Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong quá trình công nghiệp hoá rút ngắn ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (992.65 KB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ

NGÔ THẾ BẮC





VAI TRÒ CỦA KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ RÚT NGẮN Ở VIỆT NAM


Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 50201


LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. HOÀNG KIM GIAO



Hà Nội - 2005





1



MỤC LỤC

Mở đầu 3
Chƣơng 1 8
Kinh tế tƣ nhân với công nghiệp hoá rút ngắn: Cơ sở lý luận và thực tiễn
8
1.1. Một số vấn đề lý luận về kinh tế tư nhân 8
1.1.1. Khái niệm về kinh tế tư nhân. 8
1.1.2. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế tư
nhân ở Việt Nam 11
1.1.3. Các đặc điểm của khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay 14
1.2. Kinh tế tư nhân với công nghiệp hoá rút ngắn 17
1.2.1. Bản chất và tính tất yếu của công nghiệp hoá rút ngắn. 17
1.2.1.1. Lý luận chung về công nghiệp hoá 17
1.2.1.2. Tính tất yếu và điều kiện công nghiệp hoá rút ngắn 19
1.2.2. Vai trò kinh tế tư nhân trong việc thực hiện công nghiệp hoá rút
ngắn 21
1.3. Vai trò của kinh tế tư nhân trong công nghiệp hoá rút ngắn ở Hàn Quốc
và Trung Quốc - một số bài học kinh nghiệm 24
1.3.1. Bài học từ việc sử dụng các Chaebol của Hàn Quốc 25
1.3.1.1. Quá trình công nghiệp hoá rút ngắn của Hàn Quốc 25
1.3.1.2. Bài học trong việc sử dụng các Chaebol để tiến hành công
nghiệp hoá rút ngắn ở Hàn Quốc 27
1.3.2. Kinh nghiệm từ việc phát triển các xí nghiệp hương trấn ở Trung
Quốc 30
1.3.2.1. Khái quát về nền kinh tế Trung Quốc và quan niệm về công
nghiệp hoá của Trung Quốc 30
1.3.2.2. Chiến lược công nghiệp hoá nông thôn dựa vào kinh tế tư
nhân ở Trung Quốc - bài học từ các xí nghiệp hương trấn. 33

Chƣơng 2 36
Thực trạng phát triển và tác động của khu vực kinh tế tƣ nhân tới công
nghiệp hoá rút ngắn ở Việt Nam 36
2.1. Khái lược quá trình hình thành và phát triển của khu vực kinh tế tư
nhân ở Việt Nam 36
2.1.1. Kinh tế tư nhân ở nước ta thời kỳ trước đổi mới 36
2.1.2. Kinh tế tư nhân thời kỳ đổi mới (1986 đến nay) 40
2.2. Tổng quan về vai trò của kinh tế tư nhân trong quá trình công nghiệp
hoá rút ngắn ở Việt Nam 45
2.2.1. Các mục tiêu của công nghiệp hoá rút ngắn ở Việt Nam 45
2.2.2. Kinh tế tư nhân với việc thực hiện các mục tiêu công nghiệp hoá
rút ngắn ở Việt Nam 51


2

2.3. Đánh giá vai trò của kinh tế tư nhân trong quá trình công nghiệp hoá
rút ngắn ở Việt Nam 62
2.3.1. Những thành công của khu vực kinh tế tư nhân góp phần thực hiện
công nghiệp hoá rút ngắn. 62
2.3.2. Những hạn chế trong việc phát triển kinh tế tư nhân góp phần thực
hiện công nghiệp hoá rút ngắn 68
2.3.2.1. Hạn chế từ năng lực nội tại của khu vực tư nhân 68
2.3.2.2. Những vấn đề thuộc về môi trường thể chế 73
2.3.2.3. Những vấn đề thuộc về cơ chế, chính sách 77
Chƣơng 3 84
Quan điểm và giải pháp nhằm phát triển kinh tế tƣ nhân góp phần thực
hiện công nghiệp hoá rút ngắn ở Việt Nam 84
3.1. Bối cảnh mới tác động đến công nghiệp hoá và kinh tế tư nhân nước ta
84

3.1.1. Bối cảnh trong nước 84
3.1.2. Bối cảnh quốc tế 86
3.2. Quan điểm phát triển kinh tế tư nhân góp phần thực hiện công nghiệp
hoá rút ngắn 88
3.2.1. Kinh tế tư nhân là nhân tố rất quan trọng góp phần thực hiện công
nghiệp hoá rút ngắn 90
3.2.2. Kinh tế tư nhân mang tính hai mặt nên vừa chú trọng thúc đẩy
phát triển vừa tăng cường quản lý 93
3.3. Các giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư nhân góp phần thực hiện công
nghiệp hoá rút ngắn 96
3.3.1. Các giải pháp tạo lập môi trường 96
3.3.2. Các chính sách hỗ trợ và điều tiết 100
Kết luận 107
Tài liệu tham khảo 110



3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986 đến nay,
Việt Nam đã kiên trì nhất quán thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các chính sách của Đảng và Nhà
nước đối với các thành phần kinh tế, các khu vực kinh tế đã có sự cởi mở và
thông thoáng hơn. Điều này đã tạo ra sức bật quan trọng trong nền kinh tế,
nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có để vượt qua thời kỳ khủng
hoảng, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII, VIII và

IX tiếp tục khẳng định: công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với nội dung cơ bản
là phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý; xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp. Trong bối cảnh mới của thế giới và đất nước, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá rút ngắn là tất yếu. Lý luận cũng như thực tiễn đã chứng minh rằng, khu
vực kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các nội dung
trên.
Sau gần 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn,
tạo tiền đề vững chắc cho việc củng cố và ổn định về các mặt chính trị - xã
hội, an ninh - quốc phòng Thành tựu điển hình là nền kinh tế đã đạt được và
duy trì liên tục mức tăng trưởng cao (6 - 7%/năm) trong nhiều năm, mức sống
nhân dân được cải thiện rõ rệt. Là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế
quốc dân, khu vực kinh tế tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước,
đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, thể hiện một cách rõ rệt trong việc
huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm,


