Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.4 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
TRƯƠNG DUY HÒA
TOÀN CẦU HÓA KINH TÊ VÀ HỘI NHẬP Quốc TÊ
CỦA VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị XHCN
Mã số: 50201
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: TS. Tạ Kim Ngọc, Viện Kinh tế thế giói
OAI HOC QUÔC IỈIA HA N Jt !
TRUNG TÂM THÒNG TIN T>*L:
HÀ NỘI - 200«
M ỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 3
Chương 1 6
C ơ SỞ CỦA TOÀN CẦU HOÁ KINH TẾ 6
1.1. Bản châ't của toàn cầu hóa kinh tế 6
1.1.1. Xét về mặt quan niệm 6
1.1.2. Xét về mặt lịch sử 10
1.2. Cơ sở khách quan và những nhân tố thúc đẩy sự gia tăng 11
toàn cầu hóa kinh tế
1.2.1. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dưới tác 11
động của cách mạng khoa học và công nghệ
1.2.2. Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường 19
1.2.3. Sự phát triển mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia 21
1.2.4. Vai trò của một số định chế kinh tế - tài chính toàn cầu 28
và khu vực
1.2.4.1. Tổ chức thương mại thế giới ( WTO ) 29
1.2.4.2. Quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF ) 30
1.2.4.3. Ngân hàng thế giới ( WB ) 32


1.2.4.4. Ngân hàng phát triển Châu Á ( ADB ) 34
1.2.4.5. Các tổ chức kinh tế khu vực khác 36
1.2.5. Chiến tranh lạnh kết thúc là động lực thúc đẩy toàn cầu 36
hóa kinh tế và hội nhập quốc tế.
Chương 2 38
NHŨNG ĐẶC TRUNG CHỦ YẾU CỦA TOÀN
CẦU HÓA KINH TẾ
2.1. Toàn cầu hóa kinh tế hiện nay là giai đoạn phát triển 38
cao của quốc tế hóa kinh tế
I
47
49
53
57
63
69
69
72
72
74
3}
94
94
95
Toàn cầu hóa kinh tế là một quá trình vận động khách
quan của lịch sử bao hàm trong đó đổng thời xu hướng
tự do hóa gắn liền với việc hội nhập kinh tế quốc tế
Toàn cầu hóa kinh tế là một quá trình vừa hợp tác chặt
chẽ vừa cạnh tranh với nhau rất quyết liệt
Toàn cầu hóa kinh tê là xu thế khách quan nhưng đang

chịu sự chi phối của chủ nghĩa tư bản, đứng đầu là Mỹ
Toàn cầu hóa kinh tế là một quá trình mang tính hai
mặt: tích cực và tiêu cực.
Toàn cầu hóa kinh tế hiện nay đang gia tăng mạnh mẽ
gắn liền với xu thế khu vực hóa
Chương 3
VIỆT NAM HỘI NHẬP KINH TÊ KHU vực VÀ
THẾ GIỚI
Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề
hội nhập và phát triển
Qúa trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
Những thuận lợi hay là cơ hội của Việt Nam khi tham
gia toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế
Những thành tựu bước đầu của Việt Nam trong tiến
trình hội nhập quốc tế
Những khó khăn thách thức đối với Việt Nam trong tiến
trình toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế
Một số giải pháp góp phần thúc đẩy việc hội nhập với
khu vực và thế giới của Việt Nam
Cần chủ động hội nhập quốc tế bằng một chương trình
tổng thể với những nội dung và lộ trình hợp lý
Cần tiếp tục đường lối đổi mới theo hướng đạt tiêu
chuẩn phổ biến của quốc tế về các thể chế kinh tế thị
trường, trước hết là trong các lĩnh vực thương mại, đầu
tư, tài chính - ngãn hàng, thủ tục hành chính
n
3.3.3. Cần tiếp tục đổi mới tiến tới hoàn thiện cơ chế hoạt 96
động kinh tế của bản thân các doanh nghiệp Nhà nước
theo hướng năng động, hiệu quả, tự hạch toán kinh
doanh trên cơ sở lỗ lãi

3.3.4. Đổi mới công tác đào tạo nguồn nhân lực cho phù hợp 98
với thị trường lao động trong nước và quốc tế
3.3.5. Cần có kế hoạch đồng bộ từng bước xây dựng và phát 99
triển các công ty xuyên quốc gia của Việt Nam
3.3.6. Đẩy nhanh việc xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng 99
quan trọng như đường giao thông, hải cảng, sân bay
KẾT LUẬN 101
PHẦN PHỤ LỤC 102
Phụ lục 1 103
Phụ lục 2 105
Phụ lục 3 106
Phụ lục 4 107
Phụ lục 5 108
Phụ lục 6 109
Phụ lục 7 111
Phụ lục 8 112
Phụ lục 9 113
Phụ lục 10 114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 115
m
NHŨNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ADB :
Ngân hàng phát triển Châu Á
AIA :
Khu vực đầu tư A SE AN
A FT A : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
APEC : Diễn đàn hợp tấc kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
A SE A N : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ASEM : Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu
CEPT :

Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
E C A F E :
Hội nghị ủy ban kinh tế của LHQ về Châu Á và Viễn Đôn]
EXIM B A NK:
Ngân hàng xuất nhập khẩu của Mỹ
EU :
Liên minh Châu Âu
FDI :
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GATT :
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
GDP :
Tổng sản phẩm quốc nội
GNP :
Tổng sản phẩm quốc dân
IBRD :
Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế
IDA :
Hiệp hội phát triển quốc tế
IFC :
Công ty tài chính quốc tế
IM F :
Quỹ tiền tệ quốc tế
MERCOSUR
: Khu vực thương mại tự do Mỹ Latinh
MFN :
Quy chế tối huệ quốc
MIGA :
Cơ quan đảm bảo đầu tư đa phương
N A F TA :

Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
NATO :
Khối Hiệp ước quân sự Bắc Đại tây dương
NICs :
Các nước mới công nghiệp hóa
NT :
Chế độ đãi ngộ quốc gia
ODA :
Viện trợ phát triển chính thức
OECD :
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
OPIC :
Công tư đầu tư tư nhân hải ngoại của Mỹ
S A A R C :
Tổ chức hợp tác khu vực Nam Á
SEV : Hội đồng tương trợ kinh tế (của các nước XHCN trước đây)
SNG :
Cộng đồng các quốc gia độc lập
TNC :
Công ty xuyên quốc gia
UNCTAD: Hội nghị Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển
UNDP :
Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc
WB :
Ngân hàng thế giới
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
2
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ngày nay, thuật ngữ “Toàn cầu hoá kinh tế” và “hội nhập” đã trô nêi

khá quen thuộc với bạn đọc trên phạm vi thế giới. Trong các chiến lược phá
triển của các quốc gia đều nói đến xu thế này. Vậy toàn cầu hoá kinh tế là gì
có vai trò như thế nào trong tiến trình phát triển của các quốc gia? Các nướ(
nên hay không nên tham gia vào tiến trình này và gia nhập vào xu hưóng đc
ra sao để tránh bị thua thiệt ? Quả thực, đây là những vấn đề lớn, có tínl
chiên lược, mang nhiều nội dung phức tạp liên quan đến chính sách kinh tí
của từng quốc gia.
Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của khu vực và thế giới, V
vậy không thể đứng ngoài xu hướng toàn cầu hoá kinh tế. Tuy nhiên, việc hộ
nhập vào toàn cầu hoá kinh tế như thế nào lại là vấn đề không đơn giản. Đâ}
vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với Việt Nam (và các nước đang phá
triển khác), đặc biệt là trong bối cảnh chúng ta đang tích cực hội nhập và liêr
kết chặt chẽ với các nước trong khu vực và thế giới theo hướng đa dạng hoá
đa phương hoá, nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá Ví
hiện đại hoá đất nước. Trên phưcmg diện đó, đề tài nghiên cứu của Luận văr
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
2. Tình hình nghiên cứu :
Thời gian qua, trên báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng củí
nước ta và nước ngoài, giới nghiên cứu và hoạch định chính sách đã bàr
không ít đến các khía cạnh khác nhau của toàn cầu hoá kinh tế, chẳng hạn
các bài của Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Duy Quý: “Nhìn lại thế kỷ XX và thỉ
nhìn sang thế kỷ XXI” đăng trên Tạp chí Cộng sản số 22, tháng 11 - 1999
Giáo sư Tiến sĩ Võ Đại Lược: “Toàn cầu hoá: những tác động và đối sácỉ
của Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, số 1 (22)
1999; Phó giáo sư Tiến sĩ Đỗ Lộc Diệp: “Toàn cầu hoá kinh tế và ý nghĩí
của nó”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 5 - 1999; Phó giáo sư Tiến sĩ Đ(
Hoài Nam và Tiến sĩ Trần Đình Thiên: “Xu hướng toàn cầu hoá và tác độn'
của nó đến Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 2 (58)
1999
3

Tuy vậy, cho đến nay, chưa có một cuốn sách nào nghiên cứu một
cách hệ thống và toàn diện vể toàn cầu hoá kinh tế, các đặc trung chi phối sự
phát triển mạnh mẽ của xu hướng này, các mặt tích cực và tiêu cực của nó,
các giải pháp nào cần có để tham gia vào tiến trình này một cách thích họp
nhất.
3. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu của Luận văn nhằm hệ thống hoá những nhân tố
làm cơ sở cho toàn cầu hoá kinh tế. Qua đó, giúp người đọc hình dung được
bức tranh tổng thể về sự phát triển của kinh tế thế giới từ sau Chiến tranh thế
giới thứ hai đến nay; đồng thời góp một tiếng nói nhằm giúp Việt Nam hội
nhập vào tiến trình khu vưc hoá và toàn cầu hoá kinh tế một cách có lợi nhất.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu tìm hiểu nguồn gốc, bản chất, các
đặc trưng CO' bản của toàn cầu hoá kinh tế, các mặt tích cực cũng như tiêu cực
của xu hướng này. Từ đó, đề xuất một số giải pháp để thúc đẩv hội nhập của
Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để đạt mục đích trên, Luận văn sử dụng tổng họp nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau như: phương pháp duy vật biện chúng, duy vật lịch sử,
phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, phương pháp thống kê học để xử
lý số liệu
6. Đóng góp của Luận văn:
Toàn cầu hóa kinh tế phát triển rầm rộ từ những năm 80 trở lại đây.
Tuy vậy, đây không phải là hiện tượng mới. Các Mác đã tìmg đề cập đến xu
hướng tất yếu này trong lý luận của ông. Ớ đây, trong Luận văn, người viết
sẽ giúp bạn đọc:
+ Thứ nhất, phân tích và làm sáng tỏ cơ sở khoa học của toàn cầu hoá
kinh tế, bản chất, những quan niệm chính về toàn cầu hoá kinh tế;
+ Thứ hai, phân tích và làm sáng tỏ những đặc trưng cơ bản của toàn
cầu hoá kinh tế.

4
+ Thứ ba, trên cơ sở đó, đưa ra một số gợi ý có tính chất tham khảo
giúp Việt Nam trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới.
+ Thứ tư, sau khi có được một cái nhìn hệ thống về toàn cầu hoá kinh
tế và hội nhập quốc tế, người viết muốn khẳng định một điều rằng: trong thời
đại ngày nay, sức mạnh tổng hợp của từng quốc gia phụ thuộc vào con đường
hợp tác kinh tế quốc tế, vì vậy, các nước phải tham gia thị trường thế giới để
bổ sung và hỗ trợ cho nhau, nước nào hội nhập với thế giới một cách thích
hợp nhất là nước thu được nhiều lợi ích nhất.
7. Kết cấu của Luận văn:
Ngoài Mục lục, Bảng những chữ viết tắt, Lời nói đầu, Kết luận, Phần
phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận vãn kết cấu làm 3 chương:
Chưong 1: Cơ sở của toàn cầu hoá kỉnh tế.
Chương 2: Nhũng đặc trưng chủ yếu của toàn cầu hoá kinh tế.
Chưong 3: Việt Nam hội nhập kinh tê khu vực và thế giới.
5
Chương 1
C ơ SỞ CỦA TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ
1.1. Bản chất của toàn cầu hoá kinh tế
1.1.1. Xét về mặt quan niệm
Toàn cầu hóa kinh tế có phải là một quá trình tất yếu không? Để lý
giải điều này, một trong những vấn đề tưởng chừng như đã được giải quyết
lại trở thành vấn đề gây tranh luận nhiều nhất: đó là toàn cầu hóa là gì?
Chính từ quan niệm khác nhau về toàn cầu hóa mà có nhũng lý giải không
giống nhau về cơ sở của toàn cầu hóa, về tính chất tất yếu hay không của
toàn cầu hóa.
Hiện nay, ngay trong giới học thuật cũng còn dùng khá nhiều khái
niệm để cùng chỉ về quá trình toàn cầu hóa. Chẳng hạn, trong một số tài liệu,
có người dùng từ “thếgiới hóa”, rồi “quốc tế hóa” và rồi “hội nhập vào nền
kinh tế toàn cầu”, thậm chí có người còn đánh đồng “thế giới hóa”, “toàn cầu

