Mục lục Trang
Lời mở đầu..................................................................................................3
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo.....................4
I. Bản chất của tăng trưởng và phát triển kinh tế...................................4
1. Tăng trưởng kinh tế.............................................................................4
2. Phát triển kinh tế..................................................................................4
3. Phát triển bền vững..............................................................................5
II. Vấn đề nghèo khổ ở các nước đang phát triển................................... 6
1. Nghèo khổ về thu nhập........................................................................6
2. Nghèo khổ tổng hợp............................................................................8
3. Đặc trưng của người nghèo và chiến lược xóa đói giảm
nghèo........................................................................................................9
III. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo.......10
1. Tăng trưởng kinh tế la điều kiện cần nhưng chưa đủ để
xóa đói giảm nghèo...............................................................................10
2. Xóa đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng
xã hội và tăng trưởng bền vững............................................................ 11
3. Xóa đói giảm nghèo là một bộ phận trong chiến lược10 năm,
kế hoạch 5 năm và hàng năm về phát triển kinh tế-xã hội của Việt
Nam.............................................................................................................12
4. Xóa đói giảm nghèo không chỉ là nhiệm cụ của Nhà nước, toàn
xã hội mà trước hết là bổn phận của chính người nghèo phải tự vươn
lên thoát nghèo.......................................................................................12
Chương II. Thực trạng tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam..........................13
I. Thực trạng tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam....................................13
1. Bối cảnh kinh tế - xã
hội.....................................................................13
2. Tình hình tăng trưởng trong từng ngành và lĩnh vực.
1
II. Thực trạng nghèo đói và công tác xóa đói giảm nghèo của
Việt Nam......................................................................16
1. Tình trạng nghèo đói theo chuẩn nghèo.............................................16
2. Nguyên nhân của đói nghèo.............................................................20
3. Những tiến bộ về xã hội và xóa đói giảm nghèo..............................22
III. Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
ở Việt Nam..........................................................................................25
1. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tăng thu nhập, nâng cao mức
sống của đại bộ phận dân cư, tăng số lượng người giàu, giảm số lượng
người nghèo.................................................................................................25
2. Tăng trưởng kinh tế nhanh làm tăng mức độ nghèo tương đối của
nhóm người nghèo và gia tăng bất bình đẳng..............................................26
3. Thực hiện đầu tư giải quyết vấn đề đói nghèo là giải pháp đầu tư cho
tăng trưởng và phát triển............................................................................. 26
Chương III. Phương hướng, giải pháp và một số khuyến nghị nhằm cải
thiện mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói
giảm nghèo ở Việt Nam. ..........................27
I. Phương hướng trong kế hoạch 5 năm 2006-2010..............................27
1. Các chỉ tiêu phát triển kinh tế............................................................ 27
2. Các chỉ tiêu xã hội và xóa đói giảm nghèo.........................................27
II. Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững gắn kết
với xóa đói giảm nghèo trong thời gian tới..............................................28
1. Hoàn thiện môi trường kinh doanh - Tạo lập môi trường kinh doanh
bình đẳng và hiệu quả; khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài;
cải cách hệ thống thuế............................................................................28
2. Tạo môi trường tăng trưởng bền vững cho xóa đói giảm nghèo........29
3. Hoàn thiện chính sách xóa đói giảm nghèo........................................29
4. Tăng đầu tư để rút ngắn tình trạng cách biệt......................................30
5. Thực hiện tốt chính sách trợ giúp xã hội cho các nhóm yếu thế, nhóm
dễ bị tổn thương. .............................................................................. ..........30
6. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác xóa đói giảm nghèo...........................30
III. Một số khuyến nghị thực hiện trong thời gian tói............................31
Kết luận......................................................................................................32
2
Danh mục các tài liệu tham khảo .............................................33
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế(1986), Việt Nam
đã đạt được tăng trưởng kinh tế rất nhanh. Kinh tế tăng trưởng đã đóng góp
đáng kể vào việc giải quyết các vấn đề xã hội nói chung và xóa đói giảm
nghèo nói riêng. Tỷ lệ nghèo từ hơn 60% năm 1990 xuống 24,1% năm
2004, phần lớn nhờ có tốc độ tăng trưởng hàng năm ở mức cao (7,5% giai
đoạn 1990-2004). Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần nhưng
chưa phải là điều kiện đủ để giảm nghèo bền vững, đến nay nước ta vẫn là
nước nghèo với mức thu nhập bình quân đầu người rất thấp, tỷ lệ nghèo
còn cao, chênh lệch nghèo còn lớn, đời sống nhân còn nhiều khó khăn.
