kinh tế tư nhân trong
cả nước, kinh tế tư nhân ở Hà Nội đã có những bước phát triển vượt bậc
so với giai đoạn trước 1986. Tuy nhiên, cho đến nay, cùng với sự phát
triển theo cả bề rộng lẫn bề sâu của quá trình Đổi mới, thực tiễn phát
triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội đang đặt ra những yêu cầu mới trong quản
lý nhà nước, đòi hỏi tiếp tục nghiên cứu giải quyết kịp thời, trong đó có
những vấn đề vừa cơ bản, vừa bức xúc như hoàn thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao hiệu lực, hiệu qủa quản lý nhà nước, tăng cường sức
cạnh tranh và khả năng hội nhập của khu vực kinh tế tư nhân, …
Xuất phát từ bối cảnh nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề Quản lý nhà
nƣớc đối với kinh tế tƣ nhân ở Hà Nội để thực hiện luận văn tốt nghiệp


5
cao học chuyên ngành Kinh tế chính trị, với mong muốn sẽ có những
đóng góp hữu ích đối với công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của Hà Nội.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề phát triển kinh tế tư nhân đã
được nhiều tập thể và cá nhân các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Trong đó, có một số công trình đã đề cập đến phát triển kinh tế tư nhân
nói chung, trên phạm vi cả nước, phản ánh hiện trạng của các doanh

nghiệp tƣ nhân, chẳng hạn: Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa (GS.TS Hồ Văn Vĩnh, Tạp chí Cộng Sản số
21 tháng 7/2003); Kinh tế tư nhân - Bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế nước ta (TS. Lê Xuân Bá, Tạp chí Cộng sản Điện tử số 19-
2002); Cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay - Lý luận, thực
trạng và giải pháp (GS.TSKH Lương Xuân Quỳ (chủ biên), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2003); Thành phần kinh tế tư bản tư nhân trong quá
trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa, (GS.TS Nguyễn Thanh Tuyền (chủ
biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003); Thành phần kinh tế cá thể,
tiểu chủ và tư bản tư nhân- Lý luận và chính sách (TS. Hà Huy Thành
(chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, v.v… Ngoài ra, còn có
một số công trình khác, tập trung nghiên cứu về những yếu tố cần thiết
cho sự phát triển các doanh nghiệp tƣ nhân, tiêu biểu như: Xây dựng
một thế hệ doanh nhân, doanh nghiệp mới (Đoàn Nhất Dũng, Tạp chí
Cộng sản số 31 tháng 11/2002), hoặc đi sâu vào những chính sách và
giải pháp vĩ mô cần thiết trong việc phát triển doanh nghiệp tƣ nhân
nƣớc ta: Bàn về chính sách phát triển KTTN trong thời kỳ đổi mới (TS.
Lương Hoài Nam, Tạp chí Cộng sản Điện tử số 16 - 2002); Phát huy lợi


6
thế của kinh tế dân doanh (Thông tin tư liệu, TTXVN- số 87 (365)
29/10/2003), v.v
Về kinh tế tư nhân ở Hà Nội, cũng có một số công trình nghiên cứu
đã được công bố, như: Ý thức chính trị của công nhân trong một số
doanh nghiệp ở Hà Nội hiện nay (PGS.TS Phan Thanh Khôi, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội – 2003); Kinh tế- xã hội nhân văn trong phát triển
KTTN Hà Nội (GS.TSKH Lê Du Phong, PGS.TS Hoàng Văn Hoa, và
PGS.TS Nguyễn Văn Áng (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2004); Phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội (Nguyễn Minh Phong

(chủ biên) Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004); Phát triển các thành
phần kinh tế ở Hà Nội thời kỳ đổi mới (Hoàng Mạnh Hiển - Nguyễn
Minh Phong (đồng chủ biên), Nxb Tài chính, Hà Nội, 2005); Kinh tế tư
nhân Hà Nội trong tiến trình đổi mới (Cao Hải Đăng, Luận văn cao học
Kinh tế chính trị, Khoa Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004), v.v…
Những công trình nói trên đã nghiên cứu tương đối hệ thống về vai
trò, thực trạng phát triển hoặc về những điều kiện để phát triển kinh tế
tƣ nhân Hà Nội trong thời kỳ đổi mới, song chưa đi sâu nghiên cứu vai
trò quản lý nhà nước đối với việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã đọc, nghiên cứu những
công trình có liên quan của những người đi trước, chắt lọc được nhiều tư
liệu tham khảo bổ ích, song luôn cố gắng bảo đảm tính độc lập về
phương diện khoa học của luận văn, đặc biệt là cố gắng góp phần làm rõ
hơn một số vấn đề nhìn dưới góc độ quản lý nhà nước đối với việc phát
triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Xuất phát từ thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội trong 20
năm đổi mới, coi đó là cơ sở để xem xét vai trò, thực trạng quản lý nhà


