Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Xóa đói giảm nghèo trong quá trình tăng trưởng kinh tế ở Bắc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 118 trang )



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ADB : Ngân hàng phát triển Châu Á
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
DN : Doanh nghiệp
ĐBKK : Đặc biệt khó khăn
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
HĐND : Hội đồng nhân dân
ILO : Tổ chức Lao động quốc tế
KCN : Khu công nghiệp
TTKT : Tăng trưởng kinh tế
TTCN : Tiểu thủ công nghiệp
TW : Trung ương
PTKT : Phát triển kinh tế
USD : Đô la Mỹ
UBND : Ủy ban nhân dân
VNĐ : Việt Nam đồng
XĐGN : Xóa đói giảm nghèo
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
WB : Ngân hàng thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. So sánh sự thay đổi mức nghèo đói ở các nước 20
Bảng 2.1: Kết quả thu chi ngân sách trên địa bàn tỉnh 42
Bảng 2.2. Bảng giá trị sản xuất theo giá so sánh 1994 phân theo
khu vực kinh tế 46


Bảng 2.3. Tốc độ phát triển (năm trước =100) -% 47
Bảng 2.4. Cơ cấu ngành nông nghiệp 2004 - 2011 49
Bảng 2.5. Tình hình đói nghèo ở Bắc Giang giai đoạn từ 1997-1999. 60
Bảng 2.6 Tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2000 – 2005 65
Bảng 2.7. Một số chỉ tiêu phát triển xã hội 68
Bảng 2.8. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo
tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2001 – 2005 (đơn vị %) 71
Bảng 2.9. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo
tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2005 – 2011 (đơn vị %) 72


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Tăng trưởng GDP 2000-2011 45
Biểu đồ 2.2: Biểu đồ cơ cấu ngành 45
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu ngành nông nghiệp 2000 - 2011 49
Biểu đồ 2.4: Giá trị sản xuất nông nghiệp theo giá so sánh 1994 49
Biểu đồ 2.5: Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 52
Biểu đồ 2.6: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
trên địa bàn 56
Biểu đồ 2.7: giá trị sản xuất dịch vụ theo giá so sánh 1994 57
Biểu đồ 2.8: Biểu diễn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và giảm nghèo tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2000 – 2005 70
Biểu đồ 2.9: Biểu diễn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và giảm nghèo tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2005 – 2011 72


1
MỤC LỤC


MỞ ĐẦU 4
1. Lí do chọn đề tài 4
2. Tình hình nghiên cứu 7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
5. Phương pháp nghiên cứu 9
6. Dự kiến đóng góp của đề tài 10
7. Kết cấu của luận văn 10
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
TRONG QUÁ TRÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 11
1.1. Các khái niệm liên quan đến xóa đói giảm nghèo. 11
1.1.1. Các khái niệm về nghèo đói. 11
1.1.2. Nguyên nhân nghèo đói 13
1.1.3. Các tiêu chí xác định chuẩn nghèo đói quốc tế và Việt Nam. 17
1.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo 19
1.2.1. Tăng trưởng kinh tế, tiền đề cho xóa đói giảm nghèo bền vững 19
1.2.2. Xóa đói giảm nghèo hiệu quả thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
bền vững 22
1.3. Các chính sách xóa đói giảm nghèo trong quá trình tăng trưởng
kinh tế ở các nước đang phát triển 25
1.3.1. Các chính sách cứu trợ 25
1.3.2. Các chính sách an sinh xã hội 25
1.3.3. Chính sách hỗ trợ vốn và tư liệu sản xuất. 29
1.3.4. Chính sách giải quyết việc làm 29
1.3.5. Một số chính sách có tính chất tổng hợp 30


2
1.4. Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của một số tỉnh trong cả nước 32
1.4.1. Kinh nghiệm về xóa đói giảm nghèo ở vùng Tây Nguyên 32

1.4.2. Kinh nghiệm về xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Ninh Bình 34
1.4.3 Kinh nghiệm về xóa đói giảm nghèo ở một số tỉnh
miền núi phía Bắc 36
Chương 2: THỰC TRẠNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
TRONG QUÁ TRÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở BẮC GIANG
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NAY 39
2.1. Khái quát về quá trình tăng trưởng kinh tế ở Bắc Giang
từ 1997 đến nay 39
2.1.1. Giai đoạn 1997 – 2000 39
2.1.2. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay 44
2.2. Thực trạng xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Bắc Giang
từ năm 1997 đến nay 58
2.2.1. Giai đoạn 1997 – 2000 58
2.2.2. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay 64
2.2.3. Kết quả thực hiện xoá đói giảm nghèo những năm qua 67
2.3. Thực trạng giải quyết mối quan hệ xóa đói giảm nghèo
gắn với tăng trưởng kinh tế ở Bắc Giang thời gian qua 69
2.3.1. Thành tựu 69
2.3.2. Hạn chế 75
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế 76
2.4. Một số bài học kinh nghiệm về tăng trưởng kinh tế gắn
với xoá đói giảm nghèo 77
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT TỐT HƠN
NỮA CÔNG TÁC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO, THÚC ĐẨY TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ BỀN VỮNG Ở BẮC GIANG 81


3
3.1. Quan điểm, phương hướng giải quyết đói nghèo vì mục tiêu
tăng trưởng kinh tế bền vững ở tỉnh Bắc Giang 81

