Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Luận văn thạc sỹ: Quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 115 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN 5
1.1. Quan niệm về kinh tế tư nhân 5
1.2. Bản chất của kinh tế tư nhân 8
1.3. Đặc điểm của kinh tế tư nhân 10
1.4. Đặc điểm của kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay 13
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ HOÀN THIỆN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ TƯ NHÂN 26
2.1. Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân 26
2.1.1. Khái niệm 26
2.1.2. Nội dung quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân 27
2.2. Cơ sở lý luận về hoàn thiện quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư
nhân 29
2.2.1. Sự cần thiết khách quan của quá trình hoàn thiện quản lý nhà nước đối
với khu vực kinh tế tư nhân 29
2.2.2. Nội dung hoàn thiện quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân 32
3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN 33
3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc 33
3.2. Kinh nghiệm của một số nước đang phát triển Châu Á 34
4. BÀI HỌC THAM KHẢO DÀNH CHO VIỆT NAM TRONG VIỆC ĐỔI
MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN37
Chương 2 40
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ 40
TƯ NHÂN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM 40
1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM
40
1.2. Sự phát triển về quy mô vốn đầu tư 41
1.3. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế 43
2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ


TƯ NHÂN 43
2.1. Khái quát đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc quản
lý, phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta 44
2.2. Quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân thông qua Luật Doanh nghiệp
53
2.2.1. Những kết quả đạt được 53
2.2.2. Những bất cập còn tồn tại trong quá trình triển khai thực hiện Luật
Doanh nghiệp năm 2005 60
2.2.3. Thực trạng công tác ban hành, phổ biến và tổ chức thực hiện các văn
bản pháp luật về doanh nghiệp 66
2.3. Thực trạng việc xây dựng, ban hành cơ chế chính sách kinh tế nhằm phát
triển kinh tế tư nhân 69
3. NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU CỦA NHỮNG BẤT CẬP TRONG QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN 84
Chương 3 QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN 86
1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KHU
VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN 87
1.2. Tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế tư nhân từ việc tập trung ưu
tiên giải quyết những vấn đề bức xúc nhất 90
2. MỤC TIÊU HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KHU
VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN 92
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN 93
3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo môi trường kinh doanh bình
đẳng, thuận lợi để khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân phát triển 93
3.2. Hoàn thiện các chính sách kinh tế có liên quan đến hoạt động kinh doanh
của khu vực kinh tế tư nhân 94
3.2.1. Chính sách vốn, tín dụng, đầu tư 94
3.2.2. Chính sách hỗ trợ mặt bằng sản xuất 95

3.2.3. Chính sách hỗ trợ nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp 96
3.2.4. Chính sách thị trường và xúc tiến thương mại 97
3.2.5. Chính sách thuế và hải quan 97
4. ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG BỘ MÁY TỔ CHỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN 98
5. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG 99
6. PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN, ĐOÀN, HỘI
THANH NIÊN, HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ, CÁC HIỆP HỘI DOANH
NGHIỆP VÀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM 100
7. NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN TRỊ KINH DOANH TẠI CÁC
DOANH NGHIỆP THUỘC KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN 103
8. ĐỔI MỚI KIỂM TRA, KIỂM SOÁT ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ TƯ
NHÂN 105
9. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC 107
KẾT LUẬN 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện quá trình đổi mới từ năm 1986 đến nay, Đảng và Nhà nước
ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ
chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần, kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng. Đại hội X của Đảng
khẳng định kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản
tư nhân là một động lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hiện nay, kinh tế tư nhân chiếm khoảng 39% GDP, các doanh nghiệp
kinh tế tư nhân chiếm khoảng 80% trong tổng số doanh nghiệp trên cả nước.
Điều đó đã mở ra những khả năng mới thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và giải
quyết những vấn đề xã hội bức xúc của đất nước, như giải phóng sức sản
xuất, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, giải quyết việc làm, thúc

đẩy phân công lao động xã hội, phát triển thị trường vốn, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những
đóng góp quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân vào phát triển kinh tế - xã
hội đất nước trong công cuộc đổi mới, một lần nữa khẳng định tính đúng đắn
của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp
sang xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần dựa trên việc đa dạng các hình thức sở hữu.
Tuy nhiên, ngoài những đóng góp quan trọng và những ưu điểm nêu
trên, khu vực kinh tế tư nhân còn có những yếu kém và hạn chế như quy mô
còn nhỏ bé, khả năng cạnh tranh thấp trước yêu cầu của quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Nguyên nhân của thực trạng đó là từ sự chậm trễ trong việc
cụ thể hoá chủ trương, nghị quyết của Đảng, từ sự thiếu đồng bộ của cơ chế
chính sách quản lý của Nhà nước và từ chính năng lực yếu kém của các doanh
1
nghiệp. Về mặt quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân còn nhiều
bất cập từ quy định pháp lý, chính sách chưa hoàn thiện đến xây dựng bộ máy
quản lý và năng lực cán bộ. Trên thực tế, kinh tế tư nhân chưa được đối xử
bình đẳng nên trong môi trường kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn như tiếp
cận về vốn, mặt bằng kinh doanh, đào tạo nhân lực, tiếp cận công nghệ, xúc
tiến thương mại đầu tư trong hội nhập kinh tế quốc tế… Hiện nay chúng ta
chưa có đầu mối quản lý thống nhất đối với khu vực này. Thực tế cho thấy
cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý của nhà nước đối với khu
vực kinh tế quan trọng này.
Từ những phân tích, đánh giá trên tác giả chọn đề tài: "Quản lý nhà
nước đối với kinh tế tư nhân ở Việt Nam" làm đề tài Luận văn Thạc sỹ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân là một vấn đề quan trọng ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế của đất nước. Thời gian qua, đã có nhiều đề
tài nghiên cứu đề cập đến vấn đề này, như: “Vai trò của kinh tế tư nhân trong

