Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ sau khi có Hiệp định thương mại Việt -

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (971.77 KB, 124 trang )





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
***




Lê Kim Anh




XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ
TRƢỜNG HÒA KỲ SAU KHI CÓ HIỆP ĐỊNH THƢƠNG
MẠI VIỆT – MỸ



Chuyên ngành : Kinh tế thế giới
và quan hệ kinh tế quốc tế
Mã số : 60.31.07


LUẬN VĂN THẠC SĨ






Người hướng dẫn khoa học:
Nguyễn Thiết Sơn








HÀ NỘI - 2006
1
MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong chiến lược phát triển công nghiệp, ngành dệt may nước ta được
đánh giá là một nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế cả
về quy mô lẫn chất lượng.
Thực tế cho thấy ngành dệt may nước ta có lợi thế to lớn về xuất khẩu,
nhờ đó đã xâm nhập được vào những thị trường khó tính như Nhật Bản, Mỹ
và EU…Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam đang gặp những khó khăn không nhỏ
trong việc đẩy mạnh lượng hàng xuất khẩu. Những khó khăn chính là: Việt
Nam hiện chưa là thành viên của WTO, vì vậy khi Hoa Kỳ và EU bãi bỏ chế
độ hạn ngạch, Việt Nam sẽ vẫn phải chịu sự khống chế của cơ chế hạn ngạch.
Và khi đã là thành viên của WTO, Việt Nam vẫn sẽ phải đối diện với sự cạnh
tranh gay gắt từ phía các nước xuất khẩu hàng dệt may lớn như Trung Quốc,
Ấn Độ, Bănglades, Pakistan , cũng như với những qui định kiểm duyệt phức
tạp của chính quyền Mỹ.
Chính với những lợi thế và khó khăn đó, việc xem xét khả năng thâm

nhập của hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ , một thị trường có dung
lượng tiêu thụ vào loại lớn nhất thế giới, và đã có Hiệp định Thương mại song
phương với Việt Nam trên 5 năm nay, trở nên hết sức cấp bách, đòi hỏi phải
có những biện pháp mang tính chiến lược, những nỗ lực to lớn từ phía các
doanh nghiệp dệt may và cả phía Nhà nước, nhằm xâm nhập được sâu hơn và
có hiệu quả hơn vào thị trường đầy tiềm năng này.
Trước thực tiễn và tính cấp thiết của vấn đề, tác giả đã lựa chọn đề tài :
“Xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam vào thị trường Hoa Kỳ sau khi có
Hiệp định Thương mại Việt Mỹ” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Hiện nay, trong các đàm phán thương mại quốc tế song phương hoặc
đa phương, nhóm hàng dệt may luôn được xếp riêng và được đàm phán riêng
2
rẽ không theo lộ trình chung. Ở nước ta, gần đây các nghiên cứu thường tập
trung vào đánh giá năng lực cạnh tranh của nhóm ngành này, cũng như lộ
trình hội nhập tự do hóa thương mại của các nước tham gia vào Tổ chức
Thương mại Thế giới. Có nhiều tác giả nghiên cứu theo hướng chung này: Lê
Thanh Tùng – Nâng cao sức cạch tranh của ngành dệt may Việt Nam (Tạp chí
Kinh tế và Dự báo số 2 năm 2005); TS. Diệp Thị Mỹ Hảo - Ngành dệt may
Việt Nam sau khi ATC hết hiệu lực: vấn đề và giải pháp (Tạp chí nghiên cứu
kinh tế số tháng 4 năm 2005); TS. Hoàng Xuân Hòa – Cơ hội và thách thức
đối với ngành công nghiệp dệt may (Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số
tháng 5 năm 2005); Đỗ Tuyết Khanh – Ngành dệt may Việt Nam sau 2004:
Viễn tưởng và thách thức (Tạp chí Thời đại mới số tháng 2 năm 2004); Hoàng
Văn Hoan và nhóm nghiên cứu Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh –
Công nghiệp dệt may: Giá trị gia tăng và chiến lược phát triển… Kết quả
nghiên cứu của những công trình này cho thấy, Việt Nam trong thời gian qua
đã từng có những lợi thế về lượng lao động dồi dào, giá lao động rẻ và có
những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển công nghiệp dệt may, nhưng
hiện tại, lợi thế về nhân công đang mất dần do thu nhập thấp so với các ngành

kinh tế khác, khiến ngành dệt may không còn sức hấp dẫn thu hút lao động
nữa. Xu hướng tự do hóa thương mại toàn cầu cũng khiến cho những lợi thế
xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam giảm sút hơn, Việt Nam đang phải đối
mặt với các đối thủ cạnh tranh lớn như Trung Quốc, Ấn độ, Pakistan…
Bên cạnh những nghiên cứu chung trên đây, việc nghiên cứu về hoạt
động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ sau khi thực
hiện Hiệp định thương mại Việt Mỹ còn ít và rải rác, chưa có nghiên cứu tổng
thể và đồng bộ, vì vậy chúng tôi thấy cần phải đẩy mạnh nghiên cứu hơn nữa
để có thể góp phần giúp cho ngành dệt may Việt nam xâm nhập vào thị
trường này có hiệu quả hơn.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
3
* Mục đích nghiên cứu:
Phân tích các vấn đề liên qua đến hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam và nêu một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam vào thị trường Mỹ, nhằm đáp ứng những yêu cầu phát triển và hội nhập
kinh tế, thương mại nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu những cơ sở chung của thị trường dệt may Mỹ và những
vấn đề đặt ra cho xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ.
- Phân tích những lợi thế và hạn chế về xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam vào thị trường Mỹ.
- Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam khẩu vào thị
trường Mỹ và đề xuất giải pháp thúc đẩy hàng dệt may Việt Nam sang thị
trường Mỹ.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu:
Luận án tập trung nghiên cứu hoạt động xuất khẩu chính thức hàng dệt
may của nước ta sang thị trường Mỹ từ khi hai nước thực hiện Hiệp định
Thương mại song phương Việt - Mỹ.

Phạm vi nghiên cứu:
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2001 đến nay
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận án áp dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến như phân tích,
so sánh, tổng hợp các tài liệu đã khảo sát để đánh giá theo mục tiêu nghiên
cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
các phương pháp thống kê
Việc phân tích những kết quả điều tra nghiên cứu, lý giải tình hình và
những thay đổi trong hoạt động xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam kể từ
4
sau khi ký Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, cho phép tác giả luận văn có cơ
sở xác đáng cho các phân tích, kết luận và đề xuất của đề tài.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN:
- Đã nghiên cứu, phân tích và đánh giá về thị trường Mỹ cũng như các
quan điểm và qui định trong chính sách thương mại của Mỹ liên quan đến
hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam.
- Đã làm rõ những đặc điểm và yêu cầu của thị trường dệt may Mỹ và
những lợi thế, hạn chế của Việt Nam khi thực hiện Hiệp định Thương mại
Việt - Mỹ đối với lĩnh vực xuất khẩu hàng dệt may.
- Đã đánh giá hợp lý về thực trạng và khả năng xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam sang thị trường Mỹ, những vấn đề đặt ra đối với ngành dệt may
Việt Nam.
- Đã có những dự báo triển vọng và đưa ra một số giải pháp thúc đẩy
xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ trong thời gian tới.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục
gồm có 3 chương:
Chương 1: Đặc điểm thị trường dệt – may Hoa Kỳ và các nhân tố tác
động đến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị

trường Mỹ.
Chương 3: Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam sang thị trường Mỹ





