Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Cải cách hành chính ở tỉnh hưng yên – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.05 KB, 70 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
NGUYỄN THỊ THANH TẶNG
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở TỈNH HƯNG YÊN
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
LUẬN VĂN CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, NĂM 2014
1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 3
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn 3
3. Giới hạn và phạm vi nghiên 3
4. Phương pháp nghiên cứu 4
5.Ý nghĩa của đề tài 4
6. Kết cấu của Luận văn 4
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về cải cách hành chính
1.1. Khái niệm hành chính nhà nước, cải cách hành chính Nhà nước
1.2. Tính tất yếu của cải cách hành chính ở nước ta
1.3. Chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về cải cách
hành chính
Chương 2: Thực trạng cải cách hành chính ở tỉnh Hưng Yên
từ năm 2008-2013.
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế, chính trị, xã
hội của tỉnh Hưng Yên
2.2. Thực trạng cải cách hành chính ở tỉnh Hưng Yên từ năm
2008-2013
2.3. Những nguyên nhân của hạn chế
2.4. Một vài kinh nghiệm rút ra từ thực tế cải cách hành chính ở


Hưng Yên từ năm 2008-2013
Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính ở
tỉnh Hưng Yên từ nay đến năm 2020
3.1. Phương hướng
3.2. Mục tiêu
3.3. Một số giải pháp chủ yếu
KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
5
5
8
11
28
28
30
48
50
52
52
52
54
63
66
MỞ ĐẦU
2
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và văn hoá, cải cách hành
chính trở thành một trào lưu, là một nhu cầu tự thân, nỗ lực của hầu hết các
quốc gia trên thế giới, nhằm xây dựng một nền hành chính nhà nước hiện đại,
năng động, hiệu quả, giảm phiền hà, một nền hành chính lấy đối tượng phục

vụ làm tôn chỉ, mục đích chủ yếu, để từ đó xây dựng, phát triển và hoàn thiện
nền hành chính.
Ở Việt Nam hiện nay, công cuộc cải cách hành chính nhà nước đang là
tâm điểm trong các nỗ lực của Đảng và Nhà nước nhằm tiến tới phát triển,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “Nhà nước của dân, do
dân, vì dân”, xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ và văn minh”
và là điều kiện căn bản để góp phần đạt được các mục tiêu của kế hoạch phát
triển kinh tế -xã hội quốc gia.
Tại Chiến lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 được
thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã xác định cải
cách hành chính nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta,
tiếp đó Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá VII) ngày 23/01/1995 đã xác định cải cách một bước nền hành chính là
nhiệm vụ trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng
hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Tiếp đó, tại Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định tiếp tục “ Xây dựng một nền
hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại
hoá” không chỉ là mục tiêu của công cuộc cải cách hành chính mà còn là chủ
trương góp phần thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội
đến năm 2010 ở Việt Nam.
3
Cụ thể hóa chủ trương trên, để thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của
Đảng, ngày 17/9/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
136/2001/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước giai đoạn 2001-2010.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, công cuộc cải cách hành
chính được triển khai rộng khắp trên phạm vi cả nước cũng như ở từng địa
phương, từng ngành, từng cấp và đã thu được nhiều kết quả quan trọng góp
phần phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự hình thành và phát triển của nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ, hoàn thiện
bộ máy Nhà nước, mở rộng hội nhập quốc tế…
Tuy nhiên, cải cách hành chính Nhà nước trong thời gian qua còn tiến
hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả chưa cao. Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI đã nhận định: Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề
ra; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Năng lực dự
báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực còn yếu… .
Từ thực tế đó, trước yêu cầu đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, mở rộng hội nhập quốc tế… Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định nhiệm vụ phải đẩy mạnh cải cách
hành chính, nhất là thủ tục hành chính, giảm mạnh và bãi bỏ các loại thủ tục
hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân và đã được cụ thể hóa tại Nghị
quyết số 30c/NQ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2011 của Chính phủ ban hành về
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020.
Trong chỉnh thể của nền hành chính quốc gia, cải cách hành chính Nhà
nước ở tỉnh Hưng Yên trong những năm qua đã được triển khai tích cực và
thu được kết quả nhất định, góp phần phát triển kinh tế, giữ vững ổn định
chính trị- xã hội, từng bước cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, công tác
cải cách hành chính Nhà nước ở tỉnh Hưng Yên hiện nay cũng đang bộc lộ
4
nhiều yếu kém, hạn chế, chưa đáp ứng kịp với đòi hỏi của xã hội trong tình
hình mới và đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Nâng cao chất lượng công tác cải
cách hành chính Nhà nước đang trở thành một yêu cầu cấp thiết trên địa bàn
tỉnh Hưng Yên trong tình hình hiện nay, đòi hỏi các ngành, các cấp trên địa
bàn tỉnh cần nỗ lực hơn nữa và tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả công
tác cải cách hành chính Nhà nước. Với mong muốn đóng góp công sức cho
việc đẩy mạnh cải cách hành chính Nhà nước ở tỉnh Hưng Yên trong thời gian
qua, với kiến thức đã được tiếp thu trong thời gian học tập tại Học viện, em
chọn đề tài “Cải cách hành chính ở tỉnh Hưng Yên – Thực trạng và giải
pháp” làm luận văn tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị của mình, nhằm

