Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Việc làm cho người lao động ở nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


PHẠM THANH TÂM



VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở
NÔNG THÔN TỈNH VĨNH PHÚC




LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ








Hà Nội- 2009

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



PHẠM THANH TÂM




VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở
NÔNG THÔN TỈNH VĨNH PHÚC


Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS NGUYỄN KHẮC THANH






Hà Nội – 2009



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề việc làm luôn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng
đầu trong các quyết sách phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia để hướng

tới sự phát triển bền vững. Có việc làm vừa giúp bản thân người lao động có
thu nhập, vừa tạo điều kiện để phát triển nhân cách và lành mạnh hóa các
quan hệ xã hội.
Ở Việt Nam, với đặc điểm dân số đông, trẻ, nên có nguồn lao động
phong phú, dồi dào. Đặc điểm đó là thế mạnh trong phát triển kinh tế - xã hội
của chúng ta, song đồng thời nó cũng luôn tạo ra sức ép về việc làm cho toàn
xã hội. Vì vậy, quan tâm giải quyết việc làm, ổn định việc làm cho người lao
động luôn là một trong những giải pháp về phát triển xã hội và là chỉ tiêu định
hướng phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng ta đã đề ra.
Đặc biệt, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xu
thế chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, lao động Việt Nam có
nhiều cơ hội để tìm kiếm việc làm. Người lao động có thể vươn lên nắm bắt
tri thức và tự do làm giàu bằng tri thức của mình. Tuy nhiên, bên cạnh đó
cũng có những thách thức đặt ra cho người lao động Việt Nam: đó là yêu cầu
về chất lượng nguồn lao động. Người lao động không biết nghề, hoặc biết
không đến nơi đến chốn thì rất khó tìm được việc làm. Mặt khác, kinh nghiệm
các nước cho thấy, khi hội nhập WTO, ngành dễ bị tổn thương nhất là nông
nghiệp, nhóm dân cư dễ bị tổn thương nhất là nông dân. Chính vì vậy, quan
tâm đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn vẫn luôn
là vấn đề mang tính cấp bách.


2
Ở Vĩnh Phúc hiện nay, số người thất nghiệp còn đông, nhất là ở khu vực
nông thôn. Năm 2008, dân số ở khu vực nông thôn chiếm khoảng 84%, lực
lượng lao động ở khu vực nông thôn còn chiếm 74,94% lực lượng lao động,
tỷ lệ người lao động thiếu việc làm còn cao. Chất lượng nguồn nhân lực còn
rất thấp. Thu nhập của lao động nông thôn thấp hơn nhiều các khu vực kinh tế
khác. Vĩnh Phúc xác định muốn thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa phải giải quyết được vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông

dân. Do vậy, vấn đề việc làm cho người lao động ở nông thôn luôn được các
cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức xã hội quan tâm hàng đầu để thực hiện
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương.
Chính vì vậy, vấn đề "Việc làm cho ngƣời lao động ở nông thôn tỉnh
Vĩnh Phúc" được lựa chọn để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, với hy
vọng đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông
thôn tỉnh Vĩnh Phúc, nhằm đáp ứng phần nào nhu cầu đòi hỏi của địa phương và
trên phạm vi cả nước.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề việc làm nói chung và việc làm cho lao động nông thôn nói riêng
từ trước đến nay đã được nhiều người quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau.
Ở nước ta, từ những năm 90 của thế kỷ trước đến nay có nhiều tác giả đã có
những công trình bài viết xung quanh vấn đề này, tiêu biểu như:
- Ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải quyết việc làm ở
Việt Nam, GS.TS Đỗ Thế Tùng,Tạp chí Lao động và công đoàn số 6, 2002.
- Chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, TS. Nguyễn Hữu Dũng -
TS. Trần Hữu Trung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.


3
- Vấn đề việc làm cho lao động nông thôn, Vũ Đình Thắng, Tạp chí Kinh
tế phát triển, số 13, 2002.
- Thực trạng lao động - việc làm ở nông thôn và một số giải pháp cho
giai đoạn phát triển 2001-2005, Bùi Văn Quán, Tạp chí Lao động và xã hội,
số CĐ3, 2001.
- Dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay, Đỗ Minh Cương, Nông
thôn mới, số 91, 2003.
- Làm thế nào để đẩy mạnh công tác dạy nghề cho lao động nông thôn,
Đặng Đình Hải - Nguyễn Ngọc Thụy, Tạp chí Lao động và xã hội, số 259,

tháng 3-2005.
- Kinh nghiệm đào tạo nghề cho lao động nông thôn, Lê Văn Bảnh, Tạp
chí Lao động và xã hội, số 218, 2003.
- Sử dụng nguồn nhân lực nông thôn Việt Nam: Thực trạng và giải pháp,
Bùi Quang Bình, Trường Đại học Kinh Tế, Đại học Đà Nẵng, 2007.
- Quan tâm lao động nông thôn không còn đất, Đoàn Tất Thảo, Tạp trí
Lao động và xã hội, số 186, 2008.
- Giải quyết vấn đề lao động nông thôn mất hoặc thiếu việc làm, Hoàng
Hùng, Trần Hưng và Kiều Thắng, Tạp trí Nhân Dân, số ngày 04-06-2009.
- Giải pháp nào cho lao động và việc làm ở nông thôn, Quốc Việt, Báo
Hậu Giang, số ngày 03-06-2009.
Trong các công trình đó, các tác giả đã có nhiều đóng góp quan trọng, đã
khái quát hoặc đi sâu phân tích thực trạng việc làm ở nông thôn và đề xuất
những giải pháp để tạo việc làm cho người lao động ở khu vực nông thôn.
Ngoài ra cũng có một số đề tài luận văn thạc sĩ viết về vấn đề việc làm ở
các tỉnh như Thái Bình, Ninh Bình, Bắc Ninh… Song cho đến nay chưa có