5
CHƢƠNG 1

ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƢỜNG DỆT – MAY HOA KỲ VÀ CÁC NHÂN TỐ
TÁC ĐỘNG ĐẾN XUẤT KHẨU HÀNG DỆT – MAY VIỆT NAM

Hợp chủng quốc Hoa Kỳ có trên 296 triệu dân (năm 2005) và là một thị
trường có sức mua rất lớn, với nhu cầu phong phú và đa dạng. Có thể nói đây
là thị trường rất hấp dẫn và có nhiều tiềm năng đối với các nước trên thế giới.
Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ được Quốc hội hai nước
phê chuẩn và chính thức đi vào thực hiện ngày 10/12/2001 đã mở ra một giai
đoạn phát triển mới trong quan hệ thương mại giữa hai nước.
Việc thực hiện Hiệp định Thương mại đã tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm các cơ hội kinh doanh mới trên thị
trường Mỹ, mở rộng thị trường xuất khẩu, phát triển quan hệ với các đối tác
Mỹ.
Trong hoạt động kinh doanh quốc tế, điều quan trọng đối với các doanh
nghiệp là phải tìm hiểu kỹ và nắm vững được môi trường kinh doanh, để đưa
ra chính sách kinh doanh thích ứng và tạo được lợi thế cạnh tranh. Các doanh
nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh, xuất khẩu hàng
dệt – may nói riêng, khi muốn tham gia kinh doanh trên thị trường Mỹ phải
nắm vững các đặc điểm kinh doanh, cũng như phải hiểu rõ các yếu tố có ảnh

hưởng đến hoạt động kinh doanh của mình, để có thể xây dựng chính sách
kinh doanh, xuất khẩu vào thị trường này có hiệu quả.
1.1 ĐẶC ĐIỂM
1.1.1 Có môi trƣờng và điều kiện kinh tế cho một thị trƣờng hàng
dệt may đa dạng
Hiện nay Mỹ giữ vai trò chi phối gần như tuyệt đối trong các tổ chức
tài chính, kinh tế thế giới như Ngân Hàng Thế Giới (WB), Quỹ Tiền Tệ Quốc
6
Tế (IMF), Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) Mỹ có một nền kinh tế
lớn nhất thế giới với nhiều ngành nghề đa dạng, có tính cạnh tranh cao, bao
gồm nhiều lĩnh vực từ khu vực có giá trị gia tăng cao đến khu vực trung bình,
và là một trong những nền kinh tế tự do nhất thế giới. Vì vậy, hoạt động xuất
nhập khẩu của Mỹ rất sôi động.
°Về quy mô kinh tế: Hiện nay và trong một số thập kỷ nữa, Mỹ vẫn là
nước có nền kinh tế lớn nhất và có sức cạnh tranh nhất trên thế giới. Năm
2005, tổng thu nhập quốc dân của Mỹ đạt khoảng 12.000 tỷ USD, chiếm
khoảng 1/3 GDP của thế giới, tốc độ tăng trưởng GDP là 3,5%. [25, Tr24]
Đó là một tổ hợp gồm hơn 20 triệu công ty lớn nhỏ trong đó có nhiều công ty
xuyên quốc gia với doanh số từ vài chục tỷ đến một, hai trăm tỷ USD.
Mặc dù cũng có lúc gặp khó khăn, khủng hoảng nhưng nhìn chung Hoa
Kỳ vẫn luôn là nước dẫn đầu về kinh tế thế giới, về sản xuất cũng như trao đổi
hàng hóa.
°Về cơ cấu kinh tế: Hiện nay có tới 80% GDP được tạo ra từ các ngành
dịch vụ, trong khi đó công nghiệp chiếm 18% và nông nghiệp chỉ chiếm 2%.
°Về tốc độ tăng trưởng: Kể từ thập kỷ 90 trở lại đây, Mỹ đã duy trì
được tốc độ tăng trưởng cao, bình quân 3,6%. Tuy nhiên tốc độ tăng GDP
thực tế của Mỹ từ năm 2000 trở lại đây không ổn định và thấp hơn so với mức
bình quân của thập kỷ 90. Cụ thể năm 2001 là 0,5%, năm 2002 là 1,6%, năm
2003 là 2,7%, năm 2004 là 4,2% và năm 2005 là 3,5%. [25,27]


°Về ngoại thương:
Xuất khẩu : Mỹ là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới. Năm 2004, Mỹ
xuất khẩu hàng hóa đạt 795 tỷ USD. Các mặt hàng xuất khẩu chính: hàng
công nghiệp chiếm 26,8%, sản phẩm nông nghiệp chiếm 9,2%, tư liệu sản
xuất chiếm 49%, hàng tiêu dùng chiếm 15%.[25, 27]

Trong chính sách xuất khẩu, Mỹ chủ trương sản xuất những mặt hàng
và dịch vụ mà nước khác không thể sản xuất được, tập trung mạnh vào những
7
ngành tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao, cần nhiều công nghệ tinh vi
phức tạp.
Nhập khẩu : Mỹ cũng đứng đầu thế giới với tổng mức nhập khẩu hàng
hóa và dịch vụ năm 2004 là 1.476 tỷ USD. Trong đó, nhập sản phẩm nông
nghiệp chiếm 4,9%, nguyên liệu cho công nghiệp chiếm 32,9%, tư liệu sản
xuất chiếm 30,4%, hàng tiêu dùng chiếm 31,8%. [25, 27]
Bên cạnh những loại hàng hoá cao cấp, Mỹ còn chủ trương nhập khẩu
hàng hóa rẻ, tốn nhiều sức lao động từ bên ngoài nhằm có được những sản
phẩm tiêu dùng giá thấp, đáp ứng nhu cầu của người nghèo và tầng lớp trung
lưu. Từ đó làm giảm lạm phát, tăng sức mua của người dân. Đây là cơ hội rất
lớn cho sản phẩm của ngành dệt may từ những nước đang phát triển như Việt
Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Tóm lại, về mặt kinh tế, địa vị siêu cường của Mỹ được xây dựng trên
cơ sở nền kinh tế khổng lồ. Về mặt thương mại, Mỹ là thị trường lớn nhất thế
giới với những phân đoạn thị trường rất đa dạng có thể thu hút và tiêu thụ rất
nhiều chủng loại hàng hóa khác nhau. Có thể nói, Mỹ là thị trường lý tưởng
cho các công ty và doanh nghiệp trên khắp thế giới, trong đó có Việt Nam.
Đặc biệt, đối với những sản phẩm sử dụng nhiều sức lao động như sản phẩm
của ngành ngành dệt may.
1.1.2 Thị trƣờng hàng dệt may có môi trƣờng văn hóa xã hội thích
hợp để phát triển