4

cải thiện đời sống đại bộ phận nhân dân, tăng ngân sách nhà nước Vai trò
của khu vực kinh tế tư nhân đối với công cuộc tái thiết và phát triển kinh tế là
không thể phủ nhận.
Tuy vậy, sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân hiện nay còn vấp phải
nhiều cản trở từ phía môi trường thể chế và từ những yếu kém nội tại, chưa kể
những khó khăn phát sinh trong quá trình phát triển. Đây là một bức xúc trong
việc theo đuổi mục tiêu lâu dài là thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước.
Trước yêu cầu đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đã
được đề ra qua các kỳ Đại hội Đảng gần đây, khu vực kinh tế tư nhân với vai

trò là một trong những nhân tố thúc đẩy nền kinh tế phát triển, có mối quan hệ
tương hỗ và rất khăng khít với các khu vực kinh tế khác, lại càng cần phải
khẳng định được vị thế trong nền kinh tế, thực sự trở thành động lực chính
thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ổn định. Mặt khác, tiềm năng
của khu vực kinh tế tư nhân còn rất lớn, vai trò của khu vực này trong phát
triển kinh tế nói chung và sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá rút ngắn
là rất quan trọng; những nhu cầu bức thiết trên là lý do lựa chọn đề tài “Vai
trò của khu vực kinh tế tư nhân trong quá trình công nghiệp hoá rút ngắn
ở Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu
Đây là một đề tài có phạm vi nghiên cứu tương đối rộng lớn và bao trùm,
liên quan tới nhiều vấn đề cả ở tầm vĩ mô và vi mô của nền kinh tế. Đã có
nhiều công trình khoa học ở các cấp, của các ngành đề cập đến, nhất là về mặt
lý luận.


5

Về vai trò và thực trạng của kinh tế tư nhân trong sự nghiệp thực hiện
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đã có nhiều công trình nghiên cứu
đề cập đến dưới các giác độ khác nhau. Một trong những đề tài nổi bật là:
- “Kinh tế tư nhân trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của tác
giả Hoàng Kim Giao, Viện Kinh tế học, Hà Nội,1998.
- “Thành phần kinh tế tư bản tư nhân trong quá trình công nghiệp hoá”
của tác giả Nguyễn Thanh Tuyền, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002.
- “Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân: Lý luận và
chính sách” của tác giả Hà Huy Thành, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002.
Hoặc những nghiên cứu về quá trình công nghiệp hoá ở nước ta có liên
quan tới vai trò của kinh tế tư nhân:

- “Một số vấn đề về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam” của tác
giả Đỗ Hoài Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994
- “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam: Phác thảo lộ trình” của tác
giả Trần Đình Thiên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Phát triển kinh tế tư nhân đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại
hoá là vấn đề không mới, nhưng với trước yêu cầu đẩy nhanh tiến trình công
nghiệp hoá theo kiểu rút ngắn, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân cần
được xác định thêm về quan điểm, xu hướng phát triển hướng vào những mục
tiêu mới, cụ thể hơn và mang tính cấp thiết hơn.
Qua đây, đề tài mong muốn khảo sát lại hệ thống lý luận đã có trước đây,
kết hợp với đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước trước bối cảnh và yêu
cầu mới. Đề tài cũng cố gắng đi sâu phân tích thực trạng hiện nay của khu vực
kinh tế tư nhân trước những điều kiện và yêu cầu mới, nhằm đưa ra một số
giải pháp thiết thực cho việc phát triển kinh tế tư nhân trước những thuận lợi


6

và khó khăn cụ thể, hướng theo những mục tiêu được xác định trước đó, trong
đó có nhấn mạnh tới vai trò đặc biệt của các doanh nghiệp tư nhân.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc làm rõ vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trước những yêu cầu
của quá trình công nghiệp hoá rút ngắn, phân tích những thuận lợi, khó khăn
trong sự phát triển của khu vực này, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm
góp phần thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển trong bối cảnh thực hiện
công nghiệp hoá - hiện đại hoá rút ngắn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát và tổng hợp lại hệ thống lý luận về thành phần kinh tế tư nhân
và vai trò của nó gắn với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và yêu cầu

công nghiệp hoá rút ngắn.
- Phân tích và tổng hợp các số liệu về thực trạng phát triển của khu vực
kinh tế tư nhân ở nước ta.
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm phát triển khu vực kinh tế tư nhân
đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá rút ngắn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là khu vực kinh tế dựa trên sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất bao gồm kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân, và vai trò của nó trong công nghiệp hoá rút ngắn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Quá trình hình thành và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta
trong bối cảnh thực hiện và đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, động thái


7

và xu hướng của sự phát triển này qua các giai đoạn; các tác động về mặt
chính sách, môi trường thể chế vĩ mô đối với sự phát triển của khu vực này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận là duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quá trình
nghiên cứu dự kiến sẽ sử dụng các phương pháp cụ thể được dùng trong
nghiên cứu thực chứng:
- Phương pháp thống kê - so sánh nhằm xử lý các số liệu và dữ kiện cần
thiết đã thu thập được.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp đi sâu nghiên cứu thực trạng phát
triển của khu vực kinh tế tư nhân nhằm tìm ra những thuận lợi cũng như khó
khăn cản trở, từ đó rút ra những kết luận cần thiết.
- Phương pháp logic - lịch sử nhằm nghiên cứu quá trình hình thành và
phát triển của khu vực kinh tế tư nhân qua các giai đoạn phát triển của đất

nước, tìm hiểu các động thái và dự báo các xu hướng.
6. Dự kiến những đóng góp của đề tài
- Phân tích và đánh giá những vai trò và tiềm năng của khu vực kinh tế
tư nhân đối với yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước nói chung và yêu cầu
rút ngắn quá trình công nghiệp hoá nói riêng.
- Đưa ra quan điểm, phương hướng và kiến nghị một số giải pháp phát
triển khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta góp phần phục vụ quá trình công
nghiệp hoá rút ngắn.
7. Bố cục của bản luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần tài liệu tham khảo, bản luận
văn gồm 3 chương:


8

Chương 1: Kinh tế tư nhân với công nghiệp hoá rút ngắn: Cơ sở
lý luận và thực tiễn
Chương 2: Thực trạng phát triển và tác động của khu vực kinh tế
tư nhân tới quá trình công nghiệp hoá rút ngắn ở Việt Nam
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư nhân
góp phần thực hiện quá trình công nghiệp hoá rút ngắn ở Việt
Nam
CHƢƠNG 1
KINH TẾ TƢ NHÂN VỚI CÔNG NGHIỆP HOÁ RÚT NGẮN:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Một số vấn đề lý luận về kinh tế tƣ nhân
1.1.1. Khái niệm về kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Sự ra đời của
nó gắn liền với sự xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Trong lịch sử

phát triển của loài người, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến và chế
độ tư bản đã từng tồn tại và phát triển dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất. Trong lịch sử các học thuyết về kinh tế, kinh tế tư nhân không
được đề cập đến như một đối tượng nghiên cứu riêng biệt trong các tác phẩm
của các nhà kinh tế chính trị kinh điển, nhưng các khái niệm về kinh tế tư
nhân đã xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm của Các Mác, Ph. Ăngghen và
Lênin, dưới các khía cạnh và các cách tiếp cận khác nhau về chế độ tư hữu, về
phương thức sản xuất, và về hình thái biểu hiện Nhưng về thực chất, chúng
ta có thể hiểu kinh tế tư nhân dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, hoạt động của kinh tế tư nhân là hoạt động sản xuất kinh doanh của
những người kinh doanh riêng biệt.


9

Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, kinh tế tư nhân
chính thức được thừa nhận là một thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc
dân. Từ đó thuật ngữ “kinh tế tư nhân” dần được sử dụng trong các văn kiện
của Đảng và Nhà nước và dần được cụ thể hoá về mặt khái niệm. Nghị quyết
16 Bộ Chính trị khoá VI (7/1988) đưa ra khái niệm “Kinh tế tư nhân là đơn vị
kinh tế do người có vốn, có tài sản lập ra, sản xuất và kinh doanh theo pháp
luật”.
Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VII (1991) của Đảng đã xác định thành
phần kinh tế tư nhân gồm: Kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt
Nam, các thành phần kinh tế đã được phân chia rõ thành 6 thành phần, đó là:
Kinh tế nhà nước; Kinh tế tập thể; Kinh tế cá thể, tiểu chủ; Kinh tế tư bản tư
nhân; Kinh tế tư bản nhà nước và Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó
khu vực kinh tế tư nhân bao gồm Kinh tế tư bản tư nhân và Kinh tế cá thể,
tiểu chủ. Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

khoá IX cũng khẳng định lại nội dung này, tiếp tục cụ thể hoá định hướng
phát triển cho khu vực kinh tế tư nhân.
Như vậy, căn cứ vào cơ sở hình thành kinh tế tư nhân qua các công trình
nghiên cứu kinh điển, căn cứ vào những quan điểm mới nhất của Đảng, chúng
ta có thể xác định kinh tế tư nhân là loại hình tổ chức kinh tế dựa trên chế độ
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, nó
hiện hữu ở hai thành phần kinh tế là thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và
thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Cùng dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, nhưng giữa hai thành phần kinh tế này có sự khác biệt rõ rệt.
Kinh tế cá thể và kinh tế tiểu chủ đều mang hình thức tư hữu nhỏ, trong
đó kinh tế tiểu chủ có sự thuê mướn lao động; nhưng cả hai đều mang đặc


10

điểm chung là thu nhập dựa chủ yếu vào lao động và vốn của bản thân người
chủ đơn vị kinh tế và gia đình của họ.
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên sự chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và lao động thặng dư của người làm
thuê. Đây là hình thức tổ chức kinh tế dựa trên cơ sở tư hữu lớn của một số
nhà tư bản góp lại để sản xuất kinh doanh và thuê mướn nhân công. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
sự thuê mướn lao động phải dựa trên cơ sở thoả thuận giữa các bên và phải
tuân theo quy định của Nhà nước.
Cũng cần phải làm rõ thêm về sự khác biệt trong vấn đề chiếm hữu lao
động thặng dư của các nhà tư bản đối với người lao động làm thuê, với chế độ
bóc lột tư bản chủ nghĩa. Đây là vấn đề vẫn đang còn có nhiều tranh luận trên
cả phương diện lý luận và thực tế, và cũng là cơ sở quyết định sự tồn tại và
phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta từ trước tới nay nay.
Chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa tồn tại trong các điều kiện:

- Về mặt kinh tế: Giai cấp bóc lột (giai cấp Tư sản) nắm trong tay những
tư liệu sản xuất chủ yếu, các nguồn lực khác của xã hội.
- Về mặt chính trị: Giai cấp bóc lột nắm lấy bộ máy thống trị là Nhà
nước để duy trì và củng cố, bảo vệ quan hệ thống trị đó.
Trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay, các điều kiện trên không tồn tại
vì:
- Quan hệ sản xuất bóc lột vẫn tồn tại nhưng không phải là quan hệ sản
xuất chủ đạo, thống trị trong nền kinh tế. Các tư liệu sản xuất, các nguồn lực
chủ yếu đều thuộc về nhân dân lao động, được Nhà nước quản lý, khai thác và
sử dụng phục vụ lợi ích của nhân dân.