4
một công trình khoa học nào đi sâu vào nghiên cứu vấn đề việc làm cho người
lao động ở nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc dưới góc độ chuyên ngành kinh tế chính
trị học.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Góp phần làm rõ vấn đề việc làm cho người lao động nông thôn ở Vĩnh
Phúc; phân tích thực trạng và trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp chủ yếu
giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Vĩnh Phúc.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ thực trạng việc làm của người lao động nông thôn; những nhân
tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn để làm cơ

sở đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở
nông thôn Vĩnh Phúc.
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động ở
nông thôn Vĩnh Phúc từ 1997 đến nay.
- Nêu những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết
có hiệu quả vấn đề việc làm cho người lao động ở nông thôn Vĩnh Phúc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng việc làm cho người lao
động ở nông thôn Vĩnh Phúc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng việc làm của người lao động ở
nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc từ khi tách tỉnh (1997) đến nay; đề xuất một số giải


5
pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn tỉnh
Vĩnh Phúc từ nay đến 2020.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng các phương pháp của kinh tế chính trị học trong quá
trình nghiên cứu; đồng thời còn sử dụng các phương pháp khác như: hệ thống,
tổng hợp, thống kê, so sánh, để làm sáng tỏ vấn đề.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Làm rõ vấn đề việc làm nói chung và việc làm của người lao động nông
thôn nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc làm của lao động ở nông thôn Vĩnh
Phúc từ 1997 đến nay.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người
lao động ở nông thôn Vĩnh Phúc.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương; 8 tiết.
Chương 1: Những vấn đề chung về việc làm cho người lao động ở nông thôn
Chương 2: Thực trạng việc làm cho người lao động nông thôn ở Vĩnh Phúc
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho
người lao động ở nông thôn Vĩnh Phúc





6

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VIỆC LÀM CHO NGƢỜI
LAO ĐỘNG Ở NÔNG THÔN
1.1. Việc làm cho ngƣời lao động ở nông thôn
1.1.1. Những khái niệm cơ bản
Khái niệm việc làm
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Việc làm là những hoạt động lao
động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.
Điều 13, chương 2 (việc làm) Bộ luật lao động của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không
bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Khái niệm này được vận
dụng trong các cuộc điều tra về thực trạng lao động và việc làm hàng năm của
Việt Nam và được cụ thể hóa thành ba dạng hoạt động sau:
- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương dưới dạng bằng tiền
hoặc bằng hiện vật.
- Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân. Bao gồm sản xuất
nông nghiệp trên đất do chính thành viên được quyền sử dụng; hoặc hoạt
động kinh tế phi nông nghiệp do chính thành viên đó làm chủ toàn bộ hoặc một

phần.
- Làm công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới
hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Bao gồm sản xuất nông
nghiệp trên đất do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ có quyền sử dụng;
hoạt động kinh tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ
làm chủ hoặc quản lý. Theo khái niệm trên, hoạt động được coi là việc làm
cần thỏa mãn hai điều kiện:


7
Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và
cho các thành viên trong gia đình.
Hai là, hoạt động đó phải đúng luật; không bị pháp luật cấm.
Hai tiêu thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ của
một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động chỉ tạo ra thu
nhập nhưng vi phạm pháp luật như: trộm cắp, buôn bán ma tuý, mại dâm,
không thể được công nhận là việc làm. Mặt khác, một hoạt động dù là hợp
pháp, có ích nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là việc
làm - chẳng hạn như công việc nội trợ của phụ nữ cho chính gia đình mình.
Nhưng nếu người phụ nữ đó cũng thực hiện các công việc nội trợ tương tự
cho gia đình người khác thì hoạt động của họ lại được thừa nhận là việc làm
vì được trả công.
Điểm đáng lưu ý là tùy theo phong tục, tập quán của mỗi nước và pháp luật
của các quốc gia mà người ta có một số quy định khác nhau về việc làm. Ví dụ:
mại dâm của phụ nữ được coi là việc làm ở Thái Lan vì được pháp luật bảo hộ
và quản lý; nhưng ở Việt Nam hoạt động đó được coi là vi phạm pháp luật và
không được thừa nhận là việc làm.
Trong nền kinh tế thị trường, ở đâu có lợi nhuận, các doanh nghiệp sẽ tăng
cường sử dụng lao động, tăng sản lượng, khối lượng việc làm sẽ tăng lên. Mặt
khác, khi nhu cầu thị trường suy giảm, các doanh nghiệp sẽ phải cắt giảm sản

lượng, khối lượng việc làm sẽ giảm.
Trong xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới, khoa học công nghệ phát triển
mạnh mẽ, được ứng dụng nhanh chóng vào sản xuất và tất cả các lĩnh vực
khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội đã làm cho khối lượng công việc có
yêu cầu về mặt kỹ thuật cao tăng nhanh chóng.