nền kinh tế”, tác giả Nguyễn Huy Oánh, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Kinh
tế 12-2001; “Kinh tế tư nhân Việt Nam những thuận lợi, khó khăn trong quá
trình phát triển”, tác giả Đặng Danh Lợi, đăng trên Tạp chí Phát triển kinh tế,
4-2003; "Doanh nghiệp vừa và nhỏ - Hiện trạng và những kiến nghị giải
pháp", tác giả Lê Viết Thái (chủ biên), Nxb. Lao động, 2000 song chưa có
công trình nào tập trung nghiên cứu việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với
kinh tế tư nhân, vì vậy tác giả lựa chọn nghiên cứu vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn:
- Nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước đối với
kinh tế tư nhân.
- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân.
2
- Đề xuất các quan điểm và các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hệ
thống Luật pháp - Hệ thống cơ chế, chính sách và Biện pháp tổ chức thực
hiện nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân
Để đạt được các mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận, thực tiễn quản lý nhà nước đối với kinh tế
tư nhân ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân giai
đoạn đổi mới từ năm 1986 đến nay.
- Phân tích những kết quả đạt được, chỉ ra những bất cập cùng những
nguyên nhân tồn tại để có định hướng cho việc tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà
nước đối với kinh tế tư nhân.
- Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn, đề xuất phương hướng và hệ
thống các giải pháp hoàn thiện vai trò quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: dưới góc độ kinh tế chính trị, vai trò quản lý
nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của kinh tế tư nhân ở Việt
Nam được nghiên cứu với những nội dung cơ bản liên quan đến hệ thống cơ

chế chính sách, cơ chế hoạt động của bộ máy quản lý và vai trò quản lý nhà
nước nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân, đặc biệt trong việc cải
thiện môi trường kinh doanh hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu về vai trò quản lý nhà nước đối với
kinh tế tư nhân là một vấn đề rất rộng, vì vậy luận văn chỉ nghiên cứu những
vấn đề về vai trò, nội dung quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân từ năm
1986 đến nay và hệ thống giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý nhà nước
đối với kinh tế tư nhân trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài này dựa vào các
quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ
3
trương đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách pháp luật của Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc phát triển kinh tế tư nhân.
Đồng thời, kế thừa các công trình khoa học nghiên cứu về vai trò quản lý của
nhà nước đối với hoạt động của nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay tại Việt Nam.
Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể như: phân tích tổng hợp, quy
nạp và diễn giải, phương pháp hệ thống, lôgíc và lịch sử, thống kê, so sánh,
phương pháp nghiên cứu tổng kết thực tiễn kết hợp với ý kiến chuyên gia để
thực hiện mục tiêu nghiên cứu của luận văn.
6. Những đóng góp mới của Luận văn
- Luận văn góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận, thực tiễn quản lý nhà
nước đối với kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay.
- Luận văn đã phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với
kinh tế tư nhân giai đoạn đổi mới từ năm 1986 đến nay.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng quản lý, luận văn chỉ ra những bất cập
cùng những nguyên nhân tồn tại để có định hướng cho việc tiếp tục hoàn
thiện quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân.
- Luận văn đã đề xuất phương hướng và hệ thống các giải pháp hoàn
thiện vai trò quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân.

7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối
với kinh tế tư nhân
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân trong
quá trình đổi mới ở Việt Nam
Chương 3: Quan điểm, mục tiêu và các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà
nước đối với khu vực kinh tế tư nhân
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN VÀ QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ TƯ NHÂN
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN
1.1. Quan niệm về kinh tế tư nhân
Khái niệm kinh tế tư nhân hay khu vực kinh tế tư nhân hiện nay còn có
nhiều ý kiến chưa đồng nhất. Ở nhiều nước, thuật ngữ “kinh tế tư nhân” được
sử dụng để phân biệt với kinh tế nhà nước. Theo nghĩa rộng, nền kinh tế được
phân chia thành hai khu vực kinh tế chủ yếu: 1) Kinh tế nhà nước và 2) Kinh
tế tư nhân.
Kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế được hình thành và phát triển dựa trên
nền tảng chủ yếu là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lợi ích cá nhân.
Trong lịch sử phát triển kinh tế, kinh tế tư nhân đã ra đời từ rất sớm, gắn liền
với sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hoá và ngược lại, sự hình thành
và phát triển kinh tế hàng hoá lệ thuộc vào sự phát triển kinh tế tư nhân. Dưới
chế độ công xã nguyên thuỷ, chưa có sở hữu tư nhân và do đó chưa có kinh tế
tư nhân. Sở hữu tư nhân xuất hiện khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã và
bắt đầu hình thành kinh tế tư nhân. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin đã mô tả một cách đầy đủ và toàn diện về sự xuất hiện của sở hữu tư
nhân: chế độ sở hữu tư nhân ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài

của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội và là cơ sở làm nảy sinh,
tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân. Sự tồn tại lâu dài và phát triển mạnh mẽ
của kinh tế tư nhân trong lịch sử đã chứng tỏ kinh tế tư nhân mang trong mình
nó một động lực mạnh - động lực cá nhân thuộc tính tồn tại lâu dài của con
người và cả xã hội loài người.
5
Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong lịch sử đã được thể hiện ở nhiều
hình thức và phương thức khác nhau. Trong thời đại kinh tế sản xuất hàng hoá
nhỏ, hệ thống kinh tế vận động trong trạng thái sản xuất giản đơn, hầu như
không có giá trị thặng dư, do đó không có tích luỹ cho tái sản xuất mở rộng.
Đó là nền kinh tế tất yếu, kinh tế sinh tồn. Nền sản xuất ở đây chủ yếu là dựa
vào hai nhân tố: tài nguyên và lao động. Trong điều kiện đó, kinh tế tư nhân
được biểu hiện ở hình thức kinh tế của các hộ sản xuất cá thể. Sự phát triển
của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hàng hoá - tiền tệ đã làm nảy sinh
quan hệ tư bản và diễn ra quá trình chuyển hoá thành tư bản. Trong nền kinh
tế bắt đầu hình thành nên các chủ thể kinh doanh đầu tư tư bản và sử dụng lao
động làm thuê nhằm tạo ra giá trị thặng dư. Quá trình tiến hoá đó đã diễn ra ở
một số nước phương Tây từ thế kỷ XVI, XVII và gắn liền với sự thủ tiêu chế
độ phong kiến và hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong
thời đại kinh tế phát triển- kinh tế thị trường, mục tiêu cuối cùng của sản xuất
kinh doanh không chỉ đơn giản là để sinh tồn mà là tạo ra giá trị thặng dư.
Một mô hình sản xuất kinh doanh mới ra đời - mô hình doanh nghiệp. Trong
điều kiện đó, kinh tế tư nhân được biểu hiện ở một hình thức tổ chức sản xuất
mới đại biểu cho một lực lượng sản xuất mới - hình thức doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, do đặc điểm của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, kinh tế cá thể vẫn tiếp tục tồn tại và phát
triển bên cạnh hình thức doanh nghiệp. Kinh tế cá thể và doanh nghiệp khu
vực kinh tế tư nhân là hai hình thức biểu hiện chủ yếu của kinh tế tư nhân.
- Kinh tế cá thể là hình thức kinh tế của một hộ gia đình, một cá nhân
hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của chính hộ

hay cá nhân đó, qui mô vốn và lao động nhỏ, giá trị thặng dư không đáng kể
và do đó, kinh tế cá thể vẫn chủ yếu hoạt động theo qui luật tái sản xuất giản đơn.
- Các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân được hình thành và phát triển
trong nền kinh tế thị trường với nhiều hình thức khác nhau, hoạt động dựa
6
trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và nói chung có quy mô vốn lớn hơn
kinh tế cá thể và có thuê mướn lao động. Mục tiêu của các doanh nghiệp là
tạo ra ngày nhiều hơn giá trị thặng dư. Quy luật chi phối hoạt động của doanh
nghiệp là tái sản xuất mở rộng.
Ở nước ta, kinh tế tư nhân được hình thành và phát triển mạnh mẽ gắn
liền với sự nghiệp đổi mới, quan niệm về kinh tế tư nhân cũng từng bước
được thể hiện rõ hơn. Đại hội IX của Đảng xác định nền kinh tế nước ta có 6
thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ,
kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tư bản có vốn đầu
tư nước ngoài.
Đến Đại hội X Đảng ta đã xác định nền kinh tế nước ta có 5 thành phần
kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư
bản tư nhân) kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Như vậy, ở nước ta hiện nay, kinh tế tư nhân không phải là một thành
phần kinh tế mà là một khu vực kinh tế gồm hai thành phần kinh tế: thành phần
kinh tế cá thể, tiểu chủ và thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Ở đây, khái niệm
khu vực kinh tế tư nhân được dùng để chỉ các thành phần kinh tế cùng một chế
độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Hai thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản
tư nhân đều thuộc cùng một chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, vì vậy
cũng thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá IX đã ra Nghị quyết số 14/NQ-TW ngày 18-3-2002 về
tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển
kinh tế tư nhân, nêu rõ: “kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế
tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình
doanh nghiệp của tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước”

1
.
1
Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá IX
(Lưu hành nội bộ), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.55.
7
So với Đại hội IX, Đại hội X, lần này vừa có kế thừa, vừa có bổ sung,
phát triển thêm một số điểm cho phù hợp với tình hình mới (như: để chung
kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân vào thành phần kinh tế tư nhân; khẳng
định vai trò của kinh tế tư nhân, doanh nghiệp cổ phần).
Xét về quan hệ sở hữu, kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân
đều thuộc cùng loại hình sở hữu tư nhân, khác với sở hữu nhà nước, sở hữu
tập thể. Kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân là hai thành phần
kinh tế khác nhau về trình độ phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Tuy nhiên, trong thực tế, việc phân định rạch ròi đâu là kinh tế tư bản tư
nhân không phải là việc giản đơn bởi sự vận động phát triển, biến đổi không
ngừng của thành phần kinh tế này và sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố như:
tính thời đại, đặc điểm ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh
1.2. Bản chất của kinh tế tư nhân
Để xác định bản chất của kinh tế tư nhân, cần xem xét kinh tế tư nhân
trên ba mối quan hệ cơ bản: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ trong
tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm.
- Về quan hệ sở hữu: sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là cơ sở tồn tại
của kinh tế tư nhân. Sở hữu tư nhân phát triển từ thấp lên cao và bao gồm hai
hình thức cơ bản:
Một là, Sở hữu tư nhân nhỏ là sở hữu của cá nhân hay hộ gia đình sản
xuất ra sản phẩm bằng sức lao động của chính cá nhân hay hộ gia đình đó. Sở
hữu tư nhân nhỏ là hình thức sở hữu tồn tại chủ yếu trong nền sản xuất hàng
hoá giản đơn, giá trị thặng dư không đáng kể.
Hai là, Sở hữu tư nhân lớn gắn liền với sự xác lập nền sản xuất lớn, là