- Về cấu trúc gia đình : Trong vài thập kỷ gần đây, cấu trúc gia đình
Mỹ đã trải qua cuộc cách mạng với những thay đổi lớn để lại dấu ấn trong đời
sống xã hội. Cuộc sống phát triển cao, cường độ lao động căng thẳng, vai trò
cá nhân và sự cơ động đã làm cho người Mỹ thay đổi về căn bản quan điểm
về mô hình gia đình truyền thống. Theo những số liệu của cuộc điều tra mới
đây, số người trung bình trong gia đình Mỹ đã giảm xuống đáng kể. Số người
trong gia đình giảm, số phụ nữ tham gia lực lượng lao động tăng lên làm cho
8
mức chi tiêu cho các sản phẩm dệt may tăng tương ứng. Các sản phẩm như
quần áo thời trang, đồ thể thao, các sản phẩm trang trí nhà cửa như rèm, thảm
… tiêu thụ rất mạnh.
- Về đặc điểm nhân khẩu học : thanh thiếu niên Mỹ ngày nay, thế hệ
con cái của những người sinh ra trong thời kỳ bùng nổ dân số những năm
1946 – 1964 đang nhanh chóng trở thành lớp người tiêu dùng mới. Lứa thanh
thiếu niên ngày nay có thu nhập cao hơn của bố mẹ và chi tiêu nhiều hơn so
với lớp thanh thiếu niên của thế hệ trước. Họ chi tiêu cho mua sắm quần áo
rất lớn. Lứa tuổi này rất chú ý tới thời trang và “hàng hiệu”. Đồng thời, thế hệ
thanh thiếu niên mới có được sự giáo dục cao nên họ thích ứng rất nhanh với
những phương thức mua bán hàng mới như mua hàng trực tuyến (qua
internet) cũng như nhanh chóng hấp thụ những dòng thời trang mới. Điều này
tạo điều kiện cho những công ty buôn bán hàng dệt may mở rộng hình thức
phân phối và giới thiệu sản phẩm mới, đồng thời chu kỳ sống sản phẩm sẽ
ngắn đi và mẫu mã sẽ phải thay đổi nhanh chóng hơn trước kia. Do đó, đây là
thách thức không nhỏ đối với ngành dệt may Việt Nam, khi thiết kế thời trang
và mẫu mã đang là khâu yếu nhất của chúng ta.
Lứa tuổi từ 45 trở lên ở Mỹ chiếm 38% dân số, dự đoán sẽ tăng lên
41% vào năm 2010. Những người tiêu dùng thuộc lứa tuổi này có xu hướng
tiết kiệm hơn, dù họ kiếm ra nhiều tiền. Bởi vì, họ còn phải dành phần lớn
nguồn thu nhập lo cho con cái học đại học, trả tiền mua nhà và tiết kiệm khi
về hưu. Tuy nhiên, những người thuộc lớp này là nhóm người chiếm tỷ lệ lớn

nhất trong tổng mức tiêu thụ quần áo. Họ thường quan tâm tìm kiếm những
sản phẩm đáp ứng được những giá trị mà họ mong muốn với giá cả phù hợp.
Số lượng người từ 65 tuổi trở lên ở Mỹ đang gia tăng, đây là tín hiệu tốt cho
các nhà sản xuất hàng dệt may. Nhóm người này ít quan tâm đến thời trang
mà chỉ chú ý nhiều đến sự thoải mái, tiện lợi và giá cả sản phẩm. Các sản
phẩm như quần áo mặc ở nhà, các trang phục khi làm vườn, quần áo mùa
9
đông… rất được nhóm khách hàng này chú ý tìm mua. Đây là điểm thuận lợi
cho xuất khẩu dệt may Việt Nam, vì thế dệt may Việt Nam có thể tập trung
khai thác nhóm khách hàng này do sản phẩm của chúng ta có lợi thế lớn về
giá cả.
- Văn hóa trong giao tiếp, hợp tác kinh doanh của người Mỹ
Người Mỹ đặc biệt coi trọng sự đúng giờ trong các cuộc hẹn. Do đó,
việc trễ hẹn làm các doanh nhân Mỹ tỏ ra rất khó chịu. Đặc điểm nổi bật trong
cách thương lượng của doanh nhân Mỹ là sự nhanh chóng đi vào ngay mục
đích chính của cuộc gặp, loại bỏ những lời lẽ rườm rà không cần thiết. Ngoài
lý do tiết kiệm thời gian thì lý do chính là doanh nhân Mỹ muốn định đoạt
nhanh chóng thương vụ. Do thương lượng nhanh dễ xảy ra rủi ro nên doanh
nhân Mỹ thường đưa ra hợp đồng soạn sẵn. Trong hợp đồng đã chuẩn bị trước
này, họ cố gắng khéo léo đưa vào những điều khoản ràng buộc chặt chẽ về số
lượng, chất lượng và thời gian giao hàng cũng như các điều khoản khác có lợi
cho họ. Vì vậy, để tránh những khó khăn có thể phát sinh các nhà xuất khẩu
dệt may Việt Nam cần phải đọc thật kỹ và hiểu thấu đáo những điều khoản do
thương nhân Mỹ lập ra. Trường hợp thấy bất ổn phải thương lượng để điều
chỉnh cho tới khi đạt được như ý muốn thì mới ký kết. Thương lượng với
doanh nhân Mỹ không chỉ khó về số lượng đơn hàng thường rất lớn, về thời
gian giao hàng chặt chẽ mà còn khó vì yêu cầu chất lượng. Yêu cầu về chất
lượng của tiêu chuẩn Mỹ khá cao cùng với sự yêu cầu cung cấp đủ loại giấy
tờ nhằm chứng thực cho chất lượng lô hàng. Tốt nhất là các loại giấy này
được các tổ chức quản lý chất lượng có tiếng tăm trên thế giới chứng nhận.

Nếu thiếu những loại giấy chứng nhận này thì chất lượng lô hàng coi như
không bảo đảm và phải chịu mức giá mua thấp. Đây là điều mà các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam cũng cần phải chú ý quan tâm khi xuất khẩu. Một
phần do chúng ta có thói quen đảm bảo bằng uy tín của mình về chất lượng lô
10
hàng xuất khẩu mà không chú ý tới việc chứng nhận của bên thứ 3, phần khác
nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam không muốn làm do sợ chi phí cao.
1.1.3 Có hệ thống luật pháp chặt chẽ và phức tạp
Pháp luật của Mỹ rất phức tạp, luật pháp minh bạch, công khai, đạt
trình độ tinh vi và văn minh cao nhưng vận hành lắt léo. Hệ thống pháp luật
Mỹ có hai đặc điểm chính như sau :
Thứ nhất : hệ thống luật pháp Mỹ là hệ thống Common Law. Đây là
hệ thống luật hình thành và tồn tại ở Anh và Mỹ. Đặc điểm của của Common
Law là thiếu sự hệ thống hóa, bất thành văn và chủ yếu dựa trên tiền lệ xét xử.
Common Law chủ yếu bao gồm các nguyên tắc pháp lý hàm chứa trong các
phán quyết của tòa án. Nghĩa là, ở những nước sử dụng Common Law, tòa án
không chỉ là cơ quan xét xử mà còn là cơ quan làm luật. [4, 25]
Thứ hai : hệ thống pháp luật Mỹ được chia thành hai ngành Công Pháp
(Public Law ) và Tư Pháp ( Private Law ). Luật Công thường được hệ thống
hóa và ban hành dưới hình thức văn bản. Luật Công gồm có Luật Hiến pháp,
Luật Nhà nước, Luật Hình sự và những văn bản qui định về chính sách đối
ngoại, chính sách xuất nhập khẩu…. Còn Luật Tư phần lớn vẫn tồn tại dưới
hình thức các án lệ. Luật Tư bao gồm Luật Dân sự, Luật Thương mại ….
[4,25]
Từ những đặc điểm nổi bật trên, chúng ta thấy Mỹ là quốc gia có hệ
thống luật pháp rất chặt chẽ và phức tạp. Do vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu để
nắm vững hệ thống luật này là không đơn giản. Khi buôn bán với Mỹ các
công ty của các nuớc khác đều phải thuê luật sư với chi phí rất cao. Những
vấn đề này hiện đang là trở ngại lớn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
do đặc thù của chúng ta là các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại không có sự liên

