Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Hoàn thiện kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp thuộc Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 112 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành xây lắp- mét ngành thực sự có vị trí quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân; việc xây dựng cơ sở hạ tầng, các tuyến đường, các công trình,
đường điện, thủy lợi…ngày càng có ý nghĩa không chỉ phục vụ cho các ngành
sản xuất khác, mà còn phục vụ nhu cầu sinh hoạt, sản xuất, đi lại, giữa các
vùng, miền; phục vụ phát triển kinh tế trong và ngoài nước. Sù phát triển
không ngừng của các doanh nghiệp xây lắp cả về quy mô lẫn chất lượng, đã
góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế đất nước trong tiến trình hội nhập
kinh tế và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xây lắp phụ thuộc vào giá
bỏ thầu các công trình, hạng mục công trình. Đối với ngành xây lắp, giá bỏ
thầu càng thấp thì khả năng thắng thầu càng lớn. Do vậy thông tin về chi phí
có vai trò quan trọng giúp nhà quản trị kiểm soát chi phí, có biện pháp hạ giá
thành nhưng vẫn đảm bảo chất lượng của công trình, hạng mục công trình,
nâng cao khả năng thắng thầu.
Để phục vụ nhu cầu thông tin về chi phí cho nhà quản trị, cũng như
cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài, thì kế toán chi phí là công cụ
rất hữu hiệu phục vụ nhu cầu đó. Kế toán quản trị chi phí có vai trò to lớn trong
các khâu của quá trình quản lý từ lập kế hoạch (thông qua việc cung cấp các dự
toán chi phí), đến thực hiện, kiểm tra, kiểm soát và ra quyết định của nhà quản
trị.
Tuy nhiên thực tế tại các doanh nghiệp xây lắp thuộc TCTXDCTGT4
mới chủ yếu đề cập đến kế toán chi phí phục vụ cho mục tiêu kế toán tài
chính tức là lập các báo cáo tài chính mang tính tổng quát vào cuối kỳ, mặc
dù hệ thống kế toán quản trị đã có những biểu hiện nhất định, nhưng nhìn
chung vẫn còn khá mới mẻ về lý luận cũng như tổ chức thực hiện, thông tin
chi phí chưa mang tính phân tích dù báo tương lai, chưa thực sự có Ých cho
nhà quản trị ra quyết định quản lý.
Với hệ thống kế toán chi phí nh hiện nay các doanh nghiệp xây lắp Việt
nam khó có thể đứng vững trên thị trường cạnh tranh đầy khốc liệt, khi mà


ngày càng có nhiều nhà thầu trong và ngoài nước cùng tham gia đấu thầu.
Từ những lý do trên đây mà bản thân đã mạnh dạn chọn đề tài: " Hoàn
thiện kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp thuộc Tổng công
ty xây dựng công trình giao thông 4" để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Về lý luận: Hệ thống hóa lý luận chung về kế toán quản trị chi phí trong
các doanh nghiệp xây lắp.
- Về thực tế: Mô tả, phân tích, đánh giá thực trạng hệ thống kế toán chi phí
trong các doanh nghiệp xây lắp thuộc Tổng công ty xây dựng công trình giao
thông 4
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn kế toán chi phí trong các doanh nghiệp này,
đề xuất giải pháp hoàn thiện kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp
xây lắp thuộc Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu thực trạng kế toán quản trị chi phí trong
các doanh nghiệp xây lắp thuộc TCTXDCTGT4 mà điển hình là các doanh
nghiệp: Công ty cổ phần XDCTGT 482, Công ty đường bé 471…Nguồn tài
liệu được sử dụng là các thông tin, các chứng từ, các sổ kế toán do phòng tài
vụ của các công ty này cung cấp trong 6 tháng đầu năm 2009.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp duy vật biện chứng
- Phương pháp toán học
- Phương pháp phân tích, so sánh, quy nạp, phân loại, tổng hợp
- Sử dụng các bảng, biểu để minh họa
5. Những đóng gãp của luận văn
- Về mặt lý luận: Hệ thống hóa được các vấn đề lý thuyết kế toán quản
trị chi phí. Dùa vào các mô hình kế toán quản trị chi phí của một số nước trên
thế
giới và khả năng vận dụng kinh nghiệm của các nước này vào Việt nam.
- Về mặt thực tiễn: Phân tích được thực trạng kế toán quản trị chi phí của

các doanh nghiệp xây lắp thuộc TCTXDCTGT4
- Đánh giá được thực trạng kế toán quản trị chi phí của các DNXL thuộc
TCTXDCTGT4. Từ đó đưa ra được giải pháp hoàn thiện cho hệ thống kế toán
quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp này.
CHƯƠNG I
LÍ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1.1. Đối tượng và phương pháp của kế toán quản trị chi phí
1.1.1. Khái niệm kế toán quản trị chi phí
Kế toán quản trị là một bộ phận cấu thành của hệ thống thông tin kế
toán nói chung trong các tổ chức hoạt động. Do vậy trước khi nghiên cứu bản
chất của kế toán quản trị chi phí, ta xem xét bản chất của thông tin kế toán nói
chung.
Kế toán là một bộ phận của hoạt động quản lý, với chức năng xử lý và
cung cấp thông tin thực hiện về khách thể quản lý cho chủ thể quản lý. Luật
kế toán Việt Nam cụ thể hóa khái niệm về kế toán nh sau: Kế toán là việc thu
thập, xử lý; kiểm tra; phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính dưới
hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động.
Nh vậy, kế toán là một công cô quan trọng để quản lý nền kinh tế nói
chung và các đơn vị trong nền kinh tế nói riêng. Xét ở các đơn vị trong nền
kinh tế, thông tin kế toán cung cấp cho 2 đối tượng cơ bản, bao gồm các đối
tượng bên ngoài tổ chức như các nhà đầu tư, cơ quan thuế, khách hàng, cổ
đông, ngân hàng , và các cấp quản trị trong nội bộ doanh nghiệp như Ban
giám đốc và lãnh đạo các bộ phận trong tổ chức.
Thông tin kế toán của một tổ chức có vai trò quan trọng đối với 2 đối
tượng cơ bản trên đây. Tuy nhiên, 2 đối tượng này lại cần thông tin với tính
chất không hoàn toàn giống nhau. Các đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài
cần thông tin về tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh tế của tổ chức
một cách tổng quát. Còn các nhà quản trị bên trong tổ chức cần thông tin
mang tính chi tiết cụ thể nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động, kiểm soát và