Báo cáo quốc gia về con người đầu tiên của Việt Nam được công bố
11/2001, đã nêu bật tình trạng phân phối tăng trưởng không đều với sự bất
bình đẳng và chênh lệch giữa các vùng, miền đang tăng lên. Trong khi các
vùng đô thị; những người giàu được hưởng lợi rất nhiều từ những chính
sách cải cách và thành quả của tăng trưởng thì những người nghèo lại được
hưởng lợi rất ít từ “hiệu ứng nhỏ giọt” của đà tăng trưởng và tình trạng
nghèo đói dường như vẫn còn rất dai dẳng ở nhiều vùng nông thôn trên
Việt Nam.
Trong những năm tới, nỗ lực hội nhập với nền kinh tế toàn cầu sẽ tạo
cho Việt Nam nhiều cơ hội mới để tăng trưởng kinh tế, nhưng cũng đặt ra
nhiều thách thức mới cho công tác xóa đói giảm nghèo. Do vây, tăng
trưởng kinh tế công bằng với những chính sách vì người nghèo vẫn sẽ là
những tiêu điểm trong các chính sách phát triển kinh tế- xã hội của Việt
Nam.
Qua quá trình học tập ở Khoa Kế hoạch – Phát triển, em càng nhận
thức được mối quan hệ khăng khít giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm
nghèo trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta. Vì vậy em đã chọn Đề
tài “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo trong
quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam”
Đề tài gồm 3 Chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo.
Chương II: Thực trạng tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo ở
Việt Nam.
Chương III: Phương hướng và một số giải pháp nhằm cải thiện mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam.
Đề tài được hoàn thành dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ của GS.TS
Vũ Thị Ngọc Phùng cùng một số cán bộ quản lý và nghiên cứu khoa học
của Bộ Lao động-Thương binh và xã hội.
3
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ L Ý LUẬN CHUNG VỀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO
I. BẢN CHẤT CỦA TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ.
Đã từ lâu, đặc biệt là từ sau chiến tranh thế giới thứ lần thứ hai, các
quốc gia có độc lập chủ quyền đều đưa ra những mục tiêu phấn đấu cho sự sự
tiến bộ của quốc gia mình. Tuy còn có những khía cạnh khác nhau trong quan
niệm, nhưng nói chung sự tiến bộ của đất nước trong một giai đoạn nào đó
thường được đánh giá trên hai mặt: sự tăng trưởng kinh tế và sự tiến bộ về xã
hội. Trên thực tế, tăng trưởng và phát triển là hai thuật ngữ dùng để phản ánh
hai mặt của sự tiến bộ đó. Tăng trưởng và phát triển đôi khi được dùng để thay
thế lẫn nhau, nhưng giữa chúng có sự khác biệt căn bản.
1. Tăng trưởng kinh tế (TTKT).
Theo nghĩa chung nhất, tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là
sự tăng lên hay gia tăng về quy mố sản lượng của nền kinh tế trong một thời
kỳ nhất định (thường là một năm). Hay nói một cách khác cụ thể hơn, tăng
trưởng kinh tế là do tăng thu nhập quốc dân và thu nhập quốc dân đầu người.
Tăng trưởng kinh tế được xác định bằng cách so sánh quy mô sản lượng
giữa các thời kỳ. Có hai cách so sánh tuyệt đối và tương đối.
- Mức tăng tuyệt đối:
∆
y
= Y
n
– Y
0
Trong đó: Y
n
là sản lượng của năm n, còn Y
0
là sản lượng của năm so
sánh (năm gốc).
Như vậy, mức tăng trưởng tuyệt đối phản ánh mức độ tăng quy mô sản
lượng.
- Mức tăng trưởng tương đối hay là tốc độ tăng trưởng (g
y
)
g
y =
Y
n
/Y
o
hay (Y
n
– Y
o
)/Y
o
Trong kinh tế vĩ mô, Y chính là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc
tổng sản phẩm quốc dân (GNP).
Có thể nói, tăng trưởng kinh tế phản ánh sự thay đổi về lượng của nền
kinh tế. Càng ngày thì tăng trưởng kinh tế càng được gắn với yêu cầu tính bền
vững hay việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Tức là tăng
trưởng không những phải nhanh mà phải đảm bảo liên tục, có hiệu quả của
các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Hơn thế nữa
quá trình ấy phải được tạo nên bởi nhân tố đóng vai trò quyết định là khoa học
công nghệ và vốn nhân lực trong điều kiện một cơ cấu kinh tế hợp lý.