kết và phối hợp hiệu quả. Thiếu hiểu biết về hệ thống luật pháp cũng như các
quy định liên quan trong chính sách thương mại Mỹ làm hạn chế đến quan hệ
11
đối tác, thâm nhập và mở rộng thị trường của các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam.
1.1.4 Đặc điểm cung cầu của thị trƣờng Mỹ có nhiều thuận lợi cho
việc xuất khẩu hàng dệt may
Thị trường hàng dệt may Mỹ được chia thành ba nhóm hàng phục vụ
cho ba phân khúc riêng biệt và rõ ràng, đó là: bình dân, trung bình và cao
cấp. Trong nhóm hàng dệt may bình dân phải kể đến nhóm hàng giá rẻ được
bán trong các cửa hàng hạ giá ( Discounters ) với nhãn mác riêng của cửa
hàng bên cạnh một số sản phẩm thương hiệu khác ( không nổi tiếng) với giá
cả rất hạ. Hai nhóm hàng còn lại , hàng trung bình và cao cấp, chủ yếu được
bày bán trong các cửa hiệu quần áo sang trọng hay trong các quầy hàng của
các trung tâm thương mại lớn, là những mặt hàng giá cao đi đôi với chất
lượng cũng rất cao.
1.1.4.1 Tình hình cầu hàng dệt may
Có thể nói thị trường dệt may Mỹ là thị trường lý tưởng với các yếu tố
cơ bản như dân số đông, tỷ lệ dân sống ở thành thị nhiều, thu nhập cao và đặc
biệt người tiêu dùng thích mua sắm. Người Mỹ dành khá nhiều thời gian cho
mua sắm quần áo, trung bình một năm mỗi người Mỹ đi mua sắm quần áo
khoảng 22 lần. So sánh với Đông Âu – 14 lần, Châu Á – 13 lần, Châu Mỹ La
Tinh – 8 lần
[27]
cho thấy nhu cầu về hàng may mặc ở Mỹ đang dẫn đầu thế
giới.

Bảng 1.1 : Những nƣớc có chi phí mua sắm quần áo cao nhất thế
giới theo bình quân đầu ngƣời năm 2002
( Đơn vị : USD )

Nước
Đức
Hồng Kông
Anh
Mỹ
Chi phí trung bình cho
quần áo/người/năm

1320

1260

1144

1100
( Nguồn : Bộ thương mại Mỹ – USDOC, 2003 )
12
Qua bảng 1.1, ta thấy chi phí trung bình mà một người Mỹ mua quần
áo trong một năm là 1100 USD, đứng hàng thứ 4 trên thế giới sau người Đức,
người Hồng Kông và người Anh. Với mức chi tiêu cho quần áo cao và số
lượng khách hàng lớn, thâm nhập thị trường Mỹ là cơ hội tốt để các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam phát triển sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh
qua đó tích lũy vốn cho quá trình phát triển sau này.
Bảng 1.2 : Tỷ lệ tăng trƣởng mức tiêu thụ và tỷ lệ chi tiêu trong
tổng thu nhập của ngƣời dân Mỹ cho hàng dệt may

Năm 1989 – 2000
Năm 2001 – nay
Tỷ lệ tăng trưởng mức tiêu thụ
15%

10%
Tỷ lệ % chi tiêu cho hàng dệt may
trong tổng thu nhập
4,2%
6,3%
( Nguồn : Tạp chí dệt may, số tháng 3 / 2004, tr 18 )
Bảng 1.2 cho chúng ta thấy, trong khoảng thời gian từ 1989 – 2000,
mức tiêu thụ hàng dệt may của Mỹ tăng hàng năm 15%. Những năm sau đó
trừ năm 2002, mức tăng trưởng hàng năm vào khoảng 10%. Nguyên nhân là
trong những năm gần đây, nền kinh tế Mỹ có dấu hiệu suy thoái làm cho
người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu. Năm 1995, tổng mức tiêu thụ hàng dệt may
của người Mỹ khoảng 86 tỷ USD, cho đến nay mức tiêu thụ ước tính khoảng
120 tỷ USD, trong đó nhập khẩu là 66,5 tỷ chiếm 55,4% tổng mức tiêu
thụ.[16,17,27] Mặc dù tỷ lệ tăng trưởng mức tiêu thụ có giảm sút nhưng tỷ lệ
chi tiêu dành cho hàng may mặc trong tổng thu nhập của người dân Mỹ lại có
xu hướng tăng lên. Trong những năm từ 2001 trở về đây, mức chi tiêu cho
hàng dệt may tăng 6,3% cao hơn so với mức tăng 4,2% trong thời kỳ trước
đó. Trong tình trạng dân số Mỹ đang tăng trưởng chậm, lớp thanh niên say mê
thời trang và cuồng nhiệt mua sắm đang ngày một ít đi. Để cạnh tranh thu hút
khách hàng, các nhà phân phối hàng dệt may Mỹ liên tục hạ giá bán lẻ. Do đó
các nhà phân phối phải tìm nguồn hàng nhập khẩu từ những nước có chi phí
13
nhân công thấp để giảm giá thành. Đây là tín hiệu tốt cho các nước đang xuất
khẩu hàng dệt may vào Mỹ như Việt Nam.
- Thói quen tiêu dùng của người Mỹ
Người Mỹ là một dân tộc chuộng mua sắm và tiêu dùng. Họ có tâm lý
là càng mua sắm tiêu xài nhiều thì càng kích thích sản xuất và dịch vụ tăng
trưởng từ đó làm cho kinh tế phát triển. Người Mỹ rất thực tế, họ luôn cân
nhắc sao cho số tiền bỏ ra mua sản phẩm mang lại hiệu quả cao nhất.
Đối với các sản phẩm cá nhân như quần áo, hàng may mặc, người Mỹ