hoạch định. Do đó kế toán được chia thành 2 phân hệ: Kế toán tài chính cung
cấp thông tin cho đối tượng bên ngoài đơn vị và kế toán quản trị cung cấp
thông tin cho đối tượng bên trong đơn vị. Theo luật kế toán Việt Nam thì kế
toán quản trị được định nghĩa là việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp
thông tin tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế tài chính trong
nội bộ đơn vị kế toán.
Tuy nhiên, có thể định nghĩa đầy đủ về KTQT nh sau: Kế toán quản trị
là một môn khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin định lượng kết
hợp với định tính về các hoạt động của một đơn vị cụ thể. Các thông tin đó
giúp các nhà quản trị trong quá trình ra quyết định liên quan đến việc lập kế
hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra và đánh giá tình hình thực hiện các hoạt
động của đơn vị.
Nh vậy định nghĩa đầy đủ trên đây tập trung vào mục đích, nội dung
của kế toán quản trị. Mục đích cơ bản của kế toán quản trị là cung cấp thông
tin giúp cho nhà quản trị đánh giá, kiểm soát quá trình hoạt động của một tổ
chức. Còn kế toán tài chính là cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư, cơ quan
thuế, ngân hàng, cổ đông, nhà cung cấp, Với mục đích khác nhau nên nội
dung của kế toán quản trị và kế toán tài chính cũng có nhiều điểm khác nhau.
Thông tin của kế toán tài chính thường phản ánh quá khứ tuân theo các chuẩn
mực, chế độ kế toán hướng dẫn. Còn thông tin của KTQT thường hướng về
tương lai, hiện tại và rất linh hoạt. Kế toán quản trị không chỉ cung cấp thông
tin tài chính mà còn cung cấp thông tin phi tài chính về quá trình hoạt động
trong nội bộ tổ chức cũng như môi trường bên ngoài tổ chức. Kỳ của báo cáo
tài chính thường theo chế độ quy định. Còn kế toán quản trị kỳ báo cáo phụ
thuộc vào yêu cầu quản trị nội bộ.
Bên cạnh khái niệm kế toán quản trị, kế toán tài chính, còn có khái
niệm kế toán chi phí. Kế toán chi phí vừa cung cấp thông tin cho các đối
tượng sử dụng bên ngoài tổ chức, vừa cung cấp thông tin cho quản trị nội bộ.
Thông tin kế toán chi phí cung cấp vừa mang tính linh hoạt thường xuyên,
vừa mang tính chuẩn mực và định kỳ. Rõ ràng là kế toán chi phí vừa có mặt

trong kế toán tài chính, vừa có mặt trong kế toán quản trị. Bộ phận kế toán chi
phí có trong kế toán quản trị được gọi là kế toán quản trị chi phí. Và nh vậy,
kế toán quản trị chi phí là một bộ phận của kế toán quản trị nhằm cung cấp
thông tin về chi phí để mỗi tổ chức thực hiện chức năng quản trị doanh nghiệp
đó là lập kế hoạch, kiểm soát, đánh giá và ra quyết định.
1.1.2. Đối tượng của kế toán quản trị chi phí
Đối tượng của kế toán quản trị chi phí là nghiên cứu chi phí trong mối
quan hệ với việc hình thành giá trị. Chi phí được hiểu là giá trị của mọi khoản
hao phí về nhân tài, vật lực nhằm thu được các loại sản phẩm, hàng hóa và
dịch vụ. Chi phí có thể được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau để có thể
cung cấp những thông tin phù hợp với nhu cầu của nhà quản trị, trong đó việc
xem xét chi phí trong mối quan hệ với khối lượng, hay mức độ hoạt động và
với lợi nhuận có thể được xem là đối tượng chủ yếu của kế toán quản trị chi
phí.
Kế toán quản trị chi phí nghiên cứu sâu về chi phí của doanh nghiệp
theo các góc độ khác nhau như phân loại chi phí, dự toán chi phí, xây dựng
định mức chi phí, lập các báo cáo quản trị chi phí nhằm mục đích kiểm soát
và quản lý chi phí chặt chẽ và dự toán chi phí chính xác đÓ tối thiểu hóa chi
phí.
Xét về góc độ huy động và sử dụng nguồn lực, kế toán quản trị chi phí
gắn liền với việc phản ánh, mô tả chi phí, diễn biến chi phí trong quá trình sử
dụng ở các nơi tiêu dùng các chi phí đó (các bộ phận hoặc trung tâm) và sự
kết tinh chi phí thành kết quả các hoạt động.
Kiểm soát việc thực hiện từng khâu công việc, phân tích nguyên nhân
gây ra sự biến động (tăng, giảm) chi phí theo dự toán và thực tế để có chế độ
khen thưởng, cũng như kỷ luật, quy trách nhiệm của các cá nhân, bộ phận
trong doanh nghiệp điều này cũng đồng nghĩa với việc phát huy thế mạnh
trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như biện pháp ngăn chặn những
điểm yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
Kế toán quản trị chi phí còn tập trung phân tích chi phí nhằm đưa ra các

quyết định của nhà quản trị như đầu tư thêm hay thu hẹp hoặc chấm dứt hoạt
động của bộ phận nào đó, lùa chọn các phương án đầu tư
1.1.3. Các phương pháp của kế toán quản trị chi phí
1.1.3.1. Nhóm phương pháp thu nhận, xử lý và tổng hợp thông tin
Là mét bộ phận của kế toán nói chung, kế toán quản trị chi phí đương
nhiên cũng áp dụng các phương pháp của kế toán đó là phương pháp chứng
từ, phương pháp tài khoản kế toán, phương pháp tính giá và phương pháp
tổng hợp cân đối kế toán.
+ Phương pháp chứng từ: Ngoài các chứng từ bắt buộc, kế toán quản trị
chi phí còn sử dụng rộng rãi hệ thống chứng từ hướng dẫn phản ánh các
nghiệp vô kinh tế "nội sinh" trong nội bộ doanh nghiệp. Chứng từ để phản
ánh chi phí trực tiếp tạo nên sản phẩm nh Phiếu xuất kho, phiếu nhập
kho trong kế toán quản trị thường yêu cầu cao tính trung thành của nghiệp
vụ kinh tế phát sinh.
+ Phương pháp tài khoản kế toán: Các tài khoản kế toán quản trị chi phí
được mở xuất phát từ nhu cầu của các nhà quản trị nội bộ để theo dõi và điều
hành các hoạt động kinh doanh. Ví dụ trong DNXL,TK chi phí sản xuất
chung mở chi tiết cho từng công trình, hạng mục công trình xây dựng, ngoài
ra còn có thể chi tiết tiếp thành CPSXC biến đổi, CPSXC cố định của từng
CT, HMCT đó.
+ Phương pháp tính giá: Trong kế toán quản trị chi phí sử dụng nhiều
phương pháp tính giá khác nhau nhằm phản ánh chính xác đối tượng chịu phí
để đưa ra quyết định lùa chọn phương án tối ưu trong tương lai. Ví dụ giá phí
của sản phẩm có thể tính theo chi phí thực tế, chi phí thông thường, chi phí
trực tiếp, chi phí dùa trên cơ sở hoạt động. Ví dụ cách phân loại chi phí theo
thẩm quyền ra quyết định chia chi phí thành chi phí cơ hội, chi phí chênh
lệch, chi phí chìm. Là cơ sở rất quan trọng trong việc phân tích thông tin thích
hợp nhằm đưa ra quyết định cá biệt. Đặc biệt là các quyết định ngắn hạn. Do
thông tin kế toán quản trị phản ánh các sự kiện kinh tế trong tương lai nên khi
dùng thước đo giá trị cần quan tâm đến các loại giá: giá lịch sử, giá tương lai,