7
nước và nêu ra những giải pháp cần thiết nhằm góp phần nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân trong giai
đoạn tới.
Gắn với mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ hơn một số khái niệm về kinh tế tư nhân, quản lý nhà
nước, quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân, lấy đó làm cơ
sở cho việc phân tích vấn đề quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư
nhân ở Hà Nội.
- Đánh giá, phân tích thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội

và phát hiện những vấn đề đang đặt ra dưới góc độ quản lý nhà nước.
- Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả, tăng
cường hiệu lực của quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân ở
Hà Nội, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị và trong chừng
mực nhất định, có tham khảo cách tiếp cận của kinh tế học phát triển.
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử làm cơ sở phương pháp luận nghiên cứu, đồng thời sử dụng các
phương pháp của kinh tế học, khoa học quản lý…, từ đó hình thành cách
tiếp cận tổng hợp để giải quyết vấn đề. Những nội dung cụ thể của đề tài
được giải quyết thông qua việc áp dụng các công cụ nghiên cứu khoa
học truyền thống, như tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê và phương
pháp chuyên gia, kế thừa khoa học, v.v…
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu


8
Đối tƣợng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề
quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn Hà Nội,
giới hạn trong 20 năm đổi mới (1986-2005).
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm rõ hơn thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Hà
Nội và những vấn đề đặt ra dưới góc độ quản lý nhà nước, bổ sung cơ sở
khoa học cho việc nhìn nhận, đánh giá về phát triển kinh tế tư nhân ở Hà
Nội trong 20 năm đổi mới.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của
quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân ở Hà Nội. Những giải
pháp này có thể tham khảo, vận dụng ở các tỉnh, thành phố khác trong

nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được chia làm 3 chương.
- Chương 1: Những vấn đề chung về quản lý nhà nước đối với kinh
tế tư nhân.
- Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở
Hà Nội.
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở Hà Nội.








9










Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI KINH TẾ TƢ NHÂN
1.1. Khái niệm và đặc điểm của kinh tế tƣ nhân
1.1.1. Quan niệm chung về kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân là những hình thức kinh tế hình thành và phát triển
trên cơ sở chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Loại hình kinh tế
này ra đời khá sớm trong lịch sử. Tuy nhiên, cho đến nay, ở nước ta vẫn
còn chưa thống nhất trong quan niệm về kinh tế tư nhân. Có quan điểm
đồng nhất kinh tế tư nhân với kinh tế ngoài quốc doanh; theo đó, một
doanh nghiệp sẽ được coi là ngoài quốc doanh nếu như tư nhân nắm giữ
trên 50% cổ phiếu. Khu vực kinh tế này bao gồm các loại hình: kinh tế
cá thể của nông dân, thợ thủ công và tiểu thương; kinh tế tư bản tư nhân;
kinh tế tư nhân trong kinh tế nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài (nếu thuộc sở hữu tư nhân).
Trong Niên giám thống kê năm 2004, Tổng cục Thống kê đã phân
chia các thành phần kinh tế ở nước ta gồm: kinh tế nhà nước; kinh tế


10
ngoài nhà nước, trong đó có: kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế cá
thể; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài được tách riêng. Trong khi đó,
quan điểm khác lại xếp kinh tế có 100% vốn nước ngoài cũng thuộc kinh
tế tư nhân (nếu thuộc sở hữu tư nhân).
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá IX xác định: "Kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh
tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các
loại hình doanh nghiệp của tư nhân…" [26, tr.55]. Kinh tế tư nhân ở đây
được hiểu bao gồm cả kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
Tính chất và trình độ của kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân là khác nhau nhưng có mối liên hệ với nhau. Xét về mặt quan hệ sở

hữu, kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đều thuộc cùng
loại hình sở hữu tư nhân, khác với sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể. Mặc
dù về mặt lý luận, quan điểm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân là hai thành phần kinh tế, khác nhau về trình độ phát triển lực
lượng sản xuất và bản chất quan hệ sản xuất.
Theo cách nhìn truyền thống, sự khác nhau về bản chất quan hệ sản
xuất thể hiện ở chỗ kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên sở hữu tư nhân,
nhưng là sở hữu tư nhân nhỏ của người sản xuất hàng hoá nhỏ; còn kinh
tế tư bản tư nhân cũng dựa trên sở hữu tư nhân nhưng là sở hữu tư nhân
lớn tư bản chủ nghĩa của giai cấp tư sản. Kinh tế cá thể, tiểu chủ (của
nông dân, thợ thủ công, người làm thương nghiệp và dịch vụ cá thể) bao
gồm những đơn vị kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản
xuất và hoạt động dựa chủ yếu vào sức lao động của chính họ; tồn tại
độc lập dưới các hình thức: xưởng thợ gia đình, công ty tư nhân nhỏ, hộ
kinh doanh thương mại-dịch vụ, hộ làm kinh tế trang trại; hoặc có thể