2. Phát triển kinh tế.
4
Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (tăng tiến) về mọi
mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng
thêm về quy mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã
hội. Phát tiển kinh tế là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất của nền kinh
tế, nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề về
kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia.
Phát triển kinh tế bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, sự tăng lên của tổng thu nhập nền kinh tế và mức gia tăng thu
nhập bình quân đầu người..
Thứ hai, sự thay đổi (tiến bộ) về cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu
ngành. Đây là tiêu thức phản ánh sự biến đổi về chất của nền kinh tế quốc gia.
Thứ ba, sự tiến bộ về mặt xã hôi. Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển
kinh tế trong các quốc gia không phải là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, mà là việc xoá bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, khẳ năng tiếp cận tới
các dịch vụ y tế, nước sạch, trình độ dân chí giáo dục của quảng đại quần
chúng nhân dân,…làm cho con người ngày càng có cuộc sống tốt hơn.
Nếu nền kinh tế chỉ nhìn theo khía cạnh tăng trưởng thì chưa đủ, để
nhìn toàn diện phải nhìn trên phương diện phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh
tế là lượng thì phát triển kinh tế phải là cả lượng và chất. Như vậy, đánh giá về
phát triển kinh tế phải dựa trên đánh giá của các khía cạnh: Đánh giá sự thay
đổi về lượng, đánh giá về sự biến đổi trong cơ cấu của nền kinh tế, đánh giá về
sự thay đổi trong các vấn đề xã hội.
Ngày nay khi nói đến phát triển người ta thường nhắc đến khái niệm
phát triển bền vững, nghĩa là “phải có tính liên tục, mãi mãi hoặc các lợi ích
của nó phải được duy trì không hạn định”.
3. Phát triển bền vững.
Năm 1987, vấn đề phát triển bền vững được Ngân hàng thế giới (WB)
đề cập lần đầu tiên, theo đó phát triển bền vững là “ …sự phát triển đáp ứng
nhu cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khẳ năng đáp ứng nhu cầu của
thế hệ tương lai”, “phát triển ngày nay không làm phương hại cho thế hệ mai
sau mà tạo cho họ cả về vốn vật chất, vốn thuần khiết và vốn con người”
(1)
.
Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở
Johannesbug (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002 đã xác định: Phát triển bền vững
là qua trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hoà giữa ba mặt của
sự phát triển, gồm: tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội, và bảo vệ
môi trường.
________________________
(1)
Môi trường và phát triển. Xuất bản 1993
5
Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh tế ổn
định; thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết
kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống.
Đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện rõ quan điểm về
phát triển bền vững trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
đến năm 2010 như sau: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Tăng trưởng
kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”,
gắn sự phát triển kinh tế với giữ vững ổn định chính trị xã hội, bảo đảm an
ninh - quốc phòng.
II. VẤN ĐỀ NGHÈO KHỔ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN.
Thuật ngữ “đang phát triển” được dùng để chỉ xu thế đi lên của các
nước thuộc thế giới thứ ba - các nước có nền nông nghiệp lạc hậu, hoặc các
nước nông - công nghiệp đang từ sản xuất nhỏ tiến lên con đường công nghiệp
hoá; có mức thu nhập bình quân đầu người thấp (GNI/người nhỏ hơn hoặc
bằng 765 USD
-
theo WB). Các nước đang phát triển là những nước đang đứng
trước những vấn để bức xúc, nổi cộm cần trung giải quyết.
Các vấn đề đó có thể kể đến là: Nghèo đói,bất bình đẳng, phân hoá giàu
- nghèo, tụt hậu kinh tế, ô nhiễm môi trường….Trong những vấn đề đó, nghèo
đói là vấn đề được quan tâm hàng đầu và ưu tiên giải quyêt cùng với vấn đề
làm sao phải thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh hơn nữa.
1. Nghèo khổ về thu nhập.
1.1. Khái niệm
Nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện: thu nhập hạn
chế hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng những
lúc khó khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến, ít được tham gia vào
quá trình ra quyết định…
Nghèo đói là tình trạng của một bộ phận dân cư có thu nhập không đủ
thoả mãn những nhu cầu cần thiết.