hướng tới vấn đề đang có ý nghĩa cấp thiết hiện nay ở địa phương.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn
2.1. Mục tiêu
Tìm hiểu, phân tích và đánh giá đúng thực trạng cải cách hành chính ở
tỉnh Hưng Yên, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh cải
cách hành chính trên địa bàn tỉnh trong thời gian tiếp theo.
2.2. Nhiệm vụ
- Trình bày làm rõ một số vấn đề lý luận về cải cách hành chính.
- Đánh giá thực trạng cải cách hành chính ở tỉnh Hưng Yên trong thời
gian qua.
- Đề xuất những giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính ở tỉnh Hưng
Yên trong những năm tiếp theo.
3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá tình hình theo cải cách hành
chỉnh ở tỉnh Hưng Yên trong thời gian từ 2008-2013 theo các nội dung được
xác định trong Nghị quyết của Đảng và Chương trình tổng thể Cải cách hành
chính của Chính phủ giai đoạn 2001-2010 và 2011-2020.
5
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận nghiên cứu đề tài là các nguyên tắc rút ra từ chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Lý luận khoa học hành chính, quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước là cơ sở để nghiên cứu.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích thu thập, tổng
hợp, thống kê; điều tra xã hội học…
5. Ý nghĩa của đề tài
- Về mặt lý luận, đề tài góp phần nhận thức sâu sắc hơn quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về cải cách hành
chính hiện nay.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng, đề tài đóng góp những giải pháp

nhằm nâng cao chất lượng công tác cải cách hành chính ở tỉnh Hưng Yên
trong những năm tiếp theo nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém trong
công tác cải cách hành chính hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của đề tài gồm 3
chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về cải cách hành chính.
Chương 2: Thực trạng cải cách hành chính ở tỉnh Hưng Yên từ năm
2008-2013.
Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính ở tỉnh Hưng
Yên từ nay đến năm 2020.
6
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm hành chính nhà nước, cải cách hành chính nhà nước
1.1.1. Khái niệm hành chính nhà nước
Hành chính nhà nước là gì, hiện nay được trả lời ít nhiều khác nhau
trong các tư liệu, giáo trình, bài viết. Ở nước ta có điểm chung là nói “hành
chính nhà nước là nói hoạt động quản lý điều hành của cơ quan hành chính
đối với các lĩnh vực xã hội” [32, tr.147], “hành chính là sự tổng hòa các hoạt
động quản lý của Chính phủ, là sự quản lý và giám sát của các cơ quan quản
lý công cộng, chủ yếu là Chính phủ đối với công việc công cộng. Nó bao gồm
hai mặt: sự quản lý của Chính phủ đối với công việc công cộng và sự quản lý
của Chính phủ với bản thân” [1, tr.27]. Trong các quan niệm trên hiểu hành
chính nhà nước là hoạt động quản lý của Chính phủ và các cơ quan hành
chính nhà nước khác. Quan niệm như vậy đúng nhưng chưa đủ, vì xuất phát
từ gốc Latinh cổ, Hành chính (Administratio) có hai nghĩa, một là “sự giúp
đỡ”, “sự hỗ trợ” hay “phục vụ”, hai là “quản lý”, “hướng dẫn” hay “cai trị”.
Như vậy, hiểu hành chính nhà nước không chỉ là quản lý của các cơ quan
hành chính nhà nước mà còn là hoạt động phục vụ của các cơ quan đó. Hiểu

như vậy mới phù hợp với bản chất dân chủ của nhà nước nói chung, hành
chính nói riêng. Trong các tư liệu về hành chính ở nước ta hiện nay, hành
chính còn được sử dụng đồng nghĩa với khái niệm hành chính công, nền hành
chính. Tuy nhiên, khái niệm hành chính công được du nhập vào nước ta từ
các nước phát triển nơi mà kinh tế thị trường đã phát triển, xã hội dân sự đã
hình thành, cùng với nó là hành chính tư xuất hiện. Khái niệm hành chính
công để chỉ hành chính nhà nước trong quan hệ với hành chính tư trong khu
vực thị trường và xã hội dân sự. Khái niệm nền hành chính nhà nước cũng
7
được sử dụng đồng nghĩa với hành chính nhà nước, nhưng người ta xem xét
về mặt bản thể luận, tức là xem xét tổng thể các yếu tố hình thành hành chính
nhà nước về vận hành của nó.
Như vậy, có thể hiểu Hành chính nhà nước là hoạt động được tách ra từ
quản lý nhà nước, mang tính chất quyền lực nhà nước, đó là hoạt động lập
quy và điều hành được thực hiện bởi các cơ quan trong hệ thống hành chính
nhà nước từ trung ương đến cơ sở với những công cụ và phương pháp thích
hợp nhằm đảm bảo cho hành chính nhà nước đạt được các mục tiêu mà quản
lý nhà nước đã đề ra để duy trì và phát triển xã hội theo trật tự nhất định và
phục vụ nhân dân.
1.1.2 Khái niệm cải cách hành chính
Từ nhiều năm nay, cải cách hành chính đã là một vấn đề mang tính
tương đối phổ cập của xã hội Việt Nam. Người dân, tổ chức cảm nhận được
kết quả, tác động của cải cách hành chính một cách trực tiếp nhất khi có việc
phải tiếp xúc, giải quyết công việc với các cơ quan hành chính nhà nước. Vậy
cải cách hành chính là gì?
Nói đầy đủ thì phải gọi là cải cách hành chính nhà nước. Thêm từ nhà
nước vào là để phân biệt với cải cách hành chính không chỉ diễn ra ở khu nhà
nước, mà còn ở các tổ chức, cơ quan, nhất là doanh nghiệp tư nhân, tức là khu
vực tư nhân. Yếu tố quản trị, hành chính trong các doanh nghiệp khu vực tư
cũng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của các doanh nghiệp và nếu

