Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội ở Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 121 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



TRƯƠNG THỊ NGA



TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
GẮN VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở HẢI PHÒNG







LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ








HÀ NỘI - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





TRƯƠNG THỊ NGA




TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
GẮN VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở HẢI PHÒNG


Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. VŨ HỒNG TIẾN




HÀ NỘI - 2011
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG
BẰNG XÃ HỘI 6
1.1. Một số vấn đề lý luận về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội 6

1.1.1. Tăng trưởng kinh tế 6
1.1.2. Công bằng xã hội 15
1.1.3. Một số quan điểm về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội 20
1.2. Kinh nghiệm giải quyết quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội của một số nước trên thế giới và một số địa phương ở
nước ta 26
1.2.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới 26
1.2.2. Kinh nghiệm của một số địa phương ở nước ta 30
1.2.3. Những bài học kinh nghiệm đối với Hải Phòng 34
Chương 2. THỰC HIỆN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ GẮN VỚI CÔNG BẰNG
XÃ HỘI Ở HẢI PHÒNG GIAI ĐOẠN 2001 - 2011 36
2.1. Những nhân tố tác động đến phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Phòng 36
2.1.1. Điều kiện tự nhiên 36
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 38
2.2. Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội ở Hải Phòng
giai đoạn 2001 - 2011 45
2.2.1. Tình hình tăng trưởng kinh tế 45
2.2.2. Kết quả sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
ở Hải Phòng giai đoạn 2001 - 2011 60
2.2.3. Đánh giá việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với công bằng xã hội ở Hải Phòng giai đoạn 2001 - 2011 77
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở HẢI PHÒNG 84
3.1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Phòng đến năm 2020 84
3.1.1. Quan điểm 84
3.1.2. Mục tiêu 85
3.2. Những định hướng giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội ở Hải Phòng đến năm 2015 86
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng

xã hội ở Hải Phòng đến năm 2015 88
3.3.1. Nhóm giải pháp góp phần nâng cao tốc độ và chất lượng tăng
trưởng kinh tế ở Hải Phòng đến năm 2015 88
3.3.2. Nhóm giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả kết hợp tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở Hải Phòng đến năm 2015 98
KẾT LUẬN 118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 121

QUY ƯỚC VIẾT TẮT

ASXH: An sinh xã hội
BHYT: Bảo hiểm y tế
BHXH: Bảo hiểm xã hội
CBXH: Công bằng xã hội
CNH, HĐH: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
CSCN: Cộng sản chủ nghĩa
DNTN: Doanh nghiệp tư nhân
HĐND: Hội đồng nhân dân
KCN: Khu công nghiệp
KTTN: Kinh tế tư nhân
LĐ-TB&XH: Lao động Thương binh và Xã hội
LLSX: Lực lượng sản xuất
QHSX: Quan hệ sản xuất
TTKT: Tăng trưởng kinh tế
UBND: Uỷ ban nhân dân
XĐGN: Xoá đói giảm nghèo
XKLĐ: Xuất khẩu lao động





1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là khát vọng của tất cả các
quốc gia. Tuy nhiên việc đạt được mong muốn kép này là hết sức khó khăn,
trong thực tế đã có nhiều bằng chứng cho thấy sự đối lập giữa tăng trưởng
kinh tế với công bằng xã hội. Những chính sách dựa trên mục tiêu công bằng
có thể triệt tiêu động lực tăng trưởng kinh tế, ngược lại những chính sách chỉ
nhằm tăng trưởng kinh tế có thể làm gia tăng tình trạng bất bình đẳng. Trên
thế giới đã có nhiều quan điểm và cách giải quyết khác nhau về sự kết hợp
này. Còn đối với Việt Nam, nhất là trong điều kiện xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều
thách thức và khó khăn, đòi hỏi một quá trình không ngừng trải nghiệm, tổng
kết và điều chỉnh.
Cùng với công cuộc đổi mới của đất nước, các địa phương nói chung
và Hải Phòng nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng kể về kinh tế, tốc
độ tăng trưởng kinh tế của Hải Phòng vẫn tiếp tục được duy trì ở mức cao
(năm 2009 là 13,02%). Hải Phòng là một Thành phố cảng, trung tâm công
nghiệp, thương mại và dịch vụ phát triển, đầu mối giao thông quan trọng giao
lưu trong nước và quốc tế, là đô thị loại một cấp quốc gia. Với vị trí, tiềm
năng như vậy, Hải Phòng cùng với Hà Nội và Quảng Ninh, được xác định là
một trong ba cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế đã nảy sinh một loạt các
vấn đề cần được giải quyết, trong đó có mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với công bằng xã hội, đó là khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư,
giữa nông thôn và thành thị ngày càng dãn cách, giá cả tư liệu sinh hoạt ngày
càng tăng khiến cho cuộc sống của người dân nhất là nhóm có thu nhập thấp

gặp nhiều khó khăn, các dịch vụ công cho người nghèo ngày càng bị thu hẹp
và kém chất lượng, cùng với đó là sự gia tăng của các tệ nạn xã hội và vấn đề
giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, chính sách cho người nghèo
chưa được thoả đáng. Vì vậy, công bằng xã hội trong quá trình tăng trưởng