Theo Hội nghị chống đói nghèo khu vực châu á - Thái Bình Dương do
ESCAP tổ chức tại Băng Kốc, Thái Lan (1993) đã đưa ra định nghĩa chung
như sau:
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả
mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội
thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của
địa phương.
1.2. Phương pháp đánh giá nghèo khổ về thu nhập
6
Phương pháp của WB:
Phương pháp mà WB sử dụng là dựa vào ngưỡng chi tiêu (USD/ngày).
Ngưỡng nghèo hiện nay là 1 đô la và 2 đô la/ngày (theo sức mua tương
đương). Đây là ngưỡng chi tiêu có thể đảm bảo mức cung cấp năng lượng tối
thiểu cần thiết cho con người, mức chuẩn đó là 2100 Kcal/người/ngày.
Ngưỡng nghèo này gọi là ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm. Những người
có mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt 2100 Kcal/ngày gọi là “nghèo về
lương thực thực phẩm”.
Phương pháp của Việt Nam:
- Phương pháp dựa cả vào thu nhập và chi tiêu theo đầu người (phương
pháp của tổng cục thống kê). Phương pháp này đã xác định 2 ngưỡng nghèo:
Ngưỡng nghèo thứ nhất, số tiền cần thiết để mua được một số lương
thực hàng ngày để đảm bảo mức dinh dưỡng. Như vậy, phương pháp tiếp cận
này tương tự như cách tiếp cận của WB (đã nói ở trên).
Ngưỡng nghèo thứ hai - ngưỡng nghèo chung: bao gồm cả chi tiêu cho
hàng hoá là lương thực và phi lương thực.
- Phương pháp dựa trên thu nhập của hộ gia đình (Phương pháp của Bộ
Lao động – thương binh và Xã hội). Phương pháp này đã được sử dụng để xác
định chuẩn nghèo cho chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia (chuẩn
nghèo quốc gia).
Chuẩn nghèo áp dụng cho thời kỳ 2001 – 2005 được xác định dựa trên
thu nhập theo 3 vùng. Cụ thể là:
- Vùng hải đảo và vùng núi nông thôn: Bình quân thu nhập là 80.000
đồng/người/tháng.
- Vùng đồng bằng nông thôn: 100.000 đồng/người/tháng.
- Và khu vực thành thị: 150.000 đồng/trên/người/tháng.
Tương tự, chuẩn nghèo áp dụng cho thời kỳ 2006 – 2010 được xác định
với hai khu vực như sau:
- Nông thôn: Bình quân thu nhập là 200.000 đồng/người/tháng.
- Thành thị: Bình quân thu nhập là 260.000 đồng/người/tháng.
Người được coi là nghèo khổ về thu nhập là những người mà thu nhập
của họ nằm dưới các giới hạn được quy định trên.
Tuy nhiên, việc nhận diện ai là người nghèo luôn là một vấn đề khó
khăn. Cách thông thường và đã được các nước đang phát triển và WB sử dụng
là dựa vào kết quả các cuộc điều tra về thu nhập (chi tiêu) của hộ gia đình
(phương pháp thống kê). Những người dân đang sống trong “nghèo khổ tuyệt
7
đối” là những người mà 4/5 thu nhập của họ là dành cho nhu cầu về ăn mà
chủ yếu là lương thực và một chút ít là thực phẩm (thịt hoặc cá); tất cả đều
thiếu dinh dưỡng; chỉ khoảng 1/3 số người lớn là biết chữ; và tuổi thọ trung
bình của họ chỉ khoảng 40 tuổi.
Một cách tiếp cận khác cũng thường được sử dụng để xem xét ngèo đói
là chia dân cư thành các nhóm khác nhau (theo 5 nhóm). Nhóm 1/5 nghèo
nhất là 20% dân số, những người sống trong các hộ gia đình có mức thu nhập
(chi tiêu) thấp nhất.
Bên cạnh sự nghèo khổ tuyệt đối, ở nhiều nước còn xét đến nghèo khổ
tương đối. Nghèo khổ tương đối được xét trong tương quan xã hội, phụ thộc
địa điểm dân cư sinh sống và phương thức tiêu thụ phổ biến nơi đó. Sự nghèo
khổ tương đối được hiểu là những người sống dưới mức tiêu chuẩn có thể
chấp nhận được trong những địa điểm và thời gian xác định. Đây là những
người mà cuộc sống của họ không được hưởng những cái mà đại bộ phận
những người khác trong xã hội được hưởng. Do đó chuẩn mực để xem xét
nghèo khổ tương đối thường khác nhau từ nước này sang nước khác, từ vùng
này sang vùng khác. Nghèo khổ tương đối cũng là một hình thức biểu hiện sự
bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.