11
tham gia liên kết, liên doanh với các tổ hợp kinh tế khác dưới hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần…
Kinh tế tư bản tư nhân là những đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc
một số nhà tư bản góp lại để sản xuất-kinh doanh và có thuê mướn nhân
công với số lượng lớn. Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và do thuê mướn công nhân nên có sự
bóc lột những người lao động làm thuê. Sự khác nhau giữa nhà tư bản
với tiểu chủ ở quy mô vốn đầu tư, số lao động làm thuê và quy mô thu
nhập.
Quan niệm phổ biến hiện nay ở nước ta, kinh tế tư bản tư nhân
thường được nhận thức theo cách xác định của Luật Doanh nghiệp, gồm
có: công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần

và công ty hợp danh được thành lập theo Luật Doanh nghiệp. Những chủ
doanh nghiệp tư nhân dù bỏ nhiều vốn kinh doanh, thuê nhiều lao động
nhưng vẫn là những người lao động trực tiếp, trực tiếp quản lý doanh
nghiệp nhằm làm giàu cho mình và cho xã hội. Thực chất họ vẫn là
những tiểu chủ ở những mức độ khác nhau, trình độ khác nhau. Quan hệ
giữa người bỏ vốn kinh doanh hợp pháp với người làm công ăn lương
không còn là quan hệ cưỡng bức giữa người bóc lột và người bị bóc lột,
mà là quan hệ hợp tác tự nguyện giữa người có vốn kinh doanh với
người có sức lao động nhưng không có vốn. Cho nên, ở nước ta hiện
nay, có nhìe ý kiến cho rằng không nên dùng thuật ngữ kinh tế tư bản tư
nhân, mà chỉ nên dùng thuật ngữ kinh tế tư nhân, bao gồm cả kinh tế cá
thể, kinh tế tiểu chủ, công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần mà không có cổ đông là Nhà nước [46, tr.164. Trong luận văn
này, khái niệm kinh tế tư nhân được hiểu theo cách phân loại tại Nghị
quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX:


12
"kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân,
hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh
nghiệp tư nhân" [26, tr.55].
Bản chất của kinh tế tư nhân là một loại hình tổ chức kinh tế hình
thành và phát triển dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
và kết quả của sản xuất. Trong đó, các chủ thể của nó tự chủ tiến hành
sản xuất-kinh doanh vì lợi ích trực tiếp của cá nhân hay tập thể hoạt
động dưới những hình thức kinh tế khác nhau, dù có hay không thuê lao
động.
Vì thế, có thể hiểu kinh tế tư nhân là kinh tế được hình thành và
phát triển dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lợi ích cá nhân
[43, tr. 11]. Để xác định bản chất của kinh tế tư nhân phải xét trên cả 3

mặt của quan hệ sản xuất, đó là quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan
hệ phân phối thu nhập.
- Nhìn dưới góc độ quan hệ sở hữu:
Đây là quan hệ sở hữu tư nhân giữa người và người về tư liệu sản
xuất và vốn cũng như kết quả của sản xuất kinh doanh nhờ tư liệu sản
xuất và vốn ấy. Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là cơ sở nền tảng của
kinh tế tư nhân. Có thể khác nhau về mức độ cao, thấp của hình thức sở
hữu gắn liền với loại hình cá thể, tiểu chủ hay tư bản tư nhân, nhưng bản
chất là giống nhau. Chủ doanh nghiệp là người bỏ vốn thành lập, trực
tiếp sở hữu và sử dụng tài sản, tiền vốn của mình; "lời ăn, lỗ chịu".
- Xét về quan hệ tổ chức quản lý: kinh tế tư nhân hoạt động theo
nguyên tắc quyền điều hành thuộc về chủ sở hữu tư liệu sản xuất. Chủ
doanh nghiệp có toàn quyền quyết định việc tổ chức bộ máy và ra các
quyết định quản lý, điều hành doanh nghiệp, phù hợp với sự biến động
thường xuyên của thị trường. Đây là một ưu thế của kinh tế tư nhân.


13
Trong các hộ tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ, như các hộ nông
dân, tiểu thương, thợ thủ công cá thể , quan hệ giữa người chủ và các
thành viên không phải là quan hệ bóc lột mà mang tính chất giống như
quản lý trong một gia đình. Trong các cơ sở tư nhân dựa trên sở hữu tư
nhân lớn, quan hệ quản lý của người chủ đối với những người lao động,
về bản chất, là khai thác, sử dụng triệt để sức sáng tạo của người lao
động nhằm tạo ra càng nhiều lợi nhuận càng tốt.
- Về quan hệ phân phối: Quan hệ phân phối thực chất là việc giải
quyết mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa các cá nhân tham gia vào quá
trình sản xuất kinh doanh. Trong các cơ sở kinh tế tư nhân, quan hệ phân
phối dựa trên nguyên tắc chung là chủ sở hữu tư liệu sản xuất chiếm đoạt
phần sản phẩm thặng dư, còn người lao động được hưởng phần sản phẩm