3.1.1. Quan điểm chung về công tác xóa đói giảm nghèo gắn với
tăng trưởng kinh tế 81
3.1.2. Định hướng và mục tiêu giải quyết đói nghèo trong quá trình
tăng trưởng kinh tế của tỉnh Bắc Giang 86
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh công tác xóa đói
giảm nghèo gắn với tăng trưởng kinh tế tỉnh Bắc Giang 89
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách vĩ mô để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, tạo nguồn lực xóa đói giảm nghèo 89
3.2.2. Nhóm giải pháp trực tiếp liên quan tới mục tiêu xoá đói
giảm nghèo 97
3.2.3. Nhóm giải pháp tổ chức thực hiện. 102
KẾT LUẬN 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 113





4
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, trong bối cảnh quốc tế hóa, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới,
bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển đều phải tham gia vào quá trình đó.
Quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế đã làm cho thế giới có những thay đổi căn
bản. Rất nhiều nước nắm bắt được cơ hội và có các chính sách phù hợp, đã
góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Quá trình toàn cầu
hóa nền kinh tế đang diễn ra hết sức mãnh mẽ, nhưng bên cạnh đó nạn nghèo
đói vẫn tiếp tục gia tăng. Nghèo đói đã và đang diễn ra trên khắp thế giới với
các mức độ khác nhau, đặc biệt là các nước lạc hậu, chậm phát triển.

Ngày nay khái niệm phát triển đã được nhận thức rằng, không phải
chỉ có sự tăng lên về sản lượng của nền kinh tế mà còn bao hàm cả sự tiến
bộ về cơ cấu kinh tế xã hội cho nhân dân chính vì vậy công bằng xã hội và
xoá đói giảm nghèo là điều kiện cần thiết cho sự phát triển bền vững. Ở
nước ta, sau 27 đổi mới, nền kinh tế đang từng bước khởi sắc và đã đạt
được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh khối dân cư giàu có và
trung lưu ngày một gia tăng, vẫn còn một bộ phận lớn dân cư nghèo đói. Tỷ
lệ nghèo đói ở Việt Nam còn rất cao (năm 2010 là 10%), đang là một thách
thức lớn đối với sự phát triển và trở thành mối quan tâm chung, vấn đề cấp
bách phải giải quyết của toàn xã hội. Do đó phát triển kinh tế, cái nhìn tổng
quát, chính là giải quyết vấn đề giảm nghèo, chuyển nước ta từ một nước
nghèo trở thành một nước giàu có, văn minh.
Kinh nghiệm lịch sử thế giới đã chỉ ra rằng, một đất nước cũng như một
địa phương muốn tăng trưởng kinh tế bền vững, có chất lượng thì phải giải
quyết tốt được các vấn đề xã hội, đặc biệt là xóa đói giảm nghèo và đảm bảo
công bằng xã hội và ngược lại giải quyết tốt vấn đề này sẽ góp phần cho tăng
trưởng kinh tế bền vững hơn. Bởi vậy, có thể nói tăng trưởng kinh tế gắn với


5
xóa đói giảm nghèo bền vững có mối quan hệ với nhau và đây là mối quan hệ
qua lại, tác động biện chứng lẫn nhau.
Ở nước ta xóa đói giảm nghèo đã trở thành một chính sách nằm trong
hệ thống chính sách xã hội của quốc gia. Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ
rõ: "Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế, phải luôn coi trọng yêu cầu nâng cao các phúc lợi xã hội cơ bản của nhân
dân, đặc biệt là đối với người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính
sách Nhà nước tăng đầu tư từ ngân sách tiếp tục phát triển cơ sở vật chất -
kỹ thuật để nâng cao phúc lợi chung cho toàn xã hội và bảo đảm cung ứng các
dịch vụ xã hội cơ bản, trước hết là về y tế, giáo dục cho người nghèo, vùng

nghèo, các đối tượng chính sách và dịch vụ công cộng liên quan trực tiếp
đến đời sống nhân dân và là yếu tố quan trọng góp phần ổn định xã hội.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định:
“Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ;
đa dạng hóa nguồn lực và phương thức để đảm bảo giảm nghèo bền vững,
nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn, khuyến khích
làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên.
Có các chính sách và giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo,
giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị”.
Để cụ thể hóa hơn định hướng của Đảng, Chính phủ đã đưa ra mục tiêu
cần đạt được trong giảm nghèo từ 2011 đến 2020: Giảm nghèo bền vững là
một trong những trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2011 – 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của
người nghèo, trước hết ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số;
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng
cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và
các nhóm dân cư. Cụ thể cần đạt được: Thu nhập của hộ nghèo tăng lên 3,5


6
lần; tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm, riêng các huyện nghèo, xã nghèo
giảm 4%/năm theo chuẩn nghèo từng giai đoạn; Điều kiện sống của người
nghèo được cải thiện rõ rệt, trước hết là vấn đề y tế, giáo dục, văn hóa, nước
sinh hoạt, nhà ở; người nghèo tiếp cận ngày càng thuận lợi hơn các dịch vụ xã
hội cơ bản; Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở các huyện nghèo; xã nghèo, thôn,
bản đặc biệt khó khăn được tập trung đầu tư đồng bộ theo tiêu chí nông thôn
mới, trước hết là hạ tầng thiết yếu như: giao thông, điện, nước sinh hoạt…
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng chỉ ra: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả
chương trình xóa đói giảm nghèo. Quan tâm xây dựng kết cấu hạ tầng cho các
vùng nghèo, xã nghèo; đồng thời nâng cấp, cải tạo các tuyến trục giao thông