1.3. Chỉ số đánh giá
Thước đo được sử dụng phổ biến hiên nay để đánh giá nghèo khổ thu
nhập là đếm số người sống dưới chuẩn nghèo. Gọi là “chỉ số đếm đầu
người”(HC). Từ đó xác định tỷ lệ nghèo (tỷ số đếm đầu - HCR) và khoảng
cách nghèo.
Tỷ lệ nghèo được tính bằng tỷ lệ phần trăm của dân số sống dưới chuẩn
nghèo (ngưỡng nghèo) với tổng dân số. Việc sử dụng chỉ số này là cần thiết để
đánh giá tình trạng nghèo và những thành công trong mục tiêu “giảm nghèo”
của quốc gia và thế giới.
Khoảng cách nghèo là khoảng cách chênh lệch giữa chi tiêu của người
nghèo với ngưỡng nghèo, tính bằng phần trăm so với ngưỡng nghèo. Khi so
sánh các nhóm dân cư trong một nước, khoảng cách nghèo cho biết tính chất
và mức độ của nghèo khổ khác nhau giữa các nhóm. Chẳng han, theo kết quả
tính toán của tổng cục thống kê Việt Nam, khoảng cách nghèo ở nông thôn
Việt Nam năm 2002 là 8,7% và nhóm dân tộc thiểu số là 22,1%. Với giả thiết
là mức tăng thu nhập là 2%/năm và gần bằng tốc độ tăng trưởng kinh tế thì
sau khoảng 4 năm có thể đưa hộ nghèo trung bình ở nông thôn thoát nghèo
trong khi đó nhóm dân tộc thiểu số phải mất một thập kỷ.
2. Nghèo khổ tổng hợp
8
Nghèo khổ tổng hợp( hay nghèo khổ của con người) là khái niệm đã
được Liên Hợp Quốc (LHQ) đưa ra trong “Báo cáo về phát triển con người”
năm 1997. Theo đó, nghèo khổ của con người là khái niệm biểu thị sự nghèo
khổ đa chiều của con người – là sự thiệt thòi (khốn cùng) theo 3 khía cạnh cơ
bản nhất của cuộc sống con người. Chẳng hạn, đối với các nước đang phát
triển sự thiệt thòi đó là:
- Thiệt thòi xét trên khía cạnh cuộc sống lâu dài và khoẻ mạnh, được
xác định bởi tỷ lệ người dự kiến không sống thọ quá 40 tuổi.
- Thiệt thòi về tri thức, được xác định bởi tỷ lệ người lớn mù chữ.
- Thiệt thòi về đảm bảo kinh tế, được xác định bởi tỷ lệ người không
tiếp cận được các dịch vụ y tế, nước sạch và tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh
dưỡng.
Để đánh giá “nghèo khổ của con người”, LHQ đã sử dụng chỉ số nghèo
khổ của con người – HPI hay còn gọi là chỉ số nghèo khổ tổng hợp. Giá trị
HPI của một nước nói lên rằng sự nghèo khổ của con người ảnh hưởng lên
bao nhiêu phần trăm dân số của nước đó. So sánh các giá trị HDI và HPI cho
thấy sự phân phối thành tựu của tiến bộ con người. Các nước có giá trị HDI
như nhau nhưng giá trị HPI lại khác nhau.
3. Đặc trưng của người nghèo và chiến lược xoá đói giảm nghèo (XĐGN).
Quy mô và mức độ nghèo đói ở mỗi nước phụ thuộc vào hai yếu tố chủ
yếu: Thu nhập bình quân đầu người và mức độ bất bình đẳng trong phân phối
thu nhập. Với bất kỳ mức thu nhập bình quân đầu người nào, việc phân phối
càng bất công bằng bao nhiêu thì số người nghèo đói càng nhiều bấy nhiêu.
Tương tự với bất kỳ sự phân phối nào, mức thu nhập bình quân càng thấp thì
mức độ đói nghèo sẽ càng cao. Phạm vi nghèo đói tuyệt đối là sự kết hợp của
thu nhập bình quân đầu người và phân phối không đồng đều. Nếu chỉ tập
trung vào việc nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế với hy vọng tăng thu nhập
quốc dân sẽ cải thiện mức sống cho những người rất nghèo thì chưa đủ mà
phải tấn công trực tiếp và tình trạng nghèo đói bằng các chính sách và kế
hoạch tập trung vào chống nghèo đói trong cả ngắn hạn và dài hạn. Điểm khái
quát dễ nhận thấy là:
Người nghèo chủ yếu là những nông dân với trình độ học vấn thấp và
khẳ năng tiếp cận đến các thông tin và kỹ năng chuyên môn bị hạn chế. Năm
1998, gần 4/5 số người nghèo làm việc chủ yếu trong ngành nông nghiệp.
Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất đang ngày
càng phổ biến, đặc biệt ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Những hộ không
thể sống dựa vào số đất hiện có cũng chỉ tìm thấy rất ít cơ hội để có thu nhập
ổn định từ công việc phi nông nghiệp. Cần phải có những cải cách để tạo ra
thêm việc làm phi nông nghiệp hơn nữa.
Các hộ có nhiều con hoặc có ít lao động có tỷ lệ nghèo cao hơn và đặc
biệt dễ bị tổn thương khi phải gánh chịu thêm những chi phí về y tế và giáo
9
dục cao và thất thường. Các hộ mới tách hộ vượt qua được giai đoạn đầu của
nghèo đói, lại bị hạn chế trong việc sử dụng đất. Các hộ nghèo thường bị rơi
vào vòng nợ nần luẩn quẩn.
Các hộ nghèo đều rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn mang tính
thời vụ, và những biến động bất thường xảy ra đối với gia đình hay với cộng
đồng. Các hộ nghèo có thể bị tách biệt về địa lý và xã hội.
Tỷ lệ nghèo đói trong các nhóm dân tộc ít người đã giảm đi nhưng
không giảm nhanh bằng người Kinh. Các dân tộc ít người gặp phải nhiều bất
lợi đặc biệt. Những bất lợi này cần phải được giải quyết thông qua Chương
trình Phát triển Dân tộc thiểu số.
Những người dân nhập cư thành thị nghèo, không có hộ khẩu gặp nhiều
khó khăn trong việc tiếp cận tới các dịch vụ công và trở thành người sống tách
biệt. Có thêm nhiều việc làm là cách tốt nhất để giúp đỡ những người này.
Trẻ em chiếm phần lớn trong số dân nghèo. Trẻ em nghèo ít có khẳ
năng được đến trường và bị rơi vào vòng nghèo đói do thế hệ trước để lại và
cảm thấy cực kỳ không an toàn.
Chiến lược tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo của nước ta đã được
chính phủ phê duyệt 5/2002. Chiến lược được coi là chương trình hành động
để thực hiện định hướng tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Chiến
lược cũng thể hiện được tính hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết
các vấn đề xã hội.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO
1. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần nhưng chưa đủ để XĐGN
Từ những năm 1970 trở lại đây, hầu hết các nước đang phát triển đã có
sự chuyển hướng ưu tiên trong quá trình phát triển từ việc quan tâm đặc biệt
tới TTKT sang các mục tiêu kinh tế - xã hội rộng lớn như: XĐGN, giảm
chênh lệch về thu nhập. Điều này xuất phát từ thực tế là vào những năm 60,
các nước đang phát triển có tỷ lệ tăng trưởng tương đối cao nhưng sự tăng
trưởng đó mang lại rất ít lợi ích cho người nghèo ở nước họ.
Chẳng hạn Mỹ La tinh là khu vực có sự tăng trưởng nhanh từ những
năm 1960 và kéo dài cho tới khi có cuộc khủng hoảng về nợ (1982). Khoảng
cách thu nhập giữa 20% dân số giàu nhất và 20% người nghèo nhất trong tổng
dân số đã giảm từ 23/1 xuống 18/1. Tuy nhiên sự cải thiện này chỉ tồn tại
trong thời gian ngắn.
Đến những năm 1980, TTKT của khu vực này làm cho khoảng 10% dân
số có thu nhập cao nhất tăng 10% trong khi thu nhập của những người nghèo
nhất lại giảm 15%. Trong trường hợp này TTKT chỉ làm tăng phúc lợi cho
người giàu, người giàu được hưởng lợi từ tăng trưởng. Trong khi đó đời sống
của phần lớn dân cư lại không được cải thiện.
