Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Sử dụng quy trình lập kế hoạch để lập kế hoạch quản lý khả năng thanh toán trong Công ty cổ phần VPP Hồng Hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.95 KB, 25 trang )

Đề án môn học
MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
SV: Đoàn Thùy Dương
Đề án môn học
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài:
Trong nền kinh tế thị trường, để duy trì sự tồn tại và phát triển, một mặt các
doanh nghiệp phải thực hiện được mục tiêu lợi nhuận và các mục tiêu xã hội khác
đã đặt ra, mặt khác doanh nghiệp cũng phải thực hiện mục tiêu đảm bảo khả năng
thanh toán cho các trách nhiệm tài chính đã cam kết.
Nhưng trong thực tế, nhiều doanh nghiệp, bao gồm cả các công ty cổ phần
thường chạy theo mục tiêu lợi nhuận để đảm bảo lợi ích cổ tức của cổ đông mà xa
rời mục tiêu đảm bảo khả năng thanh toán, bởi vì có những mâu thuẫn phát sinh khi
thực hiện hai mục tiêu này. Mục tiêu đảm bảo khả năng thanh toán được thực hiện
là cơ sở để thực hiện mục tiêu lợi nhuận. Khi mục tiêu lợi nhuận được đảm bảo thì
khả năng thanh toán của doanh nghiệp sẽ được nâng cao. Tuy nhiên, để thu được tỷ
suất lợi nhuận cao thì nguy cơ doanh nghiệp mất khả năng thanh toán cũng cao và
ngược lại, khi khả năng thanh toán được đảm bảo thì tỷ suất lợi nhuận thu được có
thể lại thấp hơn mức kỳ vọng.
Việc đầu tư vào một doanh nghiệp (DN), hay công ty nào đó luôn đòi hỏi sự
cân nhắc kỹ lưỡng của mỗi người. Và hẳn nhiên không một nhà đầu tư nào không
quan tâm đến việc mình đang đầu tư vào một công ty như thế nào. Do đó, vấn đề
chính là các công ty có kế hoạch đảm bảo được khả năng thanh toán của mình hay
không, để các nhà đầu tư tin tưởng và đầu tư tài sản vào công ty, tạo điều kiện phát
triển công ty hơn nữa. Chính vì lý do này mà em chọn đề tài:
”Sử dụng quy trình lập kế hoạch để lập kế hoạch quản lý khả năng thanh
toán trong CTCP VPP Hồng Hà.”
Sv: Đoàn Thùy Dương - 1 -
Đề án môn học
PHẦN I


CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHẢ NĂNG THANH TOÁN
TRONG DOANH NGHIỆP
I. Khái niệm về khả năng thanh toán trong doanh nghiệp (solvency):
Khả năng thanh toán trong doanh nghiệp là: khả năng bảo đảm trả được các
khoản nợ đến hạn bất cứ lúc nào.
Khả năng thanh toán là kết quả của sự cân bằng giữa các luồng thu và chi
hay giữa nguồn vốn kinh tế (capital) và nguồn lực sẵn có (resource).
Investopedia định nghĩa: khả năng thanh toán “là khả năng đáp ứng các chi
tiêu cố định trong dài hạn và có đủ lượng tiền cần thiết để mở rộng và phát triển”.
II. Ý nghĩa của khả năng thanh toán đối với doanh nghiệp:
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp cho biết doanh nghiệp có sự “Cân
bằng về tài chính” hay không và “mức độ tự chủ” của doanh nghiệp như thế nào.
1) Cân bằng tài chính (financial equilibrium):
Có thể được xác định từ các luồng tài chính. Mọi luồng tài chính đều làm
tăng hay giảm số tiền trong quỹ. Cân bằng tài chính đạt được tại thời điểm tiền mặt
và các tài sản có tính thanh khoản như tiền mặt (gọi tắt là tiền mặt) vẫn “dương” sau
khi đã đủ bù trả cho tất cả các khoản nợ đến hạn. Tính thanh khoản của tài sản phụ
thuộc vào mức độ dễ dàng chuyển đổi tài sản thành tiền mặt mà không phát sinh
thua lỗ lớn.
Ba luồng tài chính chủ yếu quyết định cân bằng tài chính bao gồm:
-Chi phí đầu tư, chủ yếu là chi phí tạo vốn cho sản xuất,
-Số dư từ các hoạt động tài chính (vay, cho vay, hoàn trả),
-Thặng dư từ sản xuất kinh doanh.Ngoài ra, phải tính thêm:
-Biến đổi tài sản có (kho và các khoản phải thu) và các khoản phải trả,
-Chi phí phân bổ giá trị thặng dư cho nhà nước, cho người lao động và cho các
cổ đông.
- Các khoản nợ ngắn hạn, chủ yếu là tín dụng ngân hàng khi giá trị quỹ không
đủ để duy trì cân bằng, tức là đảm bảo khả năng thanh toán các khoản chi bắt buộc.
Ngân quỹ được coi là “dương” nếu lớn hơn giá trị nợ và lớn hơn 0 (>0). Đây là một
công cụ điều chỉnh các luồng thu và chi trong ngắn hạn. Sự mất cân bằng giữa tài

sản có (actifs) và nguồn lực sẵn có tạo ra nhu cầu về tiền cần đáp ứng.
Sv: Đoàn Thùy Dương - 2 -
Đề án môn học
2) Mức độ tự chủ:
Thể hiện khả năng duy trì tính độc lập của doanh nghiệp, Nếu nhu cầu về
tiền của doanh nghiệp không thể được đáp ứng bằng hình thức vốn vay, nguy cơ
mất cân bằng tài chính đòi hỏi phải được tài trợ dưới hình thức vốn góp. Rõ ràng
lúc này, quyền quyết định sẽ được chia lại theo tỷ lệ góp vốn, doanh nghiệp mất
quyền tự chủ. Khả năng mất cân bằng tài chính là yếu tố đo lường mức độ tự chủ
của doanh nghiệp. Việc nắm giữ một lượng tiền mặt lớn có thể tăng mức độ tự chủ
của doanh nghiệp nhưng số tiền này lại không tham gia vào quá trình sản xuất và
không có khả năng sinh lợi.
Để đảm bảo tăng trưởng, doanh nghiệp có thể phải giảm tiền mặt nắm giữ và
tăng lượng vốn vay, thậm chí chấp nhận giảm mức độ tự chủ. Nhiệm vụ của chức
năng tài chính là dàn xếp vấn đề này bằng cách duy trì khả năng thanh toán. Vì vậy,
chức năng tài chính phải kiểm soát được các quyết định sản xuất và thương mại làm
thay đổi cấu trúc tài sản có (rủi ro kinh tế) và làm nảy sinh nhu cầu vốn mới (rủi ro
tài chính).
Tính thanh khoản của tài sản phụ thuộc vào mức độ dễ dàng chuyển đổi tài sản
thành tiền mặt mà không phát sinh thua lỗ lớn. Việc quản lý khả năng thanh toán
bao gồm việc khớp các yêu cầu trả nợ với thời hạn của tài sản và các nguồn tiền mặt
khác nhằm tránh mất khả năng thanh toán mang tính chất kỹ thuật. Việc xác định
khả năng thanh toán là quan trọng. Do đó, vấn đề chính là liệu một công ty có khả
năng tạo ra đủ tiền mặt để thanh toán cho những nhà cung cấp nguyên vật liệu và
các chủ nợ hay không. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp là điều kiện để những
nhà đầu tư quyết định có hay không đầu tư vào công ty đó. Bởi việc đầu tư vào một
doanh nghiệp (DN) nào đó luôn đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng của mỗi người. Và
hẳn nhiên không một nhà đầu tư nào lại đầu tư vào một doanh nghiệp hay công ty
đang gặp những nguy cơ về tài chính và mất khả năng thanh toán.
III. Các nhóm chỉ số về khả năng thanh toán:

1) Tỷ lệ các khoản phải thu/các khoản phải trả
 Các khoản phải thu (Receivables):
Là một loại tài sản của công ty tính dựa trên tất cả các khoản nợ, các giao dịch
chưa thanh toán hoặc bất cứ nghĩa vụ tiền tệ nào mà các con nợ hay khách hàng
chưa thanh toán cho công ty. Phải thu được kế toán của công ty ghi lại và phản ánh
trên bảng cân đối kế toán, bao gồm tất cả các khoản nợ công ty chưa đòi được, tính
cả các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán. Các khoản phải thu được ghi nhận như là
Sv: Đoàn Thùy Dương - 3 -
Đề án môn học
tài sản của công ty vì chúng phản ánh các khoản tiền sẽ được thanh toán trong
tương lai. Các khoản phải thu dài hạn (chỉ đáo hạn sau một khoản thời gian tương
đối dài) sẽ được ghi nhận là tài sản dài hạn trên bảng cân đối kế toán. Hầu hết các
khoản phải thu ngắn hạn được coi như là một phần của tài sản vãng lai của công ty.
Trong kế toán, nếu các khoản nợ này được trả trong thời hạn dưới 1 năm
(hoặc trong một chu kỳ hoạt động kinh doanh) thì được xếp vào loại tài sản vãng
lai. Nếu hơn 1 năm hoặc hơn 1 chu kỳ kinh doanh thì không phải là tài sản vãng lai.
Phải thu còn được phân chia cụ thể hơn trong bảng cân đối kế toán thành phải thu
thương mại (trade) và phi thương mại (nontrade).
Phải thu thương mại xuất phát từ việc cung cấp hàng hoá-dịch vụ của công ty
cho khách hàng trong kỳ kinh doanh bình thường. Phải thu thương mại có thể là tài
khoản phải thu (accounts receivables) hoặc phải thu tiền mặt (notes receivables).
Phải thu phi thương mại xuất phát từ các loại giao dịch khác các loại kể trên và
cũng có thể là phiếu nhận nợ của bên mua. Ví dụ như các khoản tạm ứng cho nhân
viên; các khoản hoàn lại như hoàn thuế, tiền bồi thường bảo hiểm, tiền đặt cọc; và
các khoản phải thu tài chính như tiền lãi, cổ tức, v.v.
 Các khoản phải trả (Accounts Payable - AP):
Đây là một khoản mục kế toán thể hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp phải trả
toàn bộ số nợ ngắn hạn của mình cho các chủ nợ.
Trong bảng cân đối kế toán, khoản phải trả được gọi là khoản nợ (liabilities)
của doanh nghiệp. Cũng giống như tài sản, nợ của doanh nghiệp được chia làm nợ

ngắn hạn và nợ dài hạn. Nợ dài hạn là các khoản nợ và các nghĩa vụ về mặt tài
chính khác mà doanh nghiệp phải trả sau một khoảng thời gian từ một năm trở lên
kể từ ngày lập bảng cân đối kế toán. Nợ ngắn hạn là các khoản nợ mà doanh nghiệp
phải thanh toán trong khoảng thời gian từ 1 năm trở xuống. Nợ ngắn hạn bao gồm
khoản phải trả (AP) và các khoản nợ dài hạn đến hạn trả.
Các khoản phải trả là khoản nợ phải trả trong một thời hạn nhất định để tránh
việc vỡ nợ. Trong tài chính doanh nghiệp, khoản phải trả đề cập đến các khoản nợ
ngắn hạn của doanh nghiệp đối với nhà cung cấp và ngân hàng.
Tỷ số các khoản phải thu/các khoản phải trả hay R/AP: phản ánh khả năng
chiếm dụng vốn của doanh nghiệp đối với nhà cũng cấp.
Chỉ số R/AP >1 thì cho biết các khoản phải thu của doanh nghiệp lớn hơn các
khoản mà doanh nghiệp phải trả hay tài sản gửi ngoài của doanh nghiệp lớn hơn
những khoản nợ của doanh nghiệp.
Sv: Đoàn Thùy Dương - 4 -
Đề án môn học
R/AP <1 cho biết các khoản mà doanh nghiệp phải trả lớn. Nếu chỉ số này quá
nhỏ thì khả năng thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp sẽ yếu.
R/AP =1 cho biết các khoản phải thu của doanh nghiệp tương đương với các
khoản mà doanh nghiệp phải trả.
2) Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn (liquidity ratio).
Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn dùng để đo lường khả năng trả các
khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp như nợ và các khoản phải trả bằng các tài sản
ngắn hạn của doanh nghiệp, như tiền mặt, các khoản phải thu, hàng tồn kho
Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn được tính theo công thức sau:
Hệ số này cho biết: một đồng nợ ngắn hạn thì có bao nhiêu đồng tài sản lưu
động để trả nợ.
Hệ số này càng cao, khả năng trả nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng lớn
Nếu Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn < 1 thì doanh nghiệp có khả năng
không hoàn thành được nghĩa vụ trả nợ của mình khi tới hạn. Mặc dù với tỷ lệ nhỏ
hơn 1, có khả năng không đạt được tình hình tài chính tốt, nhưng điều đó không có

nghĩa là công ty sẽ bị phá sản vì có rất nhiều cách để huy động thêm vốn.
Nếu tỉ lệ này >= 1 thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp là tốt. Tuy nhiên
nếu cao quá thì cũng không tốt cho doanh nghiệp.
Tỷ lệ này cho phép hình dung ra chu kì hoạt động của công ty xem có hiệu quả
không, hoặc khả năng biến sản phẩm thành tiền mặt có tốt không. Nếu công ty gặp
phải rắc rối trong vấn đề đòi các khoản phải thu hoặc thời gian thu hồi tiền mặt kéo
dài, thì công ty rất dễ gặp phải rắc rối về khả năng thanh khoản.
Theo công thức trên, khả năng thanh toán của doanh nghiệp sẽ là tốt nếu tài
sản lưu động và đầu tư ngắn hạn chuyển dịch theo xu hướng tăng lên và nợ ngắn
hạn chuyển dịch theo xu hướng giảm xuống; hoặc đều chuyển dịch theo xu hướng
cùng tăng nhưng tốc độ tăng của tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn lớn hơn tốc độ
tăng của nợ ngắn hạn; hoặc đều chuyển dịch theo xu hướng cùng giảm nhưng tốc độ
giảm của tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn nhỏ hơn tốc độ giảm của nợ ngắn hạn.
Tuy nhiên ở đây xuất hiện mâu thuẫn:
Thứ nhất, khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp là chỉ tiêu phản
ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp, không thể nói một cách đơn giản tình hình
tài chính của doanh nghiệp là tốt nếu khả năng thanh toán ngắn hạn lớn.
Sv: Đoàn Thùy Dương - 5 -
Đề án môn học
Khả năng thanh toán ngắn hạn lớn có thể do: các khoản phải thu (tức nợ không
đòi được hoặc không dùng để bù trừ được) vẫn còn lớn, hàng tồn kho lớn (tức
nguyên vật liệu dự trữ quá lớn không dùng hết và hàng hóa, thành phẩm tồn kho
không bán được không đối lưu được) tức là có thể có một lượng lớn.
Tài sản lưu động tồn trữ lớn, phản ánh việc sử dụng tài sản không hiệu quả, vì
bộ phận này không vận động không sinh lời Và khi đó khả năng thanh toán của
doanh nghiệp thực tế sẽ là không cao nếu không muốn nói là không có khả năng
thanh toán.
Thứ hai, tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn có thể được hình thành từ vốn vay
dài hạn như tiền trả trước cho người bán; hoặc được hình thành từ nợ khác (như các
khoản ký quỹ, ký cược…) hoặc được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu. Chính vì

thế có thể vốn vay ngắn hạn của doanh nghiệp nhỏ nhưng nợ dài hạn và nợ khác lớn.
Nếu lấy tổng tài sản lưu động chia cho nợ ngắn hạn để nói lên khả năng thanh toán nợ
ngắn hạn của doanh nghiệp thì chẳng khác gì kiểu dùng nợ để trả nợ vay.
Chính vì vậy, không phải hệ số này càng lớn càng tốt. Tính hợp lý của hệ số
này phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, ngành nghề nào có tài sản lưu động
chiếm tỷ trọng cao (chẳng hạn Thương mại) trong tổng tài sản thì hệ số này cao và
ngược lại.
3) Hệ số thanh toán nhanh (quick ratio)
Theo thước đo khắt khe, thì thứ tài sản lưu động duy nhất được dùng để tính
tỷ số thanh khoản nhanh là lượng tiền mặt doanh nghiệp có. Tuy nhiên, phổ biến
hơn, tài sản lưu động ở đây là tài sản lưu động không bao gồm giá trị hàng tồn kho.
Công thức tính tỷ số thanh khoản nhanh:
Tỷ số thanh khoản nhanh
=
Giá trị tài sản lưu động - Giá trị hàng tồn
kho
Giá trị nợ ngắn hạn
Giá trị tái sản lưu động – Giá trị hàng tồn kho = (tiền mặt+ chứng khoán khả
mại+ các khoản phải thu)/ nợ ngắn hạn. Chỉ số thanh toán nhanh đo lường mức
thanh khoản cao hơn. Chỉ những tài sản có tính thanh khoản cao mới được đưa vào
để tính toán. Hàng tồn kho và các tài sản ngắn hạn khác được bỏ ra vì khi cần tiền
để trả nợ, tính thanh khoản của chúng rất thấp, nhưng trong nhiều trường hợp doanh
nghiệp sẵn sàng bán dưới giá trị sổ sách các khoản hàng tồn kho để biến thành tiền
mặt thật nhanh, và bởi vì thường thì doanh nghiệp dùng tiền bán các tài sản lưu
động để tái đầu tư.
Sv: Đoàn Thùy Dương - 6 -
Đề án môn học
Ý nghĩa:
Tỷ số này phản ánh khả năng của doanh nghiệp trong việc thanh toán ngay các
khoản ngắn hạn. Tỷ số này cho biết một đồng nợ ngắn hạn được chi trả bằng bao

nhiêu đồng (giá trị tài sản lưu động – giá trị hàng tồn kho). Nói chung, hệ số này
bằng 1 là lý tưởng.
4) Tỷ số thanh khoản ngay hay hiện thời (current ratio)
Tỷ số thanh khoản hiện thời được tính ra bằng cách lấy giá trị tài sản lưu động
trong một thời kỳ nhất định chia cho giá trị nợ ngắn hạn phải trả cùng kỳ.
Tỷ số thanh khoản hiện thời
=
Giá trị tài sản lưu động
Giá trị nợ ngắn hạn
Giá trị tài sản lưu động = Tiền + đầu tư tài chính ngắn hạn
Tỷ số thanh khoản hiện thời cho biết cứ mỗi đồng nợ ngắn hạn mà doanh
nghiệp đang giữ, thì doanh nghiệp có bao nhiêu đồng tài sản lưu động có thể sử
dụng để thanh toán.
Nếu tỷ số này >= 1 thì có nghĩa là doanh nghiệp đủ tiền mặt và các khoản
tương đương tiền có thể sử dụng ngay, tức thời để thanh toán khoản nợ ngắn hạn
sắp đáo hạn và nó cho thấy tài sản của doanh nghiệp bị cột chặt vào “ tài sản lưu
động” quá nhiều và như vậy thì hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp là không
cao. Thường thì tỷ số này ở mức >=0,5 được xem là tốt.
Khi đánh giá tình hình thanh khoản của doanh nghiệp, người phân tích thường
so sánh tỷ số thanh khoản của một doanh nghiệp với tỷ số thanh khoản bình quân
của toàn ngành mà doanh nghiệp đó tham gia
Sv: Đoàn Thùy Dương - 7 -
Đề án môn học
PHẦN II
THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ KHẢ NĂNG THANH TOÁN
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN VPP HỒNG HÀ
I. Giới thiệu về công ty cổ phần văn phòng phẩm Hồng Hà:
1) Giới thiệu về công ty và các giai đoạn phát triển:
Ngày 01/10/1959,từ một xưởng sửa chữa xe hơi của Pháp mang tên Stai,với
sự giúp đỡ của Trung Quốc,nhà máy văn phòng phẩm Hồng Hà,nhà máy chuyên

sản xuất đồ dùng văn phòng đầu tiên của nước VN DCCH đã được Phó thủ tướng
chính phủ Lê Thanh Nghị chính thức cắt băng khánh thành. Đầu tiên nhà máy chỉ
có hơn 300 người,họ là những cán bộ và công nhân kĩ thuật được đào tạo tại Trung
Quốc trở về,là những cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc,là những học sinh mới tốt
nghiệp các trường công nhân kỹ thuật,các trường phổ thông… Tuy trình độ chưa
cao,kiến thức về chuyên môn kỹ thuật được trang bị chưa nhiều,song mỗi người đều
chứa trong mình bầu nhiệt huyết và một quyết tâm không gì ngăn cản được. Đó là
phải giữ cho Hồng Hà tồn tại và phát triển,để hình ảnh thương hiệu Hồng Hà với
hai chữ HH trên sóng nước sông Hồng phải được mãi trường tồn.
Suốt thế kỷ, những sản phẩm mang thương hiệu Hồng Hà vẫn luôn là người
bạn đồng hành thân thiết với nhiều thế hệ người Việt Nam. Ngày nay, chất lượng
sản phẩm ngày càng cao được người tiêu dùng ưa chuộng và lựa chọn, như thế hiện
tấm lòng chi ân của những người con Hồng Hà với đất mẹ.
50 năm phát triển, Nhà máy trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử với các cuộc
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, với sự chuyển mình của các giai đoạn đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế. Mặc dù có những thời kỳ khó khăn chồng chất, thậm chí có lúc tưởng như
đứng bờ vực phá sản. Nhà máy vẫn tiếp tục đứng vững và phát triển không ngừng.
Nửa thế kỷ với 4 giai đoạn lịch sử đáng nhớ như những thước phim quay
chậm sẽ tái hiện chân thực và cô đọng nhất quá trình phát triển của nhà máy:
a) Thời kỳ xây dựng, sản xuất và chiến đấu (1959-1975)
 Giai đoạn xây dựng (1959 – 1965)
 Giai đoạn sản xuất và chiến đấu (1965 – 1975)
b) Thời kỳ khôi phục chiến tranh và kiến thiết (1975 - 1986)
c) Thời kỳ thử thách và phát triển (1986 - 2005)
 Giai đoạn thử thách (1986 - 1997)
 Giai đoạn phát triển (1998 - 2005)
d) Thời kỳ hội nhập (2006 – đến nay)
2) Cơ cấu tổ chức của công ty:
Sv: Đoàn Thùy Dương - 8 -
Đề án môn học


a. Đồng Quản Trị:
Bao gồm có 5 thành viên trong đó có 1 Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị và 4 ủy
viên. Hội đồng Quản trị là cơ quan có đầy đủ quyền hạn để thực hiện tất cả các
quyền nhân danh Công ty, trừ những thẩm quyền thuộc về Đại hội đồng cổ đông.
Hội đồng Quản trị phải báo cáo Đại hội đồng cổ đông về hoạt động của mình, cụ
thể là về việc giám sát của Hội đồng Quản trị đối với Tổng Giám đốc và những cán
bộ quản lý khác trong năm tài chính.
b. Ban Giám Đốc:
Sv: Đoàn Thùy Dương - 9 -
Hội Đồng Quản Trị
Tổng Giám Đốc
Ban Kiểm Soát
Phó Tổng Giám Đốc 1 Phó Tổng Giám Đốc 2
Giám
đốc
QL
chất
lượng
Giám
đốc
phụ
trách
sản
xuất
Giám
đốc
kinh
doanh
,dịch

vụ
Giám
đốc
tài
chính
Giám
đốc
mar
Giám
đốc tổ
chức
hành
chính
Giám
đốc
phụ
trách
kỹ
thuật
Giám
đốc
phụ
trách
R&D
PGĐ phụ
trách sx
giấy vở,
đồ dùng
học tập
PGĐ

p.trách
sx đồ
dùng
văn
phòng
PGĐ
phụ
trách sx
bảng,
giá, kệ
PGĐ về
xuất
bản
phẩm
Phó tổng
giám đốc
phụ trách
6 nhà
máy trực
thuộc.
Đề án môn học
Ban lãnh đạo Công ty bao gồm 1 Tổng Giám đốc & 3 Phó Tổng giám đốc,
các Khối Phòng ban chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ban lãnh đạo Công ty, cùng với
đó là 06 Nhà máy trực thuộc Công ty.
3) Các sản phẩm chính của cổng ty:
 Giấy - vở
 Dụng cụ học tập
 Đồ dùng văn phòng
 Xuất bản phẩm
 Đồng phục học sinh

 Bàn - bảng - giá - kệ
 Túi - cặp - ba lô.
II. Phân tích thực trạng khả năng thanh toán của công ty thông qua các chỉ
số về khả năng thanh toán:
1) Tỷ lệ các khoản phải thu / các khoản phải trả.
Các khoản phải thu trong 6 tháng đầu năm 2010 là 86.473.277.281 VNĐ
Các khoản phải trả của công ty trong 6 tháng đầu năm là 207.769.687.352 VNĐ
Ta thấy tỷ lệ các khoản phải thu / các khoản phải trả
= 86.473.277.281 / 207.769.687.352
= 0,4162
Điều này cho thấy: cứ 1 đồng nợ phải trả thì được tài trợ chỉ với 0,4162 đồng
các khoản phải thu, có nghĩa là các khoản phải trả của doanh nghiệp là lớn hơn các
khoản phải thu 2.403 lần. Điều này cũng chứng tỏ rằng trong 6 tháng đầu năm 2010,
công ty cổ phần văn phòng phẩm Hồng Hà có xu hướng chiếm dụng vốn của các
nhà cung cấp.
Bên cạnh đó ta cũng thấy tỷ lệ này đầu năm 2010 là
= 41.763.682.643 / 188.818.732.632
= 0,2218.
Tức là trong 6 tháng đầu năm này, công ty đã chiếm dụng vốn của các nhà
cung cấp nhiều hơn so với đầu năm. Đầu năm, cứ 1 đồng nợ phải trả thì được tài trợ
bằng 0,2218 đồng các khoản phải thu, tức là nợ phải trả cao gấp 4,5 lần so với các
khoản phải thu. Như vậy, khi so sánh tỷ lệ các khoản phải thu so với các khoản phải
trả trong 6 tháng đầu năm 2010 so với đầu kỳ thì ta thấy khả năng thanh toán của
công ty cổ phần văn phòng phẩm Hồng Hà đã được cải thiện đáng kể.
Sv: Đoàn Thùy Dương - 10 -
Đề án môn học
Tuy nhiên, tỷ lệ này không hoàn toàn phán ánh khả năng thanh toán của công
ty là tốt hay xấu. Ta phải xem xét dựa trên tổng thể tình hình tài chính của công ty,
cũng như các chỉ số khác như hệ số thanh toán ngắn hạn, hệ số thanh toán nhanh và
hệ số thanh toán hiện thời (hệ số thanh toán ngay).

2) Hệ số thanh toán ngắn hạn.
Hệ số thanh toán ngắn hạn thế hiện mối quan hệ giữa tổng tài sản lưu động
và đầu tư ngắn hạn với nợ ngắn hạn.
Ht = (Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn) / Nợ ngắn hạn
Tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn = 216.153.883.428 VNĐ
Nợ ngắn han = 207.769.687.352 VNĐ
Ht = 216.153.883.428 / 207.769.687.352
=1,04
Điều này cho thấy, cứ 1 đồng nợ ngắn hạn thì được chi trả bằng 1,042 đồng
tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn.
Ht0 = 199.532.954.551 / 188.818.732.632
=1,056
Ta thấy, hệ số thanh toán ngắn hạn 6 tháng đầu năm 2010 là
Ht = 1,040 >1 chứng tỏ khả năng thanh toán của công ty là tương đối tốt, công
ty có khả năng chi trả các khoản nợ ngắn hạn.
Tuy nhiên, tỷ lệ này lại giảm so với đầu kỳ là 1,056. Để tìm hiểu nguyên nhân
ta cần xét tới:
• Xem xét tỷ trọng của hàng tồn kho và các khoản phải thu khó đòi trong
tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn.
• Xem xét tới tốc độ tăng của tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn cũng như
tốc độ tăng của nợ ngắn hạn.
Ta thấy, tỷ trọng của các khoản phải thu khó đòi so với tổng tài sản lưu động
và đầu tư ngắn hạn là 57,83%, giảm 1,08% so với đầu kỳ là 62,58%, chứng tỏ
doanh nghiệp đã thu về được 1 lượng vốn gửi bên ngoài. Bên cạnh đó tỷ trọng hàng
tồn kho là 56,89%, tăng 4,85% so với đầu kỳ là 52,04%. Điều này làm cho tổng tài
sản lưu động và đầu tư ngắn hạn tăng với tốc độ là 8,33%/6 tháng. Tuy nhiên nợ
ngắn hạn lại tăng với tốc độ nhanh hơn là 10,04%, chính điều này lại làm cho hệ số
thanh toán ngắn hạn có xu hướng giảm, hay khả năng thanh toán trong 6 tháng đầu
năm của công ty không được tốt so với đầu năm 2010.
Sv: Đoàn Thùy Dương - 11 -

Đề án môn học
3) Hệ số thanh toán nhanh (quick ratio).
Hệ số thanh toán ngắn hạn không phản ánh đầy đủ và chính xác khả năng
thanh toán của công ty vì có nhược điểm là không loại được hàng tồn kho và các
khoản phải thu khó đòi ra khỏi hệ số. Hệ số thanh toán nhanh thể hiện và phản ánh
chính xác hơn về khả năng thanh toán ngắn hạn của công ty.
Hệ số thanh toán nhanh:
= (133.194.128.088 /207.769.687.352 )= 0,64
Thông thường thì hệ số thanh toán nhanh biến động từ 0,5 – 1 là bình thường.
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nhà phân tích thì cho thấy, nếu hệ số khả năng
thanh toán nhanh mà nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp nhất định sẽ gặp khó khăn trong
việc thanh toán nợ. Theo như trên thì ta thấy Hn = 0,64 của công ty văn phòng
phẩm Hồng Hà cho thấy khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp là bình
thường và cần có giải pháp để nâng cao khả năng thanh toán này. Nếu không, công
ty sẽ không đáp ứng được nhu cầu thanh toán các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
và các khoản phải chi.
4) Hệ số thanh toán ngay hay tức thời (current ratio)
Người ta còn gọi hệ số này là hệ số tiền mặt vì nó cho biết công ty có bao
nhiêu lượng tiền mặt trong quỹ để chi trả cho các khoản nợ ngắn hạn đến hạn trả:
HS = 3.588.318.198 + 40.000.000.000 / 207.769.687.352= 0,209
Ta thấy hệ số này HS = 0,209 < 0,5 nên khả năng mà công ty có thể chi trả
cho các khoản nợ ngắn hạn một cách nhanh chóng khi đến hạn là kém. Thường thì
hệ số này >= 0,5 là lý tưởng. Vì thế cần có kế hoạch nâng cao hệ số khả năng thanh
toán ngay của doanh nghiệp lên.
III. Đánh giá chung về khả năng thanh toán của công ty cổ phần văn phòng
phẩm Hồng Hà:
Từ phân tích trên ta có bảng mô tả các chỉ số về khả năng thanh toán của công
ty như sau:
Các hệ số Cuối kỳ Đầu kỳ
Tỷ số nợ phải thu / nợ phải trả. 0,416 0,222

Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn. 1,040 1,056
Hệ số thanh toán nhanh. 0,640 0,442
Hệ số thanh toán hiện hành (thử axit). 0,209 0,242
Thông qua bảng trên ta thấy:
Tỷ số nợ phải thu / nợ phải trả của công ty cuối kỳ là 0,416 tăng so với đầu kỳ
là 0,222, tức là công ty có khả năng bù đắp nợ phải trả bằng số tài sản gửi ngoài, tức
là tài sản mà khách hàng và đối tác chiếm dụng của doanh nghiệp.
Sv: Đoàn Thùy Dương - 12 -
Đề án môn học
Hệ số thanh toán nhanh cũng tăng từ 0,442 lên 0,64, chứng tỏ rằng việc đáp
ứng các khoản nợ đến hạn, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn và các khoản phải
chi của doanh nghiệp này là tăng lên so với đầu năm 2010.
Bên cạnh đó thì, hệ số thanh toán nợ ngắn hạn lại giảm từ 1,056 đầu kỳ xuống
còn 1,04 cuối kỳ.
Hệ số thanh toán nhanh tăng trong khi hệ số thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp
giảm, chứng tỏ lượng hàng tồn kho của doanh nghiệp tăng so với đầu kỳ. Điều này phù
hợp với phân tích ở trên. Do doanh nghiệp đang thực hiện mục tiêu là mở rộng quy mô
kinh doanh, tăng sức cạnh tranh trên thị trường nên doanh nghiệp đã đẩy mạnh sản xuất
hàng hóa. Đồng thời, vào thời gian 6 tháng đầu năm này là thời gian tất cả các trường học
trên cả nước bước vào năm học mới nên nhu cầu về đồ dùng học tập, giấy vở viết tăng lên
đáng kể, điều này cũng khiến cho doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất hơn nữa. Tuy nhiên,
hàng tồn kho tăng lên 4,85% so với đầu kỳ cũng cho thấy rằng việc xúc tiến bán hàng và
hoạt động bán hàng của doanh nghiệp còn có chút vấn đề khó khăn, khiến cho hàng hóa
còn bị ứ đọng nhiều. Bên cạnh đó cũng cần xem xét tới tỷ lệ hàng tồn kho do kém chất
lượng và mẫu mã không phù hợp để giảm bớt tỷ lệ hàng tồn kho của doanh nghiệp. Hệ số
thanh toán nhanh của doanh nghiệp tăng cho thấy doanh nghiệp ít bị phụ thuộc vào giá trị
lượng hàng tồn kho để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn đến hạn phải trả, hay khả năng
chi trả nợ ngắn hạn bằng tiền mặt, các khoản đầu tư ngắn hạn và các khoản phải thu của
doanh nghiệp là tốt, có khả năng thanh toán ngay các khoản nợ tới hạn trong thời gian
ngắn không phụ thuộc vào lượng hàng tồn kho tồn tại trong doanh nghiệp.

Tuy nhiên, hệ số thanh toán hiện hành hay còn gọi là hệ số thử axit của doanh
nghiệp lại giảm từ 2,242 xuống 2,209, điều này cho thấy rằng, tỷ lệ các khoản phải
thu của doanh nghiệp là rất lớn. Điều này cũng được thể hiện thông qua bảng cân
đối kế toán 6 tháng đầu năm 2010. Bảng cân đối kế toán cho ta thấy rằng các khoản
phải thu tăng tới 107,05% so với đầu năm 2010. Điều này chứng tỏ doanh nghiệp
sản xuất rất có hiệu quả. Tuy nhiên tỷ lệ các khoản phải thu khách hàng tăng
583,47% trong khi các khoản ứng trước của doanh nghiệp chỉ tăng 42,26%, điều
này báo động cho công ty về việc kiểm soát lượng phải thu và phải quan tâm tới khả
năng chi trả nợ của khách hàng. Việc phụ thuộc nhiều vào các khoản phải thu cũng
cho thấy rằng việc quay vòng vốn sản xuất của doanh nghiệp là chưa tốt dẫn đến
việc ứ đọng vốn bên ngoài không tham gia vào quá trình sản xuất hay doanh nghiệp
sử dụng vốn chưa thật hiệu quả.
Nhận xét chung về khả năng thanh toán của công ty cổ phần văn phòng phẩm
Hồng Hà: Công ty có khả năng thanh toán tương đối tốt. Tuy nhiên cần phải nâng cao
khả năng thanh toán của công ty hơn nữa để đảm bảo an toàn tài chính cho công ty.
Sv: Đoàn Thùy Dương - 13 -
Đề án môn học
PHẦN III