thích sự đơn giản nhưng hiện đại và hợp thời trang. Những hàng dệt may là
đồ hiệu thì càng được yêu thích và mua nhiều. Mặt khác khi chọn mua hàng
dệt may người Mỹ coi trọng sự khác biệt hay tính độc đáo trong sản phẩm. Ở
Mỹ không tồn tại tính ước lệ hay tiêu chuẩn thẩm mỹ mạnh mang tính định
hướng như những nước khác. Thị hiếu của người tiêu dùng Mỹ rất đa dạng do
nhiều nền văn hóa khác nhau cùng tồn tại. Chính điều này đã tạo nên sự khác
biệt trong thói quen tiêu dùng ở Mỹ khác với thói quen tiêu dùng ở các nước
châu Âu. Người tiêu dùng Mỹ cũng coi trọng chất lượng nhưng họ đề cao
những sự thay đổi, tính cải tiến trong sản phẩm. Điều đó dẫn đến việc thời
gian người tiêu dùng Mỹ thay đổi sản phẩm nhanh hơn so với người tiêu dùng
các nước phát triển khác. Do đó, giá cả sản phẩm ở Mỹ được coi trọng hơn do
việc người Mỹ thường thay đổi sản phẩm sau một thời gian ngắn. Nói tóm lại,
chất lượng, sự tiện lợi, nét độc đáo trong sản phẩm và giá bán cạnh tranh là
những yếu tố ưu tiên được người tiêu dùng Mỹ quan tâm khi cân nhắc mua
hàng.
Những đặc điểm trên của người tiêu dùng Mỹ mang lại cho dệt may
Việt Nam nhiều thuận lợi và đồng thời đối mặt với không ít khó khăn. Thuận
lợi lớn nhất của dệt may Việt Nam là giá cả sản phẩm phù hợp cho mọi đối
tượng khách hàng, các sản phẩm cần sự tỷ mỷ khéo léo nhưng nhược điểm
của chúng ta là không nhanh nhạy trong việc nắm bắt nhu cầu, xu hướng thời
14
trang. Do đó, việc tiếp tục đầu tư đổi mới dây chuyền công nghệ, nâng cao
khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực thiết kế, tiếp thị sản phẩm là điều vô
cùng cấp bách và cần thiết.
1.1.4.2 Tình hình cung hàng dệt may
Dệt – may là ngành công nghiệp đứng thứ 10 trong các ngành công
nghiệp tại Mỹ, vào những năm 1970 nó đã thu hút tới 1,4 triệu lao động. Tuy
nhiên trong hơn hai thập kỷ qua do những thành tựu của khoa học công nghệ
đã góp phần giải phóng sức lao động của con người nên số lượng lao động
trong ngành này đã giảm nhanh chóng. Hoạt động trong ngành công nghiệp

dệt của Mỹ tiếp tục giảm, đặc biệt là việc giao hàng của các nhà máy dệt giảm
sút liên tục trong những năm gần đây bởi sự cạnh tranh ồ ạt bằng giá của hàng
nhập khẩu từ Châu Á.[8, 25] Ngành công nghiệp dệt – may của Mỹ không
còn phát huy được lợi thế so sánh như trước kia bởi chi phí sản xuất cao, chi
phí nhân công tốn kém làm cho lợi nhuận cũng giảm. Do vậy năng lực sản
xuất của ngành công nghiệp dệt – may Mỹ đang thu hẹp dần trong những năm
gần đây.
Tổng giá trị hàng dệt may nhập khẩu hàng năm của Mỹ khoảng 60 – 70
tỷ USD. Trong tổng lượng hàng hóa dệt may nhập khẩu, nhóm hàng nhập
khẩu lớn nhất là quần áo may sẵn chiếm tỷ trọng cao nhất chiếm 89% tổng
kim ngạch nhập khẩu của Mỹ chủ yếu từ các nước châu Á (như Trung Quốc,
Ấn độ, Thái lan …) và từ các nước châu Mỹ (như Mêxicô, Canada ). Các
nhóm hàng may mặc nhập khẩu vào Mỹ khá đa dạng phong phú nhưng nhiều
nhất là 6 nhóm hàng được thể hiện trong bảng 1.3 dưới đây
Bảng 1.3 : Sáu nhóm hàng may mặc nhập khẩu chủ yếu của Mỹ

Mặt hàng
Tỷ trọng
Cat 352/362

Cat 347/348

Cat 369
Đồ lót từ sợi cotton và nhân tạo

Quần dài và quần soọc

Hàng trang trí nội thất bằng vải từ sợi
8,17 %


5,83 %

5,81 %
15

Cat 669


Cat 223

Cat 338/339

cotton

Hàng trang trí nội thất bằng vải từ sợi nhân
tạo

Vải không dệt từ sợi cotton và nhân tạo

Áo sơ mi dệt kim từ sợi cotton

4,65 %


4,27 %

4,22 %
(Nguồn: Hải quan Mỹ UScustoms, 2004: )
Nhập khẩu bông, sợi ( sợi bông, sợi nhân tạo, vải vóc nguyên phụ liệu)
chỉ chiếm 11%. Các loại bông và sợi này hầu hết là những loại mà Mỹ không

sản xuất hoặc là những mặt hàng có chất lượng cao của các nước khác, được
Mỹ mua về gia công thêm đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước.
Bảng 1.4 : Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may vào thị trƣờng
Mỹ ( Đơn vị : tỷ USD )
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
Kim ngạch NK hàng dệt
may
64,6
57,6
62,6
66,5
74
% tăng
-5
-11
8,7
6,2
11.3
( Nguồn : Bộ Thương Mại Mỹ- USDOC, 2005)
Qua số liệu bảng 1.4, chúng ta thấy: Năm 2001, do ảnh hưởng của sự
kiện khủng bố 11/9, trị giá nhập khẩu mặt hàng dệt may vào Mỹ khoảng 64,6
tỷ USD giảm so với năm 2000. Sự kiện 11/9 bồi một đòn rất nặng làm cho
nền kinh tế Mỹ thêm chao đảo sau sự suy sụp thị trường chứng khoán. Chính
vì vậy, người tiêu dùng Mỹ rất hoang mang và bi quan nên thắt chặt chi tiêu
cho hàng dệt may. Trong năm 2002, do hậu quả của sự kiện 11/9, trị giá hàng

