Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Rủi ro và tính thanh khoản trong lý thuyết lương cầu tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.44 KB, 47 trang )

1
BÀI TIỂU LUẬN
Nhóm thực hiện:
TP HỒ CHÍ MINH, NGÀY 28 THÁNG 03 NĂM 2011
Danh sách nhóm:
1. Đinh Thị Bình K094020266
2. Đoàn Dũng K094020273
3. Đặng Thị Kim Lành K094020304
4. Lê Thị Hoàng Ly K094020312
5. Trần Kim Thục K094020359
Bảng phân công công việc ( 28/2-29/3)
1, Ngày 28/2
• Cả nhóm cùng họp và đưa ra sườn bài làm cho bài tiểu luận, và phân công nhiệm
vụ thành viên về tìm kiếm tài liệu theo sườn và phần mà mình đã nhận.
2, Tối 28/2
• Đinh Thị Bình gửi mail cho cả nhóm qua mail group sườn bài làm.
3, Từ 1/3 đến 11/3
• Đặng thị Kim Lành + Đoàn Dũng: Chịu trách nhiệm tìm kiếm thông tin, ví dụ, số
liệu thực tiễn và hoàn thành phần tính thanh khoản của tài sản.
• Lê Thị Hoàng Ly+ Trần Kim Thục: Chịu trách nhiệm tìm kiếm thông tin, ví dụ, số
liệu thực và hoàn thành phần rủi ro của tài sản.
4, Từ 12/3 đến 15/3
• Đinh Thị Bình: Chịu trách nhiệm làm phần mở đầu của tiểu luận.
• Trần Kim Thục: Chịu trách nhiệm làm phần mục lục và phần tài liệu tham khảo của
đề tài.
2
• Đoàn Dũng+ Đặng Thị Kim Lành + Lê Thị Hoàng Ly tìm kiếm thêm thông tin, ví
dụ thực tiễn và hình ảnh minh họa.
5, Từ 16/3 đến 23/3
• Cả nhóm họp lại và cùng nhau tổng hợp nội dung mà mình đã hoàn thành và thống
nhất ví dụ và số liệu đưa ra minh họa, làm phần đánh giá và hướng giải quyết.


6, Từ 23/3 đến 25/5
• Đinh Thị Bình chịu trách nhiệm Format lại toàn bộ bài làm.
• Đặng Thị Kim Lành + Lê Thị Hoàng Ly chịu trách nhiệm nội dung và hình thức của
PP.
7, Ngày 26/3
• Đinh Thị Bình up bìa làm lên group mail bài hoàn chỉnh cho cả nhóm và mỗi thành
viên xem lại toàn bộ bài làm hoàn chỉnh.
28, Ngày 29/3
• Trần Kim Thục gửi mail cho thầy và lớp trưởng bài làm vào trước 12h00 - thứ 3
ngày 29/3.
*** Thuyết trình dự kiến: Đoàn Dũng
3
MỤC LỤC
...........................................................................................................................................................................1
Danh sách nhóm:...............................................................................................................................................2
Bảng phân công công việc ( 28/2-29/3)............................................................................................................2
MỤC LỤC...........................................................................................................................................................4
Phần mở đầu....................................................................................................................................................4
CHƯƠNG 1: RỦI RO...........................................................................................................................................5
1.1.Định nghĩa...................................................................................................................................................5
1.1.1 Các khái niệm rủi ro theo nghĩa thông thường........................................................................................5
1.5. Sự kết hợp cân nhắc giữa suất sinh lời và rủi ro.................................................................................17
1.6. Tóm lược các rủi ro đặc trưng của bốn lĩnh vực đầu tư chính tại Việt Nam và hướng hạn chế rủi ro
.....................................................................................................................................................................19
1.6.1. Tóm lược các rủi ro đặc trưng của bốn lĩnh vực đầu tư chính tại Việt Nam...............................19
Đầu tư vàng:............................................................................................................................................19
Phần mở đầu
Trong cuộc sống, chắc hẳn là chúng ta đã, đang và sẽ đứng trước những sự lựa chọn
như là: Nên bán đất mua vàng? Hay là nên đầu tư vào đô la hay là bất động sản? Tại sao
chúng ta lại đầu tư vào cổ phiếu mà không phải là trái phiếu?

