Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Bài Giảng Đa Dạng Sinh Học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 103 trang )

Danh sách các chữ viết tắt
Kí hiệu viết tắt
Giải thích
Ôtc
Ô tiêu chuẩn
ĐDSH

Đa dạng sinh học
ĐVCXS

Động vật có xương sống
ĐVKXS

Động vật không xương sống
BGCS

Ban thư kỹ bảo tồn các vườn thực vật/ Botanical Gardens Conservation
Secretariat
BTTN

Bảo tồn thiên nhiên
CGIAR
Nhóm tư vấn về nghiên cứu nông nghiệp Quốc tế/ Consultative Group
on International Agricultural Research
CITES
Công ước quốc tế về buôn bán các loài động thực vật có nguy cơ bị
tuyệt chủng/ Convention on International Trade in Endangered Srecies
FAO
Tổ chức nông lương thế giới/Food and Agriculture Organization
GDP
Tổng thu nhập quốc dân/ Gross Domestic Product


GEF

Quỹ môi trường toàn cầu/ Global Environment Facility

HST

Hệ sinh thái
ICBP

Tổ chức bảo vệ chim quốc tế/ The International Council for Bird
Protection
IUCN

Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên Quốc tế/ The World Conservation Union

KBT

Khu bảo tồn

KHHĐĐDS/BAP
Kế hoạch hành động đa dạng sinh học/ Biodiversity Activity Plan
MAB
Chương trình con người và sinh quyển (của UNESCO)/ Man and the
Biosphere Program
NXB
Nhà xuất bản
PCD

Phát triển chương trình có sự tham gia/ Participatory Curriculum
Development

SFSP

Chương trình Hỗ trợ Lâm nghiệp xã hội/ Social Forestry Support
Programme
SU

Đơn vị hỗ trợ của SFSP tại Hà Nội/ Support Unit

UNCED

Hội nghị Liên hiệp quốc về môi trường và phát triển/ Conference on
Environment and Development.
UNDP Chương trình phát triển Liên hiệp quốc/ United Nations Development
Programme
UNEP Chương trình môi trường Liên hiệp quốc/ United Nations
Enviromental Programme
UNESCO Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hiệp quốc/ United Nations
Educational, Scientific and Cultural Organization
VQG Vườn Quốc gia
WB
Ngân hàng thế giới/ World Bank
WRI
Viện tài nguyên thế giới/ World Resources Institule
WWF Quỹ Quốc tế về bảo vệ thiên nhiên/ World Wide Fund for Nature
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
1
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC
1. Khái niệm đa dạng sinh học.

Thuật ngữ ĐDSH (biological diversity/biodiversity) được dùng lần đầu
tiên vào năm 1988 (Wilson, 1988) và sau khi Công ước ĐDSH được ký kết
(Công ước này đã được 157 Chính phủ ký kết ở Hội nghị Thượng đỉnh Rio de
Janeiro vào ngày 05/06/1992, có hiệu lực vào ngày 29/12/1993), đã được
dùng phổ biến.
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa về ĐDSH.
- Định nghĩa do Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Quốc tế – WWF (1989) quan
niệm: “ĐDSH là sự phồn thịnh của sự sống trên trái đất, là hàng triệu loài
thực vật, động vật và vi sinh vật, là những gen chứa đựng trong các loài và là
những HST vô cùng phức tạp cùng tồn tại trong môi trường”.
- Theo Công ước ĐDSH thì “ĐDSH là sự phong phú của mọi cơ thể
sống có từ tất cả các nguồn trong các HST trên cạn, ở biển và các HST dưới
nước khác, và mọi tổ hợp sinh thái mà chúng tạo nên”.
- Theo Từ điển ĐDSH và phát triển bền vững của Bộ Khoa học Công
nghệ và môi trường (NXB Khoa học và kỹ thuật, 2001): “ĐDSH là thuật ngữ
dùng để mô tả sự phong phú và đa dạng của giới tự nhiên. “ĐDSH là sự
phong phú của mọi cơ thể sống từ mọi nguồn, trong các HST trên đất liền,
dưới biển và các HST dưới nước khác và mọi tổ hợp sinh thái mà chúng tạo
nên.”
- ĐDSH bao gồm cả các nguồn tài nguyên di truyền, các cơ thể hay các
phần cơ thể, các quần thể, hay các hợp phần sinh học khác của HST, hiện
đang có giá trị sử dụng hay có tiềm năng sử dụng cho loài người.
- Nói cách khác, ĐDSH là toàn bộ tài nguyên thiên nhiên tạo nên do tất
cả các dạng sống trên trái đất, là sự đa dạng của sự sống ở tất cả các dạng, các
cấp độ và các tổ hợp giữa chúng. Đó không chỉ là tổng số của các HST, các
loài, các vật chất di truyền mà còn bao gồm tất cả các mối quan hệ phức tạp
bên trong và giữa chúng với nhau.
Ngoài ra, ĐDSH còn bao gồm cả đa dạng văn hóa, sự thể hiện của con
người với vai trò là một thành viên của thế giới sinh vật và là một nhân tố
quan trọng của HST.


NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
2
1.1. Đa dạng di truyền
* Khái niệm: Đa dạng di truyền (ĐDDT) là phạm trù chỉ mức độ da
dạng của biến dị di truyền, sự khác biệt về di truyền giữa các xuất xứ, quần
thể và giữa các cá thể trong một loài hay một quần thể.
* Bản chất và nguồn gốc của ĐDDT.
ĐDDT do các gen tạo nên. Gen là đơn vị di truyền, một đoạn của vật
chất di truyền qui định sự di truyền của tính trạng. Một gen kiểm soát sự biểu
hiện và phát triển của một tính trạng nhất định của một sinh vật. Sự biểu hiện
cụ thể của tính trạng sẽ biến đổi đa dạng (ví dụ màu tóc hay màu mắt người)
và mỗi một dạng của gen quy định một dạng biểu hiện cụ thể như vậy được
gọi là gen alen. Do vậy, sự thể hiện của một gen trong một sinh vật sẽ ở dạng
một alen trong tập hợp nhiều alen của gen đó.
Sự tồn tại của một loài có được là nhờ quá trình sản xuất và sự sao chép
lại các tính trạng và tính chất của cơ thể từ thế hệ này sang thế hệ khác qua di
truyền. Cơ sở vật chất di truyền của các loài sinh vật là các axit nucleic và
gồm có hai loại: ADN (axit deoxiribonucleic) và ARN (axit ribonucleic).
ADN là nơi tích luỹ và bảo quản các thông tin di truyền. Mỗi loài sinh
vật và thậm chí trong một cá thể của loài đều có những phân tử ADN đặc
trưng cho loài, tính đặc trưng này được thể hiện qua số lượng và trình tự sắp
xếp các nucleic trong ADN, qua hàm lượng ADN trong nhân tế bào và tỷ lệ
giữa các cặp bazơ A+T/G+X. Trật tự các nucleotit trong các gen có liên quan
đến việc quy định các tính trạng và đặc trưng của cơ thể.
Trong quá trình tiến hoá của sinh vật từ thấp lên cao, hàm lượng ADN
trong các tế bào cũng được tăng lên. Đó là biểu hiện của đa dạng gen.
Vật liệu di truyền của vi sinh vật, của thực vật và động vật chứa đựng
nhiều thông tin xác định đặc điểm tính chất của loài và các cá thể. Chính vậy,

sự đa dạng các vật liệu di truyền đã tạo nên sự đa dạng của thế giới sinh vật.
Ngay cả trong các cá thể của loài, những tính trạng của các cá thể cũng có thể
thay đổi do những biến dị di truyền (đột biến gen và nhiễm sắc thể) xảy ra
trong quá trình tái tổ hợp.
Ví dụ: Chúng ta có hàng ngàn giống lúa khác nhau nhưng chúng đều xuất phát từ
một loài Oryza sativa, có rất nhiều thứ vật nuôi khác nhau trong cùng một loài, thậm chí
ngay cả trong cùng một giống cũng có sự khác nhau về bản chất di truyền do sự đột biến
kiểu gen.
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
3
Những biến đổi trên cũng có thể có lợi hoặc có hại, thường những biến
đổi có lợi xảy ra nhiều hơn trong quá trình chọn lọc tự nhiên và đấu tranh sinh
tồn. Khả năng sống sót khác nhau giữa các cá thể của một quần thể dẫn đến
sự thay đổi tần suất xuất hiện các gen trong tập hợp các biến dị di truyền và
quá trình này được gọi là quá trình tiến hoá (Falconer, 1981)
Hay nói cách khác, ĐDDT đã có ảnh hưởng quyết định đến một cá thể
động vật hay thực vật có thể hay không có thể tồn tại trong một môi trường
nhất định. Ví dụ: Một số loài thực vật có thể mọc và sinh trưởng tốt trong môi
trường nước mặn (rong biển, tảo biển), một số loài động vật (thú, bò sát, cá)
sống được trong môi trường biển (Cá voi, rắn đẻn, rùa biển, đồi mồi, cá
biển ). Có được những thích nghi này là nhờ kết quả của biến đổi di truyền.
Biến đổi di truyền tồn tại trong tất cả các loài sinh vật, trong các quần
thể có sự ngăn cách địa lý và ở các cá thể trong một quần thể nhưng có thể ở
các mức độ khác nhau. Mặt khác, tính di truyền của một loài có lúc không ổn
định mà biến đổi phụ thuộc vào các yếu tố bên trong và bên ngoài cơ thể.
Biến đổi vật liệu di truyền trong một loài không những làm cho nó có thể tiến
hoá qua chọn lọc tự nhiên mà còn cả quá trình chọn lọc nhân tạo. Sự đa dạng
về di truyền trong loài thường bị ảnh hưởng bởi những tập tính sinh sản của
các cá thể trong quần thể. Một quần thể là một nhóm cá thể giao phối với