nối vùng nghèo, xã nghèo với nơi khác, tạo điều kiện thuận lợi cho vùng
nghèo, vùng khó khăn phát triển. Đi đôi với việc xây dựng kết cấu hạ tầng,
phải rất coi trọng việc tạo nguồn lực cần thiết để dân cư ở các vùng nghèo, xã
nghèo đẩy mạnh sản xuất, phát triển ngành nghề, tăng nhanh thu nhập…Nâng
dần mức sống của các hộ đã thoát nghèo, tránh tình trạng tái nghèo”.
Bắc Giang là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, nằm trong
vùng trung du và miền núi phía bắc. Bắc Giang giáp với nhiều tỉnh thành,
phía Bắc giáp Lạng Sơn, phía tây giáp Thái Nguyên và Hà Nội, phía nam giáp
Bắc Ninh và Hải Dương, là một tỉnh nằm liền kề với tam giác kinh tế trọng
điểm khu vực phía bắc. Bắc Giang đã đạt được những thành tựu tốc độ tăng
trưởng khá (Tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt 10,5% năm 2011) và ổn định
trong nhiều năm tuy nhiên trong quá trình tăng trưởng của mình Bắc Giang
vướng phải một trở ngại lớn, đó là tình trạng phân hóa giàu nghèo có xu
hướng ngày càng sâu sắc hơn. Vì vậy, xóa đói giảm nghèo nhằm mục tiêu
tăng trưởng bền vững, khắc phục tình trạng tái nghèo đang trở thành vấn đề
bức thiết trong quá trình phát triển kinh tế của tỉnh. Muốn giải quyết tốt vấn
đề này cần sự phối hợp của các cấp lãnh đạo, toàn thể cộng đồng cũng như ý
trí vươn lên của chính người nghèo.


7
Chính vì những lý do trên nên tác giả chọn đề tài “Xóa đói giảm
nghèo trong quá trình tăng trưởng kinh tế ở Bắc Giang” làm đề tài
nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề kết hợp tăng trưởng kinh tế với xóa
đói giảm nghèo nói riêng và các vấn đề xã hội nói chung đã và đang thu hút
không ít sự quan tâm của các học giả với nhiều bài viết trên các báo, tạp chí,
nhiều luận án, luận văn, các đề tài khoa học và các công trình dưới dạng tài
liệu tham khảo như:

Phan Thanh Biển, Luận văn thạc sỹ “Hiệu quả xóa đói giảm nghèo từ
các dự án phát triển nông thôn tỉnh Hà Tĩnh”
Lê Đức An, Luận văn thạc sỹ “Xóa đói giảm nghèo ở khu vực duyên
hải miền Trung”
Phí Mạnh Hồng, Những trở lực đối với việc giải quyết mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và cong bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Hoàng Liên Sơn, Luận văn thạc sỹ “Tín dụng cho người nghèo ở Hà Nội”
Vũ Văn Hiền, “ Vấn dề nghèo đói và việc xóa đói giảm nghèo” VOV 2010.
PGS.TS Nguyễn Văn Nam – Sinh hoạt lý luận, số 2/2011, tr.2 “Phân
hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay”
Cao Đức Phát và David O, 2004, “Theo hướng rồng bay – chương 7 cải
cách nông thôn, xóa đói giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế”
Phạm Xuân Nam, “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ”, tạp chí cộng sản. 2007.
Đề tài: “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
trong quá trình chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta” do TS.
Hoàng Thị Thành chủ nhiệm.
Luận án tiến sĩ Nguyễn Tấn Hùng: “Phương pháp phân tích mâu thuẫn


8
và sự vận dụng nó nghiên cứu mâu thuẫn trong quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế với công bằng xã hội ở nước ta”.
Lê Văn Sang, Kim Ngọc “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở
Nhật Bản giai đoạn thần kỳ và Việt Nam thời kỳ đổi mới”, NXB, CTQG, 1999.
Lê Bộ Lĩnh “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước
châu Á và Việt Nam”, NXB, CTQG, 1998.
Đinh Xuân Lý “Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách
xã hội trong 25 năm đổi mới (1986 – 2011)”, NXB, ĐHQG Hà Nội, 2011.
“Tăng trưởng và chính sách xã hội ở Việt Nam trong quá trình chuyển

đổi từ 1991 đến nay – kinh nghiệm của các nước Asean”, của tác giả Lê Đăng
Doanh và Nguyễn Minh Trí (Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương);
NXB, Hà Nội, 2001.
Vũ Viết Mỹ, “Tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội
trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá”, Tạp chí cộng sản, 2006.
Và trong thời gian gần đây cũng còn có nhiều bài viết về vấn đề này
của các học giả lớn đăng trên các báo và tạp chí.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu đó mới chỉ đề cập đến mối
quan hệ của tăng trưởng kinh tế với các vấn đề xã hội nói chung, hoặc chỉ đề
cập tới một khía cạnh trong công tác xóa đói giảm nghèo. Riêng đối với tỉnh
Bắc Giang, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một
cách đầy đủ và toàn diện về việc giải quyết xóa đói giảm nghèo trong quá
trình tăng trưởng của tỉnh. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn vấn đề này để
nghiên cứu với mong muốn làm rõ thực trạng giải quyết vấn đề đói nghèo ở
tỉnh và đưa ra các giải pháp để giải quyết tốt hơn vấn đề này trong quá trình
tăng trưởng kinh tế ở Bắc Giang.