2
kinh tế đã và đang là vấn đề không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý
nghĩa quan trọng với thực tiễn trên địa bàn Thành phố.
Do đó: “Tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội ở Hải Phòng”
được chọn làm đề tài nghiên cứu cho luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội của mỗi quốc gia,
của mỗi địa phương đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà kinh tế, với
nhiều cuốn sách, bài báo, khóa luận, luận văn và các công trình khoa học ở
cấp quốc gia và quốc tế, trong và ngoài nước.
Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả:
Luận án tiến sĩ Nguyễn Tấn Hùng: “Phương pháp phân tích mâu thuẫn
và sự vận dụng nó nghiên cứu mâu thuẫn trong quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế với công bằng xã hội ở nước ta”.
Luận án tiến sĩ Nguyễn Duy Thục: “Mô hình tăng trưởng kinh tế địa
phương và áp dụng cho tỉnh Bình Định”.
“Về sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong
phân phối thu nhập” của TS. Trần Anh Phương.
“Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, bền vững tạo tiền đề vững chắc cho
quá trình xóa đói giảm nghèo” của TS. Bùi Hà (Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Kinh
tế quốc dân, Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Đề tài: “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta” do TS. Hoàng Thị
Thành chủ nhiệm.
Đề tài KX.07.05 “Thực trạng và xu thế phát triển cơ cấu xã hội nước ta

trong giai đoạn hiện nay” do GS. Đỗ Nguyên Phương chủ nhiệm.
Đề tài KX.07.03 “Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” do
GS. Lê Hữu Tầng chủ nhiệm.
“Tăng trưởng và chính sách xã hội ở Việt Nam trong quá trình chuyển
đổi từ 1991 đến nay - kinh nghiệm của các nước Asean” của tác giả Lê Đăng
Doanh và Nguyễn Minh Trí (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương,
Nxb Hà Nội, 2001).
“Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” của tác giả

3
Vũ Đình Bách (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998).
“Việt Nam: Tầm quan trọng của tăng trưởng kinh tế bền vững” của tác
giả Yuji Miura (CIEM - Trung tâm thông tin - Tư liệu)
“Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và vì người nghèo
nhằm đạt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Thắng và Phạm Lan Hương (chuyên gia tư vấn của UNDP).
Ngoài các công trình nghiên cứu đã dẫn ở trên còn phải kể đến những
bài viết trên các tạp chí như: “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Trần Quế (Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới,
số 6/1997); “Giải quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện tốt việc kết hợp giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta” của tác giả Nguyễn Tấn Hùng
(Tạp chí Triết học, số 5/1999); “Nhận dạng mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường
ở Việt Nam” của tác giả Hoàng Xuân Long (Tạp chí Thông tin khoa học và
xã hội, số 4/1999); “Công bằng xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” của tác giả Bùi Đình Thanh (Tạp chí Cộng sản, số 18/1996); “Kinh tế thị
trường và công bằng xã hội” của tác giả Nguyễn Khắc Hiền (Tạp chí Cộng
sản, số 2/1994); “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội”
của tác giả Dương Bá Phượng và Nguyễn Đình Long (Tạp chí Cộng sản, số
11/1996)

Trong các công trình nghiên cứu ở trên, các tác giả thường đề cập tới
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trên phạm vi quốc
gia và đưa ra các giải pháp để giải quyết hài hòa mối quan hệ đó. Tuy nhiên, ở
mỗi địa phương do có những đặc điểm riêng về kinh tế - xã hội nên sẽ nảy
sinh những vướng mắc cụ thể trong quá trình thực hiện tăng trưởng kinh tế
gắn với công bằng xã hội. Đến nay, chưa có đề tài, luận án tiến sĩ, luận văn
thạc sỹ nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Hải Phòng
dưới góc độ kinh tế chính trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích:
Làm sáng tỏ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
và phân tích thực trạng tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Hải Phòng,

4
đề xuất giải pháp nhằm kết hợp có hiệu quả tăng trưởng kinh tế với công bằng
xã hội ở Hải Phòng hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
- Phân tích quá trình thực hiện tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
ở Hải Phòng giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2011.
- Đề xuất giải pháp nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Hải Phòng đến năm 2015.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung phân tích sự kết hợp tăng trưởng kinh tế với công
bằng xã hội ở Hải Phòng giai đoạn 2001 - 2011.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: Nghiên cứu tại Hải Phòng
- Thời gian: Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2015

5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp: duy vật biện chứng; logic - lịch sử; trừu
tượng hóa khoa học; phân tích và tổng hợp; so sánh; thống kê. Luận văn đã
quán triệt những quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước về
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những
vấn đề của các tác giả khác có liên quan đến đề tài luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Nghiên cứu áp dụng mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng
xã hội ở một địa phương cụ thể là Thành phố Hải Phòng.
- Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập nói chung
và Kinh tế chính trị nói riêng trong các trường Đại học, Cao đẳng ở Hải Phòng.
- Góp phần làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Hải Phòng.
7. Kết cấu của luận văn
- Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung của
luận văn gồm 3 chương:

5
Chương 1: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Chương 2: Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội ở
Hải Phòng giai đoạn 2001 - 2011.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả kết hợp tăng trưởng kinh tế
với công bằng xã hội ở Hải Phòng.

6
Chương 1
MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI

1.1. Một số vấn đề lý luận về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã

hội
1.1.1. Tăng trưởng kinh tế
1.1.1.1. Tăng trưởng kinh tế và một số lý thuyết về tăng trưởng kinh tế
TTKT là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu tại mỗi quốc
gia trong quá trình phát triển kinh tế, nhất là ở giai đoạn đầu của quá trình phát
triển. Cùng với thời gian, quan niệm về vấn đề này ngày càng hoàn thiện hơn.
Tiếp cận trong ngắn hạn, thì TTKT là sự gia tăng thu nhập hay sản
lượng của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định.
Tiếp cận trong dài hạn, thì TTKT là sự gia tăng quy mô sản lượng hay
sự mở rộng sản lượng của một nền kinh tế qua các năm.
Sự gia tăng có thể biểu hiện bằng qui mô tăng trưởng và tốc độ tăng
trưởng, tức là thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Qui mô tăng
trưởng phản ánh sự gia tăng lên hay giảm đi nhiều hay ít, còn tốc độ tăng
trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng
nhanh hay chậm của nền kinh tế giữa các năm hay các thời kỳ. Để đo lường
TTKT người ta thường dùng hai chỉ số chủ yếu: tổng sản phẩm quốc nội
(GDP), hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP).
Ngày nay, người ta thường nói tới khái niệm TTKT bền vững tức là
TTKT được gắn với chất lượng tăng trưởng. TTKT bền vững là sự tăng
trưởng đạt mức tương đối cao, ổn định trong thời gian tương đối dài và giải
quyết tốt các vấn đề xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
Tuy nhiên TTKT không đồng nhất với phát triển kinh tế. Phát triển
kinh tế mang nội hàm rộng hơn TTKT. Nó bao gồm TTKT cùng với những
thay đổi về chất của nền kinh tế (như phúc lợi xã hội, tuổi thọ, v.v…) và
những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng của khu vực sơ khai, tăng tỷ
trọng của khu vực chế tạo và dịch vụ). Phát triển kinh tế là một quá trình hoàn
thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế

7
trong một thời gian nhất định nhằm đảm bảo rằng GNP cao hơn đồng nghĩa

với mức độ hạnh phúc hơn.
Trong lịch sử đã có nhiều lý thuyết về TTKT của các nhà kinh tế, các
trường phái kinh tế. Sau đây sẽ là một số lý thuyết điển hình:
* Quan điểm cổ điển về tăng trưởng kinh tế
Lý thuyết cổ điển về TTKT do các nhà kinh tế chính trị học tư sản cổ
điển nêu ra mà các đại diện tiêu biểu là Adam Smith và David Ricardo.
- Adam Smith được coi là người sáng lập ra kinh tế chính trị học và là
người đầu tiên nghiên cứu lý luận TTKT một cách có hệ thống. Trong tác
phẩm “Của cải của các dân tộc”, ông đã nghiên cứu về tính chất, nguyên nhân
TTKT và làm thế nào để tạo điều kiện cho kinh tế tăng trưởng. Adam Smith
coi sự gia tăng tư bản là yếu tố quyết định TTKT. Đồng thời ông cho rằng
Chính phủ không có vai trò thúc đẩy TTKT.
- David Ricardo kế thừa tư tưởng của Adam Smith và đặc biệt nhấn mạnh
tích luỹ tư bản là nhân tố chủ yếu quyết định sự TTKT còn các chính sách của
Chính phủ không có tác động quan trọng tới hoạt động của nền kinh tế.
* Quan điểm của K.Marx về tăng trưởng kinh tế
K.Marx coi các yếu tố tác động đến quá trình tái sản xuất là đất đai, lao
động, vốn và tiến bộ kỹ thuật. Marx đặc biệt quan tâm đến vai trò của lao
động trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Theo Marx, sức lao động đối với nhà
tư bản là một loại hàng hoá đặc biệt, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao
động không giống như giá trị sử dụng của các loại hàng hoá khác, vì nó có thể
tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó, giá trị đó bằng giá trị sức lao
động cộng với giá trị thặng dư.
Về yếu tố kỹ thuật, Marx cho rằng tiến bộ kỹ thuật làm tăng số máy
móc và dụng cụ lao động dành cho người thợ, nghĩa là cấu tạo hữu cơ tư bản
có xu hướng ngày càng tăng.
Do các nhà tư bản cần nhiều vốn hơn để khai thác tiến bộ kỹ thuật, để
nâng cao năng suất lao động của công nhân nên các nhà tư bản phải chia giá trị
thặng dư thành hai phần: một phần để tiêu dùng cho nhà tư bản, một phần để
tích luỹ phát triển sản xuất. Đó là nguyên nhân tích luỹ của CNTB.

Marx bác bỏ ý kiến về “cung tạo nên cầu”, theo ông khủng hoảng kinh

8
tế là một giải pháp nhằm khôi phục lại thế thăng bằng đã bị rối loạn. Các
chính sách kinh tế của nhà nước có ý nghĩa quan trọng để thúc đẩy tăng
trưởng, đặc biệt là chính sách khuyến khích nâng cao mức cầu hiện có.
* Quan điểm tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế
Cuối thế kỉ 19 là thời kì đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của khoa
học kỹ thuật. Hàng loạt các phát minh khoa học ra đời, cùng với nó nhiều
nguồn tài nguyên quí được đưa vào khai thác làm cho kinh tế thế giới có bước
phát triển mạnh mẽ. Sự chuyển biến này có ảnh hưởng mạnh đến các nhà kinh
tế, hình thành một trường phái kinh tế mới mà ngày nay ta gọi là trường phái
tân cổ điển, đứng đầu là Alfred Marshall, tác phẩm chính của ông là “Các
nguyên lý của kinh tế học”, xuất bản năm 1890, do đó thời điểm này được coi
như mốc đánh dấu sự ra đời của trường phái tân cổ điển.
Các nhà kinh tế tân cổ điển bác bỏ quan điểm cổ điển cho rằng sản xuất
trong một tình trạng nhất định đòi hỏi những tỷ lệ nhất định về lao động và
vốn, họ cho rằng vốn và lao động có thể thay thế cho nhau, và trong quá trình
sản xuất có thể có nhiều cách kết hợp giữa các yếu tố đầu vào. Đồng thời họ
cho rằng tiến bộ khoa học kỹ thuật là yếu tố cơ bản để thúc đẩy sự phát triển
kinh tế.
Điểm giống với các nhà kinh tế cổ điển, các nhà kinh tế tân cổ điển cho
rằng trong điều kiện thị trường cạnh tranh, khi nền kinh tế có biến động thì sự
linh hoạt về giá cả và tiền công là nhân tố cơ bản khôi phục nền kinh tế về vị
trí sản lượng tiềm năng với việc sử dụng hết nguồn lao động. Họ cũng cho
rằng chính phủ không có vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế.
* Quan điểm của J.M.Keynes về tăng trưởng kinh tế
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp
đã diễn ra thường xuyên, nghiêm trọng. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
1929 - 1933 đã chứng tỏ rằng học thuyết “Tự điều tiết” nền kinh tế của các

trường phái cổ điển và tân cổ điển là thiếu xác thực, lý thuyết về “Bàn tay vô
hình” của A.Smith tỏ ra kém hiệu quả. Điều này đòi hỏi các nhà kinh tế phải
đưa ra các học thuyết mới phù hợp hơn. Năm 1936, sự ra đời của tác phẩm
“Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của John Maynard Keynes
(1883 - 1946) đánh dấu sự ra đời của học thuyết kinh tế mới.