dệt may nhập khẩu tiếp tục giảm gần 11% so với cùng kỳ năm 2001 còn 57,6
tỷ. Tuy nhiên, sau nhiều tháng vật lộn, kinh tế Mỹ đã lấy lại đà tăng trưởng từ
giữa năm 2003; dù khá mong manh nhưng đó là tín hiệu tốt tạo đà tâm lý cho
người tiêu dùng Mỹ tiếp tục mở hầu bao chi tiêu vào các sản phẩm dệt may.
Do đó, trong năm này, tăng trưởng nhập khẩu hàng dệt may đã đạt 8,7% đưa
16
trị giá nhập khẩu lên thành 62,6 tỷ USD. Trong năm 2004 và 2005, thị trường
dệt may Mỹ cũng như thế giới phát triển theo xu thế mở rộng, khối lượng
buôn bán không ngừng tăng lên theo đà phục hồi và phát triển của đầu tàu –
kinh tế Mỹ. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may trong năm 2004 là 66,5
tỷ USD/năm tăng 6,2% so với năm trước. Năm 2005 được coi là năm bản lề
cho sự phát triển của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may khi Hiệp định về
hàng dệt may (ATC) của WTO chấm dứt hiệu lực, xóa bỏ hoàn toàn chế độ
hạn ngạch đối với hàng dệt may của các nước thành viên WTO, nhập khẩu
hàng dệt may vào Mỹ đã tăng so với năm trước là 11,3%. Mặc dù Việt Nam
chưa phải là thành viên của WTO và vẫn phải chịu bị áp dụng chế độ hạn
ngạch với hàng dệt may, nhưng với xu hướng gia tăng trong nhập khẩu hàng
dệt may của Mỹ như trên cũng là một cơ hội cho dệt may Việt Nam tiếp tục
đẩy mạnh xuất khẩu, thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường Mỹ. Tuy nhiên để
làm được điều này, chúng ta cũng sẽ gặp nhiều thách thức không nhỏ từ phía
các nước xuất khẩu dệt may khác đang quyết liệt cạnh tranh với chúng ta.
Trong số những nước xuất khẩu dệt may nhiều nhất vào Mỹ thì đứng
đầu là Mêxicô, tiếp đó là Trung quốc. Trong đó, Mêxicô là nước từ nhiều năm
liên tục dẫn đầu do lợi thế về địa lý và là nước cùng nằm trong khối NAFTA.
Trung Quốc là nước đứng thứ hai chiếm 16% thị phần trong năm 2003 nhưng
lại là nước có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào Mỹ cao nhất. Hàng năm nhập
khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Trung Quốc tăng tới 20%.[20, 26] Việc nhập
khẩu tăng nhanh của Mỹ từ Trung Quốc là một trong những vấn đề gây nhiều
tranh cãi giữa hai nước trong thời gian gần đây. Theo dự đoán của các chuyên
gia trong ngành dệt may, tới năm 2006, Trung Quốc sẽ chiếm tới 71% thị

phần dệt may Mỹ. Việt Nam cũng là nước xuất khẩu hàng dệt may có tốc độ
tăng trưởng mạnh sang thị trường Mỹ. Năm 2002, nhờ sau khi Hiệp Định
Thương Mại Việt – Mỹ có hiệu lực, lượng hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu
tăng đột biến đạt 975 triệu USD tăng tới 1797% so với năm trước đó. Tuy
17
nhiên nếu so sánh về giá trị tuyệt đối với hai nước đang dẫn đầu là Mêhicô,
năm 2003 xuất khẩu 6,5 tỷ USD, Trung quốc, năm 2003 xuất khẩu 4,2 tỷ
USD vào thị trường Mỹ thì giá trị xuất khẩu của chúng ta vẫn còn quá nhỏ bé.
Điều này đòi hỏi dệt may Việt Nam phải cố gắng nhiều hơn nữa để khai thác
tốt hơn tiềm năng và lợi thế của bản thân.
- Về hệ thống phân phối : các công ty, cửa hàng bán lẻ là cầu nối quan
trọng giữa nhà sản xuất, phân phối và người tiêu dùng. Các công ty phân phối
của Mỹ là những công ty rất lớn về quy mô lẫn sức mạnh tài chính. Nhìn
chung các kênh phân phối tại thị trường dệt may Mỹ gồm có
+ Các cửa hàng bán lẻ ( Retail Shop ) : bao gồm những cửa hàng nhỏ
bán với giá thấp hơn từ 15 – 20% so với giá ở các siêu thị. Các cửa hàng này
bán hàng dệt may rất nhiều. Thường là những mặt hàng có nhãn hiệu ít người
biết, giá rẻ được nhập khẩu từ các nước Châu Á.
+ Các cửa hàng chuyên doanh ( Speciality Store ) : bao gồm hệ thống
những cửa hàng chuyên về một nhóm sản phẩm dệt may có nhãn hiệu nổi
tiếng và chất lượng cao. Giá bán rất cao phục vụ cho tầng lớp thượng lưu.
+ Các siêu thị ( Department Store ) : bao gồm hệ thống bán lẻ hàng tiêu
dùng trong đó chù yếu là quần áo và dụng cụ gia đình.
+ Các cửa hàng bán lẻ quốc gia ( Chain Store hay National Account ):
bao gồm hệ thống cửa hàng có mạng lưới rộng khắp cả nước chủ yếu bán
quần áo, giầy dép …
+ Các cửa hàng giảm giá ( Discount Store ) đây là các cửa hàng có tổ
chức tương tự như các siêu thị nhưng có quy mô lớn hơn nhiều lần, bán hàng
với giá cả phải chăng. Tiêu biểu trong số này là hệ thống cửa hàng của
Walmart

+ Các công ty bán hàng qua bưu điện : đây là loại công ty chuyên giới
thiệu sản phẩm qua catalogue, tờ rơi… nhận đơn đặt hàng qua điện thoại hay
internet rồi chuyển hàng đến cho người mua qua đường bưu điện. Hình thức
18
bán hàng này đang phát triển mạnh trong kinh doanh bán lẻ tại Mỹ. Hình thức
này rất phổ biến với các công ty kinh doanh dệt may từ những công ty nhỏ
cho đến các đại công ty. Hình thức mua hàng trực tuyến cũng đang là lĩnh vực
kinh doanh mới đối với mặt hàng thiết yếu này.
1.2 NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
1.2.1 Những qui định trong hệ thống cơ chế chính sách của Mỹ đối
với hàng dệt may nhập khẩu
1.2.1.1 Cơ chế quản lý của Mỹ đối với hàng dệt may nhập khẩu
Hoạt động nhập khẩu hàng hóa vào Mỹ chịu sự điều tiết bởi hệ thống
luật chặt chẽ, chi tiết. Các sản phẩm dệt may Việt Nam khi xuất khẩu vào thị
trường Mỹ đều phải tuân thủ từ chế độ hạn ngạch phức tạp, các yêu cầu chặt
chẽ về chứng nhận xuất xứ, chất lượng sản phẩm cho đến các qui định về bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ. Vì thế, việc nắm vững cơ chế quản lý hàng nhập khẩu
của Mỹ sẽ cho phép đề xuất những giải pháp thâm nhập thị trường có hiệu
quả.
* Hạn ngạch nhập khẩu và visa đối với hàng dệt may
Đối với những nước chưa phải là thành viên của WTO và các sản phẩm
chưa hòa nhập theo hiệp định ATC sẽ phải chịu việc áp dụng chế độ Visa xuất
khẩu đối với hàng dệt may. Biện pháp này được sử dụng để quản lý hàng dệt
may nhập khẩu vào Mỹ.
Mỹ duy trì một hệ thống hạn ngạch rất lớn và phức tạp đối với những
sản phẩm dệt và nguyên liệu dệt. Hạn ngạch nhập khẩu vào Mỹ được quy
định theo chủng loại hàng (cat - category ), khối lượng được tính theo mét
vuông (m
2
) hoặc tương đương.