Câu hỏi đó lại càng nan giải hơn cùng với sự phát triển của nền kinh tế khi mà các
hình thức đầu tư trở nên vô cùng đa dạng và phong phú như: Đầu tư vàng, ngoại hối hoăc
là chứng khoán …Cộng với nền kinh tế thế giới luôn thay đổi và biến động không ngừng
khiến cho các nhà đầu tư trở nên khó xử khi đứng trước quá nhiều sự lựa chọn hình thức
đầu tư có thể mang lại hiệu quả cho mình.
Trước nhu cầu bức thiết đó, một lý thuyết đã ra đời để giúp các nhà đầu tư có thể
tối thiểu hóa những rủi ro có thể có trong hoạt động đầu tư của mình và chọn ra được hình
4
thức đầu tư nào là mang lại hiệu quả cao nhất, tốn ít chi phí nhất mà khả năng thanh khoản
của nó cao nhất…Đó chính là: “ Lý thuyết lượng cầu tài sản”.
Trong đề tài này, chúng tôi sẽ đi sâu vào hai yếu tố cơ bản và quan trọng trong việc
hình thành quyết định đầu tư vài loại tài sản nào của các nhà đầu tư. Đó là: “ Tính thanh
khoản và rủi ro” của tài sản.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: RỦI RO
1.1.Định nghĩa
1.1.1 Các khái niệm rủi ro theo nghĩa thông thường
Rủi ro là những điều không chắc chắn của những kết quả trong tương lai hay là
những khả năng của kết quả bất lợi.
Chẳng hạn, khi nói việc một học sinh có sức học trung bình quyết định dự thi vào
trường ĐH Kinh tế-Luật mang nhiều rủi ro, thì phải hiểu rằng rủi ro ở đây chính là sự
5
không chắc chắn của khả năng đậu đại học nguyện vọng một, hay nói khác hơn việc dự thi
này rất có thể khiến em học sinh đó thi trượt đại học nguyện vọng một.
Rủi ro ứng với sai lệch giữa dự kiến và thực tế.
Rủi ro là sự không thể đoán trước được nguyên nhân dẫn đến kết quả thực khác với
kết quả dự đoán.
Trong lĩnh vực tài chính, rủi ro được hiểu như mức độ không chắc chắn của suất
sinh lời dự tính của tài sản, ví dụ, đối với trái phiếu ta có rủi ro biến động lãi suất, đối với
cổ phiếu ta có rủi ro liên quan đến biến động cổ tức, biến động giá trị cổ phiếu và rủi ro lớn

nhất là khi công ty phá sản (giá trị cổ phiếu bằng zero).
Ví dụ: có hai tài sản
• Trái phiếu A có suất sinh lời dự tính sau một năm là 9.6%
• Tín phiếu kho bạc thời hạn 1 năm cho lợi suất đáo hạn (bằng với suất sinh lời dự
tính) chắc chắn là 9.60%.
Tuy hai loại tài sản này đều cho một suất sinh lợi dự tính như nhau là 9.60% nhưng
tín phiếu kho bạc T-Bill ít rủi ro hơn do chắc chắn mang lại suất sinh lời 9.6% trong khi
trái phiếu A có thể mang lại các suất sinh lợi khác nhau, có khả năng là 15% và có thể là
18%.
Những nhà đầu tư e ngại rủi ro sẽ thích tín phiếu kho bạc hơn do ít rủi ro hơn trong
khi những người ưa mạo hiểm thích trái phiếu A hơn do có khả năng mang lại suất sinh lời
cao hơn (15% và 18%) cho dù xác suất xảy ra tình huống này là thấp.
Khả năng thâm hụt là một định nghĩa khác về rủi ro. Khả năng thâm hụt là khả năng
mà tỷ suất sinh lợi sẽ nằm dưới con số mục tiêu nào đó. Việc định nghĩa rủi ro bằng khả
năng thâm hụt có liên quan đến một khái niệm thuộc về trực giác rủi ro là gì. Ví dụ khả
năng thua lỗ của quỹ Magellan hàng tháng vượt quá 10% là 3.4%.
6
1.1.2. Tài sản rủi ro và tài sản phi rủi ro
Tài sản rủi ro là một tài sản có tỷ suất sinh lợi không chắc chắn trong tương lai và ta
đo lường sự không chắc chắn trong tỷ suất sinh lợi của tài sản rủi ro bằng phương sai hoặc
độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi.
Ví dụ: cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, …
Tài sản phi rủi ro là tài sản có tỷ suất sinh lợi hoàn toàn chắc chắn và độ lệch chuẩn
tỷ suất sinh lợi mong đợi của tài sản này bằng không. (Tỷ suất sinh lợi có được trên tài sản
đó sẽ là tỷ suất sinh lợi phi rủi ro)
Ví dụ: Trái phiếu chính phủ, chứng chỉ tiền gửi,…
1.1.3.Hai đặc trưng của rủi ro
-Tần số xảy ra (rủi ro có thường xuyên xảy ra hay không): thể hiện bằng xác suất
hoặc khả năng xuất hiện của biến cố.
-Biên độ (rủi ro có lớn hay không, lớn bao nhiêu): được thể hiện bằng giá trị của các