giá hiện hành, hiện giá, mỗi loại giá có những vai trò khác nhau trong xử lý
thông tin và ra quyết định.
+ Phương pháp tổng hợp cân đối kế toán: Trong kế toán quản trị chi phí
hệ thống báo cáo kế toán rất đa dạng xuất phát từ đặc điểm sản xuất kinh
doanh của các DN khác nhau và nhu cầu quản trị của từng cấp. Có thể là báo
cáo cho từng bộ phận sản xuất (ví dụ trong DNXL là báo cáo của các đội sản
xuất), Báo cáo lợi nhuận của từng sản phẩm trên phạm vi toàn DN Trong các
báo cáo ngoài việc sử dụng chỉ tiêu giá trị, còn sử dụng chỉ tiêu hiện vật, thời
gian lao động Trong các báo cáo ngoài các tổng hợp cân đối về các chỉ tiêu
quá khứ, chỉ tiêu đã thực hiện còn thiết lập các cân đối trong dự toán; trong kế
hoạch giữa nhu cầu tài chính và nguồn tài trợ, giữa yêu cầu sản xuất- kinh
doanh và các nguồn lực được huy động
1.1.3.2. Nhóm phương pháp phân tích số liệu
Phương pháp phân loại chi phí: Kế toán quản trị chi phí nghiên cứu
nhiều tiêu thức phân loại chi phí khác nhau nhằm tạo lập các thông tin thích
hợp cho việc ra quyết định ứng xử từng loại chi phí nhằm giảm thấp chi phí
cho doanh nghiệp. Các tiêu thức phân loại chi phí khác nhau sẽ được ứng
dụng trong việc lập các báo cáo kết quả kinh doanh và phân tích chi phí nhằm
đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất. Các tiêu thức phân loại chi phí giúp cho
nhà quản trị hiểu được bản chất của các yếu tố chi phí phát sinh trong doanh
nghiệp, từ đó có các biện pháp kiểm soát và ra quyết định thích hợp.
Phương pháp tách chi phí hỗn hợp thành biến phí và định phí giúp nhà
quản trị dự đoán mức chi phí xảy ra, kiểm soát các khoản mục chi phí phát sinh.
Phương pháp thiết kế thông tin thành bảng số liệu so sánh được: Thông
tin muốn có ý nghĩa thì phải có các tiêu chuẩn để so sánh từ các số liệu thu
thập được. Chẳng hạn, để cung cấp thông tin cho nhà quản trị ra quyết định
tiếp tục kinh doanh hay ngõng kinh doanh một bộ phận. Kế toán quản trị phải
lập được bảng phân tích so sánh thông tin về tổng lợi nhuận của doanh ngiệp
giữa hai phương án tiếp tục hay ngừng sản xuất kinh doanh bộ phận nào đó.
Đối với DNXL, để so sánh hiệu quả hoạt động đối với từng công trình, hạng

mục công trình thì phải có báo cáo số liệu cung cấp các chỉ tiêu cho từng công
trình, HMCT đó. Thông tin so sánh của KTQT thường được thiết kế dưới
dạng bảng, biểu, đồ thị, phương trình đại số. Các bảng biểu thường thể hiện
thông tin thực hiện so sánh với thông tin kế hoạch, định mức hoặc dự toán
1.2. Vai trò kế toán quản trị chi phí trong việc thực hiện chức năng quản
lí ở DN
1.2.1. Các chức năng quản trị doanh nghiệp
Chức năng cơ bản của nhà quản trị ở bất kỳ tổ chức nào là: Hoạch định,
tổ chức thực hiện, kiểm soát, đánh giá và ra quyết định.
Hoạch định là xây dựng các mục tiêu phải đạt được và vạch ra các
bước, phương pháp thực hiện để đạt được mục tiêu đó. Để hoạch định và xây
dựng các kế hoạch, nhà quản trị phải dự đoán nhằm tiên liệu được trước mục
tiêu, phương pháp, thủ tục trên cơ sở khoa học. Trong công việc này nhà quản
trị phải liên kết các mục tiêu cụ thể lại với nhau và chỉ rõ cách huy động và sử
dông nguồn lực sẵn có.
Tổ chức thực hiện bao gồm việc thiết lập cơ cấu tổ chức và truyền đạt
thông tin các kế hoạch đến những cá nhân có trách nhiệm trong tuyến quản lý
để thực hiện kế hoạch đó.
Thực hiện chức năng này, nhà quản trị phải liên kết giữa các bộ phận,
giữa các cá nhân nhằm huy động và kết hợp các nguồn lực sẵn có của doanh
nghiệp lại với nhau để có thể thực hiện được các mục tiêu đề ra trong quá
trình hoạch định một cách hiệu quả.Tổ chức thực hiện còn là sự kết hợp hài
hòa giữa các yếu tố trong quá trình sản xuất và vai trò của các nhà quản trị
doanh nghiệp để thực hiện các khâu công việc theo như kế hoạch đã đề ra
nhằm để đạt được mục tiêu của quá trình kinh doanh. Đây là giai đoạn quyết
định nhất, bởi vì các quyết định kinh doanh phải hết sức linh hoạt, phù hợp
với các điều kiện thực tiễn khi đó mới khai thác hết khả năng tiềm tàng của
các yếu tố sản xuất và đạt được mục tiêu tối ưu.
Chức năng kiểm soát và đánh giá của quản trị: Căn cứ vào các chỉ tiêu
của kết quả thực hiện đối chiếu với các kế hoạch đã xây dựng để kiểm tra và