10
Tuy nhiên về lý thuyết cũng như từ quan sát thực tế, các nhà kinh tế đều
cho rằng, nguyên nhân chính của việc TTKT nhanh nhưng không đi đôi với
cải thiện đời sống, nâng cao phúc lợi cho đa số dân chúng - những người
nghèo là xuất phát từ “phân phối thu nhập”. Ví dụ, trong trường hợp 2 nước có
cùng mức thu nhập và thu nhập bình quân đầu người có thể có cơ cấu sản xuất
và tiêu dùng hoàn toàn khác nhau. Điều này tuỳ thuộc vào phân phối thu nhập
có công bằng hay không. Nếu mức thu nhập và thu nhập bình quân thấp, phân
phối thu nhập càng bất công thì tổng cầu của nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng bởi
thói quen tiêu dùng của người giàu. Sức mua có tính chi phối của họ có thể sẽ
hướng sản xuất vào những hàng hoá xa xỉ làm cho đường cầu không phải là
tất cả của mọi người tiêu dùng mà chỉ của một số ít người giàu. Ngược lại, nếu
thu nhập được phân phối công bằng hơn, đường cầu sẽ hướng vào sản xuất
những hàng hoá thiết yếu để tạo khẳ năng tăng mức sống cho đại bộ phận dân
cư và giảm nghèo đói ở nông thôn.
Như vây, có thể nói TTKT là điều kiện cần nhưng chưa đủ để làm phúc
lợi mọi người được phân phối rộng rãi hơn - chưa đủ để XĐGN. Vì vậy cần
thiết phải quan tâm trực tiếp tới việc cải thiện đời sống vật chất cho người dân,
tức là quan tâm đến việc “phân phối thu nhập”. Phải có chính sách phân phối
và phân phối lại thu nhập sao cho những người nghèo nhất cũng được thừa
hưởng những thành quả của TTKT - điều này đồng nghĩa với việc thực hiện
chính sách XĐGN.
2. XĐGN là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền
vững.
2.1. XĐGN là một trong những mục tiêu của tăng trưởng.
Thực vậy, như phần trên đã trình bày, tăng trưởng kinh tế là điều kiện
cần để nâng cao thu nhập, nhưng chỉ tăng trưởng không thôi thì chưa đủ vì
chẳng có gì đảm bảo chắc chắn rằng người nghèo sẽ được hưởng những thành
quả của sự tăng trưởng. Nhưng thử hỏi nếu không có tăng trưởng thì sao chứ?
Lúc đó người nghèo còn chẳng có một chút cơ hội nào để cải thiện cuộc sống
của mình.
Cũng như trong cuộc sống, mỗi người, cả đời làm nụng vất vả thử hỏi
vì cái gì? Tại sao họ lại cứ phải “lao vào làm, lao vào kiếm sống”? Câu trả lời
chắc chắn không gì khác là họ làm vì cuộc sống, vì hy vọng mình sẽ không bị
thiếu ăn, cuộc sống của mình sẽ không bị rơi vào tình trạng nghèo đói. Thế thì
đối với mỗi quốc gia cũng vậy, phải thực hiện tăng trưởng, chỉ có tăng trưởng
mới cho quốc gia họ cơ hội thoát khỏi đói nghèo vươn lên sánh vai cùng với
các nước phát triển trên thế giới. Do vậy, XĐGN đối với mỗi quốc gia nói
chung và Việt Nam nói riêng chính là mục tiêu của tăng trưởng kinh tế.
2.2. XĐGN là điều kiện tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững.
11
Để XĐGN, Chính phủ mỗi nước phải có sự đầu tư: Đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng, tạo cơ hội về sản xuất, giải quyết việc làm... Đến lượt nó, việc làm
ổn định lại tạo thêm nhiều sản phẩm cho xã hội đóng góp một phần giá trị và
mức tăng trưởng chung. Xét trong ngắn hạn khi phân phối một phần đáng kể
trong thu nhập xã hội cho chương trình XĐGN thì nguồn lực dành cho TTKT
có thể bị ảnh hưởng, song xét một cách toàn diện về dài hạn thì kết quả
XĐGN lại tạo tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Tình hình cũng
giống như việc thực hiện người cày có ruộng ở một số nước đã tạo ra sự phát
triển vượt bậc của nông nghiệp. Nhiều nông dân đã thoát khỏi nghèo đói và có
điều kiện tham gia thực hiện cách mạng xanh, tạo sự phát triển mới cho ngành
nông nghiệp.
3. XĐGN được đặt thành một bộ phận của chiến 10 năm, kế hoạch 5 năm
và hàng năm về phát triển kinh tế - xã hội.