đại biểu của nền kinh tế hàng hoá phát triển đến trình độ cao, của phương
thức sản xuất tư bản công nghiệp. Trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ tư bản,
sở hữu tư nhân lớn ra đời dựa trên cơ sở tích tụ tư bản (vốn) và sử dụng lao
động làm thuê. Một phần lớn giá trị thặng dư đã được tích luỹ để tái sản xuất
8
mở rộng nhằm không ngừng phát triển sản xuất kinh doanh, tạo ra ngày càng
nhiều hơn giá trị thặng dư.
Đối với hình thức kinh tế cá thể, do dựa trên qui mô nhỏ và hầu như
không sử dụng lao động làm thuê, nên việc tổ chức quản lý sản xuất được diễn
ra trong phạm vi cá thể. Các cá nhân tự mình tổ chức sản xuất hoặc chịu sự
phân công, quản lý của người chủ gia đình trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Kinh tế tiểu chủ là hình thức tổ chức sản xuất có quy mô sản xuất, kinh
doanh lớn hơn kinh tế cá thể, tự mình trực tiếp lao động và có thuê một phần
lao động.
Đối với hình thức tổ chức kinh doanh kiểu kinh tế tư bản tư nhân, việc tổ
chức quản lý sản xuất được biểu hiện ở mô hình doanh nghiệp. Như đã nêu ở
trên, mô hình tổ chức quản lý doanh nghiệp ra đời gắn liền với sự hình thành
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường,
doanh nghiệp là một mô hình tổ chức kinh doanh mà chủ thể doanh nghiệp
đồng thời là chủ thể tư bản (vốn), có thuê mướn lao động và có mục tiêu tạo
ra giá trị thặng dư. Mô hình doanh nghiệp ngay từ khi mới ra đời đã thể hiện là
một mô hình tổ chức sản xuất mới, khác với hình thức kinh tế cá thể.
- Về quan hệ phân phối: thực chất, quan hệ phân phối là việc giải quyết
mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa các cá nhân tham gia vào quá trình tái sản
xuất. Trong kinh tế tư nhân các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh khác
nhau có quan hệ phân phối khác nhau. Đối với kinh tế cá thể, do dựa vào sức
lao động của bản thân nên sản phẩm và kết quả lao động là hoàn toàn thuộc
về chính hộ hay cá nhân đó. Đối với kinh tế tư bản tư nhân, nói chung quan
hệ phân phối được dựa trên nguyên tắc là: chủ sở hữu tư liệu sản xuất chiếm
phần sản phẩm thặng dư còn người lao động được hưởng phần sản phẩm tất

yếu. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cổ điển, khi kinh tế tư bản tư nhân
mới hình thành, các yếu tố khoa học - công nghệ và trình độ quản lý chưa
9
đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, nền kinh tế phát triển theo
chiều rộng, dựa vào khai thác tài nguyên và sức lao động. Quan hệ phân phối
chủ yếu dựa trên sự đóng góp về vốn, tư liệu sản xuất và sức lao động. Sản
phẩm thặng dư là thuộc về nhà tư bản.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, các yếu tố khoa học - công nghệ,
trình độ tổ chức quản lý của chủ doanh nghiệp, trình độ, tay nghề của người
lao động, thị trường… đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn trong quá trình
sản xuất, chủ doanh nghiệp không còn là người sỏ hữu duy nhất về vốn và tư
liệu sản xuất. Hơn nữa, trong điều kiện mới, nhà nước có vai trò quan trọng
điều tiết quan hệ phân phối. Do vậy, quan hệ phân phối trong các doanh
nghiệp trở nên phức tạp hơn. Sản phẩm thặng dư ngoài phần đóng góp cho
nhà nước và tích luỹ cho tái sản xuất mở rộng, được phân phối lại bằng rất
nhiều hình thức khác nhau và cho các yếu tố đóng góp vào quá trình tạo ra giá
trị thặng dư như: lao động, tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh, vốn cổ phần.
1.3. Đặc điểm của kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân có một số đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, kinh tế tư nhân gắn liền với lợi ích cá nhân - động lực thúc đẩy
xã hội phát triển.
Sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người từ xưa đến nay đã cho thấy
rằng lợi ích của mỗi cá nhân là động lực trước hết và chủ yếu thúc đẩy xã hội
phát triển. Điều cốt yếu là phải tạo ra sử dụng động lực đó phù hợp và phục
vụ cho lợi ích chung của toàn xã hội. Nền kinh tế thị trường tồn tại mấy trăm
năm vẫn chủ yếu là dựa trên lợi ích cá nhân, tôn trọng lợi ích cá nhân. Vấn đề
là Nhà nước, với tư cách là tổ chức quản lý xã hội, phải định hướng, dẫn dắt
lợi ích cá nhân hài hòa với lợi ích xã hội. Thực tế cũng cho thấy, nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung đã đề cao quá mức lợi ích nhà nước tập thể, coi nhẹ lợi
ích cá nhân, do đó đã làm thui chột động lực phát triển kinh tế - xã hội. Trong