tất yếu. Chủ doanh nghiệp có quyền quyết định phân phối trong doanh
nghiệp, được toàn quyền sử dụng lợi nhuận sau thuế và các nghĩa vụ xã
hội khác cho chi tiêu cá nhân hay tích lũy để đầu tư mở rộng sản xuất,
kinh doanh.
Nguyên tắc hoạt động của kinh tế tư nhân: tự bỏ vốn, tự tổ chức và
tự chủ trong sản xuất - kinh doanh; lời ăn, lỗ chịu. Doanh nghiệp tư nhân
luôn gắn lợi ích với kết quả hoạt động; hay nói cách khác, là hoạt động
vì động cơ lợi nhuận. Đây là một cơ chế hoạt động mang tính khách
quan, là đặc trưng chung của kinh tế tư nhân, và cũng chính do có đặc
điểm này mà kinh tế tư nhân có nhiều ưu thế trong cạnh tranh.
Ở Việt Nam, kinh tế tư nhân là một bộ phận cơ hữu của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của kinh tế tư nhân
được định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua đường lối, chính sách, pháp
luật của Việt Nam. Thông qua Nhà nước, sự phát triển kinh tế tư nhân
được điều tiết theo vùng, theo lĩnh vực.


14
1.1.2. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Việc giải thích vai trò của khu vực kinh tế tư nhân được căn cứ vào
những ưu thế vốn có, xuất phát từ bản chất và đặc điểm của khu vực kinh
tế này. Đó là khu vực kinh tế có động lực kinh tế mạnh mẽ, dễ thay đổi
để thích nghi với những yêu cầu thường xuyên biến động của thị trường
nên có sức sống mãnh liệt. Thực tế đã chứng minh vai trò quan trọng của
khu vực kinh tế này, thể hiện cụ thể là:
1.1.2.1. Thu hút các nguồn lực trong dân cƣ vào sản xuất, kinh
doanh, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế đất nƣớc.
Sự thừa nhận và bảo hộ về luật pháp đối với các hình thức sở hữu
và tổ chức kinh tế tư nhân đã làm cho khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta

hồi sinh, có mặt và phát triển nhanh trong tất cả các ngành và ở hầu khắp
các địa phương, kể cả những ngành đòi hỏi vốn lớn, kỹ thuật cao như
cán thép, luyện kim, chế tạo ô tô, xe máy, khai khoáng, thiết bị điện,
đóng tàu, sản xuất thang máy, sản xuất và kinh doanh điện
1
, Nhờ đó,
tạo ra cơ hội phân công lại lao động giữa các ngành, chuyển dịch lao
động nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp, góp phần thúc đẩy
tiến trình đô thị hóa. Nhiều sản phẩm do khu vực kinh tế này sản xuất có
chất lượng cao, xuất khẩu sang 65 nước và vùng lãnh thổ, với kim ngạch
ngày càng lớn. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã và đang tích tụ vốn, tích
lũy kinh nghiệm để phát triển thành doanh nghiệp lớn đủ sức cạnh tranh
và hội nhập.
Thực tế cho thấy, khu vực kinh tế tư nhân có khả năng rất lớn trong
việc thu hút các nguồn lực trong dân cư vào sản xuất, kinh doanh. Điều


1
Nhà máy thủy điện Krông Hin của Công ty Xây dựng Mê Công (Đắc Lắc)- nhà máy điện tư
nhân đầu tiên của nước ta- tổng công suất 5000 KW, năm 2006 đã đi vào hoạt động.


15
đó thể hiện ở quy mô vốn đầu tư của khu vực này qua các năm (xem
bảng 1.1, tr. 15-16).
Sự phát triển kinh tế tư nhân đã góp phần huy động ngày càng
nhiều vốn trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh
2
. Qua bảng 1.1,
có thể thấy quy mô vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân đang ngày

càng tăng. Các doanh nghiệp tư nhân ra đời ngày càng nhiều, hoạt động
kinh doanh đa dạng, đưa vào kinh doanh những nguồn lực đầu tư ngày
càng lớn đã làm cho quá trình chuyển dịch kinh tế diễn ra mạnh mẽ, thúc
đẩy cạnh tranh giữa các ngành và quan trọng hơn cả là đã có những đóng
góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Vốn đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân đã đóng vai trò quan
trọng, thậm chí là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh
tế của nhiều địa phương. Ví dụ, đầu tư của các doanh nghiệp tư
nhân năm 2002 ở Thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm 38% tổng số
vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn [4]. Khu vực kinh tế tư nhân
của thành phố Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành động lực tăng
trưởng chính của kinh tế Thành phố từ năm 2002 đến nay. Năm
2000 vốn đầu tư của khu vực kinh tế này chỉ chiếm 22%, vốn đầu
tư của khu vực kinh tế nhà nước là 48% thì đến năm 2005, các tỷ
lệ trên đã thay đổi là 52% và 36%.
Với sự phát triển nhanh chóng trong những năm qua, khu vực kinh
tế tư nhân đã chiếm tỷ trọng cao và đóng góp ngày càng lớn đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Xét trên phạm vi toàn quốc, hiện


2
Theo số liệu đăng trên Thời báo Kinh tế Việt Nam số 152, ngày 2-8-2005, vốn đầu tư của
khu vực kinh tế tư nhân năm 2004 ước đạt 69,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 26,9% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội, cao hơn tỷ trọng 17,1% của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.