8
Mặt khác, năng suất lao động tăng đã làm ảnh hưởng rất lớn tới "cầu" lao
động và "cơ cấu" lao động. Nếu người lao động không tự nâng cao tay nghề,
nâng cao trình độ của mình theo kịp với yêu cầu của sản xuất kinh doanh;
phân công lao động xã hội không phát triển, không tạo được nhiều việc làm
mới cho người lao động thì tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm là điều khó
tránh khỏi.
Trong nông nghiệp, lao động mang tính thời vụ, do vậy vào thời kỳ mùa vụ,
khối lượng công việc nhiều, tăng đột biến. Tuy nhiên, lúc nhàn rỗi, khối lượng
công việc giảm đột ngột, thậm chí có lúc người nông dân không có việc làm.
Đặc biệt trong điều kiện hiện nay dân số ở khu vực nông thôn vẫn tăng nhanh,
đất canh tác không tăng thậm chí có xu hướng giảm xuống vì nhiều lý do: đô thị
hóa, đất ở, tăng, mặt khác với khả năng ứng dụng máy móc, tiến bộ khoa học
công nghệ, làm cho năng suất lao động tăng nhanh, giải phóng một lượng lao
động lớn ra khỏi ngành nông nghiệp. Nếu không tạo đủ công ăn, việc làm cho
người nông dân, đặc biệt trong lúc nông nhàn với thu nhập được người nông dân
chấp nhận, sẽ dẫn đến hiện tượng nông dân di chuyển đến các thành phố và các
khu công nghiệp tìm kiếm việc làm gây nhiều vấn đề phức tạp cho việc quản lý
lao động, quản lý xã hội, tình trạng xóm liều, phố liều, tệ nạn xã hội gia tăng.
Khái niệm thất nghiệp: Theo khái niệm của tổ chức lao động Quốc Tế
(ILO), thất nghiệp (theo nghĩa chung nhất) là tình trạng tồn tại khi một số
người trong độ tuổi lao động muốn có việc làm nhưng không thể tìm được
việc làm ở mức tiền công nhất định. Người thất nghiệp là người trong độ tuổi

lao động có khả năng lao động, không có việc làm và đang có nhu cầu tìm
việc làm.
Cũng có quan điểm cho rằng: Thất nghiệp là hiện tượng gồm những phần
mất thu nhập, do không có khả năng tìm được việc làm trong khi họ còn trong


9
độ tuổi lao động có khả năng lao động muốn làm việc và đã đăng ký ở cơ
quan môi giới về lao động nhưng chưa được giải quyết.
Như vậy, những người thất nghiệp tất yếu phải thuộc lực lượng lao động
hay dân số hoạt động kinh tế. Một người thất nghiệp phải có 3 tiêu chuẩn:
+ Đang mong muốn và tìm việc làm
+ Có khả năng làm việc
+ Hiện đang chưa có việc làm
Với cách hiểu như trên, không phải bất kỳ ai có sức lao động nhưng chưa
làm việc đều được coi là thất nghiệp. Do đó một tiêu thức quan trọng để xem
xét một người được coi là thất nghiệp thì phải biết được người đó có muốn đi
làm hay không. Bởi lẽ, trên thực tế nhiều người có sức khoẻ, có nghề nghiệp
song không có nhu cầu làm việc, họ sống chủ yếu dựa vào “nguồn dự trữ”
như kế thừa của bố mẹ, nguồn tài trợ.
* Phân loại thất nghiệp.
- Xét về nguồn gốc thất nghiệp có thể chia thành:
Thất nghiệp tự nhiên: Là loại thất nghiệp khi có một tỷ lệ nhất định số lao
động ở trong tình trạng không có việc làm.
Thất nghiệp tạm thời: Là loại thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển không
ngừng của ngành lao động giữa các vùng, giữa các loại công việc hoặc giữa
các giai đoạn khác nhau của cuộc sống.
Thất nghiệp cơ cấu: Là loại thất nghiệp xảy ra khi có sự mất cân đối giữa
cầu - cung lao động trong một ngành hoặc một vùng nào đó.
Thất nghiệp chu kỳ: Là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị tổng

sản lượng của nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh


10
doanh, tổng giá trị sản xuất giảm dần, hầu hết các nhà sản xuất giảm sản
lượng cầu đối với các đầu vào, trong đó có lao động. Đối với loại thất
nghiệp này, những chính sách nhằm khuyến khích tăng cầu thường mang
lại kết quả tích cực.
- Xét về tính chủ động của người lao động, thất nghiệp có thể chia thành:
Thất nghiệp tự nguyện: Là loại thất nghiệp mà ở mức tiền công nào đó
người lao động không muốn làm việc vì lý do cá nhân nào đó (di chuyển, sinh
con) thất nghiệp loại này thường gắn với thất nghiệp tạm thời.
Thất nghiệp không tự nguyện: Là loại thất nghiệp mà ở mức tiền công nào
đó người lao động chấp nhận nhưng vẫn không được làm việc do kinh tế suy
thoái, cung lớn hơn cầu về lao động.
Ngoài thất nghiệp hữu hình (thất nghiệp tự nguyện và không tự nguyện)
còn tồn tại thất nghiệp trá hình:
Thất nghiệp trá hình: Là hiện tượng xuất hiện khi người lao động được sử
dụng ở dưới mức khả năng mà bình thường người lao động sẵn sàng làm việc.
Hiện tượng này xảy ra khi năng suất lao động của một ngành nào đó thấp. Thất
nghiệp loại này thường gắn với việc sử dụng không hết thời gian lao động.
Xét theo hình thức thất nghiệp có thể chia thành:
Thất nghiệp theo giới tính: Là loại thất nghiệp của lao động nam (hoặc nữ).
Thất nghiệp chia theo lứa tuổi: Là loại thất nghiệp của một lứa tuổi nào đó
trong tổng số lực lượng lao động.
Thất nghiệp chia theo vùng lãnh thổ: Là hiện tượng thất nghiệp xảy ra
thuộc vùng lãnh thổ (thành thị, nông thôn, đồng bằng, miền núi ).
Thất nghiệp chia theo ngành nghề: Là loại thất nghiệp xảy ra ở một ngành
nghề nào đó.