9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở chỉ ra một số khía cạnh còn tồn tại trong công tác xóa đói,
giảm nghèo, luận văn sẽ đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm xử lý tốt
hơn vấn đề nghèo đói trong quá trình tăng trưởng ở Bắc Giang trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu trên đề tài có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, cũng như kinh nghiệm của các
địa phương khác về công tác xóa đói, giảm nghèo trong quá trình tăng

trưởng kinh tế.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác xóa đói, giảm nghèo trong quá
trình tăng trưởng kinh tế ở Bắc Giang từ 1997 đến nay.
- Trên cơ sở lý luận, thực tiễn và bài học kinh nghiệm của một số địa
phương khác đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giải quyết tốt hơn công
tác xóa đói, giảm nghèo nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững ở Bắc
Giang trong những năm tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tác xóa đói, giảm nghèo và việc
giải quyết vấn đề này trong quá trình tăng trưởng kinh tế ở Bắc Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung giải quyết vấn đề xóa đói giảm nghèo trong quá
trình tăng trưởng kinh tế ở Bắc Giang.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin để xem xét việc giải quyết các vấn đề xã hội trong quá


10
trình tăng trưởng kinh tế. Cùng với nó, các phương pháp phân tích, tổng hợp,
khái quát thực tiễn, điều tra xã hội học… giúp đề tài chỉ ra những vấn đề có
tính nguyên tắc, những giải pháp có tính định hướng để giải quyết tốt công tác
xóa đói giảm nghèo trong quá trình tăng trưởng kinh tế.
6. Dự kiến đóng góp của đề tài
Góp phần làm rõ thực trạng xóa đói giảm nghèo trong quá trình tăng
trưởng kinh tế ở Bắc Giang thời gian qua.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính phương pháp luận nhằm giải
quyết tốt hơn các vấn đề này, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững ở Bắc
Giang trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, tài liệu tham khảo, và danh mục
tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được trình bày theo 3 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận xóa đói giảm nghèo trong quá trình
tăng trưởng kinh tế
Chương 2: Thực trạng xóa đói giảm nghèo trong quá trình tăng trưởng
kinh tế ở Bắc Giang từ 1997 đến nay
Chương 3: Một số giải pháp nhằm giải quyết tốt hơn nữa công tác xóa
đói giảm nghèo, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững ở Bắc Giang trong
thời gian tới
















11
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TRONG
QUÁ TRÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

1.1. Các khái niệm liên quan đến xóa đói giảm nghèo.
1.1.1. Các khái niệm về nghèo đói.
Nghèo đói là một trong những vấn đề xã hội mà hầu hết các quốc gia
đều gặp phải trong quá trình phát triển của mình. Do đó, trong chiến lược phát
triển của mỗi quốc gia, để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội thì vấn đề xóa đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu quan
trọng nhất.
Nghèo, đói là hai khái niệm vừa có điểm giống và khác nhau. Ta có thể
chia thành hai khái niệm tách biệt nghèo và đói:
* Nghèo: Là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn
một phần các nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp
hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện [6]. Trong
khái niệm nghèo, lại chia ra:
- Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng
thoả mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Nhu cầu tối thiểu là
những bảo đảm ở mức tối thiểu, những nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở và nhu
cầu sinh hoạt hàng ngày gồm văn hoá, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp [6].
- Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức sống trung bình của cộng đồng tại địa phương đang xét [6].
* Đói: Là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức
tối thiểu và thu nhập không đủ bảo đảm nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc
sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu đứt bữa từ 1 đến 2 tháng, thường
vay nợ của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây khái niệm nghèo đói được dùng một


12
cách phổ biến. Năm 1999, Ngân hàng Thế giới đã thực hiện một cuộc điều tra
về người nghèo ở trong một số nước trong đó có Việt Nam. Thông qua các ý
kiến của người nghèo qua trả lời phỏng vấn, các nhà nghiên cứu đã xác định

năm nội dung xung quanh về vấn đề nghèo đói:
- Nghèo đói là một hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp. Những yếu tố
dẫn đến nghèo đói khác nhau rất lớn giữa các nền kinh tế và các nhóm xã hội,
các phương pháp dùng để đo sự nghèo đói cũng rất khác nhau.
- Nghèo đói thường được coi là sự thiếu thốn các thứ vật chất cần thiết
cho cuộc sống trong đó lương thực là đặc biệt quan trọng cùng với đất đai nhà
ở. Vì vậy, thu nhập thấp và các điều kiện sinh hoạt vật chất thấp kém là những
thước đo quan trọng của nghèo đói.
- Có những yếu tố tâm lý quan trọng liên quan đến nghèo đói, đặc biệt
là cảm giác không có quyền hành. Những người nghèo thường bị coi thường
trong cách đối xử của cá nhân hoặc của cộng đồng. Điều này thường thấy
trong trường hợp họ xin trợ giúp tạm thời hoặc lâu dài.
- Sự thiếu cơ sở hạ tầng cũng tác động đến nghèo đói và thường được coi
là một biến chính liên quan đến nghèo đói.điều này được thể hiện rõ ở việc có
hay không các nguồn nước vì đây là một yếu tố quan trọng trong sinh hoạt
hàng ngày và trong sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, giao thông cũng là một
yếu tố quan trọng trong việc tiếp cận với thị trường và tiêu thụ sản phẩm.
- Những người nghèo nhấn mạnh đến sự thiếu các phương tiện sản xuất
và đặc biệt là sự thiếu vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cùng các kĩ
năng sản xuất, kiến thức kinh doanh.
Như vậy, trong quan điểm về nghèo đói bao gồm sự thiếu hụt trên
nhiều khía cạnh khác nhau. Nghèo về vật chất, thiếu vốn, thiếu phương tiện
sản xuất, thiếu các cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ cho sản xuất và cuộc sống;
Đồng thời nghèo cũng gây ra những ảnh hưởng tâm lí nhất định như cảm giác