thời kỳ chuyển đổi sang kinh tế thị trường, với việc tôn trọng lợi ích cá nhân,
10
đã tạo ra một động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Quá
trình chuyển đổi của nền kinh tế nước ta trong những năm qua cũng đã chứng
minh điều đó. Sự hồi sinh và phát triển của kinh tế tư nhân trong những năm
đổi mới vừa qua chính là nhờ sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội trong quá trình sản xuất, do đó đã tạo ra động lực quan trọng thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
Do gắn liền với lợi ích cá nhân nên kinh tế tư nhân có sức sống mãnh
liệt. Quá trình quốc hữu hóa trong nền kinh tế mệnh lệnh trước đây đã bằng
mọi cách xóa bỏ kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, trong môi trường khắc nghiệt đó,
kinh tế tư nhân vẫn len lỏi tồn tại. Trong một thời gian dài, kinh tế gia đình
với một phần ruộng đất rất nhỏ do hợp tác xã để lại nhiều khi là nguồn thu
nhập chính của các hộ nông dân. Kinh tế tư nhân, cá thể bị ngăn cấm bởi các
mệnh lệnh của nhà nước nhưng vẫn tồn tại như một tất yếu khách quan.
Ở miền Bắc nước ta, bộ phận kinh tế gia đình với phần ruộng đất 5%
trong thời kỳ tập thể hóa nông nghiệp đã thể hiện rõ vai trò to lớn của nó.
Công cuộc cải tạo nền kinh tế miền Nam được tiến hành quyết liệt từ năm
1976 đến trước năm 1986, nhưng các hình thức kinh tế tư nhân vẫn tồn tại,
tập thể hóa nông nghiệp cũng đã không thành công. Mặc dù bị hạn chế gắt
gao bằng nhiều mệnh lệnh nhưng kinh tế tư nhân ở miền Nam thời kỳ này vẫn
tồn tại ở dạng "kinh tế ngầm" và chi phối lại nền kinh tế.
Ở hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, kinh tế tư nhân đã gần
như bị xóa bỏ hoàn toàn nhưng trong thời kỳ chuyển đổi từ những năm 1990,
chỉ cần nới lỏng một vài trói buộc, là ngay lập tức kinh tế tư nhân lại xuất
hiện "như nấm sau mưa". Sự phát triển nhanh chóng của các doanh nghiệp
thuộc kinh tế tư nhân ở nước ta kể từ sau khi có Luật Doanh nghiệp tư nhân
và Luật Công ty (năm 1991) cũng đã chứng minh điều đó.
Hai là, kinh tế tư nhân mà tiêu biểu là doanh nghiệp của tư nhân là mô
hình tổ chức kinh doanh của nền sản xuất hàng hóa ở giai đoạn cao.

11
Hoạt động sản xuất trao đổi hàng hóa ra đời gắn liền với sự phân công
lao động xã hội. Có thể nói, quá trình đó bắt đầu từ thời kỳ tan rã của chế độ
cộng sản nguyên thuỷ. Tuy nhiên, trong hàng nghìn năm tồn tại cho đến trước
khi xuất hiện nền sản xuất đại công nghiệp, đó là một nền sản xuất hàng hóa
giản đơn, gắn liền với sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp.
Hình thức tổ chức sản xuất doanh nghiệp là sản phẩm của nền sản xuất
xã hội hóa. Nó được phát triển cùng với sự xác lập của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa và gắn liền với nền đại công nghiệp. Trước đó, đơn vị cơ
bản của nền kinh tế xã hội là gia đình dựa trên cơ sở huyết thống hoặc công
trường thủ công. Với hình thức tổ chức sản xuất doanh nghiệp, năng suất lao
động và hiệu quả sản xuất tăng lên nhiều, trình độ xã hội hóa cũng được phát
triển nhanh chóng.
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa. Ở đây
kinh tế hàng hóa đã thực sự thay đổi về chất, gắn liền với sản xuất lớn, hiện
đại. Trong đó, cơ cấu của kinh tế thị trường chủ yếu là dựa trên cơ sở của mô
hình tổ chức doanh nghiệp có mục tiêu cao nhất và cuối cùng là tạo ra giá trị
thặng dư. Cơ chế hoạt động tất yếu của nó là không ngừng chuyển giá trị
thặng dư thành tích luỹ tăng thêm của sự phát triển kinh tế. Trong lịch sử phát
triển của xã hội loài người cho đến nay, đó là mô hình tổ chức kinh doanh có
hiệu quả nhất, có vai trò tiến bộ nhất để thúc đẩy sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy rằng, mô hình tổ chức doanh
nghiệp đã, đang và còn tiếp tục là một mô hình tổ chức kinh tế có hiệu quả,
phù hợp với cơ chế thị trường hiện đại.
Ba là, kinh tế tư nhân là nền tảng của kinh tế thị trường.
Các nhà kinh tế đều cho rằng cơ chế thị trường là cách thức tốt nhất và
duy nhất (ít nhất là cho đến nay) để một nền kinh tế vận hành có hiệu quả cao.
Kinh tế thị trường là phương tiện để đạt đến một nền sản xuất lớn, hiện đại. Sự
sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa càng cho phép chúng ta khẳng định rằng
12

các quốc gia, dù với chế độ chính trị khác nhau, đều không thể không sử dụng
cơ chế thị trường. Ngược lại, kinh tế thị trường khó có thể tồn tại và phát triển
nếu không có sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân. Nói cách khác, cơ chế thị
trường hiện đại chính là dạng thức sinh tồn của kinh tế tư nhân mà điển hình là
mô hình tổ chức doanh nghiệp. Hình thức tổ chức sản xuất này là sản phẩm tự
nhiên của cơ chế thị trường và tự nó lớn lên trong cơ chế thị trường.
Bất kỳ một nền kinh tế nào hoạt động theo cơ chế thị trường đều phải
thừa nhận và khuyến khích mô hình tổ chức doanh nghiệp này. Ngược lại, mô
hình tổ chức doanh nghiệp tự nó ứng xử theo cơ chế thị trường và có sức sống
mãnh liệt trong môi trường của cơ chế thị trường. Trong khi đó, kinh tế quốc
doanh, do quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, được sinh ra bởi các
mệnh lệnh của nhà nước trong các nền kinh tế mệnh lệnh, mặc dù được động
viên, hướng dẫn và chỉ thị rằng chúng phải ứng xử theo cơ chế thị trường
nhưng chúng vẫn khó thích ứng được.
Ở Việt Nam muốn phát triển kinh tế thị trường thì phải phát triển kinh tế
tư nhân nói chung và mô hình tổ chức doanh nghiệp nói riêng.
Tóm lại, sự tự do tham gia kinh doanh của kinh tế tư nhân mà chủ yếu là
các doanh nghiệp vào bất kỳ lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ nào
cũng là cơ sở của cơ chế thị trường - ở đó có sự cạnh tranh giữa người bán và
người mua. Đó chính là động lực thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.
1.4. Đặc điểm của kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay
Kinh tế tư nhân ở nước ta đang tồn tại và phát triển trong những điều
kiện chủ yếu sau đây:
- Kinh tế tư nhân là sản phẩm của công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi
xướng và được phát triển trong điều kiện nhà nước xã hội chủ nghĩa. Về mặt
kinh tế, nhà nước đang nắm trong tay một lực lượng vật chất to lớn, có khả
năng chi phối, mọi hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước định
hướng sự phát triển của các thành phần kinh tế thông qua hệ thống các chính
13
sách, công cụ quản lý kinh tế vĩ mô như chính sách tài chính, tiền tệ, kế hoạch