11
Ngoài các loại thất nghiệp nêu trên, người ta có thể chia thất nghiệp theo
dân tộc, chủng tộc, tôn giáo
Khái niệm thiếu việc làm:
Theo ILO người thiếu việc làm là người trong tuần lễ tham khảo có số giờ
làm việc dưới mức quy định chuẩn cho người có đủ việc làm và có nhu cầu
thêm việc làm.
Theo một số chuyên gia về chính sách lao động việc làm thì cho rằng:
Người thiếu việc làm là những người đang làm việc có mức thu nhập dưới
mức lương tối thiểu và họ có nhu cầu làm thêm.
Từ khái niệm người thiếu việc làm trên có thể hiểu như sau: Người thiếu
việc làm là người lao động đang có việc làm nhưng họ làm việc không hết
thời gian theo pháp luật quy định hoặc làm những công việc mà tiền lương
thấp không đáp ứng đủ nhu cầu của cuộc sống, họ muốn tìm thêm việc làm để
bổ xung thu nhập.
ILO cũng khuyến nghị các nước dùng khái niệm người thiếu việc làm
hữu hình (nhìn thấy được) và người thiếu việc làm vô hình (khó xác định).
Thiếu việc làm hữu hình: Là khái niệm để chỉ hiện tượng người lao động
làm việc có thời gian ít hơn thường lệ, họ không đủ việc làm đang tìm kiếm
thêm việc làm và sẵn sàng để làm việc.
Tình trạng việc làm hữu hình được biểu thị bởi hàm số sử dụng thời gian
lao động như sau:
K =
Số giờ làm việc thực tế
x100%
Số giờ quy định
(Tính theo ngày, tháng, năm)



12
Thiếu việc làm vô hình: Là những người có đủ việc làm, làm đủ thời gian
thậm chí nhiều thời gian hơn mức bình thường nhưng thu nhập thấp. Nguyên
nhân của tình trạng này là do tay nghề hoặc kỹ năng của người lao động thấp
không sử dụng hết khả năng hiện có hoặc do điều kiện lao động tồi, tổ chức
lao động kém. Thước đo khái niệm thiếu việc làm vô hình là mức thu nhập
thấp hơn mức lương tối thiểu.
Nguyên nhân thiếu việc làm:
Do nền kinh tế chậm phát triển, diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu
người thấp và giảm dần do quá trình đô thị hoá, công nghiệp hóa.
Do lực lượng lao động tăng quá nhanh, trong khi đó số chỗ làm việc mới
tạo ra quá ít, do trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề của người lao động
còn thấp kém.
Do tính chất thời vụ, thời tiết khí hậu, do chính sách đầu tư chưa hợp lý,
sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được v.v.
1.1.2. Đặc điểm của việc làm ở nông thôn
Nông thôn là nơi sinh sống của một bộ phận dân cư chủ yếu làm việc
trong lĩnh vực nông nghiệp. Có nhiều loại việc làm diễn ra ở nông thôn, phản
ánh tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội ở nông thôn. Nhưng việc
làm của người lao động ở nông thôn lại gắn với đặc điểm của lực lượng lao
động ở đây, với điều kiện tự nhiên nơi họ sinh sống.
Việc làm của người lao động ở nông thôn là những hoạt động lao động
trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã
hội của một bộ phận lực lượng lao động sinh sống ở nông thôn để mang lại
thu nhập mà không bị pháp luật ngăn cấm.


13
Việc làm của người lao động ở nông thôn gắn liền với môi trường, điều
kiện sinh sống và làm việc của người lao động. Và chính môi trường, điều

kiện đó đã ảnh hưởng đến việc làm của họ, thậm chí quyết định việc làm của
họ. Người lao động ở nông thôn thường làm việc trong những ngành nông,
lâm, thủy sản - những loại việc làm có thể khai thác tài nguyên tự nhiên chính
nơi họ sinh sống. Ví dụ người sống ở rừng núi hay làm nghề rừng, người sống
ở vùng duyên hải hay làm nghề biển Việc làm của họ chủ yếu phụ thuộc vào
điều kiện tự nhiên và sức lao động của chính mình. Trong điều kiện nền kinh
tế nông nghiệp lạc hậu, việc làm của người lao động ở nông thôn càng mang
tính thủ công, nặng nhọc và có thu nhập thấp. Khi kinh tế nông thôn vẫn chủ
yếu là nông nghiệp, ở đó ẩn chứa nhiều nguy cơ thiếu việc làm hữu hình. Vì
vậy, đa dạng hóa ngành nghề, mở nhiều loại hình việc làm, phát triển kinh tế,
xã hội ở nông thôn là phương hướng chủ yếu giải quyết việc làm cho người
lao động ở nông thôn.
Các loại việc làm của người lao động ở nông thôn:
Các loại việc làm của người dân là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt thành
thị với nông thôn. Nếu như ở thành thị, dân cư tập trung làm việc trong các
ngành tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và dịch vụ là chính, thì ở nông thôn
dân cư chủ yếu sản xuất nông nghiệp và những ngành gắn với nông nghiệp,
nông thôn. Các loại việc làm ở nông thôn rất đa dạng với hàng trăm ngành,
nghề khác nhau. Tuy nhiên có thể phân thành các loại việc làm thuần nông và
việc làm phi nông nghiệp.
Việc làm thuần nông là những hoạt động lao động trong lĩnh vực trồng trọt
và chăn nuôi. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay chăn nuôi và trồng trọt
vẫn là công việc chính của nhà nông ở nước ta. Trong đó trồng trọt chiếm
73%; chăn nuôi chiếm 27%. Trong trồng trọt cây lương thực vẫn chiếm


14
78,2% diện tích cơ cấu cây trồng, cây rau màu và cây công nghiệp chỉ chiếm
21,8% Còn chăn nuôi ở nông thôn phần lớn chỉ để tận dụng thức ăn dư thừa
và cung cấp phần nào nhu cầu thực phẩm ở nông thôn.