đánh giá tình hình thực hiện kết quả của doanh nghiệp. Thông qua đó để đánh
giá và thu nhận các thông tin phục vụ cho quá trình kinh doanh tiếp theo.Thực
chất của quá trình kiểm tra và đánh giá thường là so sánh thấy được sự khác
nhau giữa thực hiện với kế hoạch đã xây dựng, từ đó xác định các nguyên
nhân ảnh hưởng để có thể điều chỉnh quá trình thực hiện đến từng người, từng
bộ phận nhằm cho các tổ chức hoạt động đạt các mục tiêu tối ưu.
Chức năng ra quyết định là công việc thường xuyên của các nhà quản
trị ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng của doanh nghiệp. Ra quyết định tự thân
nó không là chức năng riêng mà trong quá trình thực hiện các chức năng đều
đòi hỏi phải ra quyết định.Thực hiện chức năng này đòi hỏi nhà quản lý cần
lùa chọn một giải pháp hợp lý nhất trong số các giải pháp đề xuất.
Sơ đồ 1.1: Các chức năng cơ bản của quản trị doanh nghiệp
1.2.2. Vai trò của kế toán quản trị chi phí
Để làm tốt chức năng quản lí, nhà quản trị phải có thông tin cần thiết để
có thể ra các quyết định đúng đắn. Kế toán quản trị chi phí là nguồn chủ yếu
cung cấp nhu cầu thông tin đó.Vai trò của kế toán quản trị chi phí thể hiện
trong các khâu của quá trình quản lí được thể hiện cụ thể như sau:
* Trong giai đoạn lập kế hoạch
Kế toán quản trị chi phí cụ thể hóa các mục tiêu trong kế hoạch thành
các dự toán chi phí sản xuất kinh doanh. Kế toán quản trị chi phí cũng cung
cấp thông tin về chi phí ước tính để phục vụ cho việc ra quyết định của nhà
quản trị, do thông tin mà nhà quản trị cần là linh hoạt chứ không thể dùa vào
chi phí thực tế phát sinh được. Ví dụ trong trường hợp doanh nghiệp cần có
những quyết định mang tính tác nghiệp khi doanh nghiệp phải chào giá đấu
thầu hay quyết định nhanh về chấp nhận các đơn chào hàng từ khách hàng.
* Trong giai đoạn tổ chức thực hiện
Để thực hiện tốt chức năng này, nhà quản trị cũng phải có nhu cầu rất
lớn đối với các thông tin kế toán quản trị chi phí, chẳng hạn nhà quản trị cần
được kế toán cung cấp thông tin để ra các quyết định kinh doanh đúng đắn
LËp kÕ ho¹ch

Ra quyÕt ®Þnh
KiÓm tra
Thùc hiÖn§¸nh gi¸
trong quá trình điều hành, chỉ đạo thực hiện các quyết định hàng ngày- các
quyết định ngắn hạn (quyết định loại bỏ hay tiếp tục duy trì kinh doanh một
bộ phận nào đó; quyết định tự sản xuất hay mua ngoài; quyết định nên bán
nửa thành phẩm hay tiếp tục chế biến…). Ngoài ra, các quyết định dài hạn
trong quá trình thực hiện các kế hoạch đầu tư dài hạn cũng cần phải có các
thông tin cần thiết và đầy đủ.
* Trong giai đoạn kiểm tra và đánh giá:
Kế toán quản trị chi phí cung cấp các báo cáo hoạt động giúp Ých cho
nhà quản trị kiểm soát quá trình thực hiện kế hoạch, kiểm soát chi phí và đạt
được hiệu quả kinh doanh tối ưu.
Các báo cáo về khả năng sinh lời của các bộ phận khác nhau trong
doanh nghiệp về các sản phẩm, dịch vụ hoặc các hoạt động giúp Ých cho nhà
quản trị quyết định lùa chọn kinh doanh sản phẩm, dịch vụ hoặc hoạt động
nào mang lại lợi nhuận.
Các báo cáo so sánh kết quả thực hiện với dù kiến về doanh thu, chi phí,
lợi nhuận là căn cứ để đánh giá hiệu quả của hoạt động quản lý, giúp Ých cho
nhà quản trị tự cố gắng hơn nữa trong việc thực hiện công việc quản lý của
mình.
Thực tế là các nhà quản trị thừa hành thường đánh giá từng phần trong
phạm vi kiểm soát của họ thông qua các báo cáo kế toán quản trị tương ứng
với phần hành mà nhà quản trị đó kiểm soát. Các nhà quản trị cấp cao hơn,
không tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt động hàng ngày, đánh giá và kiểm
tra dùa vào các báo cáo thực hiện của từng bộ phận thừa hành do kế toán quản
trị cung cấp.
* Trong khâu ra quyết định
Phần lớn thông tin do kế toán quản trị chi phí cung cấp nhằm giúp các
nhà quản trị ra quyết định. Đó là một chức năng quan trọng, xuyên suốt các

khâu quản trị doanh nghiệp, từ khâu lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, đến
kiểm tra, đánh giá.
Để có các quyết định đúng đắn và kịp thời, các nhà quản trị cần phải có
các thông tin đầy đủ, đáng tin cậy và thích hợp. Không có thông tin thì không
thể ra quyết định quản lý. Đồng thời, nếu có quá nhiều thông tin nhiễu loạn,
không phù hợp thì sẽ dẫn đến sự “ giết chết thông tin”. Vì vậy, các thông tin
thích hợp để ra quyết định thường không có sẵn. Kế toán quản trị chi phí thực
hiện các nghiệp vụ phân tích chuyên môn, chọn lọc những thông tin cần thiết,
thích hợp, rồi tổng hợp, trình bày chúng theo một trình tự dễ hiểu nhất và giải
thích quá trình phân tích đó cho các nhà quản trị.
Trong một số trường hợp khác, thông tin về chi phí có vai trò trong
việc định giá bán sản phẩm (chẳng hạn nh định giá bán theo phương pháp
thông
thường, định giá bán sản phẩm theo biến phí sản xuất )
Như vậy, kÕ toán quản trị chi phí giúp các nhà quản trị trong quá trình
ra quyết định không chỉ bằng cách cung cấp thông tin thích hợp, mà còn bằng
cách vận dụng các kỹ thuật phân tích vào những tình huống khác nhau, để từ
đó nhà quản trị lùa chọn, ra quyết định thích hợp nhất.
1.3. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây
lắp và ảnh hưởng của nó đến kế toán quản trị chi phí.
Xây lắp là một ngành sản xuất có tính chất công nghiệp, nó tạo ra cơ sở
vật chất và kỹ thuật ban đầu cho xã hội. Trong quá trình đầu tư xây dựng cơ
bản, các tổ chức xây lắp nhận thầu giữ một vai trò hết sức quan trọng. Hiện
nay ở nước ta đang tồn tại các tổ chức xây lắp nh Tổng công ty, công ty,
doanh nghiệp, đội xây dựng… thuộc các thành phần kinh tế. Tuy các đơn vị
này khác nhau về quy mô sản xuất, hình thức quản lí nhưng các đơn vị này
đều là những tổ chức nhận thầu xây lắp và đều tạo ra sản phẩm xây lắp. Sản
phẩm xây lắp được tiến hành một cách liên tục từ khâu thăm dò, điều tra,
khảo sát đến thiết kế thi công và quyết toán công trình khi hoàn thành. Quá
trình sản xuất của DNXL và sản phẩm xây lắp có đặc điểm riêng biệt, khác