hoá, chính sách kinh tế đối ngoại v.v… Hơn nữa, ở nước ta cũng đã hình
thành một hệ thống chính trị, xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thể chế
chính trị đó cùng với hệ tư tưởng, nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc tồn tại
và phát triển dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng cộng sản theo định hướng
xã hội chủ nghĩa có tác động mạnh mẽ và có tính quyết định đối với các thành
phần kinh tế, kể cả kinh tế tư nhân.
- Kinh tế tư nhân ở nước ta ra đời và phát triển trong điều kiện quan hệ
sản xuất thống trị trong xã hội không phải là quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Khác với thời kỳ ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản, kinh tế tư
bản tư nhân ra đời gắn liền với sự thủ tiêu quan hệ sản xuất phong kiến và xác
lập sự thống trị, chi phối của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, phục vụ cho
giai cấp tư sản và nhà nước tư sản. Kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay cũng
khác với kinh tế tư nhân ở nhiều nước khác - nơi mà quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa là quan hệ sản xuất thống trị. Sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư
nhân ở nước ta hiện nay được coi như là một công cụ, là những hình thức tổ
chức sản xuất kinh doanh theo mục tiêu của xã hội chủ nghĩa, là bộ phận cấu
thành của quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Kinh tế tư nhân nước ta ra đời và phát triển trong thời kỳ đất nước đang
quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế chậm phát triển, trong bối cảnh
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giải phóng sức sản xuất, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành vấn đề trung tâm. Trong điều kiện đó, để
đạt được mục tiêu xây dựng một xã hội có cơ sở vật chất kỹ thuật cao hơn chủ
nghĩa tư bản, việc khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trở nên như một tất
yếu lâu dài và cần được coi như là một cách thức, phương tiện tất yếu để đi
lên chủ nghĩa xã hội.
- Do những điều kiện tồn tại đó, kinh tế tư nhân ở nước ta có đặc điểm
khác về bản chất so với kinh tế tư nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa. Điều đó
thể hiện ở chỗ:
14
+ Kinh tế tư nhân ở nước ta là kết quả của chính sách phát triển kinh tế

nhiều thành phần, là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Như vậy, kinh tế tư nhân ở nước ta ra đời và phát triển vì bản
thân của công cuộc đổi mới và phục vụ cho sự nghiệp đổi mới. Vì vậy, nó
mang trong mình bản chất khác với kinh tế tư bản tư nhân ở các nước tư bản
trước đây và hiện nay. Là sản phẩm của đổi mới, người tham gia làm kinh tế
tư nhân phần lớn xuất thân từ những đảng viên, đoàn viên, cán bộ quân đội và
tầng lớp tri thức, sinh ra và trưởng thành trong chế độ mới. Người lao động
trong các doanh nghiệp cũng thuộc giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp
tri thức được hình thành trong xã hội mới. Trong các doanh nghiệp đã và đang
hình thành các tổ chức chính trị - xã hội do Đảng Cộng Sản Việt Nam tổ chức
và lãnh đạo. Các tổ chức này là bộ phận của hệ thống thể chế chính trị hoạt
động vì mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Như vậy, kinh tế tư nhân ở nước ta chịu sự tác động sâu sắc bởi hệ tư
tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và là một bộ phận của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Kinh tế tư nhân ở nước ta phát triển theo định hướng mà Đảng cộng
sản Việt Nam đề ra thông qua hệ thống các chính sách, pháp luật của nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hệ thống chính sách và pháp luật đó thể
hiện ý chí của nhân dân, vì lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân.
Thông qua hệ thống chính sách và pháp luật, nhà nước xã hội chủ nghĩa
bằng các công cụ kinh tế có thể hướng sự phát triển của các doanh nghiệp
vào những ngành, những địa bàn đáp ứng nhu cầu của nhân dân, tăng cường
tính xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển của đất nước. Thông qua các
chính sách kinh tế vĩ mô, nhà nước có thể điều tiết việc sử dụng lao động,
phân phối thu nhập của kinh tế tư nhân nhằm đảm bảo các mục tiêu định
hướng xã hội chủ nghĩa.
15
+ Kinh tế tư nhân ở nước ta ngay từ khi mới ra đời đã mang trong mình
nó những yếu tố có tính xã hội chủ nghĩa. Điều đó thể hiện ở chỗ: kinh tế tư
nhân mà đặc biệt là các doanh nghiệp đại diện cho một lực lượng sản xuất