Như vậy, có thể nói lao động trong trồng trọt và chăn nuôi là việc làm chính
của người lao động ở nông thôn. Thế mạnh của lĩnh vực này là người lao động
được kế thừa kinh nghiệm sản xuất của ông cha để lại. Người lao động ở nông
thôn lớn lên đã theo cha mẹ ra đồng làm việc nên họ thường quan niệm rằng
không cần phải qua trường lớp đào tạo. Kiến thức nghề nông được tích lũy dần
trong quá trình người lao động tham gia sản xuất từ nhỏ với tư cách là người lao
động phụ của gia đình. Bên cạnh đó, loại công việc này còn nhiều hạn chế:
Thứ nhất, sản xuất năm này theo năm khác, lặp đi lặp lại nên người lao
động chỉ làm việc theo kinh nghiệm, ít có cải tiến, sáng tạo dẫn đến năng
suất và hiệu quả công việc không được nâng cao. Quá trình đó cứ diễn ra như
thế từ ngàn năm, làm cho tiến trình phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn diễn
ra một cách chậm chạm.
Thứ hai, loại công việc này có tính chất mùa vụ nên lao động ở nông thôn
sẽ thiếu việc làm trong những lúc nông nhàn. Mặt khác, cùng với quá trình đô
thị hóa, đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng làm cho người nông
dân bị mất tư liệu sản xuất và với trình độ học vấn, tay nghề thấp họ sẽ gặp
khó khăn trong tìm kiếm việc làm và phải làm những công việc nặng nhọc với
mức lương thấp Đặc biệt là trong quá trình hội nhập, người lao động làm
việc trong lĩnh vực thuần nông có nguy cơ bị thiếu việc làm và bị thất nghiệp
cao.
Việc làm phi nông nghiệp là lĩnh vực rộng lớn, gồm tất cả các ngành, nghề
ngoài nông nghiệp ở nông thôn. Cùng với sự hình thành và phát triển của cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước các loại ngành, nghề ở nông thôn


15
phát triển đã tạo nên sự phong phú, đa dạng về việc làm cho người lao động ở
khu vực này. Hiện nay đã có nhiều loại hình công việc ngoài nông nghiệp ra đời
và phát triển mạnh. Bên cạnh sự phát triển của các làng nghề truyền thống như
sản xuất đồ gỗ, gốm sứ, thêu ren, đồ thủ công mỹ nghệ nhiều ngành nghề chế

biến nông, lâm, thủy sản mới xuất hiện, như: sấy thóc, sơ chế và chế biến cà phê,
chế biến hạt điều, vải, chế biến rau quả, thủy sản, súc sản… Hoạt động gia công
cơ khí xuất hiện phục vụ sửa chữa đồ gia dụng, nông cụ, sửa chữa máy móc
nông nghiệp. Đặc biệt cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, dịch vụ ở
nông thôn cũng phát triển mạnh mẽ. Nhiều loại hình dịch vụ phục vụ đời sống
trước đây chỉ có ở thành thị thì nay đã có ở nông thôn như: dịch vụ vệ sinh nông
thôn, dịch vụ cung cấp nước sạch Nhiều việc làm trước đây bị xã hội coi rẻ
như: giúp việc gia đình, chạy chợ thì nay đã được công nhận như một nghề.
Tất cả những biến đổi đó đã tạo ra nhiều loại hình việc làm đa dạng cho người
lao động ở nông thôn.
Việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn có vai trò tích cực trong phát triển
kinh tế xã hội ở nông thôn:
- Phát triển ngành nghề ngoài việc đem lại việc làm ổn định, thường xuyên
cho người lao động trong lĩnh vực đó, còn có khả năng thu hút thêm lao động
nhàn rỗi ở nông thôn. Ngoài ra sự phát triển của nó lại nảy sinh những ngành
nghề mới, những hoạt động dịch vụ liên quan tạo thêm nhiều việc làm mới
cho người lao động.
- Loại việc làm này thường đưa lại thu nhập ổn định và cao hơn cho người
lao động. Hiện nay thu nhập của các hộ chuyên ngành nghề ở nông thôn
thường cao hơn khoảng 4 lần so với thu nhập bình quân của hộ lao động nông
nghiệp thuần. Điều đó giúp tăng tỉ lệ hộ giàu, tăng tích lũy, tạo điều kiện để


16
nâng cấp và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần cho người lao động ở nông thôn.
- Việc làm phi nông nghiệp có vai trò to lớn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới.
Các ngành nghề ở nông thôn sử dụng nông sản hàng hóa làm nguyên vật