16
nay khu vực kinh tế tư nhân đang tạo ra trên 20% GDP và đóng góp trên
30% tổng thu ngân sách nhà nước hàng năm.


Bảng 1.1: Vốn đầu tƣ theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế


Năm

Tổng số
Chia ra
Kinh tế nhà
nước
Kinh tế ngoài
nhà nước
KV có vốn đầu
tư nước ngoài
Tỷ đồng
1996
87.394,0
42.894,0
21.800,0
22.700,0
1997
10.8370,0
53.570,0
24.500,0
30.300,0
1998
11.7134,0
65.034,0
27.800,0
24.300,0

1999
131.170,9
76.958,1
31.542,0
22.670,8
2000
151.183,0
89.417,5
34.593,7
27.171,8
2001
170.496,0
101.973,0
38.512,0
30.011,0
2002
199.104,5
112.237,6
52.111,8
34.755,1
2003
231.616,2
125.127,6
68.688,6
37.800,0
2004
275.000,0
147.500,0
84.900,0
42.600,0

Cơ cấu (%)
1996
100,0
49,1
24,9
26,0
1997
100,0
49,4
22,6
28,0
1998
100,0
55,5
23,7
20,8
1999
100,0
58,7
24,0
17,3
2000
100,0
59,1
22,9
18,0
2001
100,0
59,8
22,6

17,6


17
2002
100,0
56,3
26,2
17,5
2003
100,0
54,0
29,7
16,3
2004
100,0
53,6
30,9
15,5

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê 2004, Nxb Thống
kê, H, 2005
1.1.2.2. Tạo công ăn việc làm, góp phần thúc đẩy sự hình thành,
phát triển thị trƣờng lao động
Một trong những đóng góp nổi bật nhất của kinh tế tư nhân là đã tạo
thêm được nhiều việc làm, thu hút ngày càng nhiều lực lượng lao động
xã hội, cải thiện đời sống dân cư. Kinh tế tư nhân có thể tận dụng tài sản
của các hộ gia đình như đất đai, nhà ở vào sản xuất kinh doanh; sử dụng
lao động nhàn rỗi một cách linh hoạt, hợp lý; dễ thay đổi để thích nghi
với sự biến đổi của thị trường.

Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá tình hình thi
hành Luật Doanh nghiệp, ở nước ta hàng năm có thêm khoảng 1,2-
1,4 triệu người đến tuổi lao động; ngoài ra, số lao động nông
nghiệp có nhu cầu chuyển sang làm việc trong các ngành phi nông
nghiệp cũng không nhỏ. Đây đang là một áp lực xã hội mạnh đối
với Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương. Việc tạo thêm
nhiều công ăn việc làm mới không chỉ giải quyết vấn đề xã hội, mà
là giải quyết vấn đề cơ bản của phát triển hiện nay ở nước ta.
Chính việc tạo thêm được công ăn việc làm mới trong các ngành
phi nông nghiệp mới tạo cơ hội cho nông nghiệp phát triển, mở
rộng được thị trường, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng
cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế; nhờ vậy
mà có thể thực hiện mục tiêu công bằng trong phân phối thu nhập,


18
nâng cao đời sống nhân dân. Trong mấy năm qua, các hộ kinh
doanh cá thể, các doanh nghiệp mới thành lập và mở rộng quy mô,
địa bàn kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp thực sự đã là nguồn
cung chủ yếu về chỗ làm việc mới cho xã hội. Trong gần bốn năm
từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực, khu vực doanh nghiệp đã thu
hút được gần 2 triệu lao động; nếu kể cả số tuyển dụng để thay thế
khoảng 700 nghìn lao động giảm do các nguyên nhân (chủ yếu do giải
quyết chế độ), thì số lao động mà khu vực doanh nghiệp tuyển dụng
trong 4 năm là 2,7 triệu người, bình quân mỗi năm gần 700 nghìn người.
Tổng số lao động làm việc trong doanh nghiệp của tư nhân và hộ
kinh doanh cá thể lên đến khoảng hơn 6 triệu người, chiếm trên
16% lực lượng lao động xã hội. Có không ít doanh nghiệp đã tạo
công ăn việc làm trực tiếp cho hàng nghìn lao động và hàng nghìn
lao động gián tiếp khác[4].

3
Trong hơn một thập kỷ gần đây, sự
phát triển của kinh tế tư nhân còn có tác dụng thúc đẩy nhanh sự chuyển
dịch cơ cấu lao động vốn đang rất mất cân đối ở Việt Nam.
Nếu chỉ tính riêng vấn đề giải quyết việc làm, thu hút lao động thất
nghiệp thì kinh tế tư nhân đã giải quyết tốt hơn các khu vực kinh tế
khác
4
. Lực lượng lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân có xu
hướng ngày càng tăng. Cơ chế linh hoạt của kinh tế tư nhân trong việc
tuyển chọn và đào thải nhân công không những đã có tác dụng thúc đẩy
thị trường lao động phát triển mà còn trở nên ngày càng năng động. Hơn


3
Công ty trách nhiệm hữu hạn Đỉnh Vàng (Hải Phòng): 6.500 người lao động, Công ty trách
nhiệm hữu hạn Kim Anh (Sóc Trăng) 3.400 lao động

4
Điều tra của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương cho thấy đối với các
doanh nghiệp tư nhân cần trung bình 70 đến 100 triệu vốn đầu tư để tạo ra được
một chỗ làm việc; trong khi đó đối với doanh nghiệp nhà nước, thì số tương ứng là
từ 210 đến 280 triệu.