với các ngành sản xuất khác và điều đó có ảnh hưởng đến kế toán quản trị, cụ
thể:
 Giá của công trình, hạng mục công trình là giá dự toán hoặc giá thỏa
thuận do đơn vị xây lắp kí kết với các đơn vị chủ đầu tư. Tính chất
hàng hóa của SPXL không được thể hiện rõ, quá trình tiêu thụ SPXL
được thực hiện thông qua việc nghiệm thu và bàn giao công trình,
khối lượng xây lắp hoàn thành cho bên giao thầu.
 Hoạt động của DNXL mang tính chất lưu động, được tiến hành ngoài
trời, các điều kiện sản xuất nh xe, máy, thiết bị thi công, người lao
động,… phải di chuyển theo địa điểm sản xuất. Đặc điểm này làm cho
công tác quản lí, sử dụng, hạch toán tài sản, vật tư rất phức tạp do ảnh
hưởng của điều kiện thiên nhiên, thời tiết, dễ mất mát, dễ hư háng.
 Thời gian sử dụng của SPXL lâu, chất lượng sản phẩm được xác định
cụ thể trong hồ sơ thiết kế kỹ thuật được duyệt, đòi hỏi việc tổ chức
quản lí sản xuất và hạch toán phải đảm bảo theo đúng dự toán thiết kế.
 Sản phẩm xây lắp có kích thước và giá trị lớn thường vượt quá số vốn
lưu động của doanh nghiệp xây lắp. Hơn nữa thời gian thi công tương
đối dài, trong thời gian sản xuất thi công xây dựng doanh nghiệp chưa
tạo ra sản phẩm cho xã hội nhưng lại sử dụng nhiều vật tư, nhân lực,
chi phí…điều này làm cho vốn đầu tư xây dựng công trình và vốn sản
xuất của doanh nghiệp xây lắp thường bị ứ đọng lâu tại công trình
đang xây dựng. Chính vì vậy, các doanh nghiệp xây lắp phải lùa chọn
phương án có thời gian xây dựng hợp lí, kiểm tra chất lượng chặt chẽ,
phải có chế độ thanh toán giữa kỳ và dự trữ vốn phù hợp, đồng thời
khi lập kế hoạch xây dựng doanh nghiệp phải cân nhắc thận trọng,
thấy rõ được các yêu cầu về tiền vốn, vật tư, nhân công của công
trình, quản lí, theo dõi các khoản mục phí trong quá trình sản xuất thi
công chặt chẽ nhằm đảm bảo sử dụng vốn tiết kiệm.
Mặt khác do thời gian thi công tương đối dài nên kỳ tính giá thành
được xác định tùy thuộc vào đặc điểm kỹ thuật của từng loại công trình được

thể hiện qua phương pháp lập dự toán và phương thức thanh toán giữa hai bên
giao thầu và nhận thầu. Cũng do chu kỳ sản xuất sản phẩm xây lắp lâu dài nên
đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm xây lắp hoàn thành đến giai đoạn
quy ước là điểm dừng kỹ thuật hợp lí. Sản phẩm xây lắp có kích thước và
trọng lượng lớn nên đòi hỏi số lượng lao động, số lượng nguyên vật liệu, công
cụ dụng cụ phục vụ sản xuất lớn, khác nhau, vì vậy giá thành sản phẩm xây
lắp rất phức tạp và thường xuyên thay đổi theo từng giai đoạn. Việc xác định
đúng đắn đối tượng tính giá thành và kỳ tính giá thành sẽ đáp ứng yêu cầu
quản lý kịp thời và chặt chẽ chi phí sản xuất, đánh giá đúng đắn tình hình
quản lý thi công trong từng thời kỳ nhất định.
 Sản phẩm xây lắp có giá trị sử dụng dài qua nhiều năm thậm chí hàng
trăm năm. Mỗi sản phẩm hoàn thành đều phải đảm bảo các tiêu chuẩn
về kỹ thuật, tính bền vững cùng với các tiêu chuẩn khắt khe khác bởi vì
mọi sai lầm trong quá trình thi công thường khó sửa chữa, phải phá đi
làm lại. Các sai lầm trong xây lắp thường gây lãng phí, vừa để lại hậu
quả có khi rất nghiêm trọng, lâu dài và khó khắc phục. Do đặc điểm
này mà trong quá trình thi công cần phải thường xuyên kiểm tra giám
sát chất lượng công trình.
 Để nhận được công trình, các doanh nghiệp xây lắp thường phải trải
qua khâu đấu thầu. Do đó công tác xác định giá dự toán của công trình
cần phải được coi trọng để từ đó xác định mức giá bỏ thầu hợp lý, đảm
bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh xây lắp của doanh nghiệp và khả
năng thắng thầu.
1.4. Nội dung kế toán quản trị chi phí trong doanh nghiệp xây lắp
1.4.1. Phân loại chi phí:
1.4.1.1. Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động
Chi phí phát sinh trong các doanh nghiệp xây lắp, xét theo công dụng
của chúng hay nói một cách khác, xét theo từng hoạt động có chức năng khác
nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh mà chúng phục vụ, được chia thành
2 loại: chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất.

* Chi phí sản xuất: Giai đoạn sản xuất là quá trình thi công biến nguyên
vật liệu thành sản phẩm (các công trình, hạng mục công trình) thông qua sức
lao động của công nhân kết hợp với việc sử dụng máy móc thiết bị. Chi phí
sản xuất xây lắp bao gồm các khoản mục chủ yếu: Chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí
sản xuất chung.
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Khoản mục chi phí này bao gồm các
loại nguyên liệu và vật liệu xuất dùng trực tiếp cho việc thi công xây dựng
công trình, hạng mục công trình. Trong đó, nguyên vật liệu chính (xi măng,
sắt, thép, cát, đá, ) dùng để cấu tạo nên sản phẩm xây lắp và các loại vật liệu
phụ, vật liệu luân chuyển (ván khuôn, giàn giáo) có tác dụng kết hợp với
nguyên vật liệu chính để hoàn chỉnh sản phẩm về mặt chất lượng và hình
dáng.
+ Chi phí nhân công trực tiếp
Khoản mục chi phí này bao gồm tiền lương và các khoản trích theo
lương, phụ cấp có tính chất thường xuyên (phụ cấp trách nhiệm) cho bộ phận
công nhân trực tiếp sản xuất xây lắp.
+ Chi phí sử dụng máy thi công: là toàn bộ chi phí sử dụng xe, máy thi
công phục vụ trức tiếp cho hoạt động sản xuất xây lắp công trình bao gồm:
chi phí khấu hao máy thi công, chi phí sửa chữa lớn, sửa chữa thường xuyên
máy thi công, chi phí tiền lương của công nhân điều khiển máy và phục vụ
máy thi công, chi phí nhiên liệu và động lực dùng cho máy thi công và các chi
phí khác như chi phí di chuyển, tháo lắp máy thi công
+ Chi phí sản xuất chung: là các chi phí phục vụ và quản lý quá trình thi
công các công trình, HMCT phát sinh ở tổ, đội, các công trường xây dựng bao
gồm: Chi phí vật liệu phục vụ quá trình thi công xây dựng, tiền lương của
nhân viên quản lý các tổ, đội xây dựng, các khoản trích theo lương của công
nhân trực tiếp sản xuất xây lắp, nhân viên quản lý đội, công nhân điều khiển
máy thi công, chi phí khấu hao, sửa chữa và bảo trì máy móc thiết bị, chi phí
dịch vụ mua ngoài phục vô xây dựng tại các công trường, và các chi phí bằng