biến cố.
1.1.4. Thái độ đối với rủi ro của nhà đầu tư
Về cơ bản những nhà đầu tư luôn từ chối rủi ro. Bằng chứng là hầu hết các nhà đầu
tư không thích rủi ro thì họ luôn theo đuổi những hình thức bảo hiểm khác nhau, bao gồm
bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm xe hơi, bảo hiểm sức khỏe. Mua bảo hiểm là trả một khoản
phí tổn để phòng ngừa cho những biến cố không chắc chắn trong tương lai. Thêm một
bằng chứng của thái độ đối với rủi ro là sự khác biệt lợi tức mong đợi (tỷ suất sinh lợi
mong đợi) đối với các loại trái phiếu khác nhau, giả sử có sự khác biệt về rủi ro tín dụng.
Chẳng hạn, lợi tức mong đợi trên trái phiếu chúng ta sở hữu tăng từ AAA đến AA đến A
khi rủi ro tăng tương ứng cho thấy nhà đầu tư luôn yêu cầu một tỷ suất sinh lợi cao hơn để
có thể chấp nhận một mức rủi ro cao hơn.
7
Tuy nhiên, điều này không ám chỉ tất cả mọi người đều từ chối rủi ro hay các nhà
đầu tư hoàn toàn từ chối rủi ro đối với tất cả các cam kết tài chính. Và sự thật là không một
ai mua bảo hiểm cho tất cả mọi thứ xung quanh mình. Thêm vào đó, một vài cá nhân mua
bảo hiểm liên quan đến một vài rủi ro, nhưng họ cũng mua vé số và chơi game, đánh bạc
tại casino, nơi được biết đến với những khoản sinh lợi tiêu cực bao hàm nhiều rủi ro. Việc
kết hợp thái độ thích hay không ưa thích rủi ro có thể được giải thích bằng lượng tài sản
hiện có. Nghiên cứu của Friedman và Savage cho thấy con người thích mạo hiểm cho
những khoản tiền nhỏ nhưng lại không muốn mạo hiểm với những khoản tiền lớn. Đó là lý
do họ mua bảo hiểm để bảo vệ mình khỏi những thất thoát to lớn tiềm ẩn.
Trong khi có nhiều thái độ ứng xử khác nhau đối với rủi ro, thì giả định cơ bản của
chúng ta là trên thị trường tài chính, phần lớn các nhà đầu tư e ngại rủi ro. Vì vậy, nếu các
yếu tố là như nhau thì tài sản ít rủi ro hơn sẽ được ưa thích hơn. Ví dụ, khi đứng trước sự
lựa chọn giữa hai tài sản có cùng tỷ suất sinh lợi, nhà đầu tư sẽ chọn tài sản có mức độ rủi
ro thấp hơn.
1.1.5. Một số thuật ngữ khác liên quan đến rủi ro
• Chỉ số rủi ro
Chỉ số rủi ro đo lường sự dịch chuyển của các cổ phiếu được thể hiện trong chủ đề
đầu tư chung. Chỉ số rủi ro mà chúng ta có thể xác định được ở thị trường Mỹ và một số