13
không được tôn trọng, hay bị các cá nhân và cộng đồng coi thường dẫn đến
tâm lí tự ti, ngại tiếp xúc.
Để đánh giá về mức độ nghèo đói, người ta có thể dựa vào nhiều tiêu

chí khác nhau để đánh giá. Dưới đây là một tiêu chí chủ yếu:
- Lấy lương thực làm cơ sở để đánh giá (đánh giá mức độ nghèo qua
lượng lương thực mà gia đình tiêu thụ hàng năm).
- Lấy tài sản làm cơ sở (nhà cửa tồi tàn, không có tư liệu sản xuất).
- Lấy thu nhập làm cơ sở (căn cứ trên thu nhập bình quân đầu người
hàng năm).
- Lấy những chỉ dẫn cụ thể làm cơ sở (tỷ lệ bỏ học, tỷ lệ trẻ em suy
dinh dưỡng, tỷ lệ thất nghiệp…).
- Lấy tài sản kết hợp với thu nhập làm cơ sở.
Trên cơ sở và những quan niệm về nghèo đói như trên, tại hội nghị
chống nghèo đói khu vực Châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại
Băng Cốc, Thái Lan tháng 9/1993 đã đưa ra một định nghĩa chung về nghèo
đói: Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được thỏa mãn các nhu
cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận
tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa
phương.Từ định nghĩa trên có thể thấy nghèo là một bộ phận dân cư không có
khả năng thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu (ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, giao tiếp).
Đây được xem là một định nghĩa chung nhất về nghèo đói, một định nghĩa có
tính chất hướng dẫn về mặt phương pháp, nhận xét những nét chính yếu về
nghèo đói. Ngoài định nghĩa trên , thì theo Ngân hàng Thế giới “nghèo là tình
trạng không có khả năng có mức sống tối thiểu”.
1.1.2. Nguyên nhân nghèo đói
Nghèo đói có nhiều nguyên nhân, song tập trung vào các nhóm nguyên
nhân chủ yếu sau:
- Nguồn lực hạn chế và nghèo nàn.


14
Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn
quẩn của nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục

nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn nhân lực của họ. Ngược lại, nguồn
vốn nhân lực thấp lại cản trở họ thoát nghèo. [3]
Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất sản xuất đang
có xu hướng tăng lên, nhất là các vùng quy hoạch để phát triển các khu công
nghiệp, khu chế xuất…, thiếu đất đai ảnh hưởng đến việc đảm bảo an ninh
lương thực cũng như khả năng đa dạng hóa sản xuất. Đa số người nghèo lựa
chọn phương án sản xuất tự cung tự cấp, giá trị sản phẩm và năng suất các
loại vật nuôi, cây trồng thấp, thiếu tính cạnh tranh. Người nghèo chưa có
nhiều cơ hội tiếp cận với thông tin và các dịch vụ sản xuất như: khuyến nông,
khuyến ngư, bảo vệ động, thực vật.
Người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng. Một
mặt, do không có tài sản thế chấp, những người nghèo đã phải dựa vào tín
chấp với các khoản vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn trả
vốn. Mặt khác, đa số người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể hoặc sử
dụng nguồn vốn vay không đúng mục đích, do vậy họ khó có điều kiện tiếp
cận các nguồn vốn và cuối cùng làm cho họ ngày càng nghèo hơn.
- Trình độ học vấn thấp, thiếu việc làm và không ổn định.
Những người nghèo thường có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm
được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đảm bảo nhu
cầu tối thiếu, do vậy không có điều kiện để nâng cao trình độ của mình để
thoát khỏi cảnh nghèo khó. Trình độ học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết
định liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái…Không những của
thế hệ hiện tại mà cả thế hệ trong tương lai. Suy dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ
sinh là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng đến trường của con em các gia đình
nghèo và việc thoát nghèo thông qua giáo dục trở nên khó khăn hơn [15;tr18].


15
- Người nghèo không có đủ điều kiện tiếp cận, chưa được bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp.

Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng có hoàn cảnh
đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp nên không có khả năng tự giải quyết
các vấn đề vướng mắc có liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có
cơ chế để thực hiện phức tạp, người nghèo khó nắm bắt; mạng lưới dịch vụ
pháp lý, số lượng các luật gia, luật sư hạn chế, phân bố không đều, chủ yếu
tập trung ở các thành phố, thị xã; phí dịch vụ pháp lý còn cao.
- Tỷ lệ sinh của hộ nghèo còn cao
Đông con vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của nghèo đói. Đông con
là một đặc điểm của các hộ gia đình nghèo. Một trong những nguyên nhân
dẫn đến tỷ lệ sinh còn cao trong các hộ nghèo là do họ không có kiến thức
cũng như điều kiện tiếp cận với các biện pháp sức khỏe sinh sản. Tỷ lệ phụ nữ
nghèo đặt vòng tránh thai thấp, tỷ lệ nam giới nhận thức đầy đủ trách nhiệm
kế hoạch hóa gia đình và sử dụng các biện pháp tránh thai chưa cao. Mức độ
hiểu biết của các cặp vợ chồng nghèo về vệ sinh, an toàn tình dục cũng như
mối liên hệ giữa nghèo đói, sức khỏe sinh sản và gia tăng nhân khẩu còn hạn
chế. Quy mô hộ gia đình lớn làm cho tỷ lệ người ăn theo cao, vì vậy nguồn
lực về lao động rất thiếu.
- Nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng của thiên tai và các rủi ro khác.
Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng
ngày và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân, gia đình hay
cộng đồng. Do nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích lũy
kém nên họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc
sống (mất mùa, mất việc làm, thiên tai, mất nguồn lao động, mất sức khỏe…).
Những đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn lớn trong cuộc sống của họ. Các
rủi ro trong sản xuất kinh doanh đối với người nghèo cũng rất cao, do họ