không đổi mới, cải cách thì hoạt động của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng, hiệu
quả thấp.
Đại từ điển Tiếng Việt không đưa ra một định nghĩa nào về cải cách
hành chính, chỉ giải thích cải cách là “sửa lại cho phù với tình hình mới”.
Theo Từ điển Luật học thì cải cách hành chính là một chủ trương,
công cuộc có tính đổi mới nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động
của nhà nước.
8
Theo quan điểm của Liên hiệp quốc thì cải cách hành chính là những
nỗ lực có chủ định nhằm tạo nên những thay đổi cơ bản trong hệ thống hành
chính nhà nước thông qua các cải cách có hệ thống hoặc thay đổi các phương
thức để cải tiến ít nhất một trong những yếu tố cấu thành hành chính nhà
nước: thể chế, cơ cấu tổ chức, nhân sự, tài chính công và tiến trình quản lý.
Theo Từ điển kinh tế GABLER thì khái niệm cải cách hành chính bao
gồm các cải cách về tổ chức, nhân sự, quy trình và công vụ cũng như các biện
pháp thích ứng của hành chính công nhằm tạo ra các cơ quan hành chính hiệu
quả, thể chế hóa các thẩm quyền hành chính một cách rõ ràng, đơn giản hóa
hành chính và gần dân.
Ở Việt Nam hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào chính
thức định nghĩa khái niệm cải cách hành chính là gì. Tuy nhiên, nhiều văn bản
quan trọng của Đảng đã đề cập đến thuật ngữ này, như Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII, Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII, Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng… đã nêu ra các mục tiêu,
nhiệm vụ cụ thể cho công cuộc cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-
2010 của Chính phủ được ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-
TTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ; Nghị quyết số 30c/NQ-CP
ngày 08 tháng 11 năm 2011 Chính phủ ban hành về Chương trình tổng thể cải
cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020.
Như vậy có thể hiểu, cải cách hành chính nhà nước là một sự thay
đổi có kế hoạch, theo một mục tiêu nhất định, tạo ra những thay đổi trong

các yếu tố cấu thành của nền hành chính nhằm là cho các cơ quan hành
chính nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân, phục
vụ xã hội tốt hơn.
9
1.2. Tính tất yếu của cải cách hành chính ở nước ta
Cải cách hành chính trong khoa học hành chính được xem như là một
quy luật của quá trình phát triển của nền hành chính trong hiện thực do những
nhân tố khách quan và chủ quan quy định, vì thế nó mang tính tất yếu với các
nền hành chính nhà nước nói chung, hành chính nhà nước Việt Nam nói
riêng. Tính tất yếu đó xuất phát từ các nhân tố sau đây:
Một là, do yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Nhà nước trong đó có nền hành chính nhà nước thuộc kiến trúc thượng
tầng, được quy định bởi cơ sở kinh tế, cơ sở hạ tầng. So với các yếu tố khác
của kiến trúc thượng tầng nhà nước và hành chính nhà nước chịu sự tác động
trực tiếp, mạnh mẽ nhất của nền kinh tế. Do đó, khi kinh tế thay đổi, nhà nước
nói chung, hành chính nói riêng cũng phải biến đổi theo. Đối với nước ta,
trước đây chúng ta xác định mô hình chủ nghĩa xã hội nói chung, kinh tế nói
riêng trên một tư duy giáo điều, dẫn đến chủ trương xây dựng một nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa với một thành phần, vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu, trên cơ sở kinh tế đó chúng ta có một bộ máy nhà nước nói
chung, nền hành chính nói riêng cũng tập trung, quan liêu. Nhà nước đã can
thiệp vào tất cả lĩnh vực của đời sống kinh tế, từ đó gây cản trở cho sự phát
triển kinh tế. Việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ một thành phần sang nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nói
gọn là chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trước
hết phải có sự thay đổi từ thể chế đến tổ chức bộ máy, con người cho phù
hợp.
Mặt khác, nhà nước, hành chính nhà nước không chỉ thụ động so với
kinh tế mà có tác động trở lại kinh tế, nhất là nhà nước xã hội chủ nghĩa. Với