tiền khác như chi phí thuê lán, trại, để tiến hành xây dựng.
* Chi phí ngoài sản xuất
Đây là các chi phí phát sinh ngoài quá trình sản xuất sản phẩm liên quan
đến quá trình tiêu thụ sản phẩm hoặc phục vụ công tác quản lý chung toàn
doanh nghiệp. Thuộc loại chi phí này gồm có hai khoản mục chi phí: chi phí
bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Riêng đối với các doanh nghiệp xây lắp thì chi phí bán hàng thường
không phát sinh do đặc thù của ngành là tróng thầu mới tiến hành xây dựng,
và sản phẩm được bàn giao cho nhà đầu tư ngay tại nơi sản xuất, thi công.
Chứ hoàn toàn không giống các doanh nghiệp sản xuất khác là sản xuất ra rồi
mới quảng cáo, giới thiệu sản phẩm để khách hàng biết đến rồi mới tiêu thụ
được.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp
Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm tất cả các chi phí phục vụ cho
công tác tổ chức và quản lý quá trình sản xuất kinh doanh nói chung trên giác
độ toàn doanh nghiệp. Khoản mục này bao gồm các chi phí như: chi phí văn
phòng, tiền lương và các khoản trích theo lương của nhân viên quản lý doanh
nghiệp, khấu hao tài sản cố định (như nhà văn phòng, các phương tiện vận
tải, ) phục vụ cho quản lý doanh nghiệp, các chi phí dịch vụ mua ngoài
khác…
1.4.1.2. Phân loại chi phí theo khả năng quy nạp chi phí vào các đối
tượng chịu phí
Theo cách phân loại này, chi phí chia thành 2 dạng: chi phí trực tiếp và chi
phí gián tiếp
Chi phí trực tiếp: đó là các khoản chi phí chỉ liên quan trực tiếp tới việc
sản xuất mét sản phẩm (một công trình, một hạng mục công trình) mà theo đó
kế toán có thể tập hợp thẳng cho từng công trình, hạng mục công trình đó như
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp
Chi phí gián tiếp là các chi phí có liên quan đến nhiều sản phẩm (nhiều
công trình, nhiều hạng mục công trình) mà kế toán không thể tập hợp thẳng

cho từng công trình, hạng mục công trình được. Do vậy, đối với từng yếu tố
chi phí gián tiếp kế toán phải sử dụng tiêu thức phân bổ hợp lý để phân bổ
cho từng công trình, HMCT. Trong doanh nghiệp xây lắp có một bộ phận chi
phí máy thi công, chi phí sản xuất chung có liên quan đến nhiều công trình,
hạng mục công trình, kế toán doanh nghiệp sẽ dùng các tiêu thức phân bổ như
chi phí nhân công trực tiếp, chi phí trực tiếp, để phân bổ các chi phí trên cho
các công trình, hạng mục công trình cụ thể.
Cách phân loại chi phí này có ý nghĩa thuần túy đối với kỹ thuật hạch
toán. Trường hợp phát sinh chi phí gián tiếp, bắt buộc phải áp dụng phương
pháp phân bổ, lùa chọn tiêu chuẩn phân bổ phù hợp. Mức độ chính xác của
chi phí gián tiếp tập hợp cho từng công trình, HMCT phô thuộc vào tính hợp
lý và khoa học của tiêu chuẩn phân bổ chi phí.
Các khoản chi phí gián tiếp (ví dụ chi phí khấu hao tài sản cố định) khó
có thể tránh được cho nên việc phân loại chi phí này cũng có ý nghĩa đối với
nhà quản trị trong việc quyết định loại bỏ hay tiếp tục duy trì hoạt động, bộ phận
kinh doanh thông qua việc phân tích thông tin thích hợp hay không thích hợp.
1.4.1.3. Phân loại chi phí theo mối quan hệ với báo cáo tài chính
Khi xem xét chi phí trong mối quan hệ với báo cáo tài chính, chi phí
sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp sản xuất được chia làm 2 loại là
chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
+ Chi phí sản phẩm: Chi phí sản phẩm bao gồm các chi phí phát sinh
liên quan đến việc sản xuất sản phẩm (công trình, hạng mục công trình), do
vậy các chi phí này kết hợp tạo nên giá trị của sản phẩm hình thành qua giai
đoạn sản xuất (được gọi là giá thành sản xuất) gồm các khoản mục: chi phí
nguyên liệu, vật liệu trực tiÕp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng
máy thi công và chi phí sản xuất chung. Xét theo mối quan hệ với báo cáo tài
chính, chi phí sản phẩm chỉ được tính toán, kết chuyển sang báo cáo kết quả
kinh doanh để xác định lợi nhuận trong kỳ tương ứng với khối lượng sản
phẩm đã được tiêu thụ trong kỳ đó. Chi phí của khối lượng sản phẩm tồn kho
chưa được tiêu thụ vào cuối kỳ sẽ được lưu giữ và được xem như là tài sản