thị trường cổ phiếu khác đều được phân thành nhiều nhóm:
 Độ lệch chuẩn: Phân biệt những cổ phiếu thông qua độ lệch chuẩn của
chúng. Những tài sản có độ lệch chuẩn ở thứ hạng cao được xem là biến
động nhiều hơn mức trung bình.
 Đà phát triển: Phân biệt những cổ phiếu thông qua thành quả gần đây của
công ty phát hành cổ phiếu.
 Quy mô: Phân biệt những cổ phiếu lớn so với những cổ phiếu nhỏ.
8
 Tính thanh khoản: Phân biệt những cổ phiếu thông qua lượng cổ phiếu mua
bán.
 Tăng trưởng: Phân biệt cổ phiếu thông qua sự tăng trưởng thu nhập trong
quá khứ và dự đoán trong tương lai.
 Giá trị: Phân biệt những cổ phiếu thông qua những chỉ tiêu cơ bản, cụ thể là
tỷ suất thu nhập, cổ tức, dòng tiền, giá trị sổ sách, doanh thu… so với giá cổ
phiếu: giá cổ phiếu thấp hay cao liên quan đến chỉ tiêu cơ bản.
 Độ lệch chuẩn thu nhập: Phân biệt những cổ phiếu thông qua độ lệch chuẩn
thu nhập.
 Đòn bẩy tài chính: Phân biệt những công ty thông qua tỷ lệ nợ trên vốn cổ
phần và độ nhạy cảm rủi ro lãi suất.
Bất kỳ thị trường cổ phiếu nào đều ít nhiều bao hàm chỉ số rủi ro, tủy thuộc vào đặc
trưng riêng của thị trường
• Rủi ro sụt giá: Là rủi ro liên quan đến việc tỷ suất sinh lợi không được như
mong đợi. Rủi ro sụt giá được tính bằng căn bậc hai của bán phương sai.(Nếu
như tỷ suất sinh lợi cân xứng, nghĩa là tỷ suất sinh lợi đó gần như bằng nhau và
bằng x% trên hoặc dưới giá trị trung bình, thì bán phương sai chính xác bằng ½
phương sai.)
• Rủi ro hệ thống: Là phần rủi ro còn lại của danh mục thị trường, không thể đa
dạng hóa. Nói cách khác, rủi ro hệ thống chính là tính khả biến trong tất cả các
tài sản rủi ro do tác động của các biến kinh tế vĩ mô. Rủi ro hệ thống được đo
lường bởi độ lệch chuẩn tỷ suất sinh lợi của danh mục thị trường và có thể thay

đổi theo thời gian khi có những thay đổi trong các biến kinh tế vĩ mô tác động
đến giá trị của tất cả các tài sản rủi ro. Các biến kinh tế vĩ mô có thể là sự thay
9
đổi của tốc độ tăng cung tiền, sự biến động của lãi suất, sự biến động trong sản
xuất công nghiệp, thu nhập và dòng tiền của các công ty.
• Rủi ro năng động: Là sai số mô phỏng của danh mục đầu tư, nó mô tả danh mục
đầu tư này có thể theo danh mục chuẩn tốt như thế nào. Rủi ro năng động được
tính bằng độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi năng động. (Tỷ suất sinh lợi năng
động là sự khác biệt giữa tỷ suất sinh lợi danh mục của nhà quản trị và tỷ suất
sinh lợi danh mục chuẩn).
• Rủi ro thặng dư: Là rủi ro của tỷ suất sinh lợi thặng dư hay rủi ro của phần tỷ
suất sinh lợi độc lập với tỷ suất sinh lợi hệ thống.
• Lãi suất phi rủi ro: Là lãi suất được giả định bằng cách đầu tư vào các công cụ
tài chính mà không bị rủi ro vỡ nợ.
• Lãi suất rủi ro: Là lãi suất được giả định bằng cách đầu tư vào các công cụ tài
chính có thể bị rủi ro vỡ nợ.
• Rủi ro về lãi suất thị trường: khi lãi suất thị trường tăng, giá chứng khoán sẽ
giảm và ngược lại.
• Rủi ro tái đầu tư: nếu lượng tiền mặt thu vào được tái đầu tư thì thu nhập từ
những hoạt động tái đầu tư đôi khi được gọi là “lãi-trên-lãi” và phụ thuộc mức
lãi suất thị trường vào thời điểm tái đầu tư, cũng như chiến lược tái đầu tư. Khả
năng thay đổi tỷ lệ tái đầu tư theo một chiến lược do những thay đổi lãi suất thị
trường trên thị trường được gọi là rủi ro tái đầu tư.
• Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là nguy cơ công ty phát hành không có khả năng chi trả đúng
hạn. Tức là sẽ không thể chi trả mệnh giá và lãi đúng hạn. Rủi ro tín dụng được
đánh giá bằng các dịch vụ đánh giá khả năng tín dụng của cá nhân hay công ty.
10
• Rủi ro lạm phát
Rủi ro lạm phát hay rủi ro sức mua phát sinh bởi trị giá lưu lượng tiền mặt của