9
Keynes đánh giá cao vai trò của tiêu dùng trong việc xác định sản
lượng. Theo ông, thu nhập của các cá nhân được sử dụng cho tiêu dùng và tích
luỹ. Nhưng xu hướng chung là khi mức thu nhập tăng thì xu hướng tiêu dùng
trung bình sẽ giảm, xu hướng tiết kiệm trung bình tăng. Việc giảm xu hướng
tiêu dùng sẽ làm cho cầu tiêu dùng giảm. Ông cho rằng đây chính là một trong
những nguyên nhân cơ bản dẫn dến sự trì trệ trong hoạt động kinh tế.
Mặt khác, Keynes cũng cho rằng đầu tư đóng vai trò quyết định đến qui
mô việc làm, khối lượng đầu tư phụ thuộc lãi suất cho vay và năng suất cận
biên của vốn.
Keynes sử dụng lý luận về việc làm và sản lượng do cầu quyết định để giải
thích mức sản lượng thấp và thất nghiệp kéo dài trong những năm 30 ở hầu hết các
nước công nghiệp phương Tây, do đó lý thuyết này còn gọi là thuyết trọng cầu.
Qua phân tích tổng quan về việc làm, Keynes đã đi đến kết luận: muốn
thoát khỏi khủng hoảng, thất nghiệp, Nhà nước phải thực hiện điều tiết bằng
các chính sách kinh tế, những chính sách này nhằm tăng cầu tiêu dùng. Ông
cũng cho rằng Chính phủ có vai trò to lớn trong việc sử dụng những chính
sách kinh tế: chính sách thuế, chính sách tiền tệ, lãi suất nhằm thúc đẩy
TTKT.
* Quan điểm hiện đại về tăng trưởng kinh tế
Các nhà kinh tế học hiện đại ủng hộ việc xây dựng một nền kinh tế hỗn
hợp, trong đó thị trường trực tiếp xác định những vấn đề cơ bản của tổ chức
kinh tế, nhà nước tham gia điều tiết có mức độ nhằm hạn chế những mặt tiêu
cực của thị trường. Những ý tưởng cơ bản của học thuyết này được trình bày

trong tác phẩm “Kinh tế học” của P.Samuelson xuất bản năm 1948.
Lý thuyết TTKT hiện đại thống nhất với cách xác định của mô hình
kinh tế tân cổ điển về các yếu tố tác động đến sản xuất. Họ cho rằng tổng mức
cung (Y) của nền kinh tế được xác định bởi các yếu tố đầu vào của sản xuất:
lao động (L), vốn sản xuất (K), tài nguyên thiên nhiên được sử dụng (R), khoa
học công nghệ (A). Nói cách khác hàm sản xuất có dạng:
Y= F (L,K,R,A )
Lý thuyết trên chọn hàm sản xuất dạng Cobb - Douglas để thể hiện tác
động của các yếu tố đến TTKT:

10
  
Y AK L R

  
   g a k l r

Trong đó: g là tốc độ tăng trưởng GDP
k, l, r là tốc độ tăng trưởng các yếu tố đầu vào
a là phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ.
1.1.1.2. Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế
TTKT về số lượng được hiểu là sự tăng thêm về qui mô sản lượng của
nền kinh tế, cho nên chính quá trình sản xuất, kinh doanh tạo nên sự TTKT.
Quá trình sản xuất là quá trình các nguồn lực đầu vào được kết hợp theo một
cách thức nhất định để tạo ra các sản phẩm đầu ra có ích cho nhu cầu xã hội.
Trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, sản lượng đầu ra được phản ánh qua nhiều
chỉ tiêu (về khối lượng và về giá trị), trong đó GDP là chỉ tiêu quan trọng nhất.
Như vậy việc sử dụng các nguồn lực đầu vào có quan hệ nhân quả tới
sản lượng. Vì vậy việc xác định những nguồn lực đầu vào nào có tác động tới
TTKT là rất quan trọng. Người ta chia các nguồn lực đó thành hai loại chính.

* Các nhân tố kinh tế
Các nhân tố kinh tế là các nguồn lực mà sự biến đổi của nó trực tiếp
làm biến đổi sản lượng đầu ra, các nhân tố này còn gọi là các yếu tố sản xuất.
Ta có thể biểu diễn mối quan hệ đó bằng dạng hàm số sau:
Y = F (X
i
)
Trong đó Y là giá trị sản lượng, X
i
(i = 1,2,…,n) là các biến số biểu thị
giá trị của các nhân tố kinh tế trực tiếp tạo ra giá trị sản lượng.
Xuất phát từ thực tế của các nước đang phát triển và cả ở các nước phát
triển, các nhà kinh tế học đi đến kết luận: việc gia tăng sản lượng ở các nước
bắt nguồn từ sự gia tăng đầu vào của các yếu tố sản xuất theo quan hệ hàm số
với sản lượng, bao gồm bốn nhân tố vốn, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, kỹ
thuật và công nghệ.
 Vốn là một yếu tố được trực tiếp sử dụng vào quá trình sản xuất. Nó
bao gồm vốn tiền tệ và vốn hiện vật. Trong đó, vốn hiện vật trực tiếp tham gia
vào quá trình sản xuất, bao gồm các máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải,
nhà kho và cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi
thì tăng tổng số vốn sẽ làm sản lượng tăng.

11
 Nhân lực với tư cách là nguồn lực của sản xuất, là nhân tố sản xuất
đặc biệt, không đơn thuần chỉ là số lượng lao động hay thời gian lao động mà
nó còn bao gồm cả chất lượng lao động mà người ta gọi là vốn nhân lực. Các
yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có
thể phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có
sức khỏe và kỷ luật lao động tốt. Chi phí nhằm nâng cao trình độ của lao động
được coi như đầu tư dài hạn cho đầu vào.

 Tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển,
những tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ,
rừng và nguồn nước. Đất đai là một yếu tố đầu vào quan trọng trong sản xuất
nông nghiệp. Mặc dù ngày càng có nhiều nước có nền kinh tế công nghiệp
hiện đại, nhưng cũng không thể không cần đất đai. Do diện tích đất đai là cố
định, người ta phải thường xuyên nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai bằng
cách đầu tư thêm lao động và vốn trên một đơn vị diện tích đất. Các tài
nguyên cũng là đầu vào trong quá trình sản xuất: các sản phẩm từ trong lòng
đất, từ rừng và biển, nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, phong phú được
khai thác sẽ làm tăng sản lượng một cách nhanh chóng, nhất là đối với các
nước đang phát triển. Nói chung tài nguyên là khan hiếm tương đối so với nhu
cầu. Vì phần lớn tài nguyên cần thiết cho sản xuất và đời sống đều có hạn, do
đó có nguồn tài nguyên phong phú hay tiết kiệm nguồn tài nguyên trong sử
dụng cũng có một ý nghĩa tương đương như việc tạo ra một lượng giá trị gia
tăng so với chi phí các đầu vào khác để tạo ra nó.
 Kỹ thuật và công nghệ: đây là kết quả có được nhờ sự tích lũy kinh
nghiệm trong lịch sử hoặc nhờ phát minh mới áp dụng trong kỹ thuật hiện tại.
Công nghệ và kỹ thuật mới ngày càng trở thành một trong những yếu tố sản
xuất quan trọng nhất đối với TTKT. Công nghệ sản xuất cho phép cùng một
lượng lao động và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình
sản xuất có hiệu quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và
ngày nay công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới
có những bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản xuất. Tuy
nhiên, thay đổi công nghệ không chỉ thuần túy là việc tìm tòi, nghiên cứu;
công nghệ có phát triển và ứng dụng một cách nhanh chóng được là nhờ

12
"phần thưởng cho sự đổi mới" - sự duy trì cơ chế cho phép những sáng chế,
phát minh được bảo vệ và được trả tiền một cách xứng đáng. Hiện nay, các
nước phát triển đang tích cực nghiên cứu và triển khai, nhằm áp dụng các

thành tựu khoa học và kỹ thuật tiên tiến, đẩy nhanh tốc độ TTKT. Trong khi
đó, các nước đang phát triển thường chịu sự phụ thuộc vào công nghệ, kỹ
thuật được chuyển giao từ các nước công nghiệp phát triển, bản thân các nước
này cũng tích cực trong việc triển khai áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến
nhằm đẩy nhanh tốc độ TTKT.
* Các nhân tố phi kinh tế
Ngày nay người ta cho rằng các nhân tố phi kinh tế kinh tế cũng tác
động tới TTKT. Các nhân tố phi kinh tế bao gồm các nguồn lực đầu vào gián
tiếp ảnh hưởng tới TTKT. Các nhân tố phi kinh tế ảnh hưởng tới TTKT như
sau:
 Đặc điểm văn hóa - xã hội: đây là một trong những yếu tố cơ bản ảnh
hưởng nhiều tới chất lượng của lao động, kỹ thuật và công nghệ, trình độ
quản lý. Vì thế trình độ văn hoá cao là một mục tiêu phấn đấu của sự phát
triển. Để phát triển ổn định và lâu dài, đầu tư cho sự nghiệp phát triển văn hoá
được coi là những đầu tư cần thiết nhất và đi trước một bước so với đầu tư
cho sản xuất.
 Các thể chế chính trị - kinh tế - xã hội: Thể chế biểu hiện như một lực
lượng đại diện cho ý chí của một cộng đồng, nhằm điều chỉnh các mối quan
hệ kinh tế, chính trị, xã hội theo lợi ích của một cộng đồng đặt ra. Thể chế thể
hiện thông qua các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, các nguyên tắc tổ chức
quản lý kinh tế xã hội, hệ thống luật pháp, các chế độ chính sách, các công cụ
và bộ máy tổ chức thực hiện… Một thể chế kinh tế - chính trị - xã hội ổn định
và mềm dẻo sẽ tạo điều kiện để đổi mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất
phù hợp với những điều kiện thực tế, tạo ra tốc độ TTKT nhanh và bền vững.
 Nhân tố dân tộc: Sự phát triển của tổng thể kinh tế có thể đem đến
những biến đổi có lợi cho dân tộc này, bất lợi cho dân tộc khác. Đây chính là
nguyên nhân nảy sinh sự mâu thuẫn, xung đột giữa các dân tộc. Do đó, các
chính sách phát triển kinh tế phải đảm bảo tiêu chuẩn bình đẳng, cùng có lợi
giữa các dân tộc trong cộng đồng, đồng thời phải bảo tồn được bản sắc riêng