hóa” với các vấn đề mang tính toàn cầu.
Loại quan điểm thứ nhất cho rằng, toàn cầu hóa là kết quả của sự phát
triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, dẫn đến phá vỡ sự biệt lập của các
quốc gia, tạo ra sự gắn kết, sự tương tuỳ giữa các quốc gia dân tộc troiìg sụ
vận động phát triển. Với quan niệm như vậy, thế giới hóa cũng có nghĩa là
toàn cầu hóa và quốc tế hóa đưọ'c xem như giai đoạn trước đó của xu thế toàn
cầu hóa. Quốc tế hóa, toàn cầu hóa là một quá trình, và vì vậy, nó khác với
các vấn đề toàn cầu. Tham gia vào quá trình quốc tế hóa, toàn cầu hóa chính
là thực hiện việc hội nhập quốc tế.
Toàn cầu hóa là một xu hướng bao gồm nhiều phương diện: kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội , là sự gia tăng các mối quan hệ trên các mặt của
đời sống xã hội loài người; trong đó, toàn cầu hóa kinh tế vừa là trung tâm.
vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy các lĩnh vực khác của xu thế toàn
cầu hóa nói chung.
6
Tuy nhiên, một điều cần thấy là, do thực tế vận động của toàn cầu hóa
kinh tế cùng với những hệ quả của nó, nén đã đưa lại những cách lý giải và
thái độ không giống nhau đối với xu thế này.
Loại quan điểm thứ hai cho rằng, toàn cầu hoá kinh tế chỉ mới xuất
hiện những năm gần đây, sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô cũ và Đông Âu
sụp đổ và Mỹ trở thành siêu cường số một trên thế giới. Từ đó, người ta
ngầm hiểu với nhau, toàn cầu ìioá kinh tế thực chất là chính sách của Mỹ
nhằm bành trướng quyền lực trên mọi phương diện để thống trị thế giới theo
kiểu Mỹ. Quan điểm này không chỉ tồn tại ở các nước đang phát triển mà còn
có ỏ' ngay trong lòng các nước công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Pháp
Chúng ta đều biết rằng, sau khi chiến tranh lạnh kết thúc vào cuối
những oăm 80, thế giới vận động theo trật tự đa cực với một siêu cường là
Mỹ. Với sức mạnh kinh tế, chính trị và quân sự của mình, Mỹ đang đóng vai
trò chủ yếu chi phối bàn cờ thế giới. Suốt nhũng thập niên sau chiến tranh thê
giới thứ hai, kinh tế Mỹ luôn chiếm tới 30% GDP thế giới. Trong hơn 108

tháng gần đây, kinh tế Mỹ liên tục đạt mức tăng trưởng trên 3%/năm với
tổng sản phẩm quốc nội năm 1999 đạt khoảng hơn 9.000 tỷ USD.
Sau khi siêu cường Xô Viết sụp đổ do khuyết tật trong mô hình cũng
như sai lầm trong đường lối, Mỹ thực sự trở thành siêu cường duy nhất. Mỹ
đã xúc tiến một chiến lược nhằm đề cao vai trò lãnh đạo của mình để thực
hiện mưu đồ “không để có bất kỳ nước nào có thể nổi lên thách thức nước
Mỹ”. Mỹ đang thực hiện cuồng vọng quy tụ toàn thế giới vào vòng ảnh
hưởng, chịu sự chỉ huy, điều khiển của mình. Với thực lực và ảnh hưởng to
lớn, Mỹ đang thao túng các đinh chế kinh tế toàn cầu như WTO, IMF, WB ,
đòi các quốc gia phải mở rộng cửa thị trường cho hàng hoá Mỹ, tham gia hội
nhập vào bàn cờ kinh tế quốc tế theo các luật chơi đã được đinh sẵn xuất phái
từ nhu cầu, lợi ích, quan niệm, chuẩn mực giá trị lối sống Mỹ. Vì vậy, khône
phải ngẫu nhiên mà người ta đồng nhất “toàn cầu hóa” với “Mỹ hóa”.
Thực ra quan điểm này mới chỉ chú ý tới khía cạnh chính trị của toàr
cầu hóa kinh tế. Đúng là Mỹ đang giữ vai trò bá chủ chi phối phần lớn các
7
hoạt động kinh tế quốc tế, song những nhân tô' nào dẫn đến và cho phép Mj
thực hiện vai trò này thì lại chưa có sự quan tâm phân tích thỏa đáng.
Nghiên cứu lịch sử phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa nó
chung và nền kinh tế Mỹ nói riêng, ta thấy bản thân các nền kinh tế này cũnị
đã trải qua các thời kỳ bảo hộ cao, chống lại sự xâm nhập từ bên ngoài
Thậm chí cho đến nay, các quốc gia tư bản phát triển luôn kêu gọi tự do hóc
nền kinh tế toàn cầu, song trên thực tế thì chưa có một quốc gia nào thực SỊ
tự do hóa.
Kêu gọi tự do hóa, thâm nhập vào thị trường các nền kinh tế quốc gií
dân tộc nhằm tìm kiếm lợi nhuận, rõ ràng có nguồn gốc từ bản chất của nềr
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự bành trướng của Mỹ, mà được gọi là Mỹ hóa
không những bị phản ứng từ các nước đang phát triển, mà còn bị phản đối tì
phía các nước tư bản phát triển, chính là xuất phát từ mục tiêu cạnh tranh lợ
ích, muốn phản kháng lại vai trò của Mỹ với tư cách là “trọng tài” trong các