liệu đã hình thành nên hệ thống dịch vụ đầu vào, đầu ra, đưa lại giá trị gia
tăng cho sản phẩm nông nghiệp. Mặt khác do yêu cầu của công việc, người
lao động làm việc trong các ngành nghề ít nhiều phải có tay nghề và đòi hỏi
phải có tay nghề ngày càng cao. Điều đó bắt buộc người lao động phải
không ngừng học tập, rèn luyện giúp nâng cao chất lượng nguồn lao động ở
nông thôn.
Việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn hiện nay đang phát triển phong
phú, đa dạng. Tuy nhiên sự phát triển của loại việc làm này cũng gặp khó
khăn do hạn chế về trình độ tay nghề của người lao động, về công nghệ cũng
như giới hạn về khả năng quản lý của chủ hộ sản xuất kinh doanh, về nguồn
vốn và phong tục tập quán. Người dân có nghề phi nông nghiệp vẫn chưa
mạnh dạn bỏ ruộng để tập trung sản xuất ngành nghề.
Tóm lại, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển ngành nghề ở
nông thôn, nhưng so với việc làm thuần nông thì sự phát triển gia tăng của
việc làm phi nông nghiệp hiện nay đang chiếm ưu thế và đang trong xu thế
phát triển. Bởi vì so với lĩnh vực thuần nông, lĩnh vực phi nông nghiệp ở nông
thôn ít gặp những giới hạn của tự nhiên, ngược lại nó còn được thúc đẩy mạnh
mẽ bởi sự phát triển của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nếu như
việc làm thuần nông ngày càng bị thu hẹp thì việc làm phi nông nghiệp đang
trong xu thế phát triển mở rộng do chính sự phát triển của một nền nông


17
nghiệp hàng hóa đưa lại. Hơn nữa, nông thôn Việt Nam đang vươn mình phát
triển. Điều đó tạo ra thị trường rộng lớn cho sản xuất, hình thành cơ cấu kinh
tế công, nông nghiệp, dịch vụ và cơ cấu lao động tiến bộ ở nông thôn.
1.1.3 Đặc điểm của lực lượng lao động ở nông thôn
Lực lượng lao động ở nông thôn là một bộ phận của lực lượng lao động cả
nước sinh sống và làm việc tại khu vực nông thôn. Cũng như lực lượng lao
động chung của cả nước, lực lượng lao động ở nông thôn là bộ phận dân số

từ 15 tuổi trở lên có việc làm hay không có việc làm và đang tìm kiếm việc
làm.
Lực lượng lao động ở nông thôn của nước ta có những đặc điểm sau:
Một là, lực lượng lao động ở nông thôn nước ta hiện nay đang chiếm tỷ
trọng lớn trong lực lượng lao động cả nước và tăng với qui mô lớn so với lực
lượng lao động ở thành thị. Dân số nước ta năm 2008 là 86,16 triệu người,
đứng thứ 12 trên thế giới, trong đó nông dân chiếm tỷ lệ 72,1 % dân số. Lực
lượng lao động ở nông thôn hiện nay chủ yếu làm việc trong nông – lâm –
ngư nghiệp, một bộ phận không nhiều hoạt động ở lĩnh vực du lịch, tiểu thủ
công nghiệp. Thời gian lao động trung bình ở nông thôn hiện nay mới chỉ
chiếm khoảng 65-70%, còn lại là thời gian nông nhàn, trong khi sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi phải giảm bớt lao động
nông nghiệp để chuyển sang công nghiệp, dịch vụ. [39]
Như vậy lực lượng lao động hiện nay ở nước ta phần lớn là ở nông thôn
và hàng năm khu vực này lại được tiếp nhận một lực lượng lao động trẻ, có
sức khỏe và trình độ văn hóa, rất dễ dàng trong việc tiếp thu ứng dụng khoa
học kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế khu vực
nông thôn, là nguồn lực to lớn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên lực lượng lao động ở nông thôn gia tăng sẽ


18
tạo sức ép việc làm ở khu vực nông thôn. Bởi vì lực lượng lao động tăng lên
trong khi đất canh tác lại giảm dần do quá trình đô thị hóa, dẫn đến diện tích
canh tác trên đầu người giảm, thời gian sử dụng ngày công trong nông nghiệp
thấp, người lao động phải làm những công việc có thu nhập thấp gây ra hiện
tượng thiếu việc làm ở nông thôn.
Hai là, lực lượng lao động ở nông thôn hiện nay đang chuyển dịch theo
hướng giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp và tăng tỷ trọng trong các
ngành công nghiệp và dịch vụ.

Ở nước ta, năm 2008, dân số khu vực thành thị là 24 triệu người, tăng
2,85% so với năm trước, chiếm 27,9% tổng dân số; dân số khu vực nông thôn
là 62,1 triệu người, tăng 0,55% và chiếm 72,1%. [39]
Trên phạm vi cả nước từ 2001 đến 2008, tỉ trọng lao động làm việc trong
khu vực I (Nông, Lâm, Thủy sản) giảm từ 62,6% năm 2001 xuống còn 53,2%
năm 2008, bình quân hàng năm giảm gần 1,2%. Tỉ trọng lao động làm việc
trong khu vực II (công nghiệp) tăng từ 13,1% năm 2000 lên 20,9% năm 2008,
bình quân hàng năm tăng gần 1%. Tỉ trọng lao động làm việc trong khu vực
III (dịch vụ) tăng từ 24,3% năm 2001 lên 26,1% năm 2008. Lao động ở nông
thôn cũng không nằm ngoài xu hướng vận động chung đó. [39]
Đặc biệt từ khi thực hiện chủ trương giao đất, giao rừng, người lao động ở
nông thôn đã có sự độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Nền sản xuất
nông thôn đã có sự chuyển hướng từ thuần nông, tự túc, tự cấp sang sản xuất
hàng hóa, ai giỏi nghề gì làm nghề ấy, đa dạng nhiều ngành nghề. Ngoài trồng
trọt, chăn nuôi người lao động có thể làm việc trong các ngành nghề khác tại
các xí nghiệp vừa và nhỏ tại địa phương.
Dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quá trình
chuyển dịch về cơ cấu lao động trên càng được thúc đẩy nhanh chóng. Việc