10
vai trò dẫn dắt, kiến tạo, hành chính nhà nước có thể góp phần thúc đẩy sự
hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường.
Hai là, do yêu cầu củng cố và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Nền hành chính của một nhà nước dân chủ, một nền hành chính dân
chủ phải đảm bảo thể hiện là một nền hành chính của dân, do dân, vì dân.
Nhân dân đòi hỏi nhà nước, hành chính nhà nước phục vụ dân ngày càng tốt
hơn, đảm bảo cho dân ngày càng thực hiện đầy đủ các quyền tự do, dân chủ,
đảm bảo cho người dân một môi trường xã hội an ninh, trật tự, không bị phiền
hà, sách nhiễu. Các chính sách, các quyết định, các chủ trương và các văn bản
pháp luật phải thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đảm bảo nhân
dân có tiếng nói, được tham gia vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật.
Các tổ chức hành chính cũng như quan chức, công chức hành chính phải chịu
sự giám sát của nhân dân, có trách nhiệm giải trình trước nhân dân.
Yêu cầu dân chủ cũng đòi hỏi hành chính nhà nước đảm bảo tôn trọng,
không can thiệp sâu vào lĩnh vực cá nhân, tạo điều kiện cho các tổ chức xã
hội hình thành nhằm tạo ra một xã hội dân sự.
Ba là, do yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam theo hướng Nhà nước pháp quyền.
Để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, củng
cố và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không thể thiếu vai trò của nhà
nước, song đó phải là nhà nước dân chủ, có hiệu lực và hiệu quả trong hoạt
động quản lý xã hội và phục vụ nhân dân. Đảng ta đã chủ trương xây dựng và
hoàn thiện nhà nước ta theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân cũng là nhằm đáp ứng yêu cầu đó.
Với các đặc trưng thể hiện thành các nguyên tắc của Nhà nước pháp
quyền như tôn trọng và đề cao pháp luật, tuân thủ pháp luật; tôn trọng và đảm
bảo thực hiện các quyền tự do của công dân; tập trung thống nhất quyền lực
11
có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các

quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng…
Trong bộ máy nhà nước nói riêng, hệ thống chính trị của nước ta nói
chung, nền hành chính nhà nước trực tiếp thực thi quyền hành pháp, điều
hành mọi hoạt động đời sống, xã hội. Vì vậy, là bộ phận năng động nhất trong
bộ máy nhà nước, là một hệ thống rộng lớn trong thiết chế nhà nước trực tiếp
quan hệ với các lĩnh vực của đời sống xã hội, với nhân dân, là nơi biểu hiện rõ
nét, tập trung nhất ưu điểm, nhược điểm của bộ máy nhà nước. Cho nên cải
cách hành chính nhà nước có ý nghĩa đến việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy
nhà nước, đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta.
Bốn là, do yêu cầu mở rộng hội nhập quốc tế.
Hiện nay, các nước đang hoặc chậm phát triển muốn đẩy nhanh quá
trình phát triển đất nước mình tất yếu phải hội nhập quốc tế để tranh thủ vốn,
kỹ thuật, kinh nghiệm, quản lý… Ngay các nước phát triển cũng có nhu cầu
mở rộng thị trường, tranh thủ lao động, tìm kiếm nguyên liệu…
Là một nước đang phát triển, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy
mạnh hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ các điều kiện thuận lợi để phát triển
đất nước. Muốn vậy, chúng ta phải tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để
thu hút đầu tư từ bên ngoài, phải thay đổi thể chế cho phù hợp với luật pháp
và thông lệ quốc tế, phải đổi mới tổ chức bộ máy cho phù hợp với yêu cầu
mới, phải nâng cao năng lực, trình độ và phẩm chất của đội ngũ cán bộ nhằm
thích ứng với hoàn cảnh quốc tế mới.
Năm là, cải cách hành chính đang là xu thế chung của các nước trên thế
giới do tác động của toàn cầu hóa nhất là toàn cầu hóa về kinh tế, của xu
thế dân chủ hóa, của sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ nhất
là cách mạng thông tin dẫn đến việc làm thay đổi nhiều về chức năng,
nhiệm vụ của các nền hành chính, mặt khác các quốc gia đều quan tâm
12
đến xây dựng một nhà nước hiệu quả. Những tác động nói trên và quan
tâm về việc xây dựng một nhà nước hiệu quả mà ở các nước đều tiến
hành cải cách hành chính ở mức độ khác nhau. Hơn nữa trong sự liên hệ

giữa các quốc gia với nhau, việc cải cách hành chính ở quốc gia này
không ảnh hưởng, tác động đến quốc gia kia.
1.3. Chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà
nước về cải cách hành chính
1.3.1. Quá trình hình thành, phát triển chủ trương đường lối của
Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính
Việc hình thành chủ trương, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về cải cách hành chính cũng như xác định nội dung, phương hướng, giải pháp
thực hiện cải cách hành chính trong từng giai đoạn là một quá trình tìm tòi,
sáng tạo không ngừng trong đường lối đổi mới toàn diện đất nước được khởi
đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986.
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI đánh dấu một bước
chuyển căn bản về nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội, với việc đề ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Từ xác định những nguyên nhân của
tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, Đại hội VI đã chỉ rõ
nguyên nhân của mọi nguyên nhân là công tác tổ chức và đề ra chủ trương:
thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy của các cơ quan Nhà
nước, theo phương hướng: xây dựng và thực hiện một cơ chế quản lý nhà
nước thể hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở tất cả các cấp.
Tăng cường bộ máy của nhà nước từ trung ương đến địa phương và cơ sở
thành một hệ thống thống nhất, có sự phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm từng cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phân biệt chức
năng quản lý hành chính - kinh tế với quản lý sản xuất - kinh doanh, kết hợp
quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ, phù hợp
13
với đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội. Thực hiện một quy chế làm việc khoa
học, có hiệu suất cao; xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng cao với một
đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị và năng lực quản lý nhà nước, quản lý
kinh tế, quản lý xã hội.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tổ chức bộ máy nhà nước đã được