Hạn ngạch được phân theo các loại: hạn ngạch tuyệt đối và hạn ngạch
điều chỉnh linh hoạt. Hạn ngạch được phép bù trừ và chuyển đổi cùng chủng
loại cat năm trước không dùng hết sang năm sau, vay trước cat của năm sau
hay được phép hoán đổi giữa các sản phẩm trong năm.
19
- Hạn ngạch tuyệt đối là hạn ngạch hạn chế số lượng nhập khẩu. Trong
suốt thời gian áp dụng hạn ngạch chỉ một số hàng hóa nhập khẩu đã được ấn
định trước số lượng mới được phép nhập khẩu vào Mỹ. Số hàng hóa bị dư ra
so với hạn ngạch sẽ được đưa vào “khu ngoại thương” hoặc ngoại quan để bổ
sung cho kỳ hạn ngạch sau hoặc tùy trường hợp sẽ bị trả về hoặc tiêu hủy
dưới sự giám sát của nhân viên hải quan.
- Hạn ngạch theo thuế suất là hạn ngạch tính theo thuế suất áp dụng cho
khối lượng hàng hóa nhập khẩu được quy định với mức thuế thấp trong một
thời gian nào đó. Nếu hàng hóa nhập khẩu vượt quá số lượng cho phép mức
thuế thấp đó thì số lượng hàng hóa nhập khẩu dư sẽ phải chịu mức thuế cao
hơn.
Hàng dệt may muốn nhập khẩu vào Mỹ phải có visa. Visa này được
dùng để kiểm soát việc xuất khẩu hàng dệt may và sản phẩm hàng dệt từ nước
ngoài vào Mỹ hoặc dùng để kiểm soát việc nhập khẩu lậu mặt hàng này vào
Mỹ. Visa hàng dệt may là dấu xác nhận trên hóa đơn hoặc giấy phép kiểm
soát nhập khẩu do chính phủ nước ngoài cấp. [8, 27]

* Quy định về xuất xứ và ghi nhãn hàng hóa
Ở Mỹ, người ta rất quan tâm tới xuất xứ và nhãn mác của sản phẩm.
Đối với tất cả sản phẩm dệt may khi được xuất khẩu vào Mỹ phải được ghi
nhãn, nêu rõ tên nhà sản xuất và nước chế tạo, gia công sản phẩm.
Luật áp dụng chủ yếu về nhãn hàng hóa là Luật xác định sản phẩm sợi
dệt và Luật về nhãn hiệu sản phẩm bằng len. Luật này qui định rằng tất cả các
sản phẩm sợi dệt khi nhập khẩu vào Mỹ đều phải đóng dấu, niêm phong kín
và ghi nhãn hoặc được ghi những thông tin sau :

- Tên riêng các loại sợi và tỷ lệ phần trăm trọng lượng các chất sợi có
trong sản phẩm.
- Tên của nhà sản xuất hoặc tên hay số đăng ký chứng minh. Số đăng
ký chứng minh này do Uy Ban Thương Mại Liên Bang Mỹ cấp.
20
- Tên quốc gia nơi sản phẩm được gia công hoặc sản xuất.
Đối với sản phẩm len có qui định riêng theo Luật về nhãn hiệu sản
phẩm len. Nhãn hàng hóa sản phẩm len theo luật này phải bao gồm
- Tỷ lệ trọng lượng của tổng các sợi có trong sản phẩm len
- Tỷ lệ trọng lượng tối đa của sản phẩm len và của các chất liệu không
phải là sợi.
- Tên của nhà nhập khẩu.
Luật xác định các sản phẩm sợi dệt và Luật về nhãn hiệu các sản phẩm
len qui định chi tiết về loại nhãn hàng hóa, cách thức gắn nhãn, vị trí nhãn
trên sản phẩm và nhãn trên bao bì.[8, 27]
* Quy định về tờ khai xuất xứ hàng hóa

Tờ khai xuất xứ hàng hóa phải được đính kèm với lô hàng nhập khẩu.
Nguyên nhân là sự hạn chế về hạn ngạch được áp dụng riêng cho từng quốc
gia và dựa trên nguồn gốc xuất xứ của lô hàng.
- Tờ khai xuất xứ hàng hóa đơn là tờ khai xuất xứ được dùng cho việc
nhập khẩu hàng dệt may mà chỉ có nguồn gốc xuất xứ từ một quốc gia hoặc
được gia công tại một quốc gia bằng nguyên liệu sản xuất tại Mỹ hoặc từ một
quốc gia khác với nơi mà sản phẩm được sản xuất. Thông tin cần có là ký
hiệu nhận dạng, mô tả, số lượng , quốc gia xuất xứ và ngày xuất khẩu.
- Tờ khai xuất xứ kép được dùng cho việc nhập khẩu hàng dệt may mà
hàng đó được sản xuất hay gia công từ nguyên liệu của nhiều nước khác nhau.
- Tờ khai phụ ( Negative Declaration ) phải được đính kèm trong tất cả
các lô hàng nhập khẩu không thuộc quy định của Luật về sản phẩm dệt dễ
cháy.

* Qui định về nhập khẩu hàng dễ cháy

Phần lớn các sản phẩm dệt may nhập khẩu vào Mỹ để tiêu thụ đều phải
tuân thủ các quy định của Luật về sản phẩm dễ cháy. Luật này quy định về
tính dễ bén lửa đối với hàng dệt may.
21
* Quy định về tiêu chuẩn an toàn lao động

Các tiêu chuẩn về lao động và môi trường, Mỹ yêu cầu một số mặt
hàng trong đó có hàng dệt may phải đáp ứng được tiêu chuẩn SA8000.
SA8000 là tiêu chuẩn đưa ra các yêu cầu về quản trị trách nhiệm xã hội, được
xây dựng nhằm cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động.
Bên cạnh đó, Mỹ cũng đưa ra những qui định khác trên cơ sở những
điều luật của WTO nhằm mục đích bảo vệ thị trường dệt may nội địa như :
* Quyền tự vệ : Mỹ sẽ giành quyền đơn phương hủy bỏ các ưu đãi về
thuế và phi thuế quan cũng như áp dụng các biện pháp hạn chế nếu xét thấy
sản xuất trong nước bị phương hại do hàng dệt may nhập khẩu.
* Luật chống bán phá giá ( anti-dumping ) : Khi thấy hiện tượng một
sản phẩm bán phá giá vào thị trường Mỹ, sau khi điều tra nếu kết luận là đúng
thì Mỹ sẽ đánh thuế đối kháng vào mặt hàng này để triệt tiêu tác động việc
bán phá giá.
* Luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ : Mỹ là quốc gia có các hình phạt
rất nặng đối với việc sử dụng bất hợp pháp tác quyền, quyền sở hữu công
nghiệp…
* Luật trách nhiệm sản phẩm : luật này qui định người sản xuất phải
chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa đối với sức khỏe người tiêu dùng.
Tóm lại với hệ thống luật pháp chặt chẽ, những qui định nghiêm ngặt
nhằm kiểm soát hoạt động xuất khẩu dệt may vào Mỹ và để bảo vệ thị trường
nội địa, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải mất nhiều thời gian, công
sức và chi phí để tìm hiểu. Nhưng đây là điều hoàn toàn cần thiết nếu các nhà