19
ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, một mặt đã tạo ra nhiều ngành
nghề ở địa phương, kéo theo sự xuất hiện của nhiều loại hình dịch vụ có khả
năng thu hút lao động lớn. Mặt khác, do ứng dụng khoa học công nghệ vào
sản xuất, năng suất lao động của nông nghiệp sẽ không ngừng tăng lên, vai trò
quan trọng của nông thôn là cung cấp lương thực, thực phẩm cho toàn dân,
cung cấp nguyên vật liệu cho công nghiệp ngày càng được đảm bảo cho phép
giải phóng lao động nông nghiệp sang làm các ngành nghề khác. Như vậy,
song song với quá trình rút lao động ra khỏi sản xuất nông nghiệp cũng đồng
thời diễn ra quá trình thu hút lực lượng lao động ở nông thôn vào các ngành

công nghiệp và dịch vụ. Đó là xu hướng vận động phù hợp với xu hướng phát
triển tiến bộ nhưng yêu cầu đặt ra là phải chuẩn bị lực lượng lao động ở nông
thôn đáp ứng được yêu cầu của lao động ngành nghề, tạo ra sự đồng bộ giữa
kỹ năng, trình độ của người lao động với cơ hội việc làm.
Ba là, lực lượng lao động ở nông thôn có nhiều đặc tính phù hợp với sự
phát triển nhưng còn nhiều hạn chế.
Nông thôn là nơi sinh sống và làm việc của đại đa số dân cư Việt nam.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nông thôn Việt nam đã tạo nên những truyền
thống, bản sắc văn hóa quí báu làm nên những phẩm chất tốt đẹp của con
người nơi đây. Đó là tinh thần đoàn kết tương thân tương ái, lòng yêu nước,
trung thành với Đảng với cách mạng, sự cần cù sáng tạo trong lao động sản
xuất v.v đó là những lợi thế to lớn của lực lượng lao động trong phát triển
kinh tế, xã hội ở nông thôn và tham gia phân công lao động quốc tế.
Tuy nhiên bên cạnh đó lực lượng lao động nông thôn còn có nhiều điểm
hạn chế, đó là:
- Lực lượng lao động ở nông thôn có sự phân bố không đều giữa các vùng,
các ngành. Do ngành nông nghiệp của chúng ta chủ yếu thiên về trồng trọt


20
nên phần lớn lực lượng lao động tập trung ở những nơi có điều kiện tự nhiên
thuận lợi cho việc cấy, trồng làm cho vùng đồng bằng đất chật người đông,
thiếu việc làm trong khi đó vùng rừng núi có diện tích đất đai rộng lớn nhưng
dân cư thưa thớt, không đủ lao động để phát triển nghề rừng.
- Lực lượng lao động ở nông thôn thường hạn chế về sức khỏe, thể lực.
Do sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào tự nhiên có năng suất thấp, bấp
bênh nên thu nhập của người lao động nông thôn thấp hơn thu nhập của người
lao động ở các khu vực khác. Hơn nữa, do hạn chế nhiều mặt về thông tin,
thiếu hiểu biết về chế độ dinh dưỡng cho cuộc sống cho nên người lao động ở
nông thôn không có điều kiện để nâng cao chất lượng cuộc sống. Thể lực, tầm

vóc và tuổi thọ trung bình của người lao động ở nông thôn thường thấp hơn
người lao động ở thành thị. Khu vực nông thôn cũng chưa được tạo điều kiện
để nâng cao các yếu tố khác của chất lượng nguồn lao động như văn hóa,
chuyên môn nghiệp vụ cũng như nhận thức về công ăn việc làm, tinh thần ý
thức trách nhiệm để có việc làm và làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu
quả. Hạn chế này của lực lượng lao động ở nông thôn hiện nay đang được
khắc phục cùng với sự phát triển của nông thôn và quá trình rút ngắn khoảng
cách giữa nông thôn và thành thị.
- Lực lượng lao động ở nông thôn có trình độ học vấn và trình độ tay nghề
thấp, người lao động thường làm việc theo kinh nghiệm nên không có điều kiện
nâng cao tay nghề. Mặt khác, người lao động có trình độ cao thường muốn tìm
cho mình một chỗ làm việc ở thành thị, có thu nhập cao, có điều kiện hưởng thụ
những kết quả của sự phát triển xã hội. Họ thường tìm việc làm ở thành phố chứ
ít khi làm việc ở nông thôn. Lực lượng lao động còn lại ở nông thôn thường là
những người không có điều kiện đi làm ở nơi khác mới ở lại nông thôn làm việc.
Do vậy, cần phải đào tạo và tập huấn tay nghề cho họ để nâng cao chất lượng
nguồn lao động ở khu vực này.


21
Tóm lại, lực lượng lao động ở nông thôn nước ta chiếm phần lớn trong lực
lượng lao động cả nước. Đó là nguồn lực to lớn, có vai trò quan trọng trong
phát triến kinh tế xã hội ở nông thôn nói riêng và trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung. Tiềm năng của lực lượng lao động ở
nông thôn là hết sức to lớn. Tuy nhiên tiềm năng đó chưa được khai thác và
phát huy đầy đủ. Lực lao động ở nông thôn đông nhưng chưa mạnh. Chính vì
vậy cần phát triển kinh tế xã hội, tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn
một cách đầy đủ, phù hợp với trình độ người lao động để khai thác, phát huy
nguồn nhân lực ở nông thôn đồng thời phải có chiến lược bồi dưỡng, phát
triển lực lượng lao động cho khu vực này.