13
và các truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc. Điều đó sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế.
 Nhân tố tôn giáo: Tôn giáo luôn đi liền với dân tộc, mỗi tộc người theo
một tôn giáo nhất định. Trong một quốc gia có thể có nhiều tôn giáo. Mỗi tôn
giáo đều có những quan niệm, triết lý tư tưởng riêng, ăn sâu vào cuộc sống của
các dân tộc. Những ý thức tôn giáo thường cố hữu, ít thay đổi theo sự biến đổi
của kinh tế xã hội. Chính vì thế, các chính sách đúng đắn của chính phủ tạo
điều kiện hòa hợp, đoàn kết xã hội sẽ mang lại lợi ích TTKT to lớn.
1.1.1.3. Các thước đo và vai trò của tăng trưởng kinh tế
Theo mô hình kinh tế thị trường, thước đo được dùng để đánh giá
TTKT là các chỉ tiêu trong hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), bao gồm các
chỉ tiêu sau:
- GO (Gross Output) - Tổng giá trị sản xuất: là tổng giá trị sản xuất vật
chất và dịch vụ được tạo nên trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một
thời kỳ nhất định.
- GDP (Gross Domestic Product) - Tổng sản phẩm quốc nội: là tổng giá
trị sản xuất vật chất và dịch vụ cuối cùng do kết quả hoạt động kinh tế trên
phạm vi lãnh thổ của một quốc gia tạo nên trong một thời kỳ nhất định.
- GNI (Gross Nationnal Income) - Tổng thu nhập quốc dân: đây là chỉ
tiêu xuất hiện trong SNA 1993 thay cho chỉ tiêu GNP trong SNA 1968. Về
nội dung thì GNP và GNI là như nhau. Tuy nhiên GNI tiếp cận dưới góc độ
thu nhập chứ không phải dưới góc độ sản phẩm như GNP.
- GNP (Gross Nationnal Product) - Tổng sản phẩm quốc dân: là tổng
giá trị tính bằng tiền của những hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra
từ các yếu tố sản xuất của mình (dù là sản xuất ở trong nước hay ở nước
ngoài) trong một thời kỳ nhất định.
Để đánh giá xác thực hơn TTKT của một quốc gia dưới góc độ mức
sống dân cư, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu bình quân đầu người, chẳng
hạn như: GDP bình quân đầu người, GNP bình quân đầu người.

Như vậy, TTKT là điều kiện cần trước tiên để khắc phục tình trạng
nghèo đói của quốc gia, khắc phục sự lạc hậu, làm cho đời sống vật chất, tinh
thần của người dân ngày càng cải thiện, xoá bỏ dần các phong tục tập quán

14
lạc hậu.
TTKT là cơ sở để thực hiện các chi tiêu kinh tế vĩ mô như giải quyết
việc làm, giảm thất nghiệp, nâng cao mức sống của nhân dân, cải thiện các
mặt ASXH như giáo dục, y tế, nhà ở… đồng thời TTKT cũng tạo ra tiền đề
vật chất cho việc củng cố an ninh quốc phòng, chính trị, tăng uy tín của nhà
nước và sự đồng thuận trong xã hội.
Tuy nhiên, TTKT không phản ảnh được chính xác phúc lợi của các
nhóm dân cư khác nhau trong xã hội, chênh lệch giàu nghèo có thể tăng lên,
chênh lệch giữa nông thôn và thành thị có thể tăng cao và bất bình đẳng xã
hội cũng có thể tăng. Tăng trưởng có thể cao nhưng chất lượng cuộc sống có
thể không tăng, môi trường có thể bị hủy hoại, tài nguyên bị khai thác quá
mức, cạn kiệt, nguồn lực có thể sử dụng không hiệu quả, lãng phí.
1.1.2. Công bằng xã hội
CBXH là một khái niệm mang tính chuẩn tắc phụ thuộc vào quan niệm
khác nhau của mỗi giai cấp, mỗi quốc gia. CBXH là sự công bằng về quyền
lợi và nghĩa vụ của công dân, công bằng trong phân phối thu nhập, cơ hội
phát triển và điều kiện thực hiện cơ hội. Như vậy, CBXH là một khái niệm rất
rộng, bao gồm cả yếu tố kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam: “CBXH là khái niệm về ý
thức đạo đức và ý thức pháp quyền, chỉ điều chính đáng, tương xứng với bản
chất và quyền con người. CBXH đòi hỏi sự tương xứng giữa vai trò của
những cá nhân (những giai cấp) với địa vị xã hội của họ, giữa hành vi với sự
đền bù (lao động và thù lao, công và tội, thưởng và phạt), giữa quyền và nghĩa
vụ - không có sự tương xứng trong quan hệ bất công”.
Trong kinh tế học hiện đại, người ta sử dụng các thước đo sau để đánh

giá mức độ CBXH:
- Phân phối thu nhập theo đầu người giữa các nhóm dân cư: GDP bình
quân đầu người giữa các nhóm, giữa các vùng với nhau trong một thời gian
nhất định, không quan tâm đến nguồn mang lại thu nhập và môi trường sống
của dân cư. Phương pháp tính là người ta chia dân số thành 5 nhóm người,
mỗi nhóm có 20% dân số, sau đó xếp theo thứ tự từ thấp đến cao về thu nhập.

15
Qua đó, có thể thấy mức độ CBXH thông qua việc so sánh nhóm giàu nhất và
nhóm nghèo nhất.
- Đường cong Lorentz: mô tả chênh lệch trong phân phối thu nhập,
được biểu thị bằng một hình vuông mà cạnh đáy biểu thị phần trăm cộng dồn
số người được nhận thu nhập và cạnh bên biểu thị phần trăm cộng dồn tổng
thu nhập được phân phối. Đường chéo của hình này biểu thị mức độ bình
đẳng tuyệt đối trong phân phối thu nhập, vì mọi điểm nằm trên đường chéo
phản ánh các mức phân bổ đồng đều giữa phần trăm dân số cộng dồn và phần
trăm tổng thu nhập cộng dồn. Đường cong Lorenz càng gần đường bình đẳng
tuyệt đối, phân phối càng công bằng.
Hình 1.1: Đường cong Lorenz (in màu)

- Hệ số Gini: cũng là thước đo phổ biến để xác định mức bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập, hệ số Gini được đưa ra nhằm lượng hoá đường
cong Lorenz. Nó được tính bằng cách chia diện tích nằm giữa đường chéo và
đường cong Lorenz với toàn bộ diện tích nằm dưới đường chéo. Hệ số G càng
cao, mức bất bình đẳng trong phân phối thu nhập càng lớn. G=0: hoàn toàn
bình đẳng trong phân phối thu nhập, G=1: hoàn toàn bất bình đẳng trong phân
phối thu nhập
- Chỉ số phát triển con người (HDI): HDI là một thước đo tổng quát về
phát triển con người. Nó đo thành tựu trung bình của một quốc gia theo ba