11

- Nền kinh tế thị trường được Nhà nước xã hội chủ nghĩa điều tiết và
quản lý, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân, phục vụ và bảo vệ lợi ích của nhân dân lao
động.
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản
xuất nông nghiệp lạc hậu, điều kiện xuất phát điểm thấp, cũng như yêu cầu
huy động nguồn lực từ tất cả các thành phần kinh tế, nên sự tồn tại đan xen
giữa cái cũ và cái mới, tồn tại đa dạng các hình thức sở hữu gắn với các thành
phần kinh tế tương ứng là tất yếu. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần với việc thừa nhận thành phần kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế tư nhân nhanh chóng trở thành một khu vực rộng lớn. Còn ở các quốc
gia phát triển có nền kinh tế thị trường hiện đại, khu vực này thậm chí lớn
hơn rất nhiều do việc thực hiện triệt để quá trình tư hữu hoá các tư liệu sản
xuất, và chế độ sở hữu tư nhân thực sự trở thành một trong những động lực
chủ yếu để phát triển kinh tế. Việc thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển
với nòng cốt là các doanh nghiệp tư nhân giúp tạo ra động lực trong sản xuất

kinh doanh cũng như các hoạt động khác của toàn nền kinh tế; đa dạng hoá
các chủ thể tham gia thị trường (đặc biệt đối với những nước đang chuyển đổi
và đang trong quá trình hoàn thiện nền kinh tế thị trường); duy trì và tạo ra
sức ép thúc đẩy cạnh tranh làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn; góp
phần khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phục vụ quá trình phát
triển
1.1.2. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân
ở Việt Nam
Sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong lịch sử loài
người nói chung và trong lịch sử phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia nói riêng
đều có cơ sở về mặt kinh tế, xã hội và thể chế chính trị. Các Mác đã từng khái


12

quát rằng một kết cấu kinh tế xã hội không thể bị loại trừ khỏi đời sống xã hội
khi bản thân nó vẫn còn sức sống và một kết cấu kinh tế xã hội mới chưa thể
ra đời khi những điều kiện làm nảy sinh nó chưa xuất hiện. Theo hàm ý đó,
xét một cách tổng quát, kinh tế tư nhân có cơ sở kinh tế - xã hội nằm trong nội
tại kết cấu kinh tế - xã hội ở nước ta. Kiến trúc thượng tầng xã hội có thể điều
tiết sự phát triển của khu vực này bằng cách thúc đẩy hay hạn chế thông qua
thể chế chính trị và luật pháp.
Lý luận về sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Lênin cũng chỉ ra rằng, ở các
nước đi lên chủ nghĩa xã hội có ba thành phần kinh tế cơ bản là kinh tế xã hội
chủ nghĩa, kinh tế tư bản chủ nghĩa, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Đó là sự
đan xen tồn tại giữa cái cũ và cái mới mang tính khách quan. Do vậy, đặc
trưng của nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải là nền kinh tế nhiều
thành phần.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thể hiện như hai đại lượng tác động
biện chứng đến quá trình xã hội hoá quan hệ sở hữu và cơ cấu thành phần

kinh tế. Khi lực lượng sản xuất còn ở trình độ thấp, thì ứng với nó là sự tồn tại
nhiều hình thức sở hữu nhỏ và phân tán. Lực lượng sản xuất từng bước phát
triển sẽ là cơ sở cho tiến trình tập trung hoá và xã hội hoá quan hệ sở hữu mà
đỉnh cao của nó là sở hữu toàn dân.
Vận dụng lý luận này vào điều kiện cụ thể của đất nước, Đảng và
Nhà nước ta đã chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần. Đó là một tất yếu khách quan và được thể hiện rõ ở những căn cứ cơ
bản sau:
Nền kinh tế Việt Nam mang đặc trưng của một nước nông nghiệp lạc
hậu và phải trải qua hai cuộc chiến tranh, trình độ của lực lượng sản xuất nhìn
chung là thấp và không đồng đều. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cần có nhiều
hình thức quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của từng bộ phận


13

trong lực lượng sản xuất ở nước ta là một đòi hỏi tất yếu. Vì vậy, thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhất thiết phải tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần, gắn với sự tồn tại tính đa dạng của các hình thức sở hữu, trong đó
có sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ
nghĩa không có nghĩa là bỏ qua mọi hình thức phát triển của chủ nghĩa tư bản,
mà chỉ bỏ qua sự xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Như vậy, việc thừa nhận kinh tế tư nhân như một thực thể trong nền
kinh tế, thừa nhận chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất để có thể tận dụng các ưu
thế trong quan hệ sản xuất này cũng là một tất yếu khách quan trong thời kỳ
quá độ.
Xét dưới góc độ quan hệ sản xuất, trong điều kiện kinh tế thị trường,
kinh tế tư nhân có những ưu thế sau:
- Về quan hệ sở hữu: Là quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,

người chủ doanh nghiệp là người bỏ vốn thành lập, có quyền sở hữu và trực
tiếp sử dụng tài sản, tiền vốn của mình. Trên thực tế, cơ chế quản lý và sử
dụng tài sản riêng luôn đảm bảo tính chặt chẽ và hiệu quả hơn so với việc sử
dụng tài sản chung. Cũng do đặc điểm này sự kế thừa và quản lý, sử dụng tài
sản, nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý, các phương pháp sản xuất kinh doanh
kiểu “bí truyền”, kể cả các thương hiệu, thường được tiến hành nghiêm túc,
trọn vẹn và luôn trở thành nền tảng đáng tin cậy cho mọi hoạt động trong hiện
tại và tương lai của mỗi doanh nghiệp. Đây là một trong những ưu thế nổi bật
của chế độ tư hữu.
- Về quan hệ quản lý: Người chủ sở hữu của một doanh nghiệp hay một
cơ sở kinh tế tư nhân cũng chính là người trực tiếp quyết định việc tổ chức bộ
máy quản lý và điều hành hoạt động của đơn vị đó. Bộ máy quản lý của các
doanh nghiệp tư nhân thường gọn nhẹ và hiệu quả vì lợi ích kinh tế ở đây