cuộc chơi kinh tế, muốn giành giật ảnh hưởng với Mỹ
Loại quan điểm thứ ba cho rằng, xét về mặt thực chất, toàn cầu hóc
kinlì tế cố nguồn gốc từ quốc tế hóa. Từ các thế kỷ 16 - 17, khi sự phát triểr
của nền sản xuất thủ công đòi hỏi phải mở rộng căn bản các thị trường tiêi
thụ sản phẩm và đảm bảo cung cấp nguyên liệu một cách ổn định, thì quí
trình quốc tế hóa nền kinh tế thế giới cũng bắt đầu xuất hiện. Trong đó các
mối quan hệ thương mại trở thành nhân tố căn bản của quá trình tái sản xuất
đổng thời thông qua sự phân công lao động quốc tế, tác động mạnh mẽ tới SỊ
chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu của các nước, theo đà phổ biến củí
nền sản xuất công nghiệp, phạm vi của nền kinh tế thế giói cũng được me
rộng.
Đến thế kỷ 20, sự phát triển theo chiều ngang của quá trình quốc tí
hóa các hoạt động kinh tế trên cơ sở thương mại được bổ sung thêm bằní
việc xuất khẩu vốn sản xuất và vốn cho vay. Các tập đoàn và công ty xuyêi
quốc gia lớn cũng đã hình thành. Trong nội bộ và bên ngoài các công ty nà'
đã bắt đầu hình thành các quan hệ họp tác sản xuất quốc tế. Kể từ đây, qui
trình quốc tế hoá đã được thúc đẩy nhanh chóng.
8
Vào những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, quá trình quốc tế hóa sản
xuất ngày càng phát triển sâu rộng, đạt đến một quy mô mới, lớn hơn và ở
một trình độ cao hơn. Đó là toàn cầu hóa kinh tế. Nói cách khác, toàn cầu
hóa kinh tế chính là quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế đã đạt đến trình
độ đưa vào lưu thông kinh tế toàn cầu các khâu của quá trình tái sản xuất xã
hội, dựa trên sự phân công lao động toàn cầu, thông qua các loại hình quan
hệ kinh tế khác nhau giữa các nước và do đó khiến cho các nền kinh tế quốc
gia xâm nhập và gắn bó chặt chẽ với nhau, chuyển hóa thành nền kinh tế
toàn cẩu.
Nhu' vậy, toàn cầu hóa kinh tế chính là kết quả của sự phát triển cao độ
của quá trình quốc tế hóa sản xuất và phân công quốc tế. Đây là một tít yếu
khách quan không phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ nước nào, kể cả Mỹ. Tiến

trình toàn cầu hóa kinh tế xuất hiện và phát triển cùng với sự phát triển của
thị trường thế giói; từ đó có thể nói, toàn cầu hóa kinh tế chính là sự gia tăng
nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực,
tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động và phát
triển. Sự gia tăng của xu hướng này được thể hiện ở sự mở rộng mức độ và
quy mô mậu dịch thế giới, ở sự luân chuyển của các dòng vốn và lao động
trên phạm vi toàn cẩu.
Nói cách khác, thực chất của toàn cầu hóa kinh tế là tự do hóa kinh tế
và hội nhập quốc tế, mà trước hết là tự do hóa thương mại, tài chính, đầu tư,
dịch vụ , là bước nhảy vọt mới về chất của quá trình quốc tế hóa kinh tế, là
sự chuyển hóa nền kinh tế thế giới thành nền kinh tế toàn cầu, phù hợp với
trình độ mới của lịch sử phát triển lực lượng sản xuất và sự xã hội hóa của
loài người.
Thuộc lĩnh vực quan hệ kinh tế quốc tế, toàn cầu hóa kinh tế bị quy
định bởi các lợi ích cá nhân, giai cấp, giai tầng, dân tộc, quốc gia và quốc tế
của các bên tham gia; chịu sự tác động của quy luật đối sánh lực lưọng vốn
có trong quan hệ kinh tế quốc tế nói riêng và quan hệ quốc tế nói chung.
Theo cách nói của Mác và Ảnghen, toàn cầu hóa kinh tế đang đẩy nhanh quá
trình làm cho ranh giới giữa quan hệ sản xuất cấp một trong lòng mỗi quốc
9
gia và quan hệ sản xuất phái sinh, tức là quan hệ kinh tế quốc tế, ngày càng
trở nên mò' nhạt. •
1.1.2. Xét về mặt lịch sử
Toàn cầu hóa kinh tế là kết quả của quá trình quốc tế hóa diễn ra lâu
dài kể từ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do cho đến chủ nghĩa tư bản độc
quyền, đế quốc và cuộc khủng hoảng của nó. Mác và Ảnghen trong “Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản” (1848) đã vạch ra tính quy luật và dự báo triển
vọng của toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa từ những điều kiện chủ nghĩa tư bản
vừa mói trở thành một hình thái kinh tế - xã hội thống trị. Tiếp nối hai ông,
trong tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn cao nhất của chủ nshĩa tư

bản” Lênin đã làm rõ thêm triển vọng của toàn cầu hóa khi xem xét quá trình
chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyển,
thời đại thống trị của chủ nghĩa tư bản tài chính.
Theo ý của Lênin, chủ nghĩa tư bản đã hình thành thị trường toàn thế
giới từ lâu, song chỉ đến giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, nền kinh tế thế giới tư
bán chủ nghĩa mà nòng cốt là tư bản tài chính, mới bủa lưới lên đầu bao trùm
tất cả các nước, khi mà độc quyền thống trị, bên cạnh thương mại giữa các
nước, xuất khẩu tư bản nổi lên hàng đầu, các liên minh độc quyền và các đại
cường quốc phân chia thế giới. Đến đây, trong một chừng mực nhất định, có
thể nói, nền kinh tế toàn cầu tư bản chủ nghĩa đầu tiên đã được hình thành.
Nó tồn tại trong những thập niên đầu của giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, song
tính toàn cầu của nó còn chưa phát triển mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu, những quan hệ kinh tế giữa các quốc gia còn bị hạn chế, gắn liền với sự
tồn tại của hệ thống thuộc địa đóng kín của “mẫu quốc”.
Tuy nhiên, kể từ Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), sự hình thành và
phát triển của hệ thống XHCN do Liên Xô đứng đầu, cũng như chính sách
bao vây, cấm vận chống các nước XHCN do các nước đế quốc thực hiện đã
phá vỡ nền kinh tế toàn cầu tư bản chủ nghĩa nàv. Từ đó, xuất hiện hai hệ
thống kinh tế quốc tế gần như đóng kín và đối chọi với nhau mà một bên là
các nước tư bản chủ nghĩa, bên kia là các nước xã hội chủ nghĩa.
10
Mặc dù vậy, trong những thời kỳ hòa hoãn và cùng tồn tại hòa bình
được xác lập, đã manh nha một nền kinh tế toàn thế giới bao trùm cả hai hệ
thống dựa trên những quan hệ kinh tế qua lại, trao đổi, phân công, hợp tác,
cạnh tranh chứ không cô lập nhau. Trong khi đó, trong phạm vi thế giới tư
bản chủ nghĩa, quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế vẫn không ngừng phát
triển, và kể từ những năm 1980 trở lại đây, quốc tế hóa kinh tế đã đạt tới đỉnh
cao dưới tác động của những thành quả của cách mạng khoa học và công
nghệ lần thứ ba, đã khiến cho toàn cầu hóa kinh tế trở thành một đòi hỏi hiện
thực mà các nhân tố tác động, thúc đẩy nó sẽ được tiếp tục phân tích kỹ dưới