16
tiêu chí: tuổi thọ trung bình; tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các
cấp giáo dục (tiểu học, trung học, đại học); thu nhập bình quân đầu người.
1.1.2.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công bằng xã hội
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, dưới CNXH, CBXH
là sự ngang bằng nhau giữa người và người trong xã hội chủ yếu là về phương
diện phân phối sản phẩm xã hội theo nguyên tắc: cống hiến lao động ngang
nhau thì hưởng thụ ngang nhau.
Lịch sử xã hội loài người xét về phương diện kinh tế đó là lịch sử phát
triển của các hoạt động sản xuất vật chất của con người, gắn với sự tồn tại,
phát triển của các phương thức sản xuất khác nhau, trong đó mỗi con người
khác nhau tuy đều giữ vai trò là chủ thể của LLSX nhưng do vị trí, địa vị của
họ rất khác nhau trong QHSX nên mặc dù phấn đấu cho việc tăng năng suất
lao động và do đó cho tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu
chung hướng tới của mỗi người nhưng phương thức phân chia của cải vật
chất, tinh thần do họ sáng tạo ra, tức là sự phân phối thu nhập của họ cũng rất
khác nhau.
Lịch sử xã hội loài người xét về phương diện chính trị - xã hội cũng là
lịch sử phát triển của đấu tranh giai cấp. Kinh nghiệm lịch sử đã cho thấy,
trong xã hội có tồn tại đấu tranh giai cấp đối kháng thì lợi ích của các giai cấp
đó không giống nhau. Giai cấp nào nắm quyền thống trị xã hội thường cũng là
giai cấp nắm quyền thống trị kinh tế, và do đó phân phối thu nhập giữa các
giai cấp đó là rất khác nhau. Kẻ giàu, người nghèo trong xã hội có giai cấp và
đấu tranh giai cấp là tất yếu của mọi thời đại.
Từ những luận điểm cơ bản trên đây của lý thuyết kinh tế học chính trị
Mác-xít, có thể rút ra kết luận quan trọng là: CBXH trong phân phối thu nhập
mặc dù được dựa trên TTKT do tất cả các thành viên xã hội sáng tạo ra, và
TTKT chính là cơ sở của sự giàu có xã hội, vì đó là nguồn gốc trực tiếp sáng
tạo ra thặng dư của cải cho xã hội ngày càng lớn hơn, nhưng một khi xã hội
loài người còn tồn tại các giai cấp khác nhau, nắm giữ các vị trí quyền lực

khác nhau thì sự công bằng đó chỉ là tương đối, không thể có công bằng tuyệt
đối, cho dù các giai cấp khác nhau đó có thể dung hoà để cùng tồn tại và phát
triển trong những giai đoạn thời gian nhất định, và thậm chí cho dù giai cấp

17
thống trị xã hội khi đó là giai cấp công nhân đại diện cho LLSX tiên tiến nhất,
cách mạng nhất, có quyền lợi cơ bản phù hợp với quyền lợi đông đảo quần
chúng lao động trong xã hội thì cũng chưa thể khắc phục triệt để những hạn
chế tất yếu đã nêu trên cho dù phân phối theo lao động vẫn là quy luật kinh tế
cơ bản được cộng đồng xã hội tuân thủ.
Các Mác cho rằng: “Với một công việc ngang nhau và do đó, với một
phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế người này
vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn nhiều hơn người kia, v.v… nhưng
đó là những thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội
CSCN. Trong giai đoạn cao của xã hội cộng sản, khi mà cùng với sự phát triển
toàn diện của các cá nhân, năng suất của họ cũng ngày càng tăng lên và tất cả
các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra rào rào, chỉ khi đó xã hội mới có thể ghi
trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” [26, tr.315].
1.1.2.2. Quan điểm của kinh tế học về công bằng xã hội
Trong kinh tế học có hai khái niệm về CBXH thường được sử dụng là
công bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều dọc. Công bằng theo
chiều ngang có nghĩa là đối xử như nhau với những người có đóng góp như
nhau. Công bằng theo chiều dọc nghĩa là đối xử khác nhau với những người
có những khác biệt bẩm sinh hoặc có các điều kiện xã hội khác nhau. Nếu
công bằng theo chiều ngang được thực hiện bởi cơ chế thị trường thì công
bằng theo chiều dọc cần có sự điều tiết của Chính phủ. Việc phân định và kết
hợp công bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều dọc sẽ đảm bảo
CBXH thực sự. Như vậy CBXH là một khái niệm rất rộng bao gồm cả các
yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá. Xét một cách tổng thể, CBXH gắn
với sự phát triển toàn diện của con người và là kết quả của sự phát triển đó.

Ở các nước đang phát triển, do vai trò quyết định nổi bật của kinh tế đối
với sự tồn tại và phát triển của các cá nhân và xã hội, nội dung quan trọng
nhất của công bằng xã hôi trước tiên và chủ yếu là công bằng về kinh tế. Tuy
nhiên trong các xã hội phát triển hiện đại cũng như trong tư duy phát triển
hiện đại, nội hàm của CBXH được bổ sung, mở rộng và phát triển đáng kể.
Điều này được thể hiện ở chỗ nội dung quan trọng nhất của CBXH không
phải là công bằng về phân phối thu nhập mà là công bằng về cơ hội phát triển.