sắp xếp lại một bước theo hướng gọn nhẹ, bớt đầu mối. Tuy nhiên, nhìn
chung tổ chức và biên chế của bộ máy nhà nước vẫn còn quá cồng kềnh, nặng
nề. Chính vì vậy, Đại hội VII đã xác định: Tiếp tục cải cách bộ máy Nhà nước
theo phương hướng: Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện thống nhất quyền lực
nhưng phân công, phân cấp rành mạch; bộ máy tinh giản, gọn nhẹ và họat
động có chất lượng cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật,
quản lý. Trên cơ sở đó, cần tập trung làm tốt một số việc như: Sửa đổi Hiến
pháp, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; cải tiến tổ chức hoạt động của
Quốc hội và Hội đồng nhân dân; sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức họat
động của Chính phủ; xác định lại chức năng, nhiệm vụ của cấp tỉnh, huyện, xã
để xắp xếp lại tổ chức của mỗi cấp; tiếp tục tiến hành kiên quyết và thường
xuyên cuộc đấu tranh chống tệ tham nhũng…
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 do Đại
hội VII thông qua đã khẳng định bước tiến về lý luận, nhận thức về nền hành
chính nhà nước. Cương lĩnh đã nêu: về Nhà nước “phải có đủ quyền lực và có
đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội
bằng pháp luật. Sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành
chính, kiện toàn các cơ quan luật pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng
quản lý của nhà nước”. Chiến lược cũng nêu trọng tâm cải cách “nhằm vào hệ
thống hành chính với nội dung chính là xây dựng một hệ thống hành pháp và
14
quản lý hành chính nhà nước thông suốt từ trung ương xuống cơ sở, có đủ
quyền lực, năng lực, hiệu lực”.
Trên cơ sở những nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra, trong nhiệm kỳ này
đã tiến hành đợt sắp xếp lần thứ hai kể từ Đại hội VI hệ thống chính trị ở Việt
Nam bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Sau Đại hội VII, từ năm 1992 đến năm 1995 là giai đoạn phát triển

mạnh tư duy, quan niệm, nhận thức của Đảng về nền hành chính nhà nước và
về cải cách hành chính. Hội nghị Trung ương 8 khoá VII (1/1995) đánh dấu
bước phát triển mới về xây dựng và phát triển nền hành chính nhà nước. Cải
cách một bước nền hành chính nhà nước được xác định là yêu cầu bức xúc và
là trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, với mục tiêu xây
dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực
và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của
nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực
đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã
hội. Lần đầu tiên 3 nội dung chủ yếu của cải cách hành chính nhà nước được
trình bày một cách hệ thống trong Nghị quyết Trung ương 8, đó là cải cách
thể chế của nền hành chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy cùng quy chế hoạt
động của hệ thống hành chính và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành
chính. Có thể nói Nghị quyết là tiền đề quan trọng xây dựng và thực hiện thể
chế mới về công chức, công vụ của Việt Nam. Nghị quyết xác định: “Xây
dựng và từng bước hoàn thiện chế độ công vụ và quy chế công chức, chú
trọng cả yêu cầu về phẩm chất, đạo đức và trình độ, năng lực. Tiếp tục đổi
mới và hoàn thiện hệ thống ngạch, bậc công chức và cải cách chế độ tiền
lương, gắn trách nhiệm với quyền hạn, nhiệm vụ với chính sách đãi ngộ…
Ban hành quy chế tuyển dụng và đề bạt qua thi tuyển hoặc kiểm tra sát
hạch”. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 Khoá VII đã mở ra một
15
giai đoạn mới, giai đoạn chuyển biến thật sự trong cải cách hành chính ở
Việt Nam.
Đại hội VIII, sau đó là Hội nghị Trung ương 3, Trung ương 6 (lần 2) và
Hội nghị Trung ương 7 (Khoá VIII) tiếp tục khẳng định chủ trương của Đảng
về cải cách hành chính, xác định cải cách hành chính là trọng tâm của việc
xây dựng, hoàn thiện nhà nước và phải được tiến hành đồng bộ trong cả hệ
thống chính trị.
Đại hội IX (năm 2001) đã đưa ra một loạt chủ trương, biện pháp có ý