1.1.4. Một số mô hình việc làm và giải quyết việc làm ở nông thôn
1.1.4.1. Lý thuyết tạo việc làm của John Maynard Keynes
J.M. Keynes (1883- 1946) là nhà kinh tế học người Anh. Tác phẩm nổi
tiếng của ông là cuốn "Lý luận chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ" xuất bản
năm 1936. Trong tác phẩm này, J.M Keynes xem xét việc làm trong mối quan
hệ giữa sản lượng - thu nhập - tiêu dùng - đầu tư - tiết kiệm- việc làm.
Theo Keynes, để tăng việc làm, giảm thất nghiệp, phải tăng tổng cầu của
nền kinh tế. Chính phủ có vai trò kích thích tiêu dùng (tiêu dùng sản xuất và
phi sản xuất) để tăng tổng cầu thông qua tăng trực tiếp các khoản chi tiêu của
chính phủ, hoặc thông qua các chính sách của Chính phủ nhằm khuyến khích
đầu tư của tư nhân, của các tổ chức kinh tế xã hội. Keynes còn sử dụng các
biện pháp: hạ lãi suất cho vay, giảm thuế, trợ giá đầu tư, in thêm tiền giấy để
cấp phát cho ngân sách nhà nước nhằm tăng đầu tư và bù đắp các khoản chi
tiêu của Chính phủ.
1.1.4.2. Lý thuyết về tạo việc làm bằng chuyển giao lao động giữa hai khu vực
của nền kinh tế


22
Lý thuyết này do Athur Lewis - nhà kinh tế học Jamaica được giải thưởng
Nobel 1979 đưa ra. Tư tưởng cơ bản của lý thuyết này là chuyển số lao động
dư thừa từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp hiện đại do hệ
thống tư bản nước ngoài đầu tư vào các nước lạc hậu. Quá trình này sẽ tạo
điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Bởi vì trong khu vực nông nghiệp, đất
đai chật hẹp, lao động lại quá dư thừa. Ngoài số lao động cần đủ cho sản xuất
nông nghiệp, còn có lao động thừa làm các ngành nghề lặt vặt, buôn bán nhỏ,
phục vụ trong gia đình và lao động phụ nữ. Số lao động dôi dư này không có
công ăn việc làm. Nói cách khác, họ không có tiền lương và thu nhập. Vì vậy,
việc di chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp có
hai tác dụng:

Một là, chuyển bớt lao động ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp, chỉ để lại
lượng lao động đủ để tạo ra sản lượng cố định. Từ đó nâng cao sản lượng theo
đầu người đồng thời tạo việc làm cho số lao động dôi dư trong nông nghiệp.
Mặt khác, việc di chuyển này sẽ làm tăng lợi nhuận trong lĩnh vực công
nghiệp, tạo điều kiện nâng cao sức tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung.
1.1.4.3. Lý thuyết của Harry Toshima (nhà kinh tế học người Nhật Bản)
Theo Harry Toshima, lý thuyết của Athur Lewis không có ý nghĩa thực tế
với tình trạng dư thừa lao động trong nông nghiệp ở các nước châu Á gió
mùa. Bởi vì, nền nông nghiệp lúa nước vẫn thiếu lao động lúc đỉnh cao của
thời vụ và chỉ dư thừa lao động trong mùa nhàn rỗi. Vì vậy, ông cho rằng cần
giữ lại lao động nông nghiệp và chỉ tạo thêm việc làm trong những tháng nhàn
rỗi bằng cách thâm canh, tăng vụ, đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi Đồng
thời, sử dụng lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp vào các ngành sản xuất
công nghiệp cần nhiều lao động. Việc tạo thuận lợi hơn nữa để có việc làm
đầy đủ cho mọi thành viên gia đình nông dân trong những tháng nhàn rỗi sẽ


23
nâng cao mức thu nhập hàng năm của họ và sẽ mở rộng được thị trường trong
nước cho các ngành công nghiệp và dịch vụ. Như vậy, lực lượng lao động sẽ
được sử dụng hết.
Tóm lại, các lý thuyết về việc làm nêu trên đều tập trung nghiên cứu, xác
định mối quan hệ cung cầu lao động tác động đến việc làm. Những lý luận đó
chưa làm rõ vai trò của Chính phủ thông qua hệ thống các chính sách kinh tế
kết hợp với chính sách xã hội để tạo việc làm ổn định cho nền kinh tế, nhưng
có tác dụng gợi mở cho chúng ta khi phân tích thực trạng việc làm và đề ra
những giải pháp phù hợp tạo việc làm cho người lao động, đặc biệt là cho
người lao động ở khu vực nông thôn.
1.2. Các nhân tố ảnh hƣởng đến việc làm của lao động ở nông thôn
1.2.1. Vai trò của nhà nước

Với xuất phát điểm thấp, bản thân những người lao động nông thôn không
đủ khả năng để tự giải quyết công ăn việc làm cho chính mình trong quá trình
hội nhập, để góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động nông
thôn cần thiết phải có sự hỗ trợ của nhà nước trên nhiều mặt. Vai trò của nhà
nước ảnh hưởng tới việc làm của người lao động nông thôn thông qua việc
xây dựng chiến lược phát triển đất nước, quy hoạch phát triển đô thị, trợ giúp
vốn, phát triển nguồn nhân lực,
Qua quy hoạch phát triển các ngành, quy hoạch phát triển các vùng mà
các ngành, các vùng xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển ngành, vùng
mình, xây dựng đội ngũ người lao động cho phù hợp.
Nếu quy hoạch đô thị gắn với quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông
thôn, gắn với chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nông thôn các ngành
sẽ hỗ trợ nhau và tạo điều kiện cho nhau phát triển, tạo nhiều việc làm cho
người lao động nông thôn.

×