nhau để sản sinh ra thế hệ con cháu hữu thụ; loài có thể bao gồm một hay
nhiều quần thể. Một quần thể có thể chỉ có vài cá thể đến hàng triệu cá thể.
Các cá thể trong một quần thể thường có kiểu gen khác nhau. Sự khác nhau
giữa các cá thể (kiểu hình) là do tương tác giữa kiểu gen và môi trường tạo ra.

Hình 1.2: Kiểu hình của cá thể được quyết định do kiểu gen và môi trường
(Alcock, 1993), (nguồn: Cơ sở sinh học bảo tồn, 1999)
(A) - Các cá thể khác nhau về gen có thể có các kiểu hình khác nhau kể
cả khi chúng phát triển trong cùng một môi trường.
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
4
(B) - Các cá thể có cùng kiểu gen có thể có các kiểu hình khác nhau
nếu chúng phát triển trong các môi trường khác nhau như ở vùng ôn đới và
vùng nhiệt đới; nơi có nhiều thức ăn khác với nơi ít thức ăn.
Sự khác biệt về gen (ĐDDT) cho phép các loài thích ứng được với sự
thay đổi của môi trường. Thực tế cho thấy, những loài quý hiếm, phân bố hẹp
thường đơn điệu về gen so với các loài phổ biến, phân bố rộng; do vậy chúng
thường rất nhạy cảm với sự biến đổi của môi trường và hậu quả là dễ bị tuyệt
chủng.
1.2. Loài và đa dạng loài:
1.2.1. Khái niệm về loài và phân loại:
- Khái niệm về loài: “Loài là tập hợp những sinh vật được cách ly về
mặt sinh học trong quá trình tiến hoá, giao phối tự do với nhau để cho thế hệ
con cái hoàn toàn hữu thụ, cách ly với các loài khác bởi sự khó kết hợp với
nhau về mặt sinh sản hữu tính”
- Phân loại:
Loài là đơn vị cơ sở của bậc phân loại, có bộ mã di truyền ổn định.
+ Trong phân loại học hiện đại.
° Các Loài (Species) giống nhau được xếp vào Giống (Genus).

° Các giống có quan hệ họ hàng được xếp vào Họ (Family).
° Các họ gần nhau được xếp vào Bộ (Order).
° Các bộ giống nhau được xếp vào Lớp (Class).
° Các Lớp giống nhau được xếp vào Ngành (Phylum).
° Các ngành giống nhau được xếp vào Giới (Kingdom).
+ Tên của loài được đặt theo tên hệ thống kép (Binomial
nomenclature) gồm 2 từ:
 Từ trước chỉ giống (viết hoa)
 Từ sau chỉ loài (viết thường)
 Trong nghiên cứu, tên một loài đầy đủ, ngoài tên giống, loài, phải
ghi kèm theo sau tên tác giả đặt tên cho loài đó và năm định tên.
Ví dụ: Loài Khỉ cộc (Khỉ mặt đỏ) được ghi đầy đủ như sau: Macaca
arctoides (Geoffroy, 1825) hoặc Lát hoa là Chukrasia tabularis Juss.
Ví dụ về thang bậc phân loại cụ thể cho loài Khỉ cộc như sau:
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
5
Tên loài Khỉ Cộc Macaca arctoides (Geoffrov, 1831)

Đơn vị phân loại Tên Việt Nam Tên khoa học
Giới (Kingdom) Động vật Animalia
Ngành (Phylum) Động vật có xương sống Chordata
Lớp (Class)
Thú
Mammalia
Bộ (Order)
Linh trưởng
Primates
Họ (Family)
Khỉ voọc

Cercopithecidae
Giống (Gunus)
Khỉ
Macaca
Loài (Species) Khỉ cộc arctoides
 Có một số loài tên gồm 3 từ, ở đây từ thứ 3 chỉ một dạng biến đổi
(về địa lý, sinh thái ) của loài và được gọi là phân loài hoặc loài
phụ.
Ví dụ: loài Hổ Đông Dương viết là Panthera tigris corbetti Mazak,
1968.
1.2.2. Đa dạng loài
- Khái niệm: Đa dạng loài là số lượng và sự đa dạng của các loài được
tìm thấy tại một khu vực nhất định tại một vùng nào đó.
Thế giới sự sống chủ yếu được xem xét ở khía cạnh các loài, nên thuật
ngữ "đa dạng sinh học" thường được dùng như một từ đồng nghĩa của "đa
dạng loài", đặc biệt là "sự phong phú về loài", thuật ngữ dùng để chỉ số lượng
loài trong một vùng hoặc một nơi cư trú. Loài cũng là sự chú ý đầu tiên của
cơ chế tiến hoá, nguồn gốc cũng như sự tuyệt chủng.
Robert Whittaker đã sử dụng một hệ thống 3 bậc đơn giản mô tả quy
mô đa dạng của loài, cụ thể:
+ Đa dạng alpha: Là tính đa dạng xuất hiện trong một sinh cảnh hoặc
một quần xã. Ví dụ: Sự đa dạng của các loài chim, thú, cây gỗ trong một kiểu
rừng.
+ Đa dạng beta: Là sự đa dạng tồn tại trong vùng giáp ranh giữa các
sinh cảnh hoặc quần xã. Ví dụ: Sự đa dạng của các loài thú trong 2 khu rừng
gần kề nhưng khác kiểu (sinh cảnh chuyển tiếp giữa 2 kiểu rừng).
+ Đa dạng gamma: Là sự đa dạng trong một quy mô địa lý. Ví dụ: Sự
đa dạng của các loài cây gỗ, các loài thú, chim trong những sinh cảnh khác
nhau, cách xa nhau một vùng địa lý.
- Quy luật phân bố của tính đa dạng loài:

Mức độ đa dạng về loài của sinh vật phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố
môi trường. Nhìn chung sự đa dạng của loài tuân theo những quy luật sau:
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
6
Hình 1.3. Đồ thị phân bố đa dạng loài sinh vật ở cạn trên thế giới
+ Đa dạng loài tỷ lệ nghịch với độ cao.

+ Đa dạng loài tỷ lệ nghịch với vĩ độ.

+ Đa dạng loài cao nhất ở những khu vực có điều kiện khí hậu thuận lợi
và các mắt xích trong chuỗi thức ăn có quan hệ chặt chẽ.
Đa dạng loài sinh vật ở cạn tập trung tại khu vực Trung – Nam Mỹ,
Nam - Đông Nam Á và Trung – Nam Phi. Khu vực Bắc cực và Nam cực có
sự đa dạng thấp nhất. Các khu vực núi cao như đỉnh Himalaya, khu vực đỉnh
An-pơ, khu vực sa mạc Sahara, Hoang mạc Goobi, …là những nơi có điều
kiện khí hậu khắc nghiệt và chuỗi thức ăn có quan hệ không chặt chẽ nên tính
ĐDSH thấp hơn các khu vực nhiệt đới nóng ẩm, nơi có chuổi thức ăn rất đa
dạng. Một điểm cần lưu ý nữa là các khu vực cách biệt thường có tính đa
dạng cao về loài sinh vật đặc hữu. Ví dụ như: Châu Úc, Madagasca,…
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
7
Bảng 1.2. Đa dạng loài thú ở một số nước thuộc các vùng địa lý khác nhau
Nước nhiệt đới D.tích Km
2
Số loài Nước ôn đới D.tích Km
2
Số loài
Mexico

1.985.200
439
Argentina
2.800.000
255
Kenya 582.600 308 Australia 7.700.000 299
Zaire 2.345.000 409 Canada 10.000.000 163
Nigeria 923.800 274 Pháp 551.600 113
Thái Lan 514.000 263 Nhật Bản 372.200 186
Malaysia
333.000
292
Anh
244.100
77
Việt Nam
330.541
224
Mỹ
9.373.000
367
Trung bình 3,16 loài/km
2
Trung bình 0,47 loài/km
2