19
nữa, kinh tế tư nhân là loại hình phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất hiện nay và có khả năng khai thác tốt các tiềm năng này.
1.1.2.3. Tạo ra sự cạnh tranh và góp phần nâng cao hiệu quả huy

động, sử dụng các nguồn lực trong nền kinh tế
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trước thời kỳ Đổi
mới đã cho thấy rằng, duy trì vị trí độc tôn của quan hệ sản xuất công
hữu trong tình trạng lực lượng sản xuất thấp kém đã làm thui chột động
lực của sự phát triển. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến sự trì trệ không
chỉ trong sản xuất, mà cả trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ khi
thực hiện công cuộc Đổi mới, việc thừa nhận sở hữu tư nhân và các hoạt
động kinh tế tư nhân như là bộ phận hữu cơ hợp thành nền kinh tế nhiều
thành phần đã có tác động tạo ra sự cạnh tranh ngày càng mạnh trong
nền kinh tế, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng
các nguồn lực xã hội.
Trong điều kiện của nền kinh tế mở, quan hệ sản xuất và phương
thức hoạt động của kinh tế tư nhân có nhiều ưu thế cơ bản:
Một là, quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất cho phép xác định rõ chủ
sở hữu đích thực, từ đó dẫn đến việc quản lý, sử dụng tài sản có hiệu quả
hơn sử dụng tài sản chung. Các hộ kinh doanh cá thể, các chủ doanh
nghiệp làm việc cho chính họ, "lời ăn, lỗ chịu". Mọi hoạt động trong khu
vực kinh tế tư nhân đều hướng đến hiệu quả kinh tế và lợi nhuận tối đa.
Nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận đã tạo nên sức ép và quy định các đặc
trưng của các tổ chức, doanh nghiệp tư nhân: bộ máy tổ chức gọn nhẹ;
sử dụng nhân lực tiết kiệm, tận dụng tối đa khả năng của nhân công;
quyết định linh hoạt, thận trọng… Do đó, tạo ra lợi thế cạnh tranh rất lớn
so với kinh tế nhà nước và tập thể. Họ kiểm soát chặt chẽ các hoạt động
sản xuất kinh doanh, buộc người làm thuê phải làm việc tích cực và họ


20
luôn tìm cách sử dụng tốt nhất các nguồn lực có được. Cũng do tính chất
sở hữu này mà các chủ doanh nghiệp có thể truyền lại tài sản cũng như
kinh nghiệm cho gia tộc của họ. Những ràng buộc chặt chẽ và minh bạch

về sở hữu và lợi ích làm cho họ tâm huyết hơn, phát huy được mọi tiềm
lực trong hoạt động. Đây là lợi thế mà khu vực kinh tế nhà nước không
có được.
Hai là, tính tự chủ trong phân phối của kinh tế tư nhân đã tạo ra ưu
thế kép: một mặt, tạo động lực mạnh mẽ cho kinh tế tư nhân phát triển-
năng động, sáng tạo để gia tăng hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp cũng
là tăng lợi ích cho chính mình; mặt khác, dùng phân phối để khuyến
khích nhân viên làm việc (chế độ trả lương, thưởng trong doanh nghiệp
tư nhân thường linh hoạt, hiệu quả). Hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp tư nhân cao hơn doanh nghiệp nhà nước
5
.
Sự hình thành và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đã tạo nên
cơ chế cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Với những ưu thế như tính hiệu quả cao,
sức sống mãnh liệt, dễ thay đổi để thích nghi với những biến động của
thị trường, trong những năm qua, khu vực kinh tế tư nhân cũng có tốc độ
tăng trưởng cao hơn các khu vực kinh tế khác. (xem biểu 1.2. tr. 20).
Cùng với sự phát triển của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài,
việc khu vực kinh tế tư nhân ngày càng phát triển và mở rộng phạm vi
hoạt động trong nhiều ngành nghề đã buộc các doanh nghiệp nhà nước,
hợp tác xã phải đổi mới để cạnh tranh, đồng thời góp phần xóa bỏ dần sự


5
Kết qủa điều tra do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội tiến hành về tiền lương
trong khối doanh nghiệp trong năm 2005 cho thấy: trong khối doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài 1 đồng lương tạo ra 1,1 đồng lợi nhuận, khối doanh nghiệp tư nhân là 0,5 đồng,
khối doanh nghiệp nhà nước là 0,3 đồng.