một chứng khoán thay đổi do lạm phát. Ví dụ, nếu nhà đầu tư mua một trái
phiếu có lãi suất 8%/năm, nhưng tỷ lệ lạm phát là 9%/năm, thì thực tế, sức mua
lưu lượng tiền mặt của trái phiếu đã giảm.
• Rủi ro về tỷ giá
Một chứng khoán không dựa trên đơn vị đồng nội tệ không chịu ảnh hưởng của
lưu lượng tiền mặt đồng nội tệ. Lưu lượng tiền mặt đồng nội tệ lệ thuộc vào tỷ
giá hối đoái và thời điểm thanh toán. Ví dụ, một nhà đầu tư mua trái phiếu dựa
vào đơn vị đồng bảng Anh. Nếu đồng bảng Anh mất giá so với đồng USD, thì
người đầu tư sẽ nhận được ít USD hơn. Rủi ro ở đây được gọi là rủi ro về tỷ giá
hay rủi ro tiền tệ.
• Rủi ro thanh lý
Rủi ro thanh lý hay rủi ro về tính thị trường phụ thuộc vào khả năng bán dễ dàng
một chứng khoán bằng hay gần bằng trị giá của nó. Cách đo lường chủ yếu khả
năng thanh lý là mức chênh lệch giữa giá đặt mua và giá đặt bán. Chênh lệch
càng lớn, rủi ro thanh lý càng nhiều.
• Rủi ro do biến cố bất ngờ
Đôi khi khả năng chi trả lãi và mệnh giá của nhà phát hành thay đổi lớn lao và
bất ngờ bởi vì một tai nạn do thiên nhiên hay công nghiệp hoặc một thay đổi về
quy định nào đó… Các rủi ro này được gọi chung là rủi ro do biến cố bất ngờ.
• Rủi ro đạo đức: Là rủi ro xảy ra khi người đi vay tham gia vào những hoạt động
không nên làm theo quan điểm của người cho vay bởi vì chúng làm cho khoản
cho vay ít có khả năng hoàn lại.
• Rủi ro phá sản: Là rủi ro mà người mua cổ phiếu hay trái phiếu doanh nghiệp
phải chịu khi nhà phát hành trái phiếu mất khả năng chi trả tiền lãi và vốn gốc,
11
hay nhà phát hành cổ phiếu bị phá sản, mất khả năng chi trả cổ tức và giá trị cổ
phiếu bằng zero.
• Mức phí rủi ro: Là mức chênh lệch giữa trái phiếu an toàn và trái phiếu có rủi ro
phá sản
1.2. Phân loại rủi ro