Bảng 1.3. Đa dạng loài thực vật ở một số vùng địa lý khác nhau
STT Vùng Số loài thực vật Số loài T.V đặc hữu
1 Madagasca 6.000 4.900
2 Rừng Đại Tây Dương, Braxin 10.000 5.000

3 Tây Ecuado 10.000 2.500
4
Colombia
10.000
2.500
5
Amazon (vung đất cao)
20.000
5.000
6
Đông Himalaya
9.000
3.500
7 Malaysia 8.500 2.400
8 Bắc Borneo 8.500 3.700
9 Philipin 8.500 3.700
10 New Cledonia 1.580 1.400
(Theo N.Myers,“Threatened Biotas”)
1.3. Đa dạng hệ sinh thái:
1.3.1. Hệ sinh thái (HST):
- Khái niệm: HST là hệ thống hoạt động chức năng của các sinh vật với
môi trường vô sinh. HST là một khái niệm mở vì vậy có thể áp dụng cho tất
cả các trường hợp có mối quan hệ tương hỗ giữa sinh vật và môi trường, có sự
trao đổi vật chất, năng lượng và thông tin giữa chúng với nhau ngay cả trong
một thời gian ngắn.
HST có thể rất lớn như một Đại dương, cũng có thể rất bé như một bể
cá cảnh. Tuy nhiên các HST nhỏ đều nằm trong một HST lớn hơn.
HST bao giờ cũng có xu hướng tự điều chỉnh để đi đến sự cân bằng,
làm cho các thành phần của HST nằm trong sự tương tác hài hoà và ổn định.
1.3.2. Đa dạng HST:

Đa dạng HST là phạm trù chỉ sự phong phú của môi trường trên cạn và
dưới nước trên quả đất tạo nên một số lượng lớn các HST khác nhau. Sự đa
dạng các HST được phản ánh bởi sự đa dạng về sinh cảnh qua mối quan hệ
giữa các quần xã sinh vật và các quá trình sinh thái trong sinh quyển (chu
trình vật chất, các quan hệ về cách sống, ).
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
8
Đánh giá định lượng về tính đa dạng ở mức quần xã, nơi cư trú hoặc
HST còn nhiều khó khăn. Trong khi có thể định nghĩa về nguyên tắc thế nào
là đa dạng di truyền và đa dạng loài, từ đó xây dựng các phương pháp đánh
giá khác nhau, thì không có một định nghĩa và phân loại thống nhất nào về đa
dạng HST ở mức toàn cầu, và trên thực tế khó đánh giá được đa dạng HST ở
các cấp độ khác ngoài cấp khu vực và vùng, và cũng thường chỉ xem xét đối
với thảm thực vật. Một HST khác nhiều so với một loài hay một gen ở chỗ
chúng còn bao gồm cả các thành phần vô sinh, chẳng hạn đá mẹ và khí hậu .
Đa dạng HST thường được đánh giá qua tính đa dạng các loài thành
viên. Nó có thể bao gồm việc đánh giá độ phong phú tương đối của các loài
khác nhau cũng như các kiểu dạng của loài. Trong trường hợp thứ nhất, các
loài khác nhau càng phong phú, thì nói chung vùng hoặc nơi cư trú càng đa
dạng. Trong trường hợp thứ hai, người ta quan tâm tới số lượng loài trong các
lớp kích thước khác nhau, tại các dải dinh dưỡng khác nhau, hoặc trong các
nhóm phân loại khác nhau. Do đó một HST giả thiết chỉ có một vài loài thực
vật sẽ kém đa dạng hơn vùng có cùng số lượng loài nhưng bao gồm cả động
vật ăn cỏ và động vật ăn thịt. Do tầm quan trọng của các yếu tố này khác nhau
khi đánh giá tính đa dạng của các khu vực khác nhau, nên không có một chỉ
số có căn cứ chính xác cho việc đánh giá tính đa dạng. Điều này rõ ràng có ý
nghĩa quan trọng đối với việc xếp hạng các khu vực khác nhau. Có 2 nhóm
HST: Nhóm HST ở cạn và nhóm HST đất ngập nước.
2. Sự tuyệt chủng:

Sự đa dạng về loài tăng dần kể từ khi sự sống bắt đầu hình thành trên
trái đất: Sự gia tăng không được đều đặn, nhưng cũng có những giai đoạn mà
sự hình thành loài tiếp diễn ở mức rất cao; tiếp sau đó là những giai đoạn có
những sự thay đổi tối thiểu và những thời kỳ lại có hiện tượng tuyệt chủng
hàng loạt (Sepkoski and Raup, 1986; Wilson, 1989). Sự tuyệt chủng hàng loạt
lớn nhất xảy ra vào cuối kỷ Permi – 250 triệu năm trước Công nguyên, vào
thời điểm này có khoảng 77 -99% số loài động vật biển bị tuyệt chủng.
Nguyên nhân của sự tuyệt chủng: Do nhiễu động đã xảy ra như hoạt
động của núi lửa, vận động tạo sơn, băng hà đã biến đổi sâu sắc khí hậu trên
thế giới làm cho nhiều loài không còn điều kiện để tiếp tục tồn tại.
Mặt khác, sự tuyệt chủng của các loài xảy ra ngay cả khi không có
những nhiễu động lớn. Thuyết tiến hoá đã chứng minh rằng do cạnh tranh nên
loài chiến thắng đã đẩy loài chiến bại đến sự tuyệt chủng bằng việc trấn áp,
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
9
xua đuổi và ăn thịt. Loài chiến thắng có thể tiến hoá trở thành loài mới tuỳ
thuộc vào những điều kiện biến đổi của môi trường hay do đột biến ngẫu
nhiên làm thay đổi bộ gen của loài.
Hiện chúng ta cũng chưa có hiểu biết đầy đủ về các yếu tố quyết định
sự phồn vinh hay suy thoái của một loài, nhưng ít nhất cũng có thể khẳng định
rằng sự tuyệt chủng là một hiện tượng nằm trong chu trình vận động tự nhiên
tương tự như là sự hình thành loài mới.
3. Giá trị của đa dạng sinh học:
3.1.Giá trị kinh tế trực tiếp
Giá trị kinh tế trực tiếp là những giá trị của các sản phẩm sinh vật được
con người trực tiếp khai thác và sử dụng. Các giá trị này thường được tính
toán dựa trên số liệu điều tra ở những điểm khai thác và đối chiếu với số liệu
thống kê việc xuất nhập khẩu của cả nước. Giá trị kinh tế trực tiếp được chia
thành giá trị sử dụng cho tiêu thụ và giá trị sử dụng cho sản xuất.

3.1.1 Giá trị sử dụng cho tiêu thụ
- Giá trị sử dụng cho tiêu thụ được đánh giá bao gồm các sản phẩm tiêu
dùng cho cuộc sống hàng ngày như: Củi đốt và các loại sản phẩm khác cho
tiêu dùng của gia đình. Các sản phẩm này không xuất hiện trên thị trường nên
hầu như chúng không đóng góp gì vào tổng thu nhập quốc dân (GDP), nhưng
nếu không có những nguồn tài nguyên này thì cuộc sống con người sẽ gặp
những kho khăn nhất định. Sự tồn tại của con người không thể tách rời các
loài sinh vật. Thế giới sinh vật mang lại cho con người nhiều sản phẩm mà
con người đã, đang và sẽ sử dụng như: thức ăn, nước uống, gỗ, củi, nguyên
liệu, dược liệu
VD: Một chén thuốc bắc chữa bệnh, các loại rau và thực phẩm được
dùng trong các bữa ăn hàng ngày.
- Một trong những nhu cầu cần thiết của con người đối với tài nguyên
sinh vật là nguồn đạm động vật. Ngoài nguồn từ vật nuôi, ở nhiều vùng miền
núi hàng năm còn thu được một lượng thịt động vật rừng không nhỏ.
- ĐDSH còn là nguồn thuốc chữa bệnh. Khoảng 80% dân số thế giới
chủ yếu dựa vào thuốc có nguồn gốc động thực vật (Tamsworth, 1988). Trên
500 loài thực vật được dùng làm thuốc ở Trung Quốc, khoảng 2000 loài cây
dược liệu được sử dụng ở vùng rừng Amazôn (WRI/IUCN/UNEP, 1992).
Điều tra sơ bộ ở Việt Nam có khoảng 500 loài cây và 64 loài động vật đã
được con người sử dụng trong chữa bệnh. Theo Đào Văn Tiến (1976) trong
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
10
những năm của thập kỷ 60, hàng năm các địa phương Miền Bắc đã thu mua
được khoảng 400.000 tấn xương thú rừng để nấu cao.
VD: Thuốc chữa bệnh ung thư từ cây Thông đỏ, từ San hô đỏ; thuốc
phòng bệnh sốt rét từ cây Thanh hao hoa vàng.
Ngoài ra, con người còn sử dụng hàng ngàn loài cây làm thức ăn, thức
ăn gia súc, lấy gỗ, chiết xuất tinh dầu và phục vụ cho nhiều mục đích khác