xuất khẩu không muốn phải chịu những trách nhiệm pháp lý không đáng có
làm ảnh hưởng đến uy tín cũng như kết quả hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp mình.
1.2.1.2 Chính sách nhập khẩu của Mỹ đối với hàng dệt may Việt
Nam
22
Mỹ dùng chính sách nhập khẩu – thể hiện trước hết là ở mức thuế suất
và kết hợp với một số ưu đãi phi thuế quan khác - của mình như một công cụ
để phục vụ cho lợi ích kinh tế và ngoại giao.
Theo Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ, Việt Nam được coi là nước
đang phát triển với trình độ thấp, có nền kinh tế đang chuyển đổi. Chính sách
của Mỹ đối với Việt Nam nằm trong khuôn khổ chung của quốc tế. Khi Hiệp
định Thương mại có hiệu lực, Việt Nam lập tức được hưởng qui chế thương
mại bình thường ( NTR – Normal Trade Relations ) hay còn gọi là quy chế
Tối huệ quốc (MFN – Most Favoured Nations ) tương đương với các nước
thành viên của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO. Chỉ có một điểm khác
duy nhất là chế độ NTR của Mỹ dành cho Việt Nam được xem xét lại hằng
năm theo đạo luật Jackson – Vanik. Chỉ khi Việt Nam gia nhập WTO mới
được hưởng quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR- Permanent
Normal Trade Relations).
Những mặt hàng chịu sự điều tiết của Hiệp định dệt may giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ không được hưởng mức thuế ưu đãi theo chế độ thuế quan
phổ cập (GSP) của Hoa Kỳ. Trong khi đó, những nước được hưởng GSP của
Hoa Kỳ đa số có cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu tương tự như Việt Nam. Đây
là một khó khăn lớn đối với Việt Nam trong cạnh tranh về hàng dệt may xuất
khẩu vào thị trường Mỹ.
Chính sách nhập khẩu của Mỹ đối với Việt Nam với các điều khoản
tương đương với các nước phát triển khác đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho
các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt
may thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường Mỹ trong thời gian vừa qua. Tuy

nhiên, trong tình hình kinh tế thế giới đang có những biến chuyển sâu sắc, áp
lực cạnh tranh ngày càng tăng và đặc biệt, quan hệ hai nước có những bước
phát triển tích cực như hiện nay, việc tiếp tục đàm phán với phía Mỹ nhằm
xóa bỏ hoàn toàn việc áp đặt hạn ngạch, mở rộng cửa thị trường và tạo điều
23
kiện ưu đãi hơn nữa cho xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ
là điều rất cần thiết và cấp bách, đòi hỏi Nhà nước phải có những chính sách
đối ngoại hướng về kinh tế một cách linh hoạt và phù hợp hơn nữa.
1.2.2 Các điều khoản của Hiệp định về hàng dệt may
Ngay từ những năm đầu của hệ thống thương mại đa phương, đánh dấu
bằng sự ra đời của tổ chức GATT, tiền thân của WTO, năm 1947, ngành dệt
may đã là một vấn đề khúc mắc trong các vòng thương thuyết nhằm tự do hóa
các luồng thương mại. Trong hơn 30 năm ngành này không được điều tiết bởi
các quy tắc chung áp dụng cho mậu dịch hàng hóa mà bởi các chế độ riêng:
Các Hiệp định ngắn hạn về mậu dịch quốc tế bông sợi ( Sort Term
Arrangement Regarding International Trade Cotton textitle- STA), 1961;
Hiệp định dài hạn về mậu dịch quốc tế bông sợi ( Long Term Arrangement
Regarding International Trade Cotton textitle- LTA), 1962-1973; Hiệp định
về các loại sợi ( Arrangement regarding International Trade in Textile) Hay
còn gọi là Hiệp định đa sợi ( Multifibre Arrangement -MFA), 1974-1994; Từ
năm 1995, ngành dệt may được điều tiết bởi Hiệp ước về dệt may (Agreement
on Textiles and Clothing – ATC), một trong những hiệp ước ký kết sau vòng
thương thảo Urugoay Round, thay thế Hiệp định MFA và quy định những
biện pháp chuyển tiếp nhằm đưa toàn bộ ngành dệt may vào khung pháp lý
chung của WTO.
Mỹ là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) tham gia
Hiệp định Đa sợi (MFA) trong khuôn khổ GATT và tuân thủ những nguyên
tắc chung của Hiệp định này trong đàm phán thương mại song phương và đa
phương. Hiệp định này cho phép thỏa thuận song phương giữa nước nhập và
nước xuất khẩu hàng dệt. Đồng thời cho phép mỗi nước được đơn phương

định đoạt khi thấy rằng thị trường của mình bị phương hại, cho phép áp dụng
hạn ngạch (quota) để hạn chế số lượng. Mức hạn chế này dựa trên cơ sở khối
lượng mậu dịch. Quota được bù trừ chuyển hoán qua lại giữa các loại sản
24
phẩm và giữa các năm. Những quy định này về chế độ hạn ngạch đã vi phạm
các nguyên tắc của GATT nên năm 1994 trong khuôn khổ Vòng đàm phán
Urugoay, các nước thành viên GATT đã thỏa thuận một hiệp định mới là
Hiệp định về hàng dệt may (ATC) nhằm đưa thương mại hàng dệt may trở lại
với các nguyên tắc của WTO. Theo ATC, quá trình tự do hóa thương mại dệt
may sẽ diễn ra theo 4 giai đoạn, kết thúc vào ngày 1/1/2005, khi đó chế độ
hạn ngạch sẽ bị bãi bỏ đối với các nước là thành viên của WTO và thuế sẽ
giảm trung bình 9%. Mỹ là thành viên của WTO cũng phải tuân thủ cam kết
này, những trên thực tế thi hành ở Mỹ vẫn còn có những biện pháp bảo hộ để
tránh tình trạng các nước có lợi thế nhân công sẽ xuất khẩu hàng tràn lan vào
Mỹ. Vẫn căn cứ vào quy định của Hiệp định Đa sợi (MFA), Tổng thống Mỹ
quyết định việc đàm phán Hiệp định hàng dệt song phương giữa Mỹ và các
nước. Hiệp định hàng dệt song phương xây dựng trên cơ sở thương lượng,
hiệu lực từ 3-6 năm, Hiệp định hàng dệt quy định các điều khoản cơ bản sau
đây:
- Hạn ngạch (quota) được xuất sang Mỹ: quy định theo chuẩn loại
hàng, khối lượng tính theo m2, hoặc tương đương.
- Hạn ngạch chia ra loại hạn ngạch tổng hợp, loại cụ thể, loại điều
chỉnh linh hoạt.
- Hiệp định quy định cơ chế tham khảo ý kiến giữa Mỹ và nước ký kết.
Nếu nước ký kết không tuân thủ, Mỹ giành quyền đơn phương cắt bỏ hạn
ngạch cấm nhập khẩu.
Tuy đã ký cho các nước hưởng quota, ưu đãi thuế quan nhưng Mỹ vẫn
giành quyền tự vệ. Khi xét thấy nền sản xuất trong nước bị hàng nhập đe dọa,
Mỹ sẽ đơn phương giành quyền cắt bỏ ưu đãi đã thỏa thuận. Trong một số
trường hợp Mỹ còn yêu cầu nước cung cấp phải có biện pháp quản lý xuất

khẩu hàng dệt may để tránh xuất khẩu ồ ạt sang Mỹ. Chẳng hạn như trường
hợp của Trung Quốc trong thời gian vừa qua đã bị Hoa Kỳ tái áp dụng hạn

×