đây.
Tóm lai, toàn cầu hóa kinh tế bắt nguồn từ những cơ sỏ' hiện thực
khách quan trong đời sống nhân loại mà thực chất của nó là những minh
chứng tất yếu cho một quá trình không thể đảo ngược.
1.2. Cơ sỏ khách quan và những nhán tô thúc đẩy sự gia tăng toàn cầu
hóa kinh tế
1.2.1. Sự phát triển mạnh m ẽ của lực lượng sản xuất dưóỉ tác động của
cách mạng khoa học và công nghệ
Lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên của con
người, nó biểu hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tạo ra
của cải vật chất.
Trong xã hội phong kiến, do lực lượng sản xuất và giao thông kém
phát triển cho nên sản xuất và trao đổi chỉ được thực hiện trong phạm vi và
quy mô nhỏ.Tính tự cung, tự cấp của sản xuất là đặc trung chủ yếu của
phương thức sản xuất phong kiến. Tuy vậy, trong thòi đại phong kiến cũng
đã có thông thương vượt biên giới quốc gia nhưng chưa tạo ra những quan hệ
phụ thuộc trong phát triển, chưa có thị trường thế giới theo nghĩa hiện đại.
Khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, Mác và Ảnghen đã cho rằng, do sự
phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn đến sự phân công lao động sản xuất
ngày càng mở rộng, làm cho quá trình sản xuất và tiêu thụ mang tính quốc
tế, gắn bó và phụ thuộc vào nhau. Theo Mác và Ảnghen, đại công nghiệp đã
11
tạo ra thị trường thế giới thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa
phương, các dân tộc.
Như vậy^ quốc tế hóa có cơ sở từ chính SƯ phát triển của sản xuất, nó
ra đời và gắn liền vói sự hình thành của thị trường quốc tế. Trong những thế
kỷ trước, chính do lực lượng sản xuất phát triển đã làm cho thương mại và
đầu tư có tính quốc tế, kéo theo đó là quá trình di dân, lao động và giao dịch
tài chính phát triển vượt biên giới quốc gia. Các quốc gia thực dân Châu Âu
như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Pháp, Anh đã tiến hành khám phá,

khai thác và bóc lột thuộc dịa, đóng vai trò chủ yếu trong việc phát triển lực
lượng sản xuất.
Cho đến giữa thế kỷ 18. cuốc cách mang khoa hoc kỹ thuât lần thứ
nhất bùng nổ mà đặc trưng cơ bản của nó là dùng máy móc cơ khí thay thế
cho công cụ thủ công, trong đó sự phát minh và ứng dụng rộng rãi máy hơi
nước đã có tác dụng then chốt giúp chủ nghĩa tư bản tiến vào giai đoạn dùng
máy móc để tiến hành sản xuất lớn. Đây là bước đột phá quan trọng đầu tiên
trong sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Đại công nghiệp máy móc đã dẫn đến sự biến đổi to lớn trong cơ cấu
ngành nghề sản xuất, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất
cũng như nền chính trị - xã hội, dẫn đến sự xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa
trên phạm vi thế giói, mở đầu thời đại chủ nghĩa tư bản thống trị thế giới.
Tuy vậy, trong thời kỳ đầu của quá trình quốc tế hóa, các hoạt độnơ
kinh tế giữa các quốc gia mang nặng tính chất phụ thuộc một chiều. Các
quốc gia thuộc địa kém phát triển thực hiện việc cung cấp nguyên vật liệu
cho các quốc gia phát triển cao hơn và thường là các nước thuộc địa phụ
thuộc vào chính quốc. Mỗi quốc gia phát triển cao hơn đều tìm cách tạo lập
cho mình một khu vực thuộc địa và thực hiện bảo hộ trong khu vực đó. Do
vậy, trên thực tế sản xuất và trao đổi chưa có tính toàn cầu, thế giới bị chia
cắt thành nhiều khu vực thuộc địa và phụ thuộc khác nhau chịu ảnh hưởng
của từng quốc gia phát triển cao hơn, chủ yếu là Hà Lan, Pháp, Anh Quan
hệ giữa các khu vực này luôn bị kiểm soát và hạn chế nhằm bảo vệ vùng ảnh
hưởng và quyền lợi của các cường quốc thực dân.
12
Đến giữa thê' kỷ 19, cuốc cách mang khoa hoc kỹ thuât lán thứ hai
bùng nổ, tao tiền đề mới cho sự phát triển của lực lượng sản xuất và liên kết
quốc tế. Sự ứng dụng rộng rãi điện lực và sự phát minh ra động cơ đốt trong
giúp cho loài người bước vào thời đại điện khí hóa. Cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật lần này đã đẩy quá trình xã hội hóa sản xuất của các nước tư
bản chủ nghĩa lên một trình độ cao hơn, quan hệ kinh tế quốc tế được mở

rộng nhanh chóng, từ đó thúc đẩy chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự'do cạnh
tranh quá độ sang giai đoạn độc quyền, đẩy nhanh quá trình hình thành hệ
thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa thống nhất. Xã hội hóa tư bản phát
triển lên một giai đoạn mới - giai đoạn độc quyển, mở đầu thời đại đế quốc
chủ nghĩa.
Trong giai đoạn này, do sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất,
cùng với ý thức độc lập tự chủ của từng quốc gia dân tộc - thuộc địa, đã đưa
lại sự phát triển mói của phân công lao động quốc tế. Các quốc gia vốn trước
đây là thuộc địa và phụ thuộc, sau khi giành được độc lập đã chủ động tham
gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, tạo ra điều kiện mới cho sự
phát triển hơn nữa của quá trình quốc tế hóa.
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, gắn liền với sự phát triển mạnh
mẽ của phong trào giải phóng dân tộc là hiện tượng khoa học, kỹ thuật, công
nghệ phát triển như vũ bão, dẫn tới khoa học, công nghệ ngày càng trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp. Các phát kiến về khoa học nhanh chóng được áp
dụng vào sản xuất đã thúc đẩy phân công lao động phát triển lên một bước
mới. Quan hệ giữa các quốc gia dân tộc, giữa các nước phát triển và kém
phát triển từ đặc trưng phụ thuộc một chiều chuvển dần sang quan hệ tương
hỗ phụ thuộc lẫn nhau.
Do sự tác động của các thành tựu khoa học, cồng nghệ và sự xóa bỏ
của hệ thống thuộc địa và phụ thuộc, sản xuất có sự phát triển mạnh mẽ dựa
trên sự phân công lao động quốc tế mới đã làm gia tăng đáng kể các hoạt
động kinh tế quốc tế, thúc đẩy gia tăng xu hướng quốc tế hóa các hoạt động
kinh tế.
13
Chúng ta đều biết, trước khi bước vào thế kỷ 20, mặc dù khoa học, trí
tuệ của loài người đã có sự phát triển đáng kể, nhưng về cơ'bản, con người
vẫn chỉ nhận thức và vận dụng những quy luật của giới tự nhiên mà mình
quan sát được áp dụng vào hoạt động lao động sản xuất.
Bước sang thế kỷ 20, đặc biệt là từ sau đại chiến thế giới lần thứ hai,