14

chính là lợi ích của người chủ doanh nghiệp. Ở nước ta, do chịu ảnh hưởng
sâu sắc của quan hệ huyết thống họ tộc phương Đông, các vị trí trong cơ cấu
quản lý thường là những người trong gia đình hoặc người thân của họ, do vậy
ý thức trách nhiệm luôn trở thành nghĩa vụ của mỗi thành viên trong cơ cấu.
Cũng chính vì sự gắn bó mật thiết đó mà kinh tế tư nhân luôn đảm bảo được
quyền tự chủ, tính tự quyết, sự năng động và linh hoạt trong các hoạt động
kinh tế. Trong cơ chế thị trường thì đây là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại
và phát triển của mỗi thực thể kinh tế.
- Về quan hệ phân phối: Mục tiêu duy nhất của người chủ doanh nghiệp
tư nhân chính là lợi nhuận, lợi ích chung của cả doanh nghiệp gắn chặt với lợi
ích của người chủ sở hữu doanh nghiệp. Do vậy sự phân phối trong các doanh
nghiệp tư nhân thường được chủ doanh nghiệp toàn quyền thực hiện một cách
rạch ròi và công bằng. Cũng như sự tối ưu trong cơ chế quản lý, cơ chế phân

phối ở doanh nghiệp tư nhân rất linh hoạt nhưng vẫn đảm bảo được sự chặt
chẽ và hiệu quả.
1.1.3. Các đặc điểm của khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay
Gần 20 năm thực hiện đường lối chính sách đổi mới của Đảng và Nhà
nước, được sự đồng tình và hưởng ứng tích cực của nhân dân, kinh tế tư nhân
hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp
tư nhân đã phát triển rộng khắp trên phạm vi cả nước. Kinh tế tư nhân đã và
đang từng bước có những đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh
tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc
làm, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, làm tăng thêm ngân sách
nhà nước, góp phần giữ vững ổn định tình hình chính trị - xã hội.
Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
xã hội chủ nghĩa trên cả phương diện lý luận và thực tiễn đã tạo cho khu vực
kinh tế tư nhân của Việt Nam những đặc điểm sau:


15

Thứ nhất, khu vực kinh tế tư nhân đã chính thức được thừa nhận là một
thực thể kinh tế, được Đảng và Nhà nước ta khuyến khích phát triển trong
khuôn khổ chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong đó, “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với nền kinh tế
hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế” và “phát triển kinh tế
tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần định hướng xã hội chủ nghĩa” đã được khẳng định lại (Nghị quyết Trung
ương 5 khoá IX). Điều này cũng có nghĩa là khu vực kinh tế tư nhân ở Việt
Nam nằm trong môi trường pháp lý khác với các nước kinh tế thị trường
khác. Môi trường pháp lý ở nước ta đã được thể chế hoá thành các văn bản
pháp luật và các chính sách kinh tế của Nhà nước đối với khu vực này.

Thứ hai, khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam có phạm vi hoạt động trải
hầu khắp các ngành kinh tế: nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp (kể cả
công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến, công nghiệp điện, khí đốt và
nước); ngành xây dựng, thương nghiệp, khách sạn nhà hàng và nhiều ngành
dịch vụ khác. Tuy nhiên, mức độ đầu tư tập trung nhất vẫn là các ngành
thương mại dịch vụ, công nghiệp chế biến và thuỷ sản, là những ngành có
mức doanh lợi hấp dẫn, có thị trường và sẵn có kinh nghiệm kinh doanh.
Về mặt phân bố theo địa lý kinh tế lãnh thổ, kinh tế tư nhân vẫn tập
trung một cách tương đối tự phát ở các thành phố lớn là chủ yếu: Hà Nội, Hải
Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Biên Hoà (Đồng Nai) Ở những
nơi này sẵn có cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và cơ sở hạ tầng xã hội thuận
lợi cho các hoạt động đầu tư. Như vậy hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân
ở nước ta tuy rộng khắp, những phân bố không đều giữa các ngành và giữa
các vùng lãnh thổ. Đó là quy luật chung của sự phát triển, do các đặc thù về
địa - chính trị, về kinh tế - xã hội và lịch sử phát triển kinh tế chi phối.


16

Thứ ba, quy mô của các loại hình doanh nghiệp tư nhân còn nhỏ bé, suất
đầu tư thấp, kỹ thuật và công nghệ còn nhiều bất cập. Theo quy mô lao động,
doanh nghiệp dưới 10 lao động chiếm 48,76% tổng số doanh nghiệp; doanh
nghiệp có từ 10 đến 50 lao động chiếm 37,97% trên tổng số; doanh nghiệp có
từ 50 đến 200 lao động chiếm 10,11% và doanh nghiệp có trên 200 lao động
chỉ chiếm 3,16% trên tổng số.
Suất đầu tư bình quân trên 1 lao động đối với các doanh nghiệp tư nhân
là 22,2 triệu đồng, của các công ty trách nhiệm hữu hạn là 34,1 triệu đồng và
công ty cổ phần là 133,8 triệu đồng. Còn về quy mô tổng nguồn vốn, doanh
nghiệp có số vốn trên 100 triệu đồng chiếm 68,3% tổng số doanh nghiệp;
Doanh nghiệp có số vốn trên 500 triệu đồng chiếm 31,7% (trong đó số doanh

nghiệp có số vốn trên 1 tỷ đồng chỉ chiếm 18,9% trên tổng số).
Thứ tư, hạn chế về vốn và khả năng tích luỹ là đặc điểm tất yếu gắn với
lịch sử và phương thức phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta. Điều
này dẫn đến mô hình sản xuất kinh doanh chung của khu vực này là sử dụng
các công nghệ dùng nhiều lao động. Cũng do hạn chế về vốn, nên khả năng
đổi mới kỹ thuật công nghệ còn rất hạn chế, dẫn đến tình trạng sức cạnh tranh
của sản phẩm thấp, thị phần bị giới hạn ngay từ ở trong nước. Tuy vậy, đây
cũng là thực trạng chung của toàn bộ các doanh nghiệp ở nước ta, kể cả các
doanh nghiệp trong khu vực kinh tế Nhà nước.
Thứ năm, là một thực thể kinh tế mới được khai sinh với tuổi đời còn
non trẻ, phát triển trong một môi trường luật pháp còn đang được tạo dựng,
nên bản lĩnh và kinh nghiệm kinh doanh còn nhiều bất cập và thiếu hụt. Vì
vậy, việc hoàn chỉnh môi trường luật pháp kinh doanh, các chính sách kinh tế
khuyến khích hỗ trợ và coi trọng công tác đào tạo đội ngũ doanh nhân nói
chung, và với các chủ doanh nghiệp tư nhân nói riêng cần phải được đẩy
mạnh từ cả hai phía Nhà nước và chủ doanh nghiệp.