mới, góp phần quan trọng vào giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và trực tiếp giải quyết nhiều vấn đề xã hội gay gắt (lao động,
việc làm, xoá đói giảm nghèo…).
- Các doanh nghiệp kinh tế tư nhân thông qua các hoạt động của mình
cũng góp phần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, gắn kết các giai tầng xã
hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Mối quan hệ trực tiếp giữa chủ doanh nghiệp kinh tế tư nhân với công
nhân, người lao động trong từng doanh nghiệp không còn là quan hệ đối
kháng, không hoàn toàn là quan hệ chủ - thợ, quan hệ giữa một bên là chủ sở
hữu tư liệu sản xuất và một bên là người làm thuê, bị bóc lột, bị “tước đoạt”
hết tư liệu sản xuất như trước đây nữa mà mang tính chất hợp tác.
- Sự phát triển của kinh tế tư nhân góp phần tăng tính cộng đồng dân tộc,
yếu tố dân tộc, hình ảnh của dân tộc trong cộng đồng quốc tế. Sự mở rộng của
các loại sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế là một
minh chứng nhằm tăng cường hình ảnh Việt Nam, yếu tố Việt Nam trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1.5. Vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân ở nước ta
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, khuyến khích và tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế, là
một chủ trương khoa học, lâu dài của Đảng và Nhà nước ta nhằm phát huy mọi
nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời hoàn thiện cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo
pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh lành mạnh.
16
Đổi mới cơ chế kinh tế, hoàn thiện quan hệ sản xuất để phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, giải phóng sức sản xuất của các thành
phần kinh tế là một thành công lớn của Đảng ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đánh dấu bước ngoặt quan

trọng trong việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và khẳng định sự tồn
tại lâu dài của nền kinh tế nhiều thành phần. Tiếp đó, Văn kiện Đại hội lần
thứ VII năm 1991 của Đảng tiếp tục khẳng định: Nhà nước thực hiện nhất
quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, không phân biệt đối xử, không tước
đoạt tài sản hợp pháp, không gò ép tập thể hóa, không áp đặt hình thức kinh
doanh, khuyến khích các hoạt động có lợi cho quốc kế dân sinh.
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII năm
1992 và Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) và lần thứ IX (2001) luôn khẳng
định tiềm năng của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế, chủ trương khuyến
khích kinh tế tư nhân trong nền kinh tế, chủ trương khuyến khích kinh tế tư
nhân được phát huy không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong
những lĩnh vực mà pháp luật không cấm và được pháp luật bảo vệ, được tự do
lựa chọn hình thức kinh doanh…
Nhờ có chính sách đúng đắn này mà khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta
có những bước phát triển vượt bậc trong những năm gần đây. Các doanh
nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ngày càng có vị trí hết sức quan trọng trong
nền kinh tế của đất nước.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, kinh tế quốc doanh "một mình
một chợ" không công nhận thị trường, giá cả, càng không chấp nhận cạnh
tranh, do đó không có yêu cầu nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của sản
phẩm. Ngày nay, khi chấp nhận nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần
kinh tế, nhất là trước yêu cầu hội nhập, cạnh tranh là điều không thể tránh
khỏi thì nhân tố thúc đẩy cạnh tranh đương nhiên thuộc về doanh nghiệp khu
17
vực kinh tế tư nhân (có sự tham gia của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài). Do vậy, kinh tế tư nhân là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự cạnh tranh
trong nền kinh tế, thể hiện ở chỗ:
- Là khu vực góp phần ngày càng quan trọng vào sự tăng trưởng tổng
sản phẩm quốc nội (GDP).
Cho đến nay, mặc dù vẫn còn chịu nhiều rào cản, nhiều đối xử bất công

và nhũng nhiễu của một số công chức tiêu cực, nhưng thành phần kinh tế này
đã trở thành lực lượng chủ chốt góp phần vào nhịp độ tăng trưởng của nền
kinh tế, trong tất cả các ngành, từ nông nghiệp đến công nghiệp, từ thương
nghiệp nội địa đến xuất khẩu. Tuy vậy, tầm quan trọng của sự đóng góp này
hình như chưa được quan tâm, thừa nhận: người ta thường nhấn mạnh yêu cầu
tăng đầu tư phát triển, tăng nhịp độ phát triển của GDP, nhưng hầu như ít nói
đến nhân tố nào có vị trí quyết định trong việc tăng trưởng đó. Vị trí của kinh
tế tư nhân mỗi năm được tăng lên trong đầu tư phát triển cũng như trong tăng
trưởng đã trở thành xu thế quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, không chỉ
hiện nay mà có ý nghĩa lâu dài trong tương lai.
- Là lực lượng quan trọng thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế phát triển đa dạng, cả công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ, thúc đẩy công nghiệp hóa - hiện đại hóa theo yêu cầu của thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Có thể khẳng định rằng, nếu chỉ đơn thuần dựa vào đầu tư của nhà nước,
không dựa vào lực lượng của kinh tế tư nhân thì chắc chắn không thể thực
hiện được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thị trường.
- Là nơi bảo đảm cung cấp nhiều việc làm cho người lao động và là lực
lượng đóng góp lớn vật chất, công sức trong các hoạt động xã hội, từ thiện,
xóa đói giảm nghèo, giảm bớt sự chênh lệch, giàu, nghèo trong xã hội.
Trong thực tế, nơi giải quyết việc làm chủ yếu và quyết định nhất cho số
người đến tuổi lao động tăng lên hàng năm vẫn là từ các doanh nghiệp, các cơ
18
sở kinh tế tư nhân. Hơn thế nữa, việc bố trí việc làm cho số lao động dôi dư từ
các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại vẫn phải dựa vào kinh tế tư nhân.
- Là nơi đang hình thành một lớp người mới, một tầng lớp xã hội mới, đó
là doanh nhân, họ đích thực là người lính xung kích thời bình được xã hội
thừa nhận.
Trong thực tế, tầng lớp doanh nhân mới của xã hội chính là những người
có đủ dũng cảm đưa tài sản, vốn liếng ra kinh doanh trong một môi trường