nữa.
Giá trị tiêu thụ của từng sản phẩm có thể xác định bằng cách khảo sát
xem phải cần bao nhiêu tiền để mua một sản phẩm tương tự trên thị trường
khi cộng đồng không còn khai thác tài nguyên thiên nhiên xung quanh.
3.1.2. Giá trị sử dụng cho sản xuất.
- Giá trị sử dụng cho sản xuất là giá trị thu được thông qua việc bán các
sản phẩm thu hái, khai thác được từ thiên nhiên trên thị trường như củi, gỗ,
song mây, cây dược liệu, hoa quả, thịt và da động vật hoang dã
- Giá trị sản xuất của các nguồn tài nguyên thiên nhiên là rất lớn ngay
cả ở những nước công nghiệp. Tại Mỹ hàng năm có khoảng 4,5% giá trị GDP
tương đương 87 tỷ đô la thu được bằng cách này hay cách khác từ các loài
hoang dã (Perscott 1986). Ở các nước đang phát triển do hoạt động công
nghiệp còn ít, đặc biệt là vùng nông thôn miền núi thì giá trị này còn cao hơn
nhiều.
Lấy số liệu thực của năm 2004, riêng hàng xuất khẩu của ngành thuỷ
sản Việt Nam đã có giá trị 2 tỷ USD. Ngành Nông – Lâm nghiệp hiện đang
quản lý nguồn tài nguyên rừng có giá trị vô cùng to lớn. Với giá khoảng
250USD/m
3
gỗ, thì hàng năm chỉ tính riêng mặt hàng gỗ làm nguyên liệu
giấy, ĐDSH đã có giá trị khoảng 1,5 tỷ – 3,5 tỷ USD. Đó là chưa kể hàng
năm rừng đã cung cấp các mặt hàng lâm sản ngoại gỗ đã có giá trị khoảng 1,5
tỷ USD cho xuất khẩu và cũng khoảng đó cho tiêu dùng trong nước (nguồn:
Báo cáo hiện trạng môi trường Quốc gia – chuyên đề ĐDSH)
- Giá trị sản xuất lớn nhất của nhiều loài là khả năng cung cấp nguồn
nguyên vật liệu cho công nghiệp, nông nghiệp và là cơ sở để cải tiến giống
vật nuôi, cây trồng trong sản xuất nông lâm nghiệp. Đặc biệt quan trọng là
nguồn gen lấy từ các loài hoang dã có khả năng kháng bệnh cao và chống
chịu được điều kiện ngoại cảnh bất lợi tốt hơn.
- Các loài hoang dã còn cung cấp nguồn dược liệu quan trọng. Ở Mỹ có

tới 25% các đơn thuốc sử dụng các chế phẩm điều chế từ cây, cỏ, nấm và các
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
11
loài vi sinh vật (Fam Sworth 1988, Eisner 1991) Ở Việt Nam qua điều tra sơ
bộ có khoảng 3.200 loài cây và 64 loài động vật đã được con người sử dụng
làm dược liệu, chữa bệnh (Võ Văn Chi, 1997).
3.2. Giá trị kinh tế gián tiếp
Giá trị kinh tế gián tiếp là lợi ích do ĐDSH mang lại cho cả cộng đồng.
Như vậy giá trị kinh tế gián tiếp của ĐDSH bao gồm cả chất lượng nước, bảo
vệ đất, dịch vụ nghỉ mát, thẩm mỹ, phục vụ giáo dục, nghiên cứu khoa học,
điều hoà khí hậu và tích lũy cho xã hội tương lai.
Giá trị gián tiếp được hiểu theo một khía cạnh khác bao gồm các quá
trình xảy ra trong môi trường và các chức năng bảo vệ của HST. Đó là những
mối lợi không đo đếm được và nhiều khi là vô giá. Vì những lợi ích này
không phải là hàng hoá nên thường không được tính đến trong quá trình tính
GDP của quốc gia. Tuy nhiên chúng lại đóng vai trò rất quan trọng trong việc
duy trì những sản phẩm tự nhiên mà nền kinh tế quốc gia phụ thuộc.
Giá trị kinh tế gián tiếp có thể kể đến gồm:
3.2.1. Giá trị sinh thái:
- Các HST là cơ sở sinh tồn của sự sống trên trái đất, trong đó có loài
người.
+ HST rừng nhiệt đới được xem như là “lá phổi xanh” của thế giới.
+ ĐDSH là nhân tố quan trọng để duy trì các quá trình sinh thái cơ bản
như: Quang hợp của thực vật, mối quan hệ giữa các loài, điều hòa nguồn
nước, điều hòa khí hậu, bảo vệ và làm tăng độ phì đất, hạn chế sự xói mòn
của đất và bờ biển. Rừng trên các sườn dốc điều tiết dòng chảy, rừng ngập
măn và các rạn san hô là những băng cản hữu hiệu trước những trận cuồng
phong của thuỷ triều.
+ Sau cùng, ĐDSH là một nhân tố quan trọng để tạo ra và giữ vững cân

bằng sinh thái tự nhiên, tạo môi trường sống ổn định và bền vững cho con
người.
+ Con người không thể sống được nếu thiếu không khí, chính hệ thực
vật đã và đang cung cấp miễn phí lượng oxy khổng lồ cho cuộc sống của hàng
tỷ người trên trái đất trong suốt cuộc đời của mình.
Theo tính toán của Jim Enright và Yodfon Association (2000): Rừng
ngập mặn có khả năng tính luỹ CO
2
ở mức cao. Rừng ngập mặn 15 tuổi giảm
được 90,24 tấn CO
2
/ha/năm – tác động lớn làm giảm hiệu ứng nhà kính.
- ĐDSH còn góp phần tạo ra các dịch vụ nghỉ ngơi và du lịch sinh thái
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
12
+ Du lịch sinh thái có thể là một trong những biện pháp hiệu quả đối
với việc bảo vệ ĐDSH, nhất là khi chúng được tổ chức, phối hợp chặt chẽ với
chương trình quản lý và bảo tồn tổng hợp (Munn, 1992).
Tuy vậy, cần chú ý đến việc tổ chức cho du khách quan sát những vấn
đề cần thiết liên quan đến bảo vệ môi trường, tài nguyên; tránh những hành
động tiêu cực hay việc xây dựng những cơ sở hạ tầng quá khang trang, hiện
đại có thể sẽ trở thành mối đe dọa đối với ĐDSH .
3.2.2. Giá trị giáo dục và khoa học
- Nhiều sách giáo khoa đuợc biên soạn, nhiều chương trình vô tuyến và
phim ảnh được xây dựng về chủ đề bảo tồn thiên nhiên với mục đích giáo dục
và giải trí. Thêm vào đó những tài liệu về lịch sử tự nhiên cũng được đưa vào
giáo trình giảng dạy trong các trường học (Hair và Pomerantz, 1987).
- Một số lượng lớn các nhà khoa học chuyên ngành và những người
yêu thích sinh thái học đã tìm hiểu HST mà không phải tiêu tốn nhiều tiền và

không đòi hỏi nhiều loại dịch vụ cao cấp. Những hoạt động khoa học này
mang lại lợi nhuận kinh tế cho những khu vực nơi họ tiến hành quan sát
nghiên cứu. Giá trị thực sự còn là khả năng nâng cao kiến thức, tăng cường
tính giáo dục và tăng vốn sống cho con người.
- Ngược lại, thông qua các hoạt động nghiên cứu khoa học và giáo dục
con người hiểu rõ hơn về giá trị của ĐDSH. Sự đa dạng của các loài trên thế
giới có thể được coi như là cẩm nang để giữ cho quả đất của chúng ta vận
hành một cách hữu hiệu. Sự mất mát của các loài có thể ví như sự mất đi
những trang sách của cuốn cẩm nang cần thiết. Nếu như một lúc nào đó,
chúng ta cần đến những thông tin của cuốn cẩm nang này để bảo vệ chúng ta
và những loài khác trên thế giới thì chúng ta không tìm đâu ra được nữa.
Ngoài ra, nó còn có giá trị trong quan trắc môi trường: Những loài đặc
biệt nhạy cảm với những chất độc có thể trở thành hệ thống chỉ thị báo động
rất sớm cho những quan trắc hiện trạng môi trường. Một số loài có thể được
dùng như những công cụ thay thế máy móc quan trắc đắt tiền.
Một trong những loài có tính chất chỉ thị cao là địa y sống trên đã hấp
thụ những hoá chất trong nước mưa và những chất gây ô nhiễm trong không
khí. Thành phần của quần xã địa y có thể dùng như chỉ thị sinh học về mức độ
ô nhiễm không khí. Các loài động vật thân mềm như trai, sò sống ở các HST
thuỷ sinh có thể là những sinh vật chỉ thị hữu hiệu cho quan trắc môi trường
nước.
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
13
3.2.3. Giá trị văn hóa và dân tộc học
- Ngoài những giá trị nêu trên, ĐDSH còn có nhiều giá trị về văn hóa
và dân tộc học mà nó dựa trên các nền tảng về đạo đức cũng như kinh tế. Hệ
thống giá trị của hầu hết các tôn giáo, triết học và văn hóa cung cấp những
nguyên tắc và đạo lý cho việc bảo tồn loài. Những nguyên tắc, triết lý này
được con người hiểu và quán triệt một cách dễ dàng, giúp cho loài.