16
không có trình độ tay nghề và thiếu kinh nghiệm làm ăn. Khả năng đối phó và
khắc phục các rủi ro của người nghèo cũng rất kém do thu nhập hạn hẹp làm

mất khả năng khắc phục rủi ro và có thể còn gặp rủi ro hơn nữa.
- Bất bình đẳng giới ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của phụ nữ và trẻ
em. Bất bình đẳng giới làm sâu sắc hơn tình trạng đói nghèo trên tất cả các
mặt. Ngoài những bất công mà cá nhân phụ nữ và trẻ em phải chịu đựng do
bất bình đẳng thì còn có những tác động bất lợi đối với gia đình. “Phụ nữ
chiếm gần 50% tổng số lao động nông nghiệp và chiếm tỷ lệ cao trong tổng số
lao động tăng thêm hằng năm trong lao động nông nghiệp. Mặc dù vậy,
nhưng phụ nữ chỉ chiếm 25% thành viên các khóa khuyến nông về chăn nuôi,
và 10% các khóa khuyến nông về trồng trọt”. [3]
Phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo, thường
gặp nhiều khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, thiếu quyền quyết định
trong gia đình và thường được trả công lao động thấp hơn nam giới nam giới
ở cùng một loại việc. Phụ nữ có học vấn thấp dẫn tới tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh
và bà mẹ cao hơn, sức khỏe của gia đình bị ảnh hưởng và trẻ em đi học ít hơn.
Bất bình đẳng giới còn là yếu tố làm gia tăng tỷ lệ sinh và tỷ lệ truyền HIV do
phụ nữ thiếu tiếng nói và khả năng tự bảo vệ trong quan hệ tình dục.
- Bệnh tật và sức khỏe yếu kém ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi
tiêu của người nghèo làm họ rơi vào vòng luẩn quẩn của đói nghèo. Họ phải
chịu hai gánh nặng: một là mất đi thu nhập từ lao động, hai là gánh chịu chi
phí cao cho việc khám chữa bệnh, kể cả chi phí trực tiếp và gián tiếp. Do vậy,
chi phí khám, chữa bệnh là gánh nặng đối với người nghèo và đẩy họ vào chỗ
vay mượn, cầm cố tài sản để có tiền trang trải chi phí, dẫn đến tình trạng càng
ít có cơ hội cho người nghèo thoát khỏi vòng đói nghèo. Trong khi đó, khả
năng tiếp cận đến các dịch vụ phòng bệnh (nước sạch, các chương trình y
tế…) của người nghèo còn hạn chế càng làm tăng khả năng bị mắc bệnh. Vấn


17
đề cải thiện sức khỏe cho người nghèo là một trong những yếu tố cơ bản để
thoát nghèo [25].

1.1.3. Các tiêu chí xác định chuẩn nghèo đói quốc tế và Việt Nam.
* Phương pháp xác định chuẩn nghèo quốc tế.
Phương pháp xác định đường đói nghèo theo chuẩn quốc tế do Tổng cục
Thống kê, Ngân hàng Thế giới xác định và thực hiện trong các cuộc khảo sát
mức sống dân cư ở Việt Nam (năm 1992 – 1993 và năm 1997 – 1998). Đường
đói nghèo ở mức thấp gọi là đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm.
Đường đói nghèo thứ hai ở múc chung hơn gọi là đường đói nghèo chung (bao
gồm cả mặt hàng lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm).
- Đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm: Được xác định theo tiêu
chuẩn mà hầu hết các nước đang phát triển cũng như tổ chức Y tế Thế giới đã
xây dựng mức Kcal tối thiểu cần thiết cho mỗi thể trạng con người, là chuẩn
về nhu cầu 2100 Kcal/người/ngày. Những người có mức chi tiêu dưới mức
chi tiêu cần thiết để đạt được dung lượng Kcal này được gọi là nghèo về
lương thực, thực phẩm.
- Đường đói nghèo chung tính thêm các chi phí cho các mặt hàng phi
lương thực thực phẩm. Tính cả chi phí này với đường đói nghèo về lương
thực, thực phẩm ta có đường đói nghèo chung.
Theo cách tính trên, năm 1993 đường đói nghèo chung của Việt Nam là
1,16 triệu VNĐ/năm/người (cao hơn đường đói nghèo lương thực thực, thực
phẩm la 55%); năm 1998 là 1,79 triệu VNĐ/năm/người (cao hơn đường đói
nghèo lương thực, thực thực phẩm là 39%).
* Tiêu chí xác định chuẩn đói nghèo của Việt Nam.
Chuẩn hộ nghèo được áp dụng chưa thống nhất trong các thời kì
khác nhau. Giai đoạn từ năm 1996 – 2000 chuẩn nghèo được quy định
theo 3 khu vực (tính theo mức thu nhập bình quân đầu người trong một hộ
gia đình, quy ra gạo):