nghĩa quan trọng trong cải cách hành chính như điều chỉnh chức năng và cải
tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa ngành,
đa lĩnh vực; phân công, phân cấp; tách cơ quan hành chính công quyền với tổ
chức sự nghiệp, dịch vụ công; tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, tách
chức năng quản lý nhà nước với chức năng sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức trong sạch, có năng lực; thiết lập trật tự kỷ cương, chống quan liêu,
tham nhũng…
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định chủ
trương đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính dân chủ,
trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại, đổi mới tổ chức và hoạt động của
Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất,
thông suốt, hiện đại và xác định một loạt các biện pháp quan trọng để đẩy
mạnh cải cách hành chính. Cụ thể, Đảng ta đã xác định “xây dựng nền hành
chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại. Tiếp tục
đẩy mạnh cải cách hành chính, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên của tất cả
các tổ chức trong hệ thống chính trị” [5, tr.253].
Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Nghị quyết Trung ương
5 Khoá X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
16
lý của bộ máy nhà nước đã làm rõ, cụ thể hoá những vấn đề hết sức quan
trọng trong cải cách hành chính thời gian tới ở Việt Nam. Nghị quyết xác định
mục tiêu: “Đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN; xây dựng nền hành chính dân chủ, trong
sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại; đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm
chất và năng lực; hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả” [6, tr.253].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, sau khi chỉ rõ việc tiến hành cải
cách hành chính còn chậm, kết quả chưa đáp ứng yêu cầu, đã nhấn mạnh cần
tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách về thủ tục hành chính.

Đại hội tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục
hành chính; giảm mạnh và bãi bỏ các loại thủ tục hành chính gây phiền hà cho
tổ chức và công dân Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà
nước, của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành chính thống nhất, thông
suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả; tổ chức tinh gọn và hợp
lý; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức của các
bộ, cơ quan ngang bộ. Thực hiện phân cấp hợp lý cho chính quyền địa
phương đi đôi với nâng cao chất lượng quy hoạch và tăng cường thanh tra,
kiểm tra, giám sát của Trung ương, gắn quyền hạn với trách nhiệm được
giao…” [7, tr.52-53].
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, ngày 17 tháng 9 năm 2001,
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg về Chương
trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010. Quyết định
này được coi là văn bản quy phạm pháp luật đồng thời thể hiện đồng bộ 4 nội
dung cơ bản của cải cách hành chính, đó là cải cách về thể chế. Cải cách tổ
chức bộ máy hành chính, đổi mới nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức và cải cách tài chính công. Tiếp theo, ngày 08 tháng 11 năm 2011 Chính
17
phủ ban hành Nghị quyết số 30c/NQ-CP về Chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020. Nghị quyết số 30c/NQ-CP được
ban hành là sự phát triển và kế thừa chương trình tổng thể cải cách hành chính
2001-2010 theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Nghị quyết quyết nghị 9 điều khoản về chương trình tổng thể cải cách
hành chính cho 10 năm để Việt Nam đạt được mục tiêu đến năm 2020 cơ
bản trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại; với 5 mục
tiêu cụ thể và 6 nhiệm vụ đó là: Cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành
chính, cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng và nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, cải cách tài chính
công, hiện đại hoá hành chính.
1.3.2. Quan điểm, mục tiêu, yêu cầu, nguyên tắc và nội dung của cải

cách hành chính
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ
trương về cải cách hành chính và luôn xác định cải cách hành chính là một
khâu quan trọng để phát triển đất nước. Các cơ quan nhà nước đã xây dựng và
tổ chức thực hiện nhiều chương trình, kế hoạch về cải cách hành chính theo
các chủ trương, nghị quyết của Đảng, nhất là chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và giai đoạn 2011-2020.
1.3.2.1. Quan điểm cải cách hành chính
Cải cách hành chính phải được tiến hành đồng bộ trong tổng thể đổi
mới hệ thống chính trị, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, cải cách bộ
máy nhà nước nói chung.
Cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu hoàn thiện nhanh và đồng
bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tạo thuận
lợi nhất cho cá nhân, tổ chức và góp phần tích cực chống quan liêu, phòng và
chống tham nhũng.
18
Thông qua cải cách, tiếp tục làm rõ và phù hợp chức năng, nhiệm vụ,
trách nhiệm của từng cơ quan hành chính, thực hiện phân công, phân cấp rõ
và phù hợp, phân định rõ trách nhiệm giữa các cấp chính quyền, giữa chính
quyền đô thị và chính quyền nông thôn, giữa tập thể và người đứng đầu cơ
quan hành chính.
Xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất và
năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Cải cách phải hướng tới xây dựng một nền hành chính hiện đại, ứng
dụng có hiệu quả thành tựu phát triển của khoa học - công nghệ, nhất là công
nghệ thông tin.
1.3.2.2. Mục tiêu của cải cách hành chính
Mục tiêu tổng quát của cải cách nền hành chính nhà nước được xác
định trong Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8
khóa VIII là: “xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử

dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hóa để quản lý có hiệu lực và
hiệu quả công việc của nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng
hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc
theo pháp luật trong xã hội” [8, tr.30].
Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ về Chương
trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 đã cụ thể
hóa mục tiêu của cải cách hành chính, đó là: Đến năm 2020 xây dựng được
một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và phục vụ người dân, doanh nghiệp và xã hội.
“Trọng tâm cải cách hành chính trong giai đoạn 10 năm tới là: Cải cách
thể chế; xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức,
chú trọng cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ,
19
công chức, viên chức thực thi công vụ có chất lượng và hiệu quả cao; nâng
cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công” [9].
1.3.2.3. Yêu cầu của cải cách hành chính
Một là, cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu hoàn thiện nhanh và
đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao
hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy dân chủ trong đời sống xã hội;
huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và sự tham gia của mọi người
dân vào tiến trình phát triển của đất nước.
Hai là, cải cách hành chính nói chung, đặc biệt là cải cách thủ tục hành
chính, phải bảo đảm tạo thuận lợi nhất cho người dân, doanh nghiệp và góp
phần tích cực chống quan liêu, phòng và chống tham nhũng, lãng phí.
Ba là, xây dựng tổ chức bộ máy hành chính tinh gọn, xác định rõ chức
năng, nhiệm vụ, phân định rạch ròi trách nhiệm giữa các cơ quan, giữa các
cấp chính quyền, giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn, giữa tập
thể và người đứng đầu cơ quan hành chính; hoạt động có kỷ luật, kỷ cương và
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.

Bốn là, cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức có phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tinh
thần trách nhiệm và tận tuỵ phục vụ nhân dân.
Năm là, cải cách hành chính phải hướng tới xây dựng một nền hành
chính hiện đại, ứng dụng có hiệu quả thành tựu phát triển của khoa học, công
nghệ, nhất là công nghệ thông tin.
1.3.2.4 Nguyên tắc chỉ đạo cải cách hành chính
Một là, Cải cách hành chính nhà nước là trọng tâm của cải cách bộ máy
nhà nước, là bộ phận hữu cơ trong tổng thể của đổi mới hệ thống chính trị.
Như ở mục 1.2 đã phân tích, hành chính nhà nước có vị trí, vai trò quan
trọng trong việc đảm bảo thực thi nhiệm vụ chính trị của nhà nước. Cải cách
20
hành chính sẽ tác động tích cực đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đến
toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như hệ thống chính trị. Vì thế,
cải cách hành chính nhà nước là trọng tâm của cải cách bộ máy nhà nước nói
riêng, đổi mới hệ thống chính trị nói chung.
Là một bộ phận trong tổng thể quyền lực nhà nước, cải cách hành chính
phải gắn với đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, cải cách các cơ quan
tư pháp trên cơ sở thực hiện nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có
sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Cải cách hành chính phải dưới sự lãnh đạo của Đảng, đảm bảo định
hướng XHCN. Sự lãnh đạo của Đảng là tất yếu đảm bảo sự nghiệp đổi mới
nói chung, cải cách bộ máy nhà nước, cải cách hành chính nhà nước nói riêng
thành công. Đồng thời, để lãnh đạo công cuộc cải cách hành chính có kết quả
Đảng phải nâng cao năng lực, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phát
huy tính chủ động, chịu trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước.
Cải cách hành chính nhà nước cũng không tách rời quá trình đổi mới tổ
chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn
thể nhân dân trong hệ thống chính trị.

Hai là, Cải cách hành chính nhằm xây dựng một nền hành chính dân
chủ, phục vụ nhân dân, thực hiện dân chủ XHCN.
Bản chất của nhà nước ta là dân chủ, đó là nhà nước của dân, do dân
và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Bản chất đó của
nhà nước phải được quán triệt và thể hiện trong tổ chức xây dựng nền hành
chính nhà nước. Mọi hoạt động của nền hành chính nhà nước đều nhằm
phục vụ nhân dân, thỏa mãn các quyền và lợi ích của nhân dân, thu hút
nhân dân tham gia vào quản lý xã hội, mọi tổ chức và cá nhân của nền
21
hành chính nhà nước phải chịu sự giám sát của nhân dân, phải có trách
nhiệm giải trình trước nhân dân.
Ba là, Cải cách hành chính nhà nước phải phục vụ đắc lực cải cách
kinh tế, giải phóng mọi năng lực của xã hội, phát triển đất nước theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nguyên tắc này thể hiện quan điểm coi đổi mới kinh tế là trọng tâm, lấy
đổi mới kinh tế là trọng tâm, cùng với đổi mới kinh tế phải cải cách hành
chính nhằm phục vụ và thúc đẩy đổi mới kinh tế. Chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN sẽ tác động mạnh mẽ tới hoạt động của nền hành chính nhà nước. Mặt
khác, trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực vừa đặt ra thời cơ,
vừa đặt ra thách thức đối với cải cách nền hành chính. Kinh tế càng mở cửa
và thực hiện các cam kết hội nhập thì hành chính cũng phải linh hoạt, chủ
động mở theo, phải có những cải cách, thay đổi cho phù hợp.
Cải cách hành chính tạo môi trường chính trị và pháp lý cho kinh
tế, mở đường, khuyến khích kinh tế phát triển, thích ứng với cơ chế thị
trường, với những quan hệ cung cầu, cạnh tranh và nhằm mục tiêu chủ
yếu là hiệu quả.
Cải cách hành chính phải phải tiến hành đồng bộ, nhịp nhàng với đổi
mới kinh tế, tạo động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Các nội dung,
yêu cầu, giải pháp về lộ trình của cải cách hành chính gắn liền với thúc đẩy sự