17

1.2. Kinh tế tƣ nhân với công nghiệp hoá rút ngắn
1.2.1. Bản chất và tính tất yếu của công nghiệp hoá rút ngắn
1.2.1.1. Lý luận chung về công nghiệp hoá
Cuộc cách mạng công nghiệp ở châu Âu cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ
XVIII đã mở đầu một sự thay đổi hết sức to lớn trong toàn bộ phương thức
sinh hoạt kinh tế xã hội của loài người. Các thành tựu của cuộc cách mạng
công nghiệp đã khiến các quốc gia châu Âu trở nên có nguồn lực tài chính
hùng hậu và phát triển ở trình độ cao nhất thế giới. Ngày nay, công nghiệp
hoá được xem là con đường đi tất yếu khách quan của mọi quốc gia chậm
phát triển.

Vậy thực chất khái niệm công nghiệp hoá là gì?
Có thể hiểu khái niệm “công nghiệp hoá” theo hai nghĩa: rộng và hẹp.
Theo nghĩa rộng, công nghiệp hoá là một quá trình phát triển công nghiệp từ
thấp đến cao, một quá trình thay đổi về chất cơ sở vật chất kỹ thuật của nền
kinh tế, kéo theo những biến đổi cơ bản của các mối quan hệ xã hội. Đó là
quá trình đổi mới cả về kinh tế - kỹ thuật và về kinh tế - xã hội; thay đổi về
chất trong cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; là một sự chuyển hoá
hình thái kinh tế - xã hội - một quá trình lịch sử có tính tất yếu.
Theo nghĩa hẹp, công nghiệp hoá là một giai đoạn nhất định trong quá
trình phát triển xã hội, một thời kỳ mà trong đó diễn ra việc tổ chức nền sản
xuất xã hội theo lối công nghiệp, trên cơ sở thay thế lao động thủ công bằng
lao động cơ giới. Thời kỳ này sẽ kết thúc khi sản xuất bằng máy móc chiếm vị
trí thống trị. Sản xuất nông nghiệp và các ngành khác cũng như các đơn vị sản
xuất trong nền kinh tế sẽ có những thay đổi tương ứng theo sự phát triển của
quá trình đó. Quá trình công nghiệp hoá theo định nghĩa này chỉ diễn ra trong


18

một thời kỳ nhất định và nó đòi hỏi phải có những chỉ tiêu đánh giá cụ thể và
rõ ràng.
Với quan niệm về công nghiệp hoá như vậy, có thể xem công nghiệp hoá
là một phạm trù kinh tế chính trị mà bất kỳ quốc gia nào trong bước đường
phát triển của mình đều trải qua. Công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại
hoá, kết hợp những bước tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ
hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên
tiến của khoa học - công nghệ trên thế giới. Do vậy, công nghiệp hoá ngày
nay chính là sự phản ánh nội dung của cụm từ “công nghiệp hoá, hiện đại
hoá” và không có sự tách biệt giữa hai phạm trù khái niệm này.
Trong lịch sử, tiến trình công nghiệp hoá trên thế giới đã diễn ra dưới

nhiều mô hình khác nhau. Đó là mô hình công nghiệp hoá kiểu cổ điển trước
thế kỷ XX khởi đầu ở Anh và Pháp, sau đó lan ra toàn bộ các nước tư bản chủ
nghĩa châu Âu, Mỹ và Nhật Bản; các mô hình công nghiệp hoá sau thế kỷ
XX, điển hình là mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu (như Ấn Độ)
và công nghiệp hoá hướng ra xuất khẩu (các NIEs Đông Á). Ngoài ra còn có
thể kể đến mô hình công nghiệp hoá trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung ở
các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu Nhưng nói chung, mỗi mô hình dù
có thành công hay thất bại, cũng đều có những khía cạnh hợp lý nhất định, tuỳ
thuộc vào từng bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước.
Trong điều kiện ngày nay, công nghiệp hoá theo kiểu cổ điển và công
nghiệp hoá trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung không còn tồn tại trên thực tế
nữa. Trong điều kiện phát triển mới của toàn thế giới và của mỗi quốc gia,
yêu cầu đặt ra cho quá trình công nghiệp hoá ở các nước chậm phát triển,
ngoài việc xây dựng nền kinh tế công nghiệp hiện đại, còn phải nhanh chóng
gia nhập vào quỹ đạo kinh tế toàn cầu và phát triển nền kinh tế tri thức. Do
vậy, bên cạnh việc đưa ra tư duy và quan niệm mới về bản chất, nội dung của


19

công nghiệp hoá trong điều kiện ngày nay, chúng ta còn phải xác định phương
thức tiến hành công nghiệp hoá theo một “logic” mới - không chỉ mang ý
nghĩa “rút ngắn” về mặt thời gian mà còn hàm ý về một hệ thống trình tự các
bước lựa chọn mô hình, hoạch định chiến lược, giải pháp thực hiện phù hợp
với những thực tế mới của kinh tế tri thức đang trong giai đoạn toàn cầu hoá
về các mặt kinh tế - chính trị - xã hội
1.2.1.2. Tính tất yếu và điều kiện công nghiệp hoá rút ngắn
Trong bộ Tư bản, Các Mác đã trình bày sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản gắn liền với sự quá độ lên phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, với nền
tảng là việc xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí - tiền đề của việc công

nghiệp hoá nền sản xuất. Quá trình phát triển này kéo dài mấy trăm năm theo
một tuần tự từ thấp đến cao; sự phát triển của lực lượng sản xuất phải trải qua
các giai đoạn kế tiếp nhau: hiệp tác giản đơn, công trường thủ công, đại công
nghiệp cơ khí, tự động hoá. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi quốc gia đều đi
lên chủ nghĩa tư bản theo mô hình chung đó. Lịch sử đã cho thấy các nước tư
bản đi sau có thể chuyển thẳng từ phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư
bản sang phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa theo con đường “rút ngắn”.
Sự ra đời và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các
nước châu Mỹ chính là điển hình của sự quá độ theo kiểu rút ngắn. Sau khi
phát hiện ra châu Mỹ ở thế kỷ XV, người châu Âu đã du nhập ngay phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào châu Mỹ. Nhờ vậy họ đã chuyển ngay lên
được phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa quy mô lớn. Nhiều nước khác
đi sau cũng đã có sự phát triển trong phương thức sản xuất tương tự như vậy,
với hình thức và quy mô khác nhau nhưng đều theo logic “rút ngắn”. Lịch sử
phát triển của một số nước châu Á (như Nhật Bản và đặc biệt là các nước
công nghiệp mới - NIEs) cũng cho thấy, mặc dù có sự kìm hãm của chủ nghĩa
đế quốc, thực dân, họ vẫn chuyển từ giai đoạn tiền tư bản chủ nghĩa sang giai