21
độc quyền phi kinh tế kéo dài trong một số ngành và doanh nghiệp nhà
nước.
Bảng 1.2: Chỉ số phát triển tổng sản phẩm trong nƣớc
(Năm trước=100%)
Đơn vị tính: %
Các khu vực kinh tế
2000
2001
2002
2003
2004
TỔNG SỐ
106,79
106,89
107,08
107,34
107,69
Kinh tế nhà nước
107,72
107,44
107,11
107,65
107,75
Kinh tế ngoài nhà nước
105,04
106,36
107,04

106,36
106,84
- Kinh tế tập thể
105,46
103,24
104,91
103,43
103,83
- Kinh tế tư nhân
109,70
113,43
112,92
110,20
111,90
- Kinh tế cá thể
103,88
105,49
116,07
106,06
106,15
Khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài
111,14
107,21
107,16
110,52
111,09

Nguồn: Tổng cục Thống kê: Niên giám Thống kê 2004, Nxb
Thống kê, Hà Nội, 2005

1.1.2.4. Thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật và khoa học - công nghệ
Sự phát triển kinh tế tư nhân gắn liền với việc hình thành một phẩm
chất mới của doanh nhân và người lao động, đó là sự năng động, sáng
tạo, dám nghĩ dám làm. Đứng trước sức ép cạnh tranh thị trường ngày
càng khốc liệt, để giảm chi phí, tăng lợi nhuận trong kinh doanh và thích
ứng tốt hơn trong cạnh tranh, các chủ doanh nghiệp buộc phải và luôn
sẵn sàng áp dụng sáng kiến mới vào sản xuất kinh doanh, đầu tư những
máy móc thiết bị và qui trình công nghệ hiện đại cho hoạt động của
doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay, có thể


22
những sáng kiến hoặc máy móc đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân còn
chưa sánh được với các khu vực kinh tế khác (đặc biệt là kinh tế nhà
nước), nhưng tính thiết thực và hiệu quả thì hơn hẳn, bởi lợi nhuận của
doanh nghiệp gắn với lợi ích cá nhân các chủ doanh nghiệp. Cải tiến kỹ
thuật hoặc một qui trình công nghệ mới có thể được bắt đầu rất đơn giản
từ bố trí nhân lực một cách khoa học, cải tiến chi tiết của máy để tăng
năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, cải tiến mẫu mã của sản
phẩm, tổ chức tiếp thị và quảng cáo sản phẩm hợp lý,… chứ không nhất
thiết là phải đầu tư ngay một qui trình công nghệ hiện đại. Với mục đích
tăng hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp tư nhân sẵn sàng chi phí cho
việc áp dụng qui trình khoa học- công nghệ mới, thậm chí cho việc
nghiên cứu các đề tài khoa học có tính thiết thực nhằm tăng tính cạnh
tranh của sản phẩm trên thị trường. Chính yếu tố đó đã thúc đẩy những
tiến bộ kỹ thuật, khoa học - công nghệ trong các doanh nghiệp tư nhân,
nhưng điều quan trọng hơn là khi trình độ khoa học - công nghệ trong
khu vực kinh tế tư nhân được nâng lên thì cũng tạo ra áp lực, thúc đẩy
các khu vực khác trong nền kinh tế đổi mới cách thức quản lý, tổ chức
sản xuất và công nghệ.

Tóm lại, sự hồi sinh và phát triển mạnh mẽ của kinh tế tư nhân ở
Việt Nam trong 20 năm đổi mới đã khẳng định những vai trò to lớn của
khu vực kinh tế này trong nền kinh tế nhiều thành phần. Khu vực kinh tế
tư nhân đã có những đóng góp quan trọng về nhiều mặt vào sự phát triển
của đất nước. Song bên cạnh đó, vì nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan, khu vực kinh tế tư nhân còn bộc lộ nhiều hạn chế, nổi bật là:
- Hầu hết các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất-kinh doanh trong khu
vực kinh tế tư nhân mới được thành lập; hơn 90% là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, thiếu kinh nghiệm quản lý, vốn ít, yếu kém về thiết bị, công


23
nghệ, do vậy khả năng cạnh tranh kém; đồng thời hiệu quả kinh tế chưa
cao.
- Đa số doanh nghiệp tư nhân tập trung ở đô thị, chưa có ảnh
hưởng trực tiếp đến các vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng
xa.
6

- Cơ cấu ngành nghề kinh doanh còn bất hợp lý, tập trung nhiều ở
các ngành thương mại, dịch vụ. Thiếu sự liên kết, hợp tác trong nội bộ
khu vực kinh tế tư nhân cũng như giữa khu vực kinh tế tư nhân với các
khu vực kinh tế khác.
- Tính tự phát và các mặt tiêu cực trong hoạt động của khu vực kinh
tế tư nhân gây không ít khó khăn cho công tác quản lý của Nhà nước.
Biểu hiện cụ thể: một số doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể vi phạm
pháp luật, kinh doanh trái phép; trốn, lậu thuế; chưa thực hiện đúng Luật
Doanh nghiệp và các quy định về đăng ký kinh doanh; nhiều đơn vị chưa
thực hiện tốt những quy định của pháp luật về lao động, hợp đồng lao
động, chế độ tiền công, bảo hộ lao động, giờ làm việc,… đối với người

lao động.
Vì thế, quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân là rất cần
thiết để, một mặt, điều chỉnh sự phát triển kinh tế tư nhân đi đúng quĩ
đạo, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, ổn điịnh, công bằng; mặt
khác, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển và có thể đứng
vững trong cạnh tranh với các chủ thể khác ở trong nước, và nhất là với
các doanh nghiệp nước ngoài trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng của Việt Nam.