Đảng và Nhà nước ta đã xác định, công tác XĐGN phải được quan tâm
ngay từ đầu khi xây dựng chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
(KHPTKT - XH), coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội. Thông qua KHPTKT – XH, Nhà nước chủ trương điều tiết
hợp lý các nguồn lực vào hoạt động XĐGN quốc gia. Nhà nước xây dựng các
biện pháp thiết yếu để giúp đỡ và bảo vệ người nghèo. Duy trì sự trao đổi liên
tục, phân phối mang tính thị trường nhưng không loại trừ người nghèo ra khỏi
những nguồn lực và lợi ích của sự thịnh vượng chung về kinh tế. Sự thiếu
vắng của Nhà nước đặc biệt có hại tới người nghèo và cộng đồng nghèo vì
người nghèo không tự bảo vệ được các quyền của mình. Hơn nữa trong thành
quả chung của tăng trưởng kinh tế, Nhà nước có vai trò nòng cốt và có trách
nhiệm thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng, các tổ chức chính trị, kinh
tế, xã hội.
4. XĐGN không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, toàn xã hội mà
trước hết là bổn phận của chính người nghèo phải tự vươn lên thoát
nghèo.
Trong khi trách nhiệm của Chính phủ là giúp gỡ bỏ rào cản kinh tế xã
hội và kinh tế để xoá đói giảm nghèo; hiệu quả xoá đói giảm nghèo đạt thấp,
nếu bản thân người nghèo không nỗ lực phấn đấu vươn lên.
XĐGN trước hết phải được coi là sự nghiệp của bản thân người nghèo,
cộng đồng nghèo, bởi vì sự nỗ lực tự vươn lên để thoát nghèo chính là động
lực, là điều cần cho sự thành công của mục tiêu chống đói nghèo ở các nước.
Nhà nước sẽ trợ giúp người nghèo biết cách tự thoát nghèo và tránh tái
nghèo khi gặp rui ro. Bên cạnh sự hỗ trợ trực tiếp bằng vật chất thì việc tạo
việc làm cho người nghèo bằng cách hướng dẫn người nghèo sản xuất, kinh
12
doanh phát triển kinh tế theo điều kiện cụ thể của họ chính là điều kiện xoá
đói giảm nghèo thành công nhanh và bền vững.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ
XĐGN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA
VIỆT NAM (1990 - NAY)
I. THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM.
1. Bối cảnh kinh tế - xã hội
Sau gần 20 năm đổi mới, thực hiện chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội như Đảng ta đã từng dự báo, đất nước đi lên trong đan xen
giữa thời cơ và thách thưc, giữa thuận lợi và khó khăn. Thời cơ lớn nhưng
thách thức cũng lớn. Thuận lợi nhiều nhưng khó khăn cũng không ít. Có nơi
có lúc khó khăn nhiều hơn thuận lợi. Khó khăn do tình hình kinh tế quốc tế
biến động có tác động trực tiếp tới ta; kinh tế thế giới vừa có phục hồi và phát
triển, lại vừa có trì trệ và suy thoái. Khó khăn do trong nước liên tiếp có thiên
tai xảy ra, do những yếu kém vốn có của nền kinh tế và khuyết điểm trong
quản lý điều hành... Mặc dù vậy, toàn Đảng và toàn dân ta đã nêu cao tinh
thần nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, phát huy lợi thế, khắc phục khó
khăn phấn đấu thực hiện mục tiêu đề ra; thực hiện tốt các chính sách và giải
pháp phù hợp, phát huy nội lực, kết hợp với sự hỗ trợ có hiệu quả của cộng
đồng quốc tế nên đã có tốc tăng trưởng liên tục được duy trì ở mức độ cao
trong giai đoạn 1990-2004, bình quân hàng năm GDP tăng khoảng 7,5% (tình
hình tăng trưởng kinh tế qua các năm - Biểu đồ 1); Cơ cấu kinh tế có sự
chuyển dịch theo hướng tích cực phát huy lợi thế so sánh trong từng ngành,
từng vùng và từng sản phẩm. Nền kinh tế phát triển với sự đóng góp và đan
xen đa dạng của các loại hình sở hữu và thành phần kinh tế.
Biểu đồ 1: Tăng trưởng kinh tế bình quân qua các năm (1990-2004)
(Đơn vị: %)
5.09
5.81
8.7
8.08
8.83
9.54
9.34
8.15
5.76
4.77
6.77
6.89
7.08
7.34
7.69
0
2
4
6
8
10
12
1985 1990 1995 2000 2005
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số 175 ngày 2/9/2005.
13