con người không chỉ dừng lại ở những hoạt động khám phá tự nhiên trong
tầm quan sát, mà đã có các khám phá mới trong thế giới vi mô và vĩ mô bằng
các thiết bị nghiên cứu và thực nghiệm khoa học tinh vi hiện đại. Đáng chú ý
nhất trong số các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại là kỹ thuật điện
tử, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, công
nghệ hàng không vũ trụ Đây chính là cuốc cách mang khoa hoc, công nghê
lán thứ ba mà đặc trưng cơ bản của nó là sự phát triển và ứng dụng rộng rãi
các kỹ thuật nguyên tử, điện tử - tin học, sinh học vào sản xuất, dẫn tới
khoa học công nghệ trở thành lượng sản xuất trực tiếp, mở đầu thời đại tự
động hoá toàn bộ.
Kỹ thuât điên tử: Đây là ngành cơ sở của kỹ thuật thông tin, có tính
quyết định của cách mạng khoa học và công nghệ, là ngành phát triển nhanh
nhất, có ứng dụng rộng rãi nhất trong số các ngành khoa học - công nghệ
mũi nhọn hiện nay. Thành tựu nổi bật nhất của kỹ thuật điện tử biểu hiện ở
việc phát minh và ứng dụng rộng rãi máy vi tính điện tử. Máy vi tính điện tử
là một trong số các phát minh khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ 20, giúp con
người từ những việc đơn giản như xử lý văn bản, vẽ tranh, làm báo đến
những việc phức tạp như thiết kế máy bay, tàu thuỷ, thậm chí cả việc thử
nghiệm các vụ nổ nguyên tử bằng siêu máy tính.
Hiện nay ở một số nước, người ta đã bắt đầu nghiên cứu chế tạo máy
tính sinh học. Máy tính sinh học là sử dụng các phân tử protein trong sản
xuất kỹ thuật tin học để chế tạo ra phiến vi điện tử sinh vật. Mạch vi điện tử
sinh vật có ưu điểm là ít nóng, ít hao mòn, không bị nhiễu tín hiệu lại có
tính năng vừa tự xử lý, vừa tự phục hồi và có tốc độ tính toán cực nhanh.
Ngoài máy tính sinh học ra, các loại máy tính mô phỏng bộ óc người,
máy tính quang học cũng đang trong quá trình nghiên cứu chế tạo. Tuy mới
14
trải qua chìmg nửa thế kỷ phát triển nhưng triển vọng của máy vi tính điện tử
là vô cùng to lớn, 'bởi lẽ khả năng trợ giúp con người của máy vi tính là vô
hạn.

Công nghê thông tin: Nếu kỹ thuật điện tử là cơ sở của kỹ thuật
thông tin thì kỹ thuật thông tin là bộ phận mấu chốt của công nghệ tin học
ngày nay. Thông tin là hệ thống thần kinh của xã hội hiện đại. Có thể nói,
cuộc sống và sản xuất của xã hội hiện đại không thể phát triển nếu thiếu sự
phát triển của công nghệ thông tin.
Do sự phát triển và kết họp của công nghệ vi điện tử và các ngành
khoa học công nghệ mới như công nghệ vi sóng, công nghệ sợi quang, công
nghệ vệ tinh giúp cho các biện pháp thông tin hiện đại ngày một gia tăng.
Ngày nay các biện pháp thông tin hiện đại như thông tin vi sóng, thông tin
sợi quang, thông tin vệ tinh, thông tin di động kỹ thuật số đã làm cho việc
chuyển thông tin không những có dung lượng lớn, chất lượng tốt, diện phủ
rộng, nhanh chóng linh hoạt, an toàn đáng tin cậy với nhiều hình thức và
chức năng mói như máy Fax, máy điện thoại truyền hình, truyền hình hội
nghị, điện thoại phiên dịch , mà còn được đổi mới liên tục từng ngày từng
giờ.
Hiện nay thông tin sợi quang đang ngày càng trở thành trụ cột chủ yếu
của thông tin hiện đại hoá, với chỉ một sợi cáp quang là có thể làm cho mấy
trăm ngàn điện thoại hoặc mấy chục kênh vô tuyến truyền hình đồng thời
được chuyển đến những nơi cách xa hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn cây
số.
Sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin đang ngày càng phục
vụ tốt hơn cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Hiện tại, với việc xuất hiện hệ
thống thông tin cao tốc, mạng Internet con người có thể biết được mọi việc
đang xẩy ra ở mọi ngóc ngách trên thế giới, có thể làm việc tại nhà trong căn
hộ điện tử của mình mà không phải đến cơ quan, văn phòng
Công nghè vât liêu mỏi: Công nghệ vật liệu mới là công nghệ thông
qua các phương pháp khoa học để chế tạo ra các vật liệu mới thay thế cho
các vật liệu thiên nhiên. Sự xuất hiện của các loại vật liệu mới không những
15
làm giảm bớt sự phụ thuộc của con người vào thiên nhiên, mà còn làm cho

việc nghiên cứu chế tạo và phát triển các loại sản phẩm có trình độ khoa học
công nghệ cao đã trở thành hiện thực. Chẳng hạn, vật liệu siêu dẫn là loại vật
liệu mới không thể thiếu trong việc chế tạo máy gia tốc hiệu năng cao và các
thiết bị phản ứng nhiệt hạch có điều khiển; gốm tinh chất là loại vật liệu mới
đang tiến gần tới giai đoạn sử dụng rộng rãi vì có độ bền lớn, khó phân huỷ,
cường độ cao,' tỷ trọng nhỏ, là thứ vật liệu mới rất cần cho nhu cầu phát triển
nguyên liệu năng lượng mới. Hiện nay, nhu cầu vật liệu mới của Mỹ tăng từ
243 tỷ USD năm 1970 lên tới 379 tỷ USD năm 2000; Nhật Bản từ 2,2 tỷ USD
năm 1981 lên tới 24 tỷ USD năm 2000.
Công nghê sinh hoc: Công nghệ sinh học xuất hiện từ những năm 50
của thế kỷ 20 và ngày nay đã có những tiến bộ vượt bậc. Nó là sản phẩm kết
hợp của khoa học về sự sống và khoa học kỹ thuật hiện đại, cho phép con
người làm chủ và điểu khiển được một số quá trình sinh học đối với các vật
thể sống, đồng thời tạo ra các chế phẩm mới, các giống vật nuôi có đặc tính
tốt phục vụ cho lợi ích của con người.
Công nghệ sinh học đang được nghiên cứu và phát triển hiện nay chủ
yếu là công nghệ gien, dung họp tế bào, môi tế bào, phản ứng sinh vật, công
nghệ gây men, công nghệ sinh sản vô tính
Công nghệ sinh học đã hình thành một nghề mới ở các nước tư bản
phát triển với các công ty chuyên kinh doanh công nghệ sinh học đã lên tới
hàng ngàn cơ sở. Theo một số tính toán, năm 2000 giá trị sản lượng do các
nước trên thế giới sử dụng công nghệ sinh học sản xuất ra đạt tới gần 100 tỷ
USD.
Công nghé hàng không vũ tru: Công nghệ hàng không vũ trụ bao
gồm việc nghiên cứu và chế tạo các máy bay hiện đại và các thiết bị máy
móc cho việc bay vào vũ tại như vệ tinh nhân tạo, tàu vũ trụ chở người, các
trạm không gian, tên lửa vũ trụ, việc phóng vệ tinh liên lạc viễn thông,
thương mại, dự báo thời tiết
Về mặt thông tin, truyền dẫn, việc sử dụng kỹ thuật không gian là vô
cùng quan trọng. Mặt khác, do khoảng khôns vũ trụ có những điều kiện hết