6
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá tình hình thực hiện Luật Doanh nghiệp,
các doanh nghiệp vẫn tập trung chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và một
số ít địa phương khác có mức đô thị hóa cao (Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội
chiếm 53,6% tổng số doanh nghiệp và 52,14% số vốn đăng ký).



24
1.2. Quản lý nhà nƣớc đối với kinh tế tƣ nhân trong nền kinh tế
thị trƣờng
1.2.1. Quản lý nhà nước về kinh tế
- Quản lý nhà nƣớc.
Theo nghĩa giản đơn nhất, có thể hiểu quản lý là một quá trình hoạt
động thiết yếu nảy sinh khi có hoạt động chung; là sự tác động của chủ
thể quản lý nhằm điều khiển, sắp xếp đối tượng- khách thể quản lý để
thực hiện các mục tiêu và chức năng của chủ thể quản lý.
Quan niệm này nêu lên những đặc trưng phổ biến của quản lý- từ
quản lý tổ chức có quy mô nhỏ như quản lý một doanh nghiệp, đến quản
lý một tổ chức mang quy mô quốc gia.

Xuất phát từ quan niệm chung nêu trên về quản lý, có thể hiểu quản
lý nhà nước về kinh tế là quá trình hoạt động quản lý được thực hiện
bằng cơ quan nhà nước các cấp đối với toàn bộ đời sống kinh tế đất nước
nhằm đạt mục tiêu đã được xác định phù hợp với từng thời kỳ phát triển
đất nước. Nói cách khác, "quản lý nhà nước về kinh tế chính là sự tác
động của hệ thống quản lý hay chủ thể quản lý (Nhà nước) lên hệ thống
bị quản lý hay khách thể quản lý (nền kinh tế) nhằm đạt được các mục
tiêu đề ra" [47, tr. 15].
- Quản lý nhà nƣớc đối với kinh tế tƣ nhân
Tất cả các thành phần kinh tế, mọi chủ thể kinh doanh ở Việt Nam
đều là đối tượng quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, mỗi thành phần kinh
tế có tính chất sở hữu riêng, có vai trò, vị trí, đặc điểm hoạt động nhất
định, nên các hoạt động quản lý nhà nước đối với từng bộ phận kinh tế
này vừa có những nội dung và nguyên tắc chung, vừa có sự khác nhau ít
nhiều về nội dung và cách thức cụ thể.


25
Quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân có thể hiểu là các hoạt
động quản lý kinh tế được thực hiện bằng cơ quan nhà nước các cấp đối
với quá trình hoạt động của kinh tế tư nhân nhằm khuyến khích, tạo điều
kiện cho kinh tế tư nhân phát triển trong nền kinh tế thị trường thống
nhất, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội chung của đất nước.
Đối với khu vực kinh tế tư nhân, do đặc điểm cơ bản của các doanh
nghiệp tư nhân là có tính tự chủ cao dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất (trừ ruộng đất chỉ có quyền sử dụng) và các tài sản khác nên
quản lý của Nhà nước nhìn chung mang tính gián tiếp và quyền tự chủ
của các doanh nghiệp tư nhân cao hơn so với doanh nghiệp nhà nước.
Nhà nước vừa có vai trò là người đại diện cho quyền lợi và ý chí của các
chủ thể tham gia kinh tế tư nhân, vừa là chủ thể quản lý đối với kinh tế

tư nhân nhằm phát huy tiềm năng và ưu thế của kinh tế tư nhân, đồng
thời ngăn chặn, hạn chế những mặt tiêu cực của nó. Hơn nữa, Nhà nước
còn là cơ quan công vụ nhằm phục vụ và hỗ trợ cho kinh tế tư nhân phát
triển đúng hướng và có hiệu quả [ 66; tr. 36]
1.2.2. Chức năng của quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở
Việt Nam
Quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường là một tất yếu
khách quan nhằm hướng toàn bộ các hoạt động của nền kinh tế vào các
mục tiêu mà Nhà nước định ra trong mỗi thời kỳ.
Mục tiêu quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân trong nền kinh tế
nhiều thành phần ở Việt Nam nhằm bảo đảm cho nền kinh tế phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời khuyến khích phát triển và
quản lý tốt kinh tế tư nhân.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu
rõ chức năng và mục tiêu của quản lý nhà nước về kinh tế: "Nhà nước

×