hoàn thiện và phát triển các yếu tố nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
thiết lập quy trình, trật tự, nền nếp trong hoạch định kinh tế.
Bốn là, Xây dựng một nền hành chính của Nhà nước pháp quyền
XHCN gắn với đạo đức, quản lý theo pháp luật và bằng pháp luật.
Một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN là
sự tuân thủ pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của các cơ quan
22
nhà nước, trong đó có các cơ quan hành chính nhà nước. Theo nguyên tắc
này, các cơ quan hành chính được lập ra và hoạt động theo quy định của pháp
luật; thẩm quyền của các cơ quan, của cán bộ công chức do pháp luật quy
định, hoạt động của nền hành chính phải theo pháp luật và bằng pháp luật.
Đề cao pháp luật, tuân thủ pháp luật, thực hiện quản lý theo pháp luật
và bằng pháp luật của hành chính nhà nước không đối lập với đạo đức mà gắn
liền với việc coi trọng đạo đức.
Bởi vì, đạo đức có vai trò quan trọng trong điều chỉnh hành vi con
người, nước ta thuộc khu vực Á – Đông, nơi có truyền thống coi trọng đạo
đức, các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức tiến bộ cơ bản phù hợp với pháp luật
của nước ta, với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN.
Năm là, Xây dựng một nền hành chính tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ được vận dụng theo những phương thức khác
nhau.
Tập trung dân chủ là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị nói chung, nền hành chính nhà nước nói riêng. Trong tổ
chức và hoạt động của nền hành chính, nguyên tắc này là cơ sở để xác định
quan hệ nội bộ của nền hành chính, nhằm xây dựng một hệ thống hành chính
thống nhất, thông suốt, đảm bảo tập trung sự chỉ đạo từ Chính phủ - cơ quan
hành chính cao nhất, đồng thời đảm bảo phát huy tính chủ động, sáng tạo của
các cơ quan hành chính địa phương.
1.3.2.5 Nội dung cải cách hành chính
Nội dung cải cách hành chính được xác định trong Nghị quyết Hội nghị

Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 khóa VII, với 3 nội dung là: cải
cách thể chế hành chính, cải cách tổ chức bộ máy hành chính và xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức. Tiếp đó, trong Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 của Chính phủ, đã bổ sung nội dung
23
cải cách hành chính công và Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ 5 khóa X nêu nội dung về hiện đại hóa nền hành chính và Nghị
quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ về Chương trình tổng
thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 đã đưa ra 6 nhiệm
vụ và cụ thể hóa từng nhiệm vụ một cách chi tiết, tách nội dung cải cách
thủ tục hành chính ra thành một nhiệm vụ cụ thể. Trong các văn kiện của
Đảng và Chương trình tổng thể của Chính phủ đã xác định cụ thể các nội
dung nói trên.
- Về cải cách thể chế
Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp năm
1992 được sửa đổi, bổ sung; đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây
dựng pháp luật; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế,
chính sách, trước hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm sự công bằng trong phân phối thành quả của đổi mới, của phát
triển kinh tế - xã hội.
Hoàn thiện thể chế về sở hữu, trong đó khẳng định rõ sự tồn tại khách
quan, lâu dài của các hình thức sở hữu, trước hết là sở hữu nhà nước, sở hữu
tập thể, sở hữu tư nhân, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
sở hữu khác nhau trong nền kinh tế.
Tiếp tục đổi mới thể chế về doanh nghiệp nhà nước và tổ chức và kinh
doanh vốn nhà nước; sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về xã hội
hóa theo hướng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; khuyến khích các thành phần
kinh tế tham gia cung ứng các dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình
đẳng, lành mạnh.

24
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước; xây dựng, hoàn thiện quy định
của pháp luật về mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân.
- Cải cách thủ tục hành chính
Cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính trong tất cả các
lĩnh vực quản lý nhà nước, nhất là thủ tục hành chính liên quan tới người dân,
doanh nghiệp.
Cải cách thủ tục hành chính để tiếp tục cải thiện môi trường kinh
doanh, giải phóng mọi nguồn lực của xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia, bảo đảm điều kiện cho nền kinh tế của đất nước phát triển nhanh,
bền vững.
Cải cách thủ tục hành chính giữa các cơ quan hành chính nhà nước,
các ngành, các cấp và trong nội bộ từng cơ quan hành chính nhà nước;
kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo quy định
của pháp luật.
Công khai, minh bạch tất cả các thủ tục hành chính; cải cách thủ tục
hành chính ngay trong quá trình xây dựng thể chế, mở rộng dân chủ, phát huy
vai trò của các tổ chức và chuyên gia tư vấn độc lập trong việc xây dựng thể
chế, chuẩn mực quốc gia về thủ tục hành chính.
Tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về các quy
định hành chính để hỗ trợ việc nâng cao chất lượng các quy định hành chính
và giám sát việc thực hiện thủ tục hành chính của các cơ quan hành chính nhà
nước các cấp.
- Cải cách tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước
Tiến hành tổng rà soát và điều chỉnh phù hợp về vị trí, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế hiện có của các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan
25

×