16
sức đặc biệt như độ chân không gần như tuyệt đối, trọng lực cực nhỏ, vô
trùng , nên có thể chế tạo tại đó những sản phẩm mà trên mặt đất không thể
chế tạo nổi như dược phẩm có độ sạch cao, vật liệu siêu dẫn, tinh thể thuần
khiết, thép xốp có thể nổi trên mặt nước Người ta tính toán rằng, trong
những năm tới, có thể tiếp nhận một khối lượng lớn năng lượng mặt trời ỏ'
các trạm không gian rồi chuyển nó thành điện năng vô tuyến, thu về trái đất,
rồi lại chuyển nó thành sức điện; và như vậy, có thể có được một nguồn năng
lượng vô tận, tinh khiết và hoàn toàn không gây ô nhiễm.
Hiện nay, các cường quốc hàng đầu trong lĩnh vực hàng không vũ trụ
như Mỹ, Nga, Tây Âu, Nhật Bản đang cùng nhau xây dựng trạm vũ trụ
quốc tế Anpha trị giá 60 tỷ USD để phục vụ cho nhiều mục đích của con
người trên trái đất.
Như vậy, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ lần thứ ba mà đại diện
là những lĩnh vực mũi nhọn trên đây đã đưa lại những biến đổi to lớn và sâu
sắc về co' cấu kinh tế - xã hội của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia công
nghiệp phát triển. Căn cứ vào thực tế này, nhiều người cho rằng, hiện nay các
nước tư bản phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Nhật, Đức đã chuyển từ xã hội
công nghiệp sang xã hội thông tin, xã hội hậu công nghiệp hay “nền kinh tế
tri thức”.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ lần này đã làm cho khoa học và
công nghệ trở thành nhân tố trực tiếp quyết định sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Điều này được biểu hiện chủ yếu trên các mặt sau đây:
- Các ngành công nghiệp mới dựa trên cơ sở khoa học - kỹ thuật - công
nghệ hiện đại ra đời và phát triển rất nhanh, trở thành những ngành sản xuất
tiên phong, chủ đạo của sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Nhờ khoa học, công nghệ hiện đại, các ngành công nghiệp truyền
thống mà phần lớn là những ngành công nghiệp cơ sở vốn không thể thiếu
đối với tái sản xuất xã hội, đã được cải tạo không ngừng, khiến năng suất lao
động được tăng lên liên tục.

ĐAI HOC QUỐC GIA hí. MÕ'
TRUN5TÂM THÔNGTIN -Tíf j
17
- Cơ cấu ngành nghề sản xuất thay đổi, chuyển dịch nâng cấp lên mội
trình độ mới phù họp với nền sản xuất hiện đại có nội dung kỹ thuật cao
hàm lượng trí tuệ lớn.
- Phán công lao động phát triển cả về chiều rộng lăn chiều sâu. Chuyên
môn hóa chi tiết trong từng ngành sản xuất, phân công chuyên môn hóa chi
tiết giữa các ngành, phán công liên kết chuyên môn hóa giữa các nước.
Trong nhiều ngành sản xuất đã xuất hiện các dây chuyền sản xuất quốc tế.
- Tái sản xuất mở rộng ngày càng phát triển theo chiều sâu lấy đầu tu
cho khoa học, công nghệ làm động lực chính để nâng cao chất lượng lac
động, tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh tế và chất lượng sản phẩm.
Điều này đã dẫn đến một thực tế là: tốc độ tăng trưởng cao của các nước
ngày nay không phải do tăng lao động và đầu tư đầu vào quyết định, mà là
do năng suất lao động tăng với nhịp độ cao quyết định.
Việc chuyển sang mô hình phát triển theo chiều sâu trước hết phản ánh
sự thích ứng của con người trước những bước tiến không ngừng của cách
mạng khoa học, công nghệ; đồng thời sự phát triển theo chiều sâu, đến lượt
nó, lại trực tiếp thúc đẩy tiến bộ khoa học, công nghệ nói riêng, và lực lượna
sản xuất nói chung, phát triển mạnh mẽ.
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước công nghiệp
phát triển (G7) đang không ngừng đầu tư nhằm nâng cao trình độ khoa học
và công nghệ; bởi lẽ việc chiếm lĩnh đỉnh cao của khoa học, công nghệ
không những hỗ trợ đắc lực cho tăng trưởng kinh tế, mà còn giúp họ làm
tăng nhanh các phương tiện sản xuất hiện đại, những tri thức và hiểu biết CC
giá trị, năng lực và mức độ thành thạo kỹ thuật, phương pháp tổ chức và quản
lỷ sản xuất xã hội có hiệu quả.
Tóm lai, dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, lực
lượng sản xuất đã liên tục phát triển và đạt đến quy mô và trình độ như hiện