Dựa trên góc độ quan sát:
• Rủi ro gắn với những tác nhân kinh tế bên ngoài là những tác nhân kinh tế vĩ
mô. (Bất ổn chính trị làm giá trái phiếu chính phủ giảm, lạm phát đột biến, giá
dầu biến động mạnh khiến giá cổ phiếu giảm, tỷ giá hối đoái thay đổi, sản lượng
công nghiệp thay đổi,vv..vv)
• Rủi ro gắn với các thuộc tính tiêu biểu bên trong của tài sản. Thuộc tính tiêu
biểu này có hai nhóm, nhóm chỉ tiêu cơ bản và nhóm thị trường.
 Nhóm chỉ tiêu cơ bản gồm tỷ suất cổ tức, tỷ suất thu nhập, dòng tiền, giá
trị sổ sách, doanh thu,… Khi tỷ suất cổ tức, tỷ suất thu nhập giảm hoặc
không như mong đợi,…thì coi như nhà đầu tư đã gặp rủi ro.
 Nhóm thị trường gồm tính biến động của một thời kì đã qua, tỷ suất sinh
lợi trước đây, doanh thu cổ phần, đà phát triển,… Một cổ phiếu có giá
tăng song không tăng đúng như kì vọng của đà phát triển thì nhà đầu tư
nắm giữ cổ phiếu cũng coi như gặp rủi ro.
Dựa trên các giai đoạn của quyết định đầu tư:
• Rủi ro trước khi quyết định (rủi ro thông tin): Là loại rủi ro xảy ra khi thu thập các
thông tin không đầy đủ, không chính xác dẫn đến nhận diện sai về bản chất của các
yếu tố liên quan đến phương án đầu tư, dẫn tới ra các quyết định đầu tư sai.
12
• Rủi ro khi ra quyết định (rủi ro cơ hội): Xảy ra khi lựa chọn phương án không tối
ưu.
• Rủi ro sau quyết định: Thể hiện ở sự sai lệch giữa dự kiến và thực tế.
Dựa trên tính chất tác động
• Rủi ro theo suy tính (rủi ro mang tính chất đầu cơ): Là loại rủi ro phụ thuộc vào
mong muốn chủ quan của nhà đầu tư, nó xảy ra trong trường hợp nhà đầu tư chủ
động lựa chọn phương án cho dù biết rằng có thể có lợi hoặc bị thiệt hại. Ví dụ:
nhà đầu tư quyết định mua vàng để bán lại nhằm hưởng chênh lệch, dù không biết
chắc giá vàng trong tương lai có tăng hay không.
• Rủi ro thuần túy: Là rủi ro mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của nhà đầu tư, rủi ro này thường chỉ mang lại thiệt hại cho nhà đầu tư.

1.3. Những phương pháp đo lường rủi ro (định lượng rủi ro)
Những khái niệm và việc phân loại rủi ro đã nói ở trên phần nào giúp các nhà đầu tư
đánh giá mức độ rủi ro của tài sản. Song bên cạnh những cách định nghĩa rủi ro mơ hồ,
nặng về định tính, người ta đã nỗ lực tìm ra những phương pháp định lượng cụ thể, để rủi
ro có thể được đem lên bàn cân, đo, đong, đếm một cách chuẩn xác hơn.
• Phương pháp 1: Sử dụng phương sai, độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi để đo
lường rủi ro.
 Nội dung: Một phương sai hoặc độ lệch chuẩn lớn hơn sẽ biểu thị rủi ro cao
hơn.
Độ lệch chuẩn được tính theo công thức:
( )
2
e
i i
P R R
σ
= × −

Ví dụ:
13
Trái phiếu A có suất sinh lời dự tính sau một năm là 9.6%. Nó có thể mang lại các
suất sinh lợi khác nhau, có khả năng là 15% và có thể là 18%.
Tín phiếu kho bạc thời hạn 1 năm cho lợi suất đáo hạn (bằng với suất sinh lời dự
tính) chắc chắn là 9.60%.
Độ lệch chuẩn của trái phiếu A ở ví dụ trên:
2 2 2
0.3 (15% 9.6%) 0.2 (18% 9.6%) 0.5 (3% 9.6%) 6.68%
σ
= × − + × − + × − =
Độ lệch chuẩn của tín phiếu Kho bạc T-Bill:

2
1.0 (9.6% 9.6%) 0%
σ
= × − =
 Ưu điểm của phương pháp: Dễ hiểu, rõ ràng trong thống kê. Phương pháp
này cũng được nhận định đúng và rộng, dùng trong hầu hết lý thuyết mô
hình định giá tài sản, là công cụ hữu hiệu để hình thành những danh mục đầu
tư.
 Nhược điểm của phương pháp: Độ lệch chuẩn là tiêu chuẩn đánh giá khả
năng của tỷ suất sinh lợi cả trên và dưới giá trị trung bình, trong khi hầu hết
các nhà đầu tư chỉ đều định nghĩa về rủi ro như sự liên quan tỷ suất sinh lợi
thấp hoặc âm, nghĩa là khả năng tỷ suất sinh lợi ở dưới giá trị trung bình.
• Phương pháp 2: Sử dụng phạm vi tỷ suất sinh lợi để đo lường rủi ro.
 Nội dung: Phạm vi tỷ suất sinh lợi tính từ tỷ suất sinh lợi thấp nhất đến tỷ
suất sinh lợi cao nhất, nghĩa là sự không chắc chắn lớn hơn và rủi ro tùy
thuộc vào tỷ suất sinh lợi mong đợi trong tương lai.
 Ưu, nhược điểm của phương pháp: tương tự như ưu, nhược điểm của
phương pháp 1.
• Phương pháp 3: Sử dụng bán phương sai và căn bậc hai của bán phương sai
tỷ suất sinh lợi để đo lường rủi ro.
14
Sử dụng để đánh giá rủi ro sụt giảm (rủi ro sụt giá). Rủi ro sụt giảm tập trung hoàn
toàn vào tỷ suất sinh lợi không mong đợi.
 Nội dung: Rủi ro sụt giá được tính bằng căn bậc hai của bán phương sai.Nếu
như tỷ suất sinh lợi cân xứng, nghĩa là tỷ suất sinh lợi đó gần như bằng nhau
và bằng x% trên hoặc dưới giá trị trung bình, thì bán phương sai chính xác
bằng ½ phương sai.
 Ưu điểm của phương pháp: Chỉ đánh giá rủi ro liên quan đến việc tỷ suất
sinh lợi thấp hoặc âm.
 Nhược điểm của phương pháp: Không rõ ràng, không có giá trị về mặt thống

kê. Khó tính toán trong xây dựng danh mục đầu tư lớn.
• Phương pháp 4: Dựa trên khả năng thâm hụt của tỷ suất sinh lợi để đo lường
rủi ro.
Khả năng thâm hụt là khả năng mà tỷ suất sinh lợi sẽ nằm dưới con số mục tiêu nào
đó. Để tính khả năng thâm hụt, người ta chọn một tỷ suất sinh lợi mục tiêu rồi tính xác
suất tỷ suất sinh lợi thấp hơn mức đó.
 Ưu điểm của phương pháp: Gần tương tự với định nghĩa theo trực giác về rủi ro.
Vì tỷ suất sinh lợi mục tiêu do người ta tự định nên nó tránh được nhược điểm
máy móc, cứng nhắc không linh hoạt.
 Nhược điểm của phương pháp: mơ hồ, khó hiểu, khó dự báo và phụ thuộc vào ý
thích của nhà đầu tư cá nhân.
• Phương pháp 5: Sử dụng hệ số β đo lường sự biến động của dự án đầu tư so
với mức biến động chung của thị trường đầu tư. Nhà đầu tư chỉ chấp nhận
đầu tư khi có rủi ro nếu họ nhận được khoản thu nhập xứng đáng.
 Nhược điểm chung của các phương pháp trên: Việc đo lường rủi ro phụ thuộc vào
sự chính xác của số liệu thống kê đưa vào, do đó tính chính xác của nó không chắc
15
chắn. Những sai số tiềm ẩn nảy sinh từ những tính toán gần đúng cũng ảnh hưởng
đến tính chính xác của việc đo lường rủi ro.
1.4. Đa dạng hóa danh mục đầu tư để giảm thiểu rủi ro:
Lý thuyết danh mục Markowitz:
Vào đầu thập niên 60, những nhà đầu tư đã nói về rủi ro nhưng không có những ước
lượng cụ thể cho từng khoản mục. Tuy nhiên, để xây dựng một mô hình danh mục đầu tư
các nhà đầu tư phải xác định rủi ro có thể có. Mô hình danh mục đầu tư cơ bản được Harry
Markowitz phát triển. Ông đã tìm ra công thức tính toán những phương sai tỷ suất sinh lợi
của danh mục. Công thức tính phương sai danh mục đã chỉ ra tầm quan trọng của việc đa
dạng hóa danh mục để giảm thiểu rủi ro tổng thể và cũng chỉ ra cách đa dạng hóa đầu tư
hiệu quả.
Một tài sản riêng lẻ hay danh mục của những tài sản được xem như là có hiệu quả
nếu không có tài sản hay danh mục tài sản nào khác đem lại tỷ suất sinh lợi mong đợi cao