18
Như vậy nội hàm của khái niệm CBXH sẽ phải bao hàm sự công bằng trong
việc phân phối các cơ hội và điều kiện thực hiện cơ hội.
1.1.2.3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về công bằng xã hội
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin chủ yếu nói về CBXH thể
hiện tập trung ở chế độ phân phối theo lao động dưới CNXH, còn về chế độ
phân phối trong thời kỳ quá độ lên CNXH thì các ông chưa có đủ điều kiện để
bàn tới. Đây chính là điểm mà các Đảng cộng sản trong đó có Đảng cộng sản
Việt Nam đã từng bước bổ sung, phát triển bằng những kết luận mới rút ra từ
trong thực tiễn sinh động của quá trình đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội
Đảng VI là bước đột phá lớn và toàn diện làm xoay chuyển tình hình đưa
nước ta tiến lên, Đại hội Đảng VI xác định: “Đảm bảo CBXH là một trong
năm mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Giải quyết
việc làm và thực hiện phân phối theo lao động là những vấn đề trọng tâm của
chính sách CBXH. Thực hiện CBXH phù hợp với điều kiện cụ thể của từng
nước, chống thu nhập bất hợp pháp và đặc quyền, đặc lợi”[12,tr.198]. Sau đó
nội dung này đã được làm rõ và sâu sắc thêm tại các kỳ Đại hội Đảng tiếp đó
(Đại hội VII năm 1991, Đại hội VIII năm 1996, Đại hội IX năm 2001, Đại hội
X năm 2006 và Đại hội XI năm 2011). Ở nước ta hiện nay, CBXH là một giá
trị cơ bản định hướng cho việc giải quyết mối quan hệ giữa người với người
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội theo nguyên tắc: cống hiến về vật
chất và tinh thần ngang nhau cho sự phát triển xã hội thì được hưởng thụ

ngang nhau những giá trị vật chất và tinh thần do xã hội tạo ra phù hợp với
khả năng hiện thực của đất nước. Song vì hoàn cảnh cụ thể của mỗi người
khác nhau, cho nên việc tạo điều kiện cho mọi người, nhất là những người có
hoàn cảnh khó khăn đều có thể tiếp cận công bằng các cơ hội phát triển, các
nguồn lực phát triển, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về giáo dục, y tế, việc
làm, thông tin,… mang tính ASXH luôn giữ một vai trò quan trọng trong việc
thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay.
CBXH không có nghĩa là “cào bằng”, thực hiện chủ nghĩa bình quân,
chia đều cho mọi người các nguồn lực và của cải do xã hội làm ra, bất chấp
chất lượng, hiệu quả của sản xuất kinh doanh và sự đóng góp của mỗi người
cho sự phát triển chung của cộng đồng.

19
Ở đây cần có sự phân biệt hai khái niệm CBXH và bình đẳng xã hội.
Hai khái niệm này tuy gần nhau nhưng vẫn là hai khái niệm khác nhau. Khi
nói tới công bằng xã hội, tức là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với
người về một phương diện xã hội nào đó, ví dụ về kinh tế, chính trị, văn hóa
Còn khi nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người về mọi phương
diện, tức là nói tới một sự bình đẳng xã hội hoàn toàn. Trong khi đó, CBXH
cũng là một dạng (và chỉ là một dạng) của bình đẳng xã hội, là sự ngang bằng
nhau, giữa người với người không phải về mọi phương diện, cũng không phải
về một phương diện bất kỳ, mà chỉ về một phương diện hoàn toàn xác định,
đó là: phương diện quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ theo nguyên tắc
cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau.
1.1.3. Một số quan điểm về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội
1.1.3.1. Tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến bất bình đẳng
Nhà kinh tế học người Mỹ Simon Kuznets năm 1955 đã đưa ra mô hình
nghiên cứu thực nghiệm nhằm xem xét mối quan hệ giữa thu nhập bình quân
đầu người và tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Theo ông bất

bình đẳng là một hệ quả của quá trình TTKT. Giai đoạn đầu khi GNP/người
tăng thì tình trạng bất bình đẳng tăng, đến giai đoạn trình độ phát triển cao,
khi GNP/người tăng thì tình trạng bất bình đẳng lại giảm đi, lúc đó thu nhập
và phúc lợi có xu hướng được phân phối công bằng hơn. Vì vậy, theo ông mối
quan hệ giữa GNP/người và sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập có
dạng chữ U ngược. Điều này được minh họa bằng đồ thị:
Hình 1.2: Mô hình chữ U ngược của Simon Kuznets

20


Bản thân Kuznets thì không phân tích và làm rõ những nguyên nhân
cũng như bản chất dẫn đến tình trạng bất bình đẳng. Trong khi đó, mỗi nước
có những chính sách khác nhau tác động vào tình trạng TTKT và bất bình
đẳng dẫn đến quá trình này diễn ra khác nhau. Nhiều kiểm định thực tế đã cho
thấy quan điểm của Kuznets không phải lúc nào cũng chính xác. Bất bình
đẳng về phân phối thu nhập không chỉ giảm đi mà ngày càng tăng lên hoặc
giữ ở mức cao ngay cả trong nhiều nền kinh tế phát triển như Anh, Mỹ.
Nhà kinh tế học A.Lewis cũng đồng tình với Kuznets về mối quan hệ
giữa TTKT và bất bình đẳng theo hình chữ U ngược, nhưng Lewis tập trung
giải thích nguyên nhân dẫn tới hình chữ U ngược trên cơ sở mô hình lý thuyết
nhị nguyên. Ông cho rằng trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế
tồn tại hai khu vực: khu vực công nghiệp với tiền lương cao và khu vực nông
nghiệp với tiền lương thấp. Do đó việc mở rộng quy mô sản xuất khu vực
nông nghiệp sẽ thu hút một số lượng lớn lao động từ nông nghiệp và nhà tư
bản chỉ trả tiền lương công nhân ở mức thấp. Như vậy thu nhập của nhà tư
bản vừa tăng lên do quy mô sản xuất mở rộng, vừa tăng lên do lao động của
công nhân đem lại. Giai đoạn sau sự bất bình đẳng giảm do khi lao động dư
thừa được thu hút hết vào khu vực thành thị - công nghiệp và dịch vụ thì lúc
này lao động trở nên khan hiếm trong sản xuất. Cung lao động giảm, cầu lao

động tăng lên đòi hỏi phải tăng tiền lương cho người lao động. Điều này sẽ
làm cho bất bình đẳng giảm. Trong mô hình này, theo ông bất bình đẳng
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
GDP/người
Gini

×