chưa đủ thông thoáng, còn nhiều rủi ro; khá nhiều người trong số họ đang trở
thành nhà quản lý tài năng, nắm bắt tri thức hiện đại về quản lý và công nghệ
để đảm bảo không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của từng sản phẩm hàng
hóa cũng như hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp dân doanh trong
sóng gió của kinh tế thị trường.
Những điểm trên đã nói lên vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng của kinh
tế tư nhân trong diện mạo mới của nền kinh tế nước ta trong điều kiện hiện
nay. Điều cần ghi nhận là, kinh tế tư nhân ra đời đánh dấu một bước tiến vượt
bậc trong tiến trình giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất tại Việt Nam,
là sự thể hiện của quản lý dân chủ hóa kinh tế. Từ nay, đã xuất hiện một bộ
phận kinh tế thực sự của dân, do dân tự đầu tư, tự chịu trách nhiệm kinh
doanh trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm, không bị hạn chế về
quy mô và địa bàn kinh doanh. Tuy vậy, vẫn còn những khoảng cách giữa
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước với việc thực thi
của cơ quan quản lý; kinh tế tư nhân đã được làm nhưng có làm được hay
không, có phát huy được tất cả tiềm năng của mình hay không, điều đó còn
tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan rất cần được phân tích,
trong đó có trách nhiệm về mặt quản lý nhà nước.
Về đường lối, quan điểm đã có bước đột phá quan trọng từ Đại hội lần
thứ IX của Đảng về dân chủ hóa kinh tế, phát huy sức mạnh của các thành
19
phần kinh tế. Đại hội IX khẳng định: "Động lực chủ yếu để phát triển đất
nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông
dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa với các lợi ích cá nhân, tập
thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh
tế, của toàn xã hội"
2
. Đại hội IX cũng chỉ rõ: "Trong thời kỳ quá độ, có nhiều
hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng
lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã

hội ta đã thay đổi nhiều vùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội.
Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu
tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng"
3
. Đó chính là cơ sở để
thống nhất nhận thức, phát huy sức mạnh của cộng đồng dân tộc, phát huy
mọi tiềm năng của kinh tế tư nhân. Đồng thời "Khuyến khích phát triển kinh
tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà
pháp luật không cấm"
4
.
1.6. Các hình thức biểu hiện của kinh tế tư nhân ở nước ta
Kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay bao gồm: Kinh tế cá thể, tiểu chủ và
các loại hình doanh nghiệp của kinh tế tư nhân.
Hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ:
- Quan niệm về hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ.
Theo tinh thần Nghị định 66/HĐBT ngày 03/03/1992 của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) và Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày 2/4/2004
của Chính phủ về đăng ký kinh doanh, thì hộ kinh doanh cá thể do một cá
nhân hoặc hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa
điểm, sử dụng không quá 10 lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr.23
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr.22, 31
4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr.22, 31
20

bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
- Đặc trưng cơ bản của hộ kinh doanh cá thể:
+ Có địa điểm, khu vực sản xuất kinh doanh ổn định, sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất và vốn.
+ Chủ hộ kinh doanh cá thể toàn quyền quyết định về phương thức quản lý,
tổ chức sản xuất kinh doanh cũng như phân phối lợi nhuận, đồng thời họ cũng
chính là người phải chịu toàn bộ trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh.
+ Quy mô sản xuất thường nhỏ lẻ, phân tán. Hoạt động được tiến hành ở
nhiều ngành nghề mà pháp luật không cấm, trên nhiều lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội và thường sử dụng lao động của gia đình, dòng họ.
+ Có sự thống nhất rất cao về lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội của các
thành viên bởi lẽ giữa các thành viên trong hộ gắn bó rất chặt chẽ với nhau
bằng nhiều mối quan hệ như quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, truyền
thống, đạo đức gia đình. Chính nhờ mối quan hệ xã hội ràng buộc bền chặt đó
trong một gia đình mà các thành viên có chung mục đích, vì vậy họ sẽ có sự
thống nhất cao về lợi ích kinh tế cũng như lợi ích xã hội. Mặt khác, do gắn
với sở hữu tư nhân nên chủ hộ có thể truyền lại cho thế hệ sau về kiến thức,
kinh nghiệm, phương pháp, tài sản trong sản xuất kinh doanh, từ đó tạo ra
động lực thúc đẩy kinh tế hộ ngày càng phát triển.
+ Các hộ gia đình cá thể được đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật (trừ những hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối,
những người bán hàng rong, quà vặt, làm dịch vụ có thu nhập thấp không phải
đăng ký kinh doanh).
- Vai trò, vị trí của hộ kinh doanh cá thể:
+ Hộ kinh doanh cá thể được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ. Hộ
là một đơn vị cơ bản tham gia vào quá trình sản xuất và cung ứng những sản
phẩm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho xã hội và xuất khẩu.
+ Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, hộ kinh doanh cá thể
21
với sự phong phú đa dạng về ngành nghề đã phát triển dưới nhiều hình thức

(hộ gia đình, trang trại gia đình…) thu hút nhiều lao động ở nông thôn cũng
như thành thị, đặc biệt là lao động nông nhàn tại các vùng nông thôn tham gia
vào sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống và ổn định chính trị - xã hội,
đóng góp tích cực vào việc tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Các loại hình doanh nghiệp của kinh tế tư nhân:
Theo Luật Doanh nghiệp năm 1999, doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế
có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh. Trong khái niệm này, "kinh doanh" được hiểu là việc thực hiện một,
một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Luật Doanh nghiệp đã quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của doanh
nghiệp. Luận văn xin tóm tắt một số đặc điểm chủ yếu về các loại hình doanh
nghiệp của kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay.
- Doanh nghiệp tư nhân: doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một
cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi
hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân có đặc điểm như sau:
+ Doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân, chủ doanh nghiệp là người lao
động chính. Trong một số trường hợp chủ doanh nghiệp cũng có thể thuê
người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh.
+ Là doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn, có nghĩa là chủ doanh
nghiệp phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với kết quả
kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Chủ doanh nghiệp có toàn quyền quyết định quy mô, phương thức hoạt
động, quản lý kinh doanh cũng như sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn (hai thành viên trở lên). Công ty trách
22

×