của doanh nghiệp và được phản ánh dưới khoản mục hàng tồn kho trên bảng
cân đối kế toán và sẽ được kết chuyển để xác định lợi nhuận ở các kỳ sau khi
mà chúng được tiêu thụ. Vì lý do này, chi phí sản phẩm còn được gọi là chi
phí tồn kho.
+ Chi phí thời kỳ: Chi phí thời kỳ gồm các khoản mục chi phí còn lại
sau khi đã xác định các khoản mục chi phí thuộc chi phí sản phẩm. Nó thường
bao gồm chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Các chi phí thời kỳ
phát sinh ở kỳ kế toán nào được xem là có tác dụng phục vụ cho quá trình
kinh doanh của kỳ đó, do vậy chúng được tính toán kết chuyển hết sang báo
cáo kết quả kinh doanh để xác định lợi nhuận ngay trong kỳ mà chúng phát
sinh. Chi phí thời kỳ còn được gọi là chi phí không tồn kho.
1.4.1.4. Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí
Cách “ứng xử” của chi phí là thuật ngữ để chỉ sự thay đổi của chi phí
tương ứng với các mức độ hoạt động đạt được. Các chỉ tiêu thể hiện mức độ
hoạt động cũng rất đa dạng. Trong DNSX ta thường gặp các chỉ tiêu thể hiện
mức độ hoạt động như mức độ công việc đã thực hiện, khối lượng sản phẩm
sản xuất, số giê ca máy hoạt động,…Khi xem xét cách ứng xử của chi phí, cần
phân biệt rõ phạm vi hoạt động của doanh nghiệp với mức độ hoạt động mà
doanh nghiệp đạt được trong từng kỳ. Phạm vi hoạt động chỉ rõ các năng lực
hoạt động tối đa như công suất máy móc thiết bị, số giê công lao động của
công nhân,…mà doanh nghiệp có thể khai thác, còn mức độ hoạt động chỉ các
mức hoạt động cụ thể mà doanh nghiệp thực hiện trong một kỳ trong giới hạn
của phạm vi hoạt động đó.
Khi nói đến cách ứng xử của chi phí, chúng ta thường hình dung đến
một sự thay đổi tỷ lệ giữa chi phí với các mức độ hoạt động đạt được: mức độ
hoạt động càng cao thì lượng chi phí phát sinh càng lớn và ngược lại. Tuy
nhiên, loại chi phí có cách ứng xử nh vậy chỉ là một bộ phận trong tổng số chi
phí của doanh nghiệp. Một số loại chi phí có tính chất cố định, không phụ
thuộc theo mức độ hoạt động đạt được trong kỳ, và ngoài ra cũng có một số
các chi khác mà cách ứng xử của chúng là sự kết hợp của cả hai loại chi phí

kể trên. Chính vì vậy, xét theo cách ứng xử, chi phí của doanh ngiệp được
chia thành ba loại: chi phí khả biến, chi phí bất biến, và chi phí hỗn hợp.
+ Chi phí khả biến (biến phí): Là các chi phí, xét về lý thuyết, có sự
thay đổi tỷ lệ với các mức độ hoạt động. Chi phí khả biến chỉ phát sinh khi có
các hoạt động xảy ra. Tổng số chi phí khả biến sẽ tăng (hoặc giảm) tương ứng
với sự tăng (hoặc giảm) của mức độ hoạt động, nhưng chi phí khả biến tính
theo đơn vị của mức độ hoạt động thì không thay đổi.
Trong doanh nghiệp xây lắp, biến phí bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công. Ngoài ra,
chi phí khả biến còn bao gồm các chi phí khác thuộc khoản mục chi phí sản
xuất chung nh các chi phí vật liệu phụ, chi phí động lực, chi phí lao động gián
tiếp
+ Chi phí bất biến (định phí): Chi phí bất biến là những chi phí, xét
về lý thuyết, không có sự thay đổi theo các mức độ hoạt động đạt được. Vì
tổng chi phí bất biến là không thay đổi cho nên, khi mức độ hoạt động tăng thì
chi phí bất biến tính theo đơn vị các mức độ hoạt động sẽ giảm và ngược lại.
Trong các doanh nghiệp sản xuất, các loại chi phí bất biến thường gặp
là chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí tiền lương nhân viên quản lý, chi
phí quảng cáo …Chi phí bất biến còn được gọi là chi phí cố định hay định
phí.
Có thể đưa ra nhận xét rằng, loại chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí bất
biến ở các doanh nghiệp sản xuất là các chi phí liên quan đến cơ sở vật chất
tạo ra năng lực hoạt động cơ bản của doanh nghiệp, do đó, với xu hướng tăng
cường hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật của các doanh nghiệp như hiện nay
thì tỷ trọng chi phí bất biến ngày càng tăng cao trong tổng số chi phí của
doanh nghiệp. Sự hiểu biết thấu đáo về quan hệ tỷ trọng chi phí khả biến và
chi phí bất biến (được hiểu là kết cấu chi phí của doanh nghiệp) có ý nghĩa rất
lớn trong việc đề ra các chính sách quản trị của doanh nghiệp.
Xét ở khía cạnh quản lí chi phí, cần phân biệt các loại chi phí bất biến
(định phí) sau:

- Định phí tuyệt đối: Là các chi phí mà tổng số không thay đổi khi có
sự thay đổi khối lượng hoạt động, do đó nếu khối lượng hoạt động thay đổi
theo chiều hướng tăng lên thì định phí trung bình đơn vị khối lượng hoạt động
sẽ giảm đi và ngược lại, chẳng hạn như chi phí khấu hao máy móc thiết bị tại
công trường theo phương pháp đường thẳng, tiền lương cố định (trả theo thời
gian) của nhân viên quản lý đội xây dựng,
- Định phí tương đối: Là định phí không thể thay đổi khi khối lượng
hoạt động thay đổi trong phạm vi phù hợp, nhưng sẽ thay đổi khi khối lượng
hoạt động thay đổi vượt quá giới hạn nhất định. Trường hợp này xảy ra khi
các yếu tố sản xuất tiềm tàng khai thác hết, muốn tăng khối lượng hoạt động
cần phải bổ sung đầu tư các khả năng sản xuất tiềm tàng mới. Với trường hợp
này, khối lượng sản phẩm sản xuất không phải là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng
đến độ lớn của định phí sản xuất mà quy mô sản xuất cần thiết phải thay đổi
khả năng trữ lượng và năng lực sản xuất.
- Định phí bắt buộc: là các chi phí phát sinh nhằm tạo ra các năng lực
hoạt động cơ bản của doanh nghiệp, thể hiện rõ nhất là chi phí khấu hao tài
sản cố định hay tiền lương nhân viên quản lý ở các phòng ban chức năng. Bởi
vì, là tiền đề tạo ra năng lực hoạt động cơ bản nên các định phí bắt buộc gắn
liền với các mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp, chúng biểu hiện tính chất cố
định khá vững chắc và Ýt chịu sự tác động của các quyết định trong quản lý
ngắn hạn. Có thể đưa ra nhận xét rằng, mọi cố gắng trong việc cắt giảm các
định phí bắt buộc đến không là không thể được, cho dù là chỉ trong một thời
gian ngắn khi các quá trình sản xuất bị gián đoạn. Điểm mấu chốt trong việc
quản lý loại chi phí này là tập trung vào việc nâng cao hiệu suất sử dụng các
yếu tố vật chất và nhân lực cơ bản của doanh nghiệp.
- Định phí không bắt buộc: Khác với định phí bắt buộc, các định phí
không bắt buộc thường được kiểm soát theo các kế hoạch ngắn hạn và chúng
phụ thuộc nhiều vào chính sách quản lý hàng năm của các nhà quản trị. Do
vậy, loại chi phí này còn được gọi là định phí tùy ý. Thuộc loại chi phí này
gồm, chi phí đào tạo, bồi dưỡng công nhân, nhân viên kỹ thuật công trình, chi