18
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15 kg gạo/người/tháng

(tương đương 55.000 VNĐ).
+Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg/người/tháng (tương
đương 70.000 VNĐ).
+ Vùng thành thị: dưới 25 kg/ người/tháng (tương đương 90.000 VNĐ).
Từ năm 2001, căn cứ vào qui mô tốc độ tăng trưởng kinh tế, nguồn lực
tài chính 2001- 2005 và mức sống thực tế của từng vùng, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội đã đưa ra chuẩn đói nghèo mới. Cụ thể là:
+ Khu vực nông thôn miền núi: 80.000đ/ người/tháng.
+ Khu vực nông thôn đồng bằng: 100.000đ/ người/tháng.
+ Khu vực thành thị: 150.000đ/ người/tháng.
Chuẩn nghèo giai đoạn 2006 – 2010 được xác định theo phương pháp
dựa trên nhu cầu chi tiêu lương thực, thực phẩm và phi lương thực thực thực
phẩm. Phần chi cho lương thực thực phẩm bảo đảm năng lượng hàng ngày
cho một người là 2100 Kcal, chiếm khoảng 60% tổng chi tiêu; phần chi cho
phi lương thực thực phẩm (mặc, nhà ở, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại, giao tiếp
xã hội) chiếm khoảng 40%, Tổng chi tiêu cho lương thực thực phẩm và phi
lương thực thực phẩm quy ra tiền gọi là chuẩn nghèo. Trong giai đoạn này chỉ
sử dụng hai chuẩn nghèo cho hai khu vực nông thôn và thành thị, cụ thể là:
+ Khu vực nông thôn: Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người
dưới 200.000đ/ người/tháng.
+ Khu vực thành thị: Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người
dưới 260.000đ/ người/tháng (dưới 2.400.000đ/năm).
Ngoài ra còn chú ý tới vấn đề nhà ở, tài sản, đất đai tay nghề, công cụ
sản xuất.
Theo chuẩn này, năm 2005 cả nước có khoảng 4,6 triệu hộ nghèo
(thành thị khoảng 519 ngàn hộ, nông thôn khoảng hơn 4 triệu hộ). Tỷ lệ hộ


19
nghèo chung cho cả nước so với tổng số hộ 22%. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2010

còn khoảng 12%.
Chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2015 như sau:
+ Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống.
+ Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống.
+ Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ
401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng.
+ Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ
501.000 đồng đến 650.000 đồng/người/tháng.
1.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
Nghèo đói không chỉ thuần túy là một vấn đề xã hội mà còn là một vấn
đề kinh tế, vì vấn đề cơ bản nhất để XĐGN bền vững là vấn đề tạo môi trường
cho vùng nghèo, cho hộ nghèo vươn lên phát triển kinh tế thoát nghèo, theo
hướng hộ nghèo tự cứu, chủ động tấn công nghèo đói. Nghiên cứu mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo giúp chúng ta có cơ sở
khoa học để tìm ra giới hạn giữa chúng. Sự tác động qua lại giữa hai phạm trù
này giúp chúng ta có những phân tích đúng đắn, đồng thời dưa ra dược những
biện pháp kiểm soát khống chế hoặc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xóa đói
giảm nghèo một cách có hiệu quả.
1.2.1. Tăng trưởng kinh tế, tiền đề cho xóa đói giảm nghèo bền vững
- Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững luôn luôn song hành với mức
giảm đói nghèo nhanh, đồng thời suy thoái kinh tế chính là nguyên nhân
khiến tình trạng đói nghèo gia tăng. Vậy câu hỏi đặt ra là: tốc độ tăng trưởng
kinh tế chung làm thay đổi tỉ lệ những người sống dưới mức chuẩn nghèo đói
như thế nào? Dưới đây là bảng so sánh sự thay đổi mức nghèo đói ở các nước


20
có mức tăng trưởng nhanh nhất với các nước có mức suy thoái nhanh nhất:

Bảng 1.1. So sánh sự thay đổi mức nghèo đói ở các nước

Thay đổi tỉ lệ trong thu
nhập bình quân hàng năm
Thay đổi tỉ lệ trong
đói nghèo hàng năm
Suy thoái mạnh
-9,8
23,9
Suy thoái vừa
-1,9
1,5
Tăng trưởng vừa
1,6
-0.6
Tăng trưởng mạnh
8,2
-6,1

Tỷ lệ đói nghèo tăng mạnh ở những nền kinh suy thoái nghiêm trọng
như khu vực Trung Á, Châu Phi. Tỷ lệ đói nghèo tăng vọt trong thời kì suy
thoái trầm trọng ở các quốc gia như Zambia, Mali và Bờ Biển Ngà.
Tăng trưởng thu nhập tích cực cũng làm giảm thành công tỷ lệ người
sống dưới mức nghèo khổ. Tăng trưởng bình quân nhanh nhất cũng tương
ứng với tỉ lệ giảm nghèo nhanh nhất. Tại Indonesia, lợi ích của tăng trưởng
đã đến với những người nghèo khi thu nhập bình quân tăng thêm 76% từ
năm 1984 đến 1996. Tỷ lệ người Indonesia sống dưới mức nghèo năm
1993 chỉ còn bằng 1/4 năm 1984. Tuy nhiên, tình hình lại bị đảo ngược
theo chiều hướng xấu đi khi cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra ở
Indonesia giai đoạn 1997-1999. Thu nhập bình quân giảm 12% và tỉ lệ đói

nghèo tăng 65% một lần nữa khẳng định tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng
trực tiếp đến nghèo đói.[38; tr. 33].
- Một trường hợp nữa cần xem xét, đó là trường hợp nền kinh tế vẫn
tăng trưởng trong khi tình trạng nghèo đói lại trở nên trầm trọng hơn. Lúc này
sự phân phối thu nhập chắc chắn sẽ trở nên bất bình đẳng hơn trước. Nếu mức
bất bình đẳng giữ nguyên, thì tăng trưởng kinh tế sẽ làm thu nhập của người