20

đoạn tư bản chủ nghĩa một cách nhanh chóng, không phải đi theo mô hình “cổ
điển” kéo dài hàng mấy trăm năm. Nếu chỉ xem xét dưới góc độ xây dựng và
phát triển về cơ sở vật chất cho nền sản xuất, có thể rút ra được mối liên hệ
giữa phương thức sản xuất kiểu tư bản chủ nghĩa với quá trình công nghiệp
hoá: Công nghiệp hoá là hệ quả tất yếu của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa trong quá trình phát triển đến trình độ cuối cùng của nó. Các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác cũng đã rút ra được nguyên lý là “để công nghiệp hoá
thành công, nhất thiết phải đồng thời phát triển kinh tế thị trường và dựa vào
cơ chế thị trường để phân bổ các nguồn lực tiến hành công nghiệp hoá” [20,

tr.26].
Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và phát triển
kinh tế tri thức đang làm thay đổi mạnh mẽ logic của tiến trình công nghiệp
hoá hiện đại. Sự kết hợp hai xu hướng này đòi hỏi quá trình công nghiệp hoá
diễn ra ở các nước đi sau phải đồng thời thực hiện hai quá trình: vừa xây dựng
nền đại công nghiệp (nội dung của công nghiệp hoá theo kiểu “cổ điển”); vừa
phát triển nền kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới.
Với tư tưởng mới về mặt lý luận như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
“rút ngắn” nên được hiểu là hai mặt thống nhất của một quá trình, là quá trình
công nghiệp hoá với các mục tiêu và giải pháp phù hợp với điều kiện và xu
hướng phát triển hiện đại. “Theo đà phát triển kinh tế, quan niệm công nghiệp
hoá truyền thống chứa đựng ngày càng nhiều nội dung “rút ngắn”, càng biến
thành quan niệm “công nghiệp hoá rút ngắn” [20, tr.29].
Trước bối cảnh quốc tế mới và những đòi hỏi đột phá về mặt tư duy như
vậy, có thể khái quát những điều kiện chung để tiến hành công nghiệp hoá rút
ngắn ở các nước đang phát triển như sau:
- Độ “mở” của nền kinh tế ngày càng lớn, mức độ hội nhập vào nền kinh
tế toàn cầu ngày càng mạnh mẽ.


21

- Có khả năng tiếp nhận các thành tựu khoa học công nghệ và tiếp cận
với kinh tế tri thức.
- Kinh tế thị trường phát triển ở trình độ cao, tạo ra một thị trường trong
nước ổn định, đa dạng với sức tiêu thụ lớn.
- Các nguồn lực phục vụ phát triển trong nước được sử dụng và phát huy
ở mức tối ưu.
- Vai trò điều tiết vĩ mô của Chính phủ được khẳng định thông qua các
công cụ thể chế và công cụ chính sách phù hợp.

Như vậy, với tư duy, quan niệm mới về tiến trình và nội dung của công
nghiệp hoá như trên, thì đối với mọi quốc gia dù là chậm phát triển hay đang
phát triển, có phát triển theo phương thức tư bản chủ nghĩa hay không, việc
gấp rút thực hiện và hoàn thiện quá trình công nghiệp hoá là một yêu cầu bất
khả kháng; việc dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và kinh nghiệm của
các nước đã hoàn thành quá trình này là con đường tất yếu và duy nhất để
thực hiện công nghiệp hoá rút ngắn, tránh bị “bỏ rơi”, “nằm ngoài lề” trong
một nền kinh tế toàn cầu hoá đang phát triển với trình độ ngày càng cao.
1.2.2. Vai trò kinh tế tư nhân trong việc thực hiện công nghiệp hoá rút
ngắn
Trong một nền kinh tế tồn tại đa dạng các hình thức sở hữu, thì chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất với những đặc tính của nó đã tạo cho kinh tế tư nhân
những ưu thế riêng biệt khác với các thành phần kinh tế khác. Dưới cơ chế thị
trường, kinh tế tư nhân có thể bộc lộ được hết những ưu thế này và những
đóng góp của khu vực này trong nền kinh tế quốc dân có ý nghĩa quan trọng
đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế ở mọi quốc gia.
Trong bối cảnh nền kinh tế quốc tế có những thay đổi rõ rệt trong vài
thập kỷ gần đây, đặc biệt là về phương thức và trình độ phát triển mới, với