phí nghiên cứu phát triển vật liệu xây dựng mới…
Với bản chất ngắn hạn và phụ thuộc nhiều vào ý muốn của người quản lý, các
định phí không bắt buộc là đối tượng được xem xét đầu tiên trong các chương
trình tiết kiệm hoặc cắt giảm chi phí hàng năm của doanh nghiệp. Có thể nói,
tính hợp lý về sự phát sinh của các định phí không bắt buộc, cả về chủng loại
và giá trị, được xem xét theo từng kỳ là biểu hiện rõ nhất chất lượng các quyết
định của nhà quản trị trong quản lý chi phí. Các quyết định này luôn bị ràng
buộc bởi sự hạn chế về quy mô vốn cũng như bởi các mục tiêu tiết kiệm chi phí
không ngừng của doanh nghiệp. Rất dễ dẫn đến các quyết định sai lầm nếu
người quản lý không hiểu thấu đáo đặc thù kinh doanh của doanh nghiệp còng
nh tình huống cụ thể cho việc ra quyết định ở từng thời kỳ hoạt động.
+ Chi phí hỗn hợp: Là những chi phí mà cấu thành nên nó bao gồm cả
yếu tố chi phí khả biến và chi phí bất biến. Ở mét mức độ hoạt động cụ thể
nào đó, chi phí hỗn hợp mang đặc điểm của chi phí bất biến, và khi mức độ
hoạt động tăng lên, chi phí hỗn hợp sẽ biến đổi nh đặc điểm của chi phí khả
biến. Hiểu theo một cách khác, phần bất biến trong chi phí hỗn hợp thường là
bộ phận chi phí cơ bản để duy trì các hoạt động ở mức độ tối thiểu, còn phần
khả biến là bộ phận chi phí sẽ phát sinh tỷ lệ với mức độ hoạt động tăng thêm.
Trong các doanh nghiệp xây lắp, chi phí hỗn hợp cũng chiếm một tỷ lệ khá
cao trong các loại chi phí, chẳng hạn như chi phí điện thoại, chi phí bảo trì
máy móc thiết bị. Nếu hiểu biết rõ phần biến phí, và định phí có trong chi phí
hỗn hợp là cơ sở giúp cho việc lập dự toán chi phí (thường là chi phí sản xuất
chung; chi phí quản lý doanh nghiệp)
1.4.1.5. Phân loại chi phí theo yêu cầu sử dông chi phí trong các quyết
định quản trị
Để phục vụ cho việc kiểm tra và ra quyết định trong quản lý, chi phí
của doanh nghiệp còn được xem xét ở nhiều khía cạnh khác. Nổi bật nhất là
việc xem xét trách nhiệm của các cấp quản lý đối với các loại chi phí phát
sinh, thêm nữa, các nhà quản lý nên nhìn nhận đúng đắn sự thích đáng của các
loại chi phí khác nhau phục vụ cho việc phân tích, so sánh để ra quyết định

lùa chọn phương án tối ưu trong các tình huống.
+ Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được
Một khoản chi phí được xem là chi phí có thể kiểm soát được hoặc là
chi phí không kiểm soát được ở một cấp quản lý nào đó là tùy thuộc vào khả
năng cấp quản lý này có thể ra các quyết định để chi phối, tác động đến khoản
chi phí đó hay là không. Như vậy, nói đến khía cạnh quản lý chi phí bao giê
cũng gắn liền với một cấp quản lý nhất định: khoản chi phí mà ở một cấp
quản lý nào đó có quyền ra quyết định để chi phối nó thì được gọi là chi phí
kiểm soát được (ở cấp quản lý đó), nếu ngược lại thì là chi phí không kiểm
soát được.
Chẳng hạn, người quản lý bán hàng có trách nhiệm trong việc tuyển
dụng cũng như quyết định cách thức trả lương cho nhân viên bán hàng, do
vậy chi phí tiền lương trả cho bộ phận nhân viên này là chi phí kiểm soát
được đối với bộ phận bán hàng đó. Tương tự như vậy là các khoản chi phí
tiếp khách, chi phí hoa hồng bán hàng,…Tuy nhiên, chi phí khấu hao các
phương tiện kho hàng, một khoản chi phí cũng phát sinh ở bộ phận bán hàng,
thì lại là chi phí không kiểm soát được đối với người quản lý bán hàng bởi vì
quyền quyết định xây dựng các kho hàng cũng như quyết định cách thức tính
khấu hao của nó thuộc về bộ phận quản lý doanh nghiệp.
Chi phí không kiểm soát được ở một bộ phận nào đó thường thuộc 2
dạng: các khoản chi phí phát sinh ở ngoài phạm vi quản lý của bộ phận
(chẳng hạn các chi phí phát sinh ở các bộ phận sản xuất hoặc thu mua là chi
phí không kiểm soát được đối với người quản lý bán hàng), hoặc là các khoản
chi phí phát sinh thuộc phạm vi hoạt động của bộ phận nhưng thuộc quyền chi
phối và kiểm soát từ cấp quản lý cao hơn (như chi phí khấu hao các phương
tiện kho hàng đối với người quản lý bộ phận bán hàng trong ví dụ trên). Còng
cần chó ý thêm rằng, việc xem xét khả năng kiểm soát các loại chi phí đối với
một cấp quản lý có tính tương đối và có thể có sự thay đổi khi có sự thay đổi
về mức độ phân cấp trong quản lý. Xem xét chi phí ở khía cạnh kiểm soát có
ý nghĩa lớn trong việc lập báo cáo (lăi, lỗ) của từng bộ phận trong doanh

nghiệp, phân tích chi phí và ra các quyết định xử lý, góp phần thực hiện tốt kế
toán trách nhiệm trong doanh nghiệp.
+ Chi phí chìm
Chi phí chìm được hiểu là khoản chi phí đã bỏ ra trong quá khứ và sẽ
biểu hiện ở mọi phương án với giá trị nh nhau. Hiểu một cách khác, chi phí
chìm được xem như là khoản chi phí không thể tránh được cho dù người quản
lý quyết định lùa chọn thực hiện theo phương án nào. Chính vì vậy, chi phí
chìm là loại chi phí không thích hợp cho việc xem xét, ra quyết định của nhà
quản trị.
+ Chi phí chênh lệch
Chi phí chênh lệch được hiểu là phần giá trị khác nhau của các loại chi
phí của một phương án so với một phương án khác. Có hai dạng chi phí chênh
lệch: giá trị của những chi phí chỉ phát sinh ở phương án này mà không có ở
phương án khác, hoặc là phần chênh lệch về giá trị của cùng một loại chi phí
ở các phương án khác nhau. Người quản lý đưa ra các quyết định lùa chọn các

×