21
nghèo và người giàu cũng sẽ tăng lên hoặc giảm đi theo. WB đã chứng minh
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo như sau: cứ 1%
tăng lên của thu nhập bình quân của xã hội sẽ chuyển hóa thành 1% tăng lên
trong thu nhập của 20% người nghèo nhất. Tương tự, cứ 1% tăng lên trong
thu nhập bình quân đầu người dẫn đến 1% tăng lên trong mức thu nhập của
người nghèo. Vì vậy, có hai cách để người nghèo trở nên khá giả hơn: (1)
Phân phối lại thu nhập giữa người giàu và người nghèo; (2) thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế chung để làm tăng thu nhập của cả người giàu lẫn người nghèo.
- Như vậy, bản thân vấn đề tăng trưởng kinh tế chỉ là tiền đề cho xóa
đói giảm nghèo, bản thân tăng trưởng kinh tế không thể giải quyết tận gốc vấn
đề nghèo đói, song nó lại tác động mạnh mẽ đến việc nâng cao mức sống dân
cư và làm giảm tỉ lệ nghèo đói. Tăng trưởng kinh tế chính là điều kiện tốt nhất
để tăng nguồn lực cho xóa đói giảm nghèo. Một nghiên cứu về các nhân tố tác
động đến xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam đã áp dụng mô hình ước lượng cho
rằng “kinh tế tăng lên 1% sẽ làm giảm tỉ lệ nghèo đói xuống 0,34%”. Vì vậy,
tăng trưởng kinh tế là điều kiện ban đầu cho xóa đói giảm nghèo, sự trợ giúp
của nhà nước và xã hội cho vùng nghèo, hộ nghèo chỉ mang tính chất kích
thích, không thể thay thế nhân tố chủ quan đó là quyết tâm của chính bản thân
hộ nghèo, xã nghèo.
Tóm lại, Tăng trưởng kinh tế là tiền đề, tạo động lực cho quá trình
xóa đói giảm nghèo bền vững. Như vậy tăng trưởng kinh tế phải đảm bảo

tính ổn định, liên tục, tạo được động lực trong nội bộ nền kinh tế, ngược lại
xóa đói giảm nghèo cũng tác động ngược trở lại đối với quá trình tăng
trưởng kinh tế, chỉ khi nào giải quyết tốt vấn đề này mới đảm bảo tăng
trưởng kinh tế bền vững.


22
1.2.2. Xóa đói giảm nghèo hiệu quả thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững
Đói nghèo, vấn đề mang tính toàn cầu đang ẩn chứa những vấn đề hết
sức nghiêm trọng cho quá trình tăng trưởng kinh tế bền vững. Tăng trưởng
kinh tế cũng kéo theo hàng loạt các vấn đề: Sự phân hóa giàu nghèo, mất cân
bằng sinh thái, đạo đức lối sống bị suy thoái nghiêm trọng, nạn thất
nghiệp…Theo quan điểm hiện đại, mục tiêu phát triển bền vững không chỉ
dựa trên thành quả của tăng trưởng kinh tế mà còn bao hàm các chỉ tiêu về
xóa đói giảm nghèo, giáo dục, y tế, các chỉ tiêu về phát triển con người, phát
triển khoa học công nghệ và chỉ tiêu bảo vệ môi trường…Chính vì vậy, xóa
đói giảm nghèo đóng vai trò như một bộ phận của cán cân điều tiết, tác động
tích cực đến quá trình tăng trưởng kinh tế bền vững, tạo cuộc sống hài hòa
trong xã hội.
- Ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế:
+ Đối với các nước đang phát triển trên thế giới nói chung và Việt Nam
nói riêng thì nghèo đói luôn luôn gắn liền với tình trạng lạc hậu về kinh tế, cơ
sở hạ tầng yếu kém, thiếu đồng bộ và đây là một trở ngại lớn đối với các nước
trong quá trình hội nhập và phát triển. Nhìn chung, nghèo đói có tác động tiêu
cực đến quá trình tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia, thể hiện ở sự phát
triển chậm của lực lượng sản xuất, tỉ lệ thất nghiệp cao, không có mức tích
lũy đủ lớn để quốc gia chuyển sang trạng thái tăng trưởng bền vững, khó có
khả năng cấp vốn cho các nhu cầu đầu tư nằm ngoài các khoản tích lũy quốc
gia. Nghèo đói dẫn đến tỉ lệ tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh tế còn thấp,
hiệu quả kinh tế chưa cao. Nguồn lực trong các nước nghèo thường được

phân bổ không hiệu quả, dàn trải dẫn đến năng lực cạnh tranh của quốc gia
thấp. Việc huy động, sử dụng, quản lí các nguồn lực của nền kinh tế còn kém
hiệu quả, sức sản xuất còn chưa được giải phóng và phát huy hết hiệu quả làm
cho nền kinh tế ngày càng chậm phát triển.

×