- Một trong những quan niệm đạo đức lớn là mỗi loài sinh vật sinh ra
đều có quyền để tồn tại. Con người hoàn toàn không có quyền tiêu diệt các
loài mà ngược lại phải nỗ lực hành động nhằm hạn chế sự tuyệt chủng của
loài.
- Loài có quan hệ phức tạp với quần xã sinh vật. Sự biến mất của một
loài có thể mang lại những hậu quả nghiêm trọng cho một số loài khác như
suy giảm số lượng hoặc cũng có thể bị tiêu diệt theo. ĐDSH giúp con người
sống và hiểu nhau hơn. Các cảnh quan thiên nhiên không ngừng cung cấp và
làm giàu tri thức cho các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, các nhà tư tưởng và nhà
tôn giáo học.
- Sự tôn trọng cuộc sống con người và đa dạng văn hóa phải được đặt
ngang hàng với sự tôn trọng ĐDSH. Con người phải chịu trách nhiệm quản lý
trái đất, nếu như chúng ta làm tổn hại nguồn tài nguyên thiên nhiên trên trái
đất và làm cho nhiều loài bị đe dọa tuyệt chủng, thì những thế hệ tiếp sau sẽ
phải trả giá trong cuộc sống bởi sự mất mát này.
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
14
CHƯƠNG II
ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT NAM
1. Một số yếu tố tạo nên tính ĐDSH ở Việt Nam
1.1.Vị trí địa lý
Vùng nhiệt đới, đặc biệt là rừng nhiệt đới và biển nhiệt đới là nơi có
tính đa dạng sinh học cao (McNeely- 1990). Trong khi đó Việt Nam lại thuộc
vùng nhiệt đới với ¾ diện tích lục địa (diện tích lục địa là 330.541km
2
) là đồi
núi với nhiều hệ sinh thái rừng khác nhau và vùng biển gấp nhiều lần lục địa.
Việt Nam thuộc mỏm chóp Đông Nam của lục địa Âu Á. Kết quả
nghiên cứu về khoa học cơ bản trên lãnh thổ Việt Nam, nhiều nhà khoa học

trong và ngoài nước đều nhận định rằng Việt Nam là một trong 10 quốc gia ở
Châu Á có nguồn tài nguyên thiên nhiên (Natural Resources) rất phong phú,
đa dạng. Bên cạnh các loài đặc hữu (Endemic) mang tính bản địa còn có
nhiều loài thuộc các trung tâm lân cận di cư sang. Các HST ở Việt Nam được
tiếp nhận 3 luồng di cư chính:
+ Luồng từ Nam Trung Quốc
+ Luồng từ dãy núi Hymalaya - Mianma.
+ Luồng từ Indonesia - Malaysia.
1.2. Địa hình đa dạng, hệ thống sông ngòi dày đặc
Địa hình Việt Nam khá đa dạng với những đồng bằng châu thổ rộng
lớn (đồng bằng sông Mê Công, đồng bằng sông Hồng), nhiều núi cao (dãy
Hoàng Liên Sơn, Tam đảo, Ngọc Linh) và nhiều cao nguyên (cao nguyên
Đồng Văn, Sơn La, Mộc Châu, Plâycu, Đắc Lắc, Di Linh )
Hệ thống sông ngòi Việt Nam dày đặc, chỉ tính những con sông dài trên
10km đã có trên 2.500 sông. Hai con sông lớn là sông Hồng và sông Cửu
Long. Hầu hết các sông đổ ra biển, một vài con sông ở phía bắc đổ về phía
Trung Quốc (sông Nà Rì, Kỳ Cùng) và một số sông ở cao nguyên miền Trung
đổ ra phía tây vào lưu vực sông Mê Kông. Phần lớn các con sông đều dốc
mạnh, chảy xiết, nhiều ghềnh thác.
1.3. Vĩ độ và đai cao
Việt Nam là một trong những quốc gia nằm ở phần đông bán đảo Đông
Dương, thuộc trung tâm của khu vực Đông Nam Á với tổng diện tích phần đất
liền là 330.541km
2
, kéo dài 16 vĩ tuyến (từ 8
0
30' – 23
0
22' độ vĩ Bắc) và trải
rộng trên 7 kinh tuyến (từ 102

0
10' – 109
0
21' độ kinh Đông); Bắc giáp Trung
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
15
Hoa; Tây giáp Lào và Campuchia; Đông và Đông Nam là biển Đông. Bờ biển
Việt Nam dài 3.260km.
Mặc dù nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, song vì vị trí địa lý kéo dài
16 vĩ tuyến từ Bắc xuống Nam, lại ảnh hưởng của độ cao, địa hình nên khí
hậu không đồng nhất trong cả nước. Nhiệt độ trung bình hàng năm tăng dần
từ Bắc xuống Nam và càng lên cao thì nhiệt độ càng giảm.
1.4. Địa mạo và hệ thống hoàn lưu
Hệ thống gió mùa (hoàn lưu khí quyển) ở Việt Nam rất phong phú,
cùng với đặc điểm địa mạo đã hình thành nên chế độ thời tiết ở Việt Nam.
Thứ nhất là gió mùa Đông Bắc từ lục địa Trung Quốc đi vào Việt Nam
trong thời gian từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, có đặc điểm: khô và lạnh. Và
vùng chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ loài gió này là vùng Đông Bắc, lý do
ngoài việc gần phía Đông Nam Trung Quốc thì vùng này có hệ thống núi hình
nan quạt mở rộng ở phần phía Bắc. Đặc điểm địa mạo này đã tạo thuận lợi
cho sự xâm nhập của gió mùa Đông Bắc. Chính vì vậy, mùa lạnh ở vùng này
kéo dài, vành đai á nhiệt đới hạ xuống thấp (khoảng 600m, trong khi đó toàn
miền Bắc là 700m).
Thứ hai cũng là gió mùa Đông Bắc, nhưng thổi từ tháng 12 đến tháng 1
năm sau và ảnh hưởng trực tiếp đến vùng Bắc Trung Bộ. Đặc điểm loại gió
này là lạnh và ẩm do thổi qua Vịnh Bắc Bộ, thời tiết lạnh, kèm theo mưa phùn
sẽ biểu hiện khi loại gió này ảnh hưởng trực tiếp đến vùng Bắc Trung Bộ.
Thứ ba là gió mùa Đông Nam và Tây Nam thổi từ biển vào trong thời
gian từ tháng 4 đến tháng 10. Loại gió này mang theo nhiều hơi nước, gây

mưa cục bộ trên nhiều vùng lãnh thổ Việt Nam. Riêng vùng Bắc Trung Bộ,
do có dãy Trường Sơn ở phía Tây đón gió mà vùng này có lượng mưa cao
hơn nhiều vùng khác. Lượng mưa bình quân năm ở hầu hết nhiều vùng trong
cả nước khoảng 2.000m, một vài địa phương vùng Bắc Trung Bộ nhận được
lượng mưa cao hơn, khoảng 3.000mm.
Thứ tư là gió Tây khô nóng thổi từ Vịnh Ban Can qua lục địa đến Việt
Nam từ tháng 5 đến tháng 7 hàng năm. Đến Việt Nam đặc biệt vùng Bắc
Trung Bộ, do dãy Trường Sơn ngăn lại hơi nước mà thời tiết biểu hiện rõ ở
vùng trong giai đoạn này là khô nóng.
Các loài sinh vật luôn tồn tại và thích nghi với môi trường sống. Chế độ
thời tiết của Việt Nam phong phú là cơ sở tạo nên tính đa dạng sinh học của
Việt Nam, đặc biệt đa dạng về các vùng địa lý sinh học.
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
16
2. Đa dạng về thành phần loài thực vật và động vật:
2.1. Đa dạng loài thực vật:
Mặc dù có những tổn thất quan trọng về diện tích rừng trong một thời
gian do chiến tranh kéo dài nhưng hệ thực vật Việt nam vẫn còn phong phú về
thành phần loài.
Bảng 2.1. Thành phần loài trong các ngành thực vật ở Việt Nam