hơn với cùng mức độ rủi ro, hoặc ít rủi ro hơn với cùng tỷ suất sinh lợi mong đợi.
Việc đa dạng hóa danh mục đầu tư giảm thiểu rủi ro như thế nào? Để hiểu rõ thêm
vấn đề này, chúng ta hãy xem xét một ví dụ của danh mục đầu tư với tỷ trọng vốn đầu tư
bằng nhau của 20 cổ phần của chỉ số Major Maket.Vào tháng 12/1992, những cổ phần này
có rủi ro bình quân là 27,8%, trong khi danh mục đầu tư có tỷ trọng vốn đầu tư bằng nhau
có rủi ro là 20,4%. Biểu đồ sau thể hiện sự giảm thiểu rủi ro tương ứng với sự tăng lên của
số lượng cổ phiếu.
16
Rõ ràng danh mục cổ phần sẽ có rủi ro thấp hơn so với từng cổ phần riêng lẻ. Các
nghiên cứu khác đã kết luận rằng một danh mục cổ phiếu được đa dạng hóa tốt phải có ít
nhất 30 cổ phiếu đối với một nhà đầu tư đi vay và 40 cổ phiếu đối với một nhà đầu tư cho
vay.
Tuy nhiên ta cũng phải lưu ý rằng việc đa dạng hóa danh mục đầu tư chỉ giảm thiểu
rủi ro chứ không xóa bỏ hoàn toàn rủi ro. Rủi ro còn lại (nghĩa là không thể giảm được
nữa) được gọi là rủi ro thị trường.
Nhưng nhìn chung, mục đích của đa dạng hóa là giảm độ lệch chuẩn tỷ suất sinh lợi
của danh mục, nghĩa là giảm rủi ro của danh mục đầu tư. Đa dạng hóa danh mục đầu tư
không chỉ có nghĩa là đa dạng hóa lĩnh vực đầu tư, mà còn có nghĩa là đa dạng hóa trong
nội bộ từng lĩnh vực đầu tư, chẳng hạn đa dạng hóa các loại chứng khoán. Khái niệm đa
dạng hóa đôi khi có thể hiểu xa là sự mở rộng phạm vi đầu tư ra thị trường quốc tế, chẳng
hạn nhà đầu tư không chỉ đầu tư ở Mỹ mà còn có thể đầu tư ở Đức, hay Nhật, hay Việt
Nam,vv..vv
1.5. Sự kết hợp cân nhắc giữa suất sinh lời và rủi ro
Chúng ta hãy bắt đầu với khái niệm mới “đường biên hiệu quả”. Đường biên hiệu
quả miêu tả tập hợp những danh mục đầu tư có tỷ suất sinh lợi lớn nhất có thể tương ứng
với mỗi mức độ rủi ro. Điều này có nghĩa là những danh mục đầu tư nằm trên đường biên
17
hiệu quả có tỷ suất sinh lợi lớn nhất đối với một mức độ rủi ro cho trước. Đồ thị dưới đây
là một đường biên hiệu quả, trục tung thể hiện suất sinh lợi, trục hoành thể hiện rủi ro.
So sánh danh mục A (nằm trên đường biên hiệu quả) và danh mục B(nằm trên

đường biên hiệu quả):
- Danh mục A có suất sinh lợi thấp, rủi ro cũng thấp.
- Danh mục B có suất sinh lợi cao, bù lại rủi ro cũng cao tương ứng.
Vậy một khi đã là danh mục nằm trên đường biên hiệu quả, không còn cách nào
hơn là phải đánh đổi giữa suất sinh lợi và rủi ro. Không có bất kì danh mục nào nẳm trên
đường biên hiệu quả mà lại vừa đạt suất sinh lợi cao, vừa có rủi ro thấp.
So sánh danh mục A (nằm trên đường biên hiệu quả) và danh mục C (không nằm
trên đường biên hiệu quả), Chúng ta có thể nói rằng danh mục A trong hình tốt hơn danh
mục C bởi vì danh mục A có tỷ suất sinh lợi bằng với danh mục C nhưng lại có rủi ro ít
hơn.
Tương tự, danh muc B chiếm ưu thế hơn danh mục C bởi vì nó có rủi ro bằng nhau
nhưng lại có tỷ suất sinh lợi cao hơn.
Hình biểu diễn đường biên hiệu quả đã minh họa hai nguyên tắc rất quan trọng
trong đầu tư tài chính:
- Rủi ro tỷ lệ thuận với suất sinh lời: rủi ro cao thì suất sinh lời cao và ngược lại.
18

×