nay, đang trực tiếp tác động đến mọi ngành kinh tế quốc dân, và lực lượng
sản xuất hiện vẫn đang tiếp tục phát triển không ngừng, có ảnh hưởng càns
về sau càng to lớn hơn đối với các nền kinh tế - xã hội của thế giới. Đâ)
chính là một trong số các tiền đề làm cho quá trình quốc tế hóa sản xuấl
18
ngày càng gia tăng mạnh mẽ, góp phần thúc đẩy xu hướng toàn cầu hóa kinh
tế phát triển. •
1.2.2. Sự phát triển mạnh mẽ của kỉnh tế thị trường
Kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ là một trong những điều kiện cơ
bản dẫn tới xu hướng toàn cầu hóa kinh tế. Kinh tế thị trường là mô hình
kinh tế phát triển đã hàng trăm năm nay với bản chất cốt lõi là mọi chủ thể
tham gia trên thị trường đều được tự do cạnh tranh và phát triển trong khuôn
khổ của luật pháp nhà nước.
Trong kinh tế thị trường, cơ chế thị trường đóng vai trò quan trọng
trong mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia thị trường. Đó là cơ chế vận
động của nền sản xuất hàng hóa trong lịch sử. Giống như cơ chế tự nhiên, cơ
chế thị trường đã tạo ra trong nền sản xuất xã hội những hình thức sản xuất,
lưu thông hàng hóa ngày một hoàn thiện bằng cách đào thải, loại bỏ những
hình thức lỗi thời, yếu kém, gạn lọc và giữ lại những hình thức phù họp với
sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Nhờ đó,
nền sản xuất xã hội ngày càng được tổ chức hợp lý và hiệu quả lao động
ngày càng được nâng cao hơn.
Cơ chế thị trường là sự thể hiện của quy luật giá trị ra bề mặt của nền
sản xuất xã hội. Quy luật giá trị được xem như là trung tâm điều chỉnh kinh
tế vô hình nhưng đầy quyền lực và hiện thực. Tính hiện thực của nó mà bất
kỳ một chủ thể thị trường nào cũng cảm thấy được là ở những tín hiệu và
mệnh lệnh mà nó phát ra trên thị trường, trong đó giá cả thị trường được xem
như là công cụ điều chỉnh kinh tế chủ yếu của cơ chế thị trường.
Có thể nói rằng, thế giới chưa có quốc gia nào phát triển mà lại không
dựa trên nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường ngày nay phát triển đa

dạng, nhiều kiểu, nhiều mức độ. Kinh tế thị trường tự do kiểu Mỹ coi trọng
kinh tế tư nhân, trong đó các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia đóng vai trò
thống trị; đây cũng là nền kinh tế thị trường cổ vũ lớn nhất cho tự do hóa
thương mại, đầu tư và bản quyền của các sản phẩm trí tuệ. Trong nền kinh tế
Mỹ, Nhà nước chỉ can thiệp bằng luật pháp. Kinh tế thị trường kiểu Bắc Âu
chú trọng nhiều tới sự bình đẳng kinh tế và các phúc lợi xã hội. Kinh tế thị
19
trường kiểu Nhật Bản, Hàn Quốc rất coi trọng các kế hoạch kinh tế và sự can
thiệp của Nhà nước khi cần thiết Kinh tế thị trường kiểu Trung Quốc và
Việt Nam lấy các doanh nghiệp Nhà nước làm thành phần chủ đạo của nền
kinh tế quốc dân phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Có thể nói, sự phát triển kinh tế thị trường đa dạng, nhiều màu, nhiều
vẻ là cơ sở thúc đẩy, mở lộng xu hướng toàn cầu hóa. Với nền kinh tế thị
trường, việc tham gia, hội nhập quốc tế là điều đương nhiên đối với mọi quốc
gia. Cơ chế thị trường trên phạm vi quốc tế mở ra khả năng to lớn cho việc
phát triển thương mại và đầu tư quốc tế, đồng thời góp phần đẩy mạnh quá
trình toàn cầu hóa các thị trường tài chính.
Cho tới đầu những năm 80 của thế kỷ 20, vãn còn khoảng 80% dân số
thế giới sống trong những nước có sự cách biệt ồ các mức độ khác nhau với
thị trường thế giới. Sự kiện Trang Quốc mở cửa kinh tế vào tháng 12 năm
1978, sau đó là Ân Độ và nhiều nước ở Mỹ La tinh, rồi đến Liên Xô cũ và
các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Việt Nam cũng đã mở cửa, xây
dựng và phát triển kinh tế thị tnrờng với những đặc trưng khác nhau càng
chứng tỏ rằng, kinh tế thị trường có sức hút kỳ lạ và là mô hình phát triển
kinh tế phù họp nhất, ít nhất là ở thời đại hiện nay, đối với tất cả mọi quốc
gia dân tộc. Đó là giai đoạn phát triển không thể bỏ qua trước khi tiến tới
một giai đoạn phát triển cao hơn với các cung bậc khác nhau.
Có thể nói rằng, ngày nay nền kinh tế thế giới thống nhất ở cơ chế vận
hành: cơ chế thị trường. Đây chính là cơ sở cho sự gia tăng của xu thế toàn
cầu hóa kinh tế.

Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường đã kéo theo xu hướng tự
do hóa trong phát triển kinh tế, làm cho các nền kinh tế ngày càng gắn bó
chặt chẽ, xâm nhập và giao thoa với nhau. Có thể khẳng định rằng, ngày nay
không có một nền kinh tế thị trường dân tộc thuần khiết. Kinh tế thị trường
càng phát triển thì sự giao thoa, xâm nhập lẫn nhau giữa các nền kinh tế càng
gia tăng. Chẳng hạn, cho đến năm 1988, Nhật Bản đã chiếm tới 35,5% tổng
vốn đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế Mỹ, còn Châu Âu chiếm 19,3%- Ngay
như Nhật Bản, một quốc gia công nghiệp phát triển vốn vẫn thường hạn chế
20
đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế mình, thì đến năm 1999, tỷ lệ vốn đầu tư
nước ngoài cững đã chiếm tới 24% tổng vốn đầu tư vào các doanh nghiệp
Nhật Bản, so với 10% trong những thập niên trước đây.
Các nền kinh tế hiện nay đang nằm trong thời kỳ chuyển đổi như Liên
Xô cũ, Đông Âu, Trang quốc, Việt Nam đều rất coi trọng vai trò của kinh
tế thị trường và đầu tư nước ngoài, và xem mở cửa và hội nhập kinh tế như là
một trong những cứu cánh để thoát khỏi sự yếu kém về kinh tế.
Như vậy, có thể kết luận rằng, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị
trường là điều kiện tất yếu dẫn dắt các quốc gia dân tộc tiến tới sự hợp tác về
kinh tế trên quy mô toàn cầu.
1.2.3. Sự phát triển mạnh m ẽ của các công ty xuyẻìi quốc gia
Công ty xuyên quốc gia (TNC) là những tập đoàn kinh tế khổng lồ
quản lý các tài sản như nhà máy, hầm mỏ, cửa hàng, siêu thị và các thứ tương
tự ở hai hay nhiều nước; có thực lực kinh tế to lớn và có nguồn vốn nhiều khi
lớn hơn cả tổng GDP của một quốc gia nhỏ hoặc trung bình. Mô hình kinh tế
thị trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty xuyên quốc gia phất
triển mạnh mẽ. (Xem Bảng 1 dưới đây).
21

×