TT
Ng
à
nh
Ngành thực vật bậc cao
Tên Việt Nam Tên Khoa học Họ Chi Loài
1 Rêu Bryophyta


60 182 793
2 Khuyết lá thông Psilotophyta

1 1 2
3
Thông đất
Lycopodiophyta
3
5
57
4
Cỏ tháp bút
Equisetophyta
1
1
2
5 Dương xỉ

Polypodiophyta

25 137 669
6 Hạt trần

Gymnospermae

8 23 63
7 Hạt kín

Angiospermae


299 2175 299
Tổng 378 2524 11.373
Tỉ lệ % đặc hữu 0% 3% 20%
(Nguồn: Nguyễn Nghĩa thìn, 1997)

Mức độ đa dạng loài của hệ thực vật Việt Nam còn thể hiện trong các
họ giàu loài nhất (trên 100 loài).
Bảng 2.2. Các họ giàu loài nhất của hệ thực vật Việt Nam
STT
Họ thực vật
Số loài
Tên Việt Nam
Tên Khoa học
1 Lan Orchidaceae 800
2
Đậu
Fabaceae
557
3 Họ phụ Lúa Gramineae 467
4
Thầu dầu
Euphorbiaceae
425
5 Hoà thảo Poaceae 400
6 Cà phê Rubiaceae 400
7
Cói
Cyperaceae
304
8 Cúc Asteraceae 291

9
Long não
Lauraceae
246
10 Dẻ Fagaceae 211
11
Ô rô
Acanthaceae
177
12 Na Annonaceae 173
13 Trúc đào Apocynaceae 171
14
Hoa môi
Lamiaceae
144
15 Dâu tằm Moraeae 140
16
Mõm sói
Scrophulariaceae
131
17 Tếch Verbenaceae 120
18
Dương xỉ
Polypodiaceae
113
19 Đinh Lăng Araliaceae 110
20 Sim Myrtaceae 107
21
Cam
Rutaceae

100
22 Hoa hồng Rosaceae 100
Nguồn: Nguyễn Nghĩa Thìn, 1999
.
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
17
- Nhiều họ có ít loài, nhưng giàu về số lượng cá thể biểu thị mức độ tập
trung của mỗi loài. Đó là những họ giữ vai trò quan trọng trong thành phần
loài cây của các thảm thực vật như họ Dầu (Dipterocarpaceae), họ Xoan
(Meliaceae), họ Bồ hòn (Sapindaceae)
- Tính ĐDSH của thực vật nhiệt đới Việt Nam còn thể hiện ở sự phong
phú về các loài dây leo và thực vật nửa phụ sinh (khoảng 750 loài), thực vật
phụ sinh (khoảng 600 loài), thực vật ký sinh (khoảng 50 loài).
- Hơn nữa, hệ thực vật Việt Nam có mức độ đặc hữu cao. Tuy hệ thực
vật Việt Nam không có các họ đặc hữu nhưng có khoảng 3% số chi và 27,7%
số loài đặc hữu. Các loài và chi đặc hữu phân bố chủ yếu ở các vùng có HST
độc đáo như: khu vực núi cao Hoàng Liên Sơn, Phan Xi Păng ở miền Bắc,
Khu vực núi cao Ngọc Linh (Kon Tum) ở miền Trung, Cao nguyên - vùng
Chư Yang Sin và dãy Bi Doup (Lâm Đồng) ở phía nam và khu vực rừng ẩm
núi thấp ở phần Bắc Trung bộ (Đặng Huy Huỳnh, 1998).
- Thực vật rừng nước ta còn nhiều loài có giá trị cao như Gõ đỏ (Afzelia
xylocarpa), Gụ mật (Sindora cochinchinensis), Hoàng đàn (Cupressus
turulosa), Pơ mu (Fokienia hodginsii), Hoàng liên chân gà (Coptis chinensis),
Ba kích (Morinda officinalis).
2.2. Đa dạng loài động vật:
Hiện chưa có tài liệu nào thống kê cụ thể loài động vật tại Việt Nam,
song dựa vào thông báo của Cục Bảo vệ Môi Trường Việt Nam về thành phần
loài trong các nhóm động vật, chúng ta có thể thống kê như sau:
Bảng 2.3. Thống kê các nhóm phân loại của hệ động vật Việt nam


Nhóm phân loại Số loài ở Việt Nam Họ % loài so với TG
Thú
1
276 39 6,8
Chim
2
800 81 8,8
Bò sát
3
180 21 2,9
Ếch nhái
3
80 8 2,0

4

2.470

3,0
Côn trùng
5

1.340
121
3,2
Nguồn:(1).Đặng Huy Huỳnh và nnk, 1994; (2)Võ Quý- Nguyễn Cử, 1995;(3).Nguyễn Văn
Sáng, Hồ Thu Cúc, 1995;(4). Mai Đình Yên , 1995;(5.)Mai Quý và nnk
.
Những số liệu cho đến gần đây vẫn chưa thể hiện hết sự đa dạng của

động vật tại Việt Nam bởi vào năm 1937 chúng ta đã phát hiện ra loài bò xám
(Bos sauveli), trong thời gian từ 1992 – 1997, chúng ta đã phát hiện thêm 3
loài mới nữa là Sao la (Pseudoryx nghetinhensis) và Mang lớn
(Megamunticus vuquangensis) tại Nghệ An và Hà Tĩnh, Mang Trường sơn
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
18
(Canimuntiacus truongsonensis), Bò sừng xoắn (Pseunovibos spiralis) và Cầy
Tây nguyên cùng một số loài các chưa định danh tại khu vực sông Lam chưa
kể hàng trăm loài động vật không xương sống mới cũng đã tìm được trong
thời gian trên.
Các trung tâm phân bố động vật bản địa của Việt Nam tập trung ở khu
vực Hoàng Liên Sơn, khu vực Bắc Trung Bộ, Khu vực Tây Nguyên.
3. Đa dạng hệ sinh thái:
Với đặc điểm địa lý, tính đa dạng về địa hình, khí hậu phân hóa phức
tạp đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các HST khác nhau ở Việt
Nam
3.1. Các HST rừng trên cạn: Theo Thái Văn Trừng (1978) thì các HST rừng
Việt Nam có thể được chia thành 14 kiểu:
1. Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới;
2. Kiểu rừng rụng lá ẩm nhiệt đới;
3. Kiểu rừng kín rụng lá hơi ẩm nhiệt đới;
4. Kiểu rừng kín lá cứng hơi khô nhiệt đới;
5. Kiểu rừng thưa cây lá rộng hơi khô nhiệt đới;
6. Kiểu rừng thưa cây lá kim hơi khô nhiệt đới;
7. Kiểu trảng cây to, cây bụi, cây cỏ cao khô nhiệt đới;
8. Kiểu truông bụi gai hạn nhiệt đới;
9. Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp;
10. Kiểu rừng kín cây lá kim ẩm ôn đới ẩm núi vừa;
11. Kiểu rừng thưa cây lá kim hơi khô á nhiệt đới núi thấp;

12. Kiểu quần hệ khô lạnh vùng cao;
13. Kiểu quần hệ lạnh vùng cao;
14. Kiểu rừng kín hỗn hợp cây lá rộng,lá kim ẩm á nhiệt đới núi thấp.
Lê Mộng Chân và Vũ Văn Dũng (1992) đã giới thiệu 9 kiểu rừng trên
cạn chính ở Việt Nam như sau:
1. Kiểu rừng kín lá rộng thường xanh nhiệt đới: Kiểu này có diện tích
lớn, phân bố rộng trên cả nước ở độ cao dưới 700m (Miền Bắc) và dưới
1.000m (Miền Nam). Thực vật chủ yếu là cây nhiệt đới, tính đa dạng loài cao,
rừng có 3 – 5 tầng, hệ động vật rất phong phú.
2. Kiểu rừng lá rộng nửa rụng lá nhiệt đới: Phân bố cả nước ở độ cao
dưới 700m (Miền Bắc) và dưới 1.000m (Miền Nam). Cấu trúc phức tạp, có
nhiều cây cao, có từ 25% - 75% cây rụng lá trong tổ thành loài thực vật rừng.
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
19
3. Kiểu rừng kín lá rộng rụng lá nhiệt đới: Hình thành ở vùng có lượng
mưa thấp, từ 1.200 – 2.500mm, mùa khô kéo dài. Kiểu này gặp ở Hà Bắc,
Sơn La, Nghệ - Tĩnh, Đắc Lăk, Đồng Nai. Tổ thành rừng gồm 2 tầng và có
trên 75% cây rụng lá.
4. Kiểu rừng thưa cây lá rộng nhiệt đới (rừng khộp): Phân bố tập trung
ở Tây nguyên và một số tỉnh miền Đông Nam bộ, nơi có khí hậu khô nóng,
mùa khô kéo dài, cấu trúc tổ thành rừng đơn giản, cây cao to với mật độ thưa.
Động vật đặc trưng bởi nhiều loài thú móng guốc.
5. Kiểu rừng kín thường xanh ẩm Á nhiệt đới: Phân bố ở độ cao tren
700 m (Miền Bắc) và trên 1.000m (Miền Nam), nơi có lượng mưa 1.200mm –
2.500mm, nhiệt độ trung bình năm 15 – 20oC. Kiểu rừng này gặp ở Lai Châu,
Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Kom Tum,… Rừng thường có 2 tầng, cây
rừng ưu thế thuộc khu hệ thực vật bản địa Việt Nam , trong HST thường tập
trung nhiều loài động vật , thực vật đặc hữu.
6. Kiểu rừng ngập mặn hình thành trên đất mới bồi tụ vùng ven biển,