22

những nước chậm phát triển và đang trong quá trình chuyển đổi, vai trò và
những đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân càng được nhận thức đủ và được
đề cao. Xét với tư cách là một bộ phận cấu thành quan trọng trong nền kinh
tế, kinh tế tư nhân nếu được chú trọng phát triển sẽ trở thành một nhân tố
quan trọng có thể giúp các nước chậm phát triển rút ngắn được quá trình thực
hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Trong hai quá trình song song: tiếp tục
xây dựng và củng cố các cơ sở cho nền kinh tế thị trường hiện đại; và rút
ngắn về mặt thời gian trong việc xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí máy

móc - thực chất của công nghiệp hoá rút ngắn - vai trò đặc biệt của khu vực
kinh tế tư nhân trong việc góp phần tạo lập những điều kiện để tiến hành công
nghiệp hoá rút ngắn thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, về phân bổ nguồn nhân lực và phát triển lực lượng sản xuất,
khu vực kinh tế tư nhân với phạm vi hoạt động không giới hạn về các lĩnh vực
sản xuất kinh doanh sẽ thu hút một lượng lao động lớn vào hầu khắp các
ngành nghề, ngoài việc đáp ứng yêu cầu về việc làm cho xã hội, nó còn góp
phần phát triển lực lượng lao động về cả số lượng và chất lượng đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước. Với cơ chế quản lý linh hoạt, quy mô lựa chọn
thường là nhỏ và vừa, các cơ sở kinh tế trong khu vực kinh tế tư nhân thường
có điều kiện áp dụng kỹ thuật, công nghệ mới nhằm đạt tới tôn chỉ hoạt động
là tối đa hoá lợi nhuận - thông qua việc nâng cao năng suất lao động, từ đó
góp phần cải thiện tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã
hội, góp phần nâng cao hiệu quả của nguồn lực đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hoá.
Thứ hai, về mặt quan hệ sản xuất, kinh tế tư nhân đóng vai trò quan
trọng trong việc góp phần xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với một bộ
phận cấu thành của lực lượng sản xuất dựa trên việc củng cố và phát triển các
quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối theo chế độ tư hữu về tư


23

liệu sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp sẽ góp phần giải phóng năng lực sản
xuất, thúc đẩy bộ phận lực lượng sản xuất này phát triển, hướng tới tiến bộ xã
hội.
Thứ ba, về chuyển dịch cơ cấu ngành, các hoạt động của khu vực kinh tế
tư nhân luôn hướng tới các lĩnh vực có lợi nhuận cao và tốc độ quay vòng vốn
nhanh. Do vậy hoạt động của kinh tế tư nhân thường hướng vào các ngành
sản xuất công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, từ đó góp phần thúc đẩy quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hoạt động của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực này
cũng gián tiếp đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, do việc phát triển các
ngành nghề này đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao và bắt buộc phải áp dụng
khoa học kỹ thuật mới vào các quy trình sản xuất, điều kiện tiên quyết cho
công nghiệp hoá kiểu “hiện đại”.
Thứ tư, hoạt động sản xuất kinh doanh năng động của kinh tế tư nhân có
ảnh hưởng rõ rệt tới việc thúc đẩy cải thiện các quan hệ thị trường. Dựa trên
phạm vi hoạt động rộng khắp và mang tính đan xen trong nền kinh tế, hoạt
động của khu vực kinh tế tư nhân có tác dụng làm tăng số lượng và đa dạng
hoá các chủ thể tham gia thị trường nội địa. Điều này cũng góp phần tạo ra
động lực thúc đẩy Nhà nước tiếp tục củng cố và hoàn thiện cơ chế thị trường
về mặt thể chế, phát triển các thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị
trường lao động từ đó hướng nền kinh tế theo cấu trúc hiện đại - có thể xem
đây vừa là mục tiêu, vừa là cơ sở của tiến trình công nghiệp hoá rút ngắn, chỉ
khác nhau ở mức độ hoàn thiện của nền kinh tế thị trường.
Thứ năm, từ khả năng huy động vốn và tạo ra lợi nhuận có thể sử dụng
để tái đầu tư mở rộng, đóng góp vào ngân sách, khu vực kinh tế tư nhân có
vai trò rất lớn trong việc tạo nguồn vốn xã hội, làm tăng khả năng tích luỹ nội
lực cho nền kinh tế, chuẩn bị tiền đề cho các bước “nhảy vọt” nhằm rút ngắn
quá trình công nghiệp hoá. Đây cũng là điều kiện tiên quyết cho mọi mô hình


24

công nghiệp hoá trên thế giới, từ mô hình dựa trên tiền đề tích luỹ tư bản
nguyên thủy ở châu Âu cho đến các mô hình công nghiệp hoá rút ngắn ở
Đông Á và Đông Nam Á.
Thứ sáu, bên cạnh sự năng động, tích cực trong các hoạt động kinh tế ở
trong nước, khu vực kinh tế tư nhân còn thể hiện rõ sự nhanh nhạy trong việc
nắm bắt cơ hội và hướng tới các thị trường bên ngoài, từ đó nó thể hiện vai

trò tích cực trong việc hưởng ứng các xu hướng phát triển kinh tế hiện đại của
thế giới, góp phần cải thiện và tăng cường khả năng hội nhập quốc tế của nền
kinh tế. Quá trình tư nhân hoá ở các nước tư bản, cũng như việc cổ phần hoá
các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta cũng có sự tham gia hưởng ứng tích
cực từ khu vực kinh tế tư nhân.
1.3. Vai trò của kinh tế tƣ nhân trong công nghiệp hoá rút ngắn ở Hàn
Quốc và Trung Quốc - một số bài học kinh nghiệm
Mô hình công nghiệp hoá rút ngắn đã từng được thực hiện ở rất nhiều
quốc gia trên thế giới. Sự phục hồi kinh tế nhanh chóng sau Chiến tranh thế
giới thứ hai và sự “nhảy vọt” trong phát triển kinh tế nói chung, cũng như đối
với quá trình công nghiệp hoá nói riêng ở Nhật Bản đã được cả thế giới biết
đến và coi như khởi đầu cho “sự thần kỳ châu Á”. Tiếp sau đó, các nước công
nghiệp mới Đông Á cũng đã vận dụng các mô hình công nghiệp hoá theo mục
đích rút ngắn hơn nữa về mặt thời gian (mất khoảng 30 - 35 năm) và đã xây
dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại với trình độ tự động hoá rất cao,
làm nền tảng thúc đẩy nền công nghiệp ngày càng lớn mạnh. Điển hình trong
trường hợp này là Hàn Quốc - quốc gia đi theo con đường phát triển theo
phương thức tư bản chủ nghĩa và dựa chủ yếu vào khu vực tư nhân để tạo lập
các điều kiện thực hiện công nghiệp hoá rút ngắn.
Ngoài ra, phần này cũng đề cập đến trường hợp của một nước đang cố
gắng đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá theo con đường khác hẳn với hai

×