cửa sông: Phân bố tập trung ở Nam Bộ và một ít ở Bắc Bộ. Rừng một tầng, tổ
thành đơn giản với các loài cây như: Đước, Bần, Mắm, Sú, Vẹt,… Thành
phần động vật đơn giản nhưng rất phong phú về chim và các loài cá.
7. Kiểu rừng trên hệ núi đá vôi: Rừng đá vôi bao gồm các kiểu rừng
phụ, thuộc kiểu rừng kín thường xanh và nửa rụng lá phân bố ở các vành đai
nhiệt đới và á nhiệt đới trên đất đa vôi ở các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung bộ.
Rừng đá vôi rộng nhất là khu Phong Nha – Kẻ Bàng. Rừng có 2 tầng, cây ưu
thế thường là Nghiến, Trai lý, Mạy tèo, Ô rô,… Động vật ở đây thường có
tính chuyên hoá cao với môi trường núi đá vôi như Soln dương, Hươu xạ, các
loài linh trưởng,…. Hầu hết còn lại những khu đá tai mèo không thích hợp
cho canh tác nông nghiệp ở nhiều nơi rừng đã bị xuống cấp do cháy rừng,
khai thác gỗ và khai khoáng.
8. Kiểu rừng lá kim: Phân bố ở Tây nguyên, các tỉnh Lào Cai, Lai
Châu,… những nơi có khí hậu khô lạnh, lượng mưa 600 – 1.200 mm, đất xấu.
Rừng có 2- 3 tầng, ưu hợp chủ yếu là thông nhựa, thông ba lá, thông dầu. Hệ
sinh thái này có tương đối nhiều loài thực vật có giá trị sử dụng và thương
mại cao như Pơ mu, Hoàng Đàn, …
9. Kiểu rừng tre nứa: Kiểu rừng này được hình thành trên đất rừng tự
nhiên sau khai thác rừng hoặc sau phát nương làm rẫy và phân bố trên toàn
quốc. Rừng Tre nứa tự nhiên có nhiều ở Thanh Hoá, Hoà Bình. Giới động vật
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
20
ở đây chủ yếu là các loài chuột, dúi, chồn, cầy, cáo, … có rất ít loài động vật
lớn.
Ngoài ra, do có nhiều chương trình trồng rừng như Dự án PAM, dự án
327, Dự án 661, Dự án trồng rừng Việt - Đức,… với các mục đích khác nhau
mà hiện nay diện tích rừng trồng ở Việt Nam cũng đã có nhiều đóng góp cho
sự đa dạng HST rừng tại Việt Nam với những HST có cấu trúc rừng đơn giản
nhưng đang có chiều hướng đa dạng hơn theo sự thay đổi về nhận thức của

các nhà quản lý và kinh doanh rừng.
Bên cạnh đó, sự đa dạng về điều kiện môi trường, loài cây trồng, vật
nuôi và tập quán canh tác mà ở Việt Nam còn có rất nhiều HST nông nghiệp,
điển hình như: HST chuyên canh lúa nước; HST nông lâm kết hợp gồm rừng
phòng hộ, cây nông nghiệp và trâu bò; HST cây công nghiệp và cây tạo tán;
HST chuyên canh cây công nghiệp kết hợp chăn nuôi (cây mía, cây sắn, cao
su, cà phê, ); HST chuyên canh cây ăn qủa và nuôi ong; HST hoa cây cảnh,
HST chuyên canh rau, Đây là những HST nhân tạo, có thành phần loài đơn
giản, tính bền vững thấp, các loài động vật và thực vật ở đây thường kém về
giá trị khoa học, giá trị bảo tồn nhưng đặc biệt cao về giá trị kinh tế đã và
đang có nhiều đóng góp cho việc cải thiện đời sống của cộng đồng người dân
trong khu vực, đóng góp cho nền kinh tế quốc dân, cung cấp nguyên liệu cho
các nhà máy chế biến giấy, đường, bột mì, thức ăn gia súc và xuất khẩu.
3.2. Các HST đất ngập nước:
Công ước Ramsar định nghĩa: “ Đất ngập nước là những vùng đầm lầy,
than bùn hoặc vùng nước bất kể là tự nhiên hay nhân tạo, thường xuyên hay
tạm thời, có nước chảy hay nước tụ, là nước ngọt, nước lợ hay nước biển kể
cả những vùng nước biển có độ sâu không quá 6 mét khi triều thấp”
Đất ngập nước (ĐNN) Việt Nam rất đa dạng về loại hình và HST,
thuộc 2 nhóm ĐNN: ĐNN nội địa, ĐNN ven biển. Trong đó có một số kiểu
có tính ĐDSH cao.
1. Kiểu rừng tràm: Phát triển trên đất than bùn ở đồng bằng sông Mê
Kông (ở U Minh, Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên). Có thể trước đây
đã được thấy ở đồng bằng sông Hồng trên đất chua phèn ngập úng thường
xuyên hoặc định kỳ. Những khu rừng này đã tự thay thế bằng rừng thứ sinh
và những khu rừng trên đầm lầy than bùn đã trở nên phong phú hơn do những
chồi non mới mọc lên trên gốc cây của những khu rừng già cỗi .
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
21

2. Rạn san hô: Ở Việt Nam, rạn san hô phân bố rải rác suốt cả khu vực
ven biển, với sự gia tăng đa dạng loài về cơ cấu và loại hình từ Bắc xuống
Nam. Kết cấu của các rạn san hô cũng rất đa dạng bao gồm các rạn san hô
dạng bờ, bãi phẳng và các đường cản (Stoddard, 1978).
Các rạn san hô dạng bờ rất phổ biến và đặc trưng bởi chiều rộng nhỏ,
san hô rất đa dạng, thảm san hô tương đối thấp, phát triển những đỉnh cao
4,8m và sâu tối đa khoảng 15m (Võ Sĩ Tuấn, 1993 a; Võ Sĩ Tuấn và Đào Tan
Ho, 1991). Các rạn san hô dạng đường chắn phân bố ở bờ biển Phú Yên và
Khánh Hoà có độ che phủ lớn và tính đa dạng cao.
Các rạn san hô dạng bãi phẳng thì hạn chế ở những bờ nửa chìm nửa
nổi tại Vịnh Nha Trang và gần bán đảo Cam Ranh (Võ Sĩ Tuấn, 1993). Quần
đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hoà cách bờ biển chính Đông Nam 400km
và trải dài 5 vĩ độ. Hai dạng san hô tại quần đảo Trường Sa là đảo san hô
vòng và bãi rộng, có độ sâu tối đa 4m với các đỉnh từ 5 -10m. Các đảo san hô
vòng có đường kính tới 50m bao quanh hàng trăm mét san hô có độ che phủ
và đa dạng cao. HST của các rạn san hô rất phong phú với vô số các loài cá,
nhuyễn thể, các tảo, nấm và động vật biển.
3. HST cửa sông, đồng bằng châu thổ sông và cửa các con sông dạng
đầm phá: Có 3 dạng cửa sông rải rác khắp vùng bờ biển Việt Nam: Cửa sông,
châu thổ và cửa sông dạng đầm phá.
4. Các HST đầm phá ven biển: Các đầm phá ven biển đặc trưng chiếm
5% chiều dài đường bờ biển và chỉ xuất hiện ở vùng miền trung từ Huế đến
Phan Rang (Ninh Thuận), nơi cung cấp nhiều cá và mức triều thấp (0,5-2,5m).
Những đầm phá này, diện tích từ 280-21.600ha, được khép lại bởi những bức
chắn cát từ 2-25m chiều cao hoặc các đụn cát và thông với biển bởi các vịnh
nhỏ chiều rộng thay đổi tuỳ theo mùa.
5. Các HST bãi lầy thuỷ triều: Những bãi lầy chủ yếu phân bố dọc biển
phía bắc từ Móng Cái phía bắc Quảng Ninh tới Thanh Hoá, và ở phía nam từ
Vũng Tàu tới Kiên Giang ở miền Trung, có rất ít bãi lầy thuỷ triều. Tổng diện
tích của các bãi lầy thuỷ triều khoảng 300.000ha, 70% diện tích có rừng ngập

mặn (gần 100 loài) và cỏ biển. Hầu hết các bãi lầy thuỷ triều ở đồng bằng
châu thổ sông Hồng và sông Mê Kông trải dài ra biển từ những khu rừng
ngập mặn.

Bảng 2.4. Phân bố trên toàn quốc bãi lầy thuỷ triều và rừng ngập mặn
Khu vực Diện tích (ha)
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
22
Bãi lầy thuỷ
triều
Rừng ngập mặn tự
nhiên
Rừng ngập mặn
trồng lại
Móng Cái-Thanh Hoá 74.520 46.400 4.200
Thanh Hoá-Vũng Tàu 18.000 14.300 -
Vũng Tàu-Kiên Giang 207.480 191.800 42.450

Sự đa dạng về HST đất ngập nước còn được thể hiện ở các HST ao hồ,
sông suối nước ngọt phân bố hầu khắp các vùng trên toàn lãnh thổ nước ta.
Những HST này có thành phần loài thực vật tương đối đơn giản với các loài
thực vật phù du như: tảo, rong, rêu, lục bình, cỏ lác,… nhưng đem lại nhiều
nguồn lợi về thuỷ sản, năng lượng, đặc biệt là kiến tạo nên cảnh quan cho môi
trường sống, tạo ra nơi nghỉ dưỡng, du lịch và điều hoà khí hậu.
4. Đa dạng các vùng địa lý sinh học.
- Việc phân chia các vùng địa lý sinh học (Đơn vị địa lý sinh học -
Biounit) ở các quốc gia trên thế giới đều dựa vào các yếu tố sau:
1. Yếu tố địa hình,
2. Yếu tố khí hậu,

3. Yếu tố phân bố địa lý,
4. Tính thích nghi của đơn vị loài,
5. Sự phân bố của các thảm thực vật,
6. Sự phân bố của các nhóm hoặc lớp động vật.
7. Sự khác nhau về tổ hợp loài và các giới hạn phân bố của các loài chỉ
thị
Trong đó, yếu tố thứ bảy được coi là yếu tố cơ bản nhất đối với việc
phân chia các vùng địa lý sinh vật.
- Việt Nam cũng được coi là một trong những nước có sự đa dạng cao
về vùng địa lý sinh học. Căn cứ vào các yếu tố trên, các nhà sinh vật Việt
Nam (Thái Văn Trừng, Đào Văn Tiến, Võ Quí, Đặng Ngọc Thanh, Mai Đình
Yên, Cao Văn Sung, Đặng Huy Huỳnh, Trần Kiên, Phan Kế Lộc ) đã chia
Việt Nam thành 5 vùng địa lý sinh học như sau:
1. Vùng địa lý sinh học Đông Bắc
2. Vùng địa lý sinh học Tây Bắc
3. Vùng địa lý sinh học Bắc Trung Bộ
4. Vùng địa lý sinh học Nam Trung Bộ và Tây Nguyên
5. Vùng địa lý sinh học Đông Nam Bộ
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
23
- Khi nghiên cứu về các vùng địa lý sinh học Việt Nam năm 1995, Tiến
sĩ Jorhn Mackinnon đã chia vùng lãnh thổ đất liền của nước ta thành các đơn
vị sinh học nhỏ hơn bao gồm:
1. Vùng địa lý sinh học Đông Bắc,
2. Vùng địa lý sinh học Hoàng Liên Sơn,
3. Vùng địa lý sinh học Bắc Trung tâm Đông Dương,
4. Vùng địa lý sinh học Châu thổ Sông Hồng,
5. Vùng địa lý sinh học Nam Trung tâm Đông Dương,
6. Vùng địa lý sinh học Bắc Trung Bộ,

7. Vùng địa lý sinh học Nam Trung Bộ,
8. Vùng địa lý sinh học Tây Nguyên,
9. Vùng địa lý sinh học cao nguyên Đà Lạt,
10. Vùng địa lý sinh học Châu thổ sông Cửu Long.
- Theo Mackinnon thì các vật cản tự nhiên đã tạo nên sự hình thành các
trung tâm ĐDSH của Việt Nam và Đông Dương.
+ Thứ nhất, dãy núi chính Trường Sơn như một barie ngăn 2 vùng rừng
ẩm hơn ở Miền Đông và khô hơn ở Miền Tây, nơi thuộc vùng địa lý sinh học
lưu vực sông Mê Kông. Những núi cao ở đây chứa đựng nhiều loài và phân
loài đặc hữu và là nơi có thể được phân chia nhỏ hơn thành 2 đơn vị địa sinh
học phụ là Cao nguyên Đà Lạt và Trung tâm Tây Nguyên. Vùng đồng bằng
châu thổ sông Mê Kông vẫn còn những nét đặc thù về phương diện sinh học
trải từ những vùng đồi núi ra tận phía đông.
+ Một yếu tố tự nhiên khác được xem xét là đèo Bạch Mã-Hải Vân, đèo
này chia khu hệ nhiệt đới Nam Trung Bộ ra khỏi vùng cận nhiệt đới Bắc
Trung Bộ. Đèo Hải Vân tạo nên một đơn vị khí hậu và phản ánh qua sự phân
bố về các loài thực vật và động vật
VD: Bò xám (Bos sauveli), Bò rừng (Bos javanicus), Hươu Cà toong
(Cervus eldi), Khỉ đuôi dài (Macaca fascicularis) chỉ phân bố trong các đơn
vị địa lý sinh vật phía Nam Bạch Mã-Hải Vân hoặc các phân loài của loài
Voọc đen (Trachypithecus francoisi), Voọc mũi hếch (Rhinopithecus
avunculus), Khỉ mốc (Macaca assamensis) chỉ phân bố ở phía Bắc Bạch Mã-
Hải Vân.
+ Bắc Việt Nam có nhiều đơn vị địa sinh học khác nhau được phân
cách bởi các con sông. Sự phân bố của các dạng thú Linh trưởng đặc hữu và
NGUYỄN THU THUỲ BÀI GIẢNG ĐA DẠNG SINH HỌC
BỘ MÔN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG - ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
24
một số loài chim đã nói lên tầm quan trọng của các con sông này như ranh
giới cho các loài động vật.

+ Cuối cùng, vùng núi thuộc dãy Hoàng Liên Sơn ở Tây Bắc Việt Nam,
nó được coi là một đơn vị đặc thù nối với dãy Hengduan Trung Quốc đến
phía Đông dãy Himalaya. Những dãy núi này cao hơn dãy núi còn lại của
Việt Nam và thực sự có sự khác biệt về thực vật và động vật.
Sự phân chia này không hoàn toàn giống sự phân chia các vùng địa lý
sinh vật Việt Nam mà các nhà khoa học nước ta đã chia mặc dù việc phân
chia các vùng địa lý sinh vật đều dựa vào sự phân bố khác nhau của thảm thực
vật, các loài thực vật, động vật mang tính chỉ thị. Khó có thể nêu lý do tại sao
và cơ sở nào đúng vì các nghiên cứu và số liệu thu được về sinh vật ở nước ta
còn quá nghèo. Tuy nhiên những thực tế tự nhiên cũng có thể giúp ta dễ dàng
nhận thấy.
Ví dụ: Dãy Bạch Mã-Hải Vân là chiếc barie tự nhiên ngăn chia sự
phân bố của nhiều loài thực vật và động vật giữa hai miền Bắc và Nam, đặc
biệt là các loài thú. (Như VD trên).
Tuy nhiên, việc phân chia các vùng địa lý sinh học chỉ mang tính tương
đối bởi vì các loài sinh vật luôn có khả năng phát tán và di cư, nhất là trong
những năm gần đây, khi môi trường sống bị tác động và có sự thay đổi lớn,
tính chất chỉ thị của các loài đôi lúc đã trở nên mờ nhạt.
Với việc phân chia các vùng địa lý sinh học như đã nêu trên thể hiện rõ
tính phong phú của ĐDSH trong các HST trên cạn và các thủy vực ở Việt
Nam. Các nghiên cứu cũng đã xác định ở Việt Nam hiện có 4 trung tâm
ĐDSH chính là: Hoàng Liên Sơn, Bắc Trường Sơn, Tây Nguyên và Đông
Nam Bộ.
Chúng ta sẽ tìm hiểu tính chỉ thị của các loài sinh vật ở các vùng địa lý
sinh học khác nhau của Việt Nam.
4.1. Vùng địa lý sinh học Đông Bắc.
- Vùng Đông Bắc có địa hình chủ yếu là đồi núi thấp xen nhiều thung
lũng và đồng bằng.
+ Trong thời kỳ vận động tạo sơn sau cùng, vùng này được nâng cao
lên thêm song không có ngọn núi nào đạt 2000m (khoảng 1000-1500m) và có

cấu trúc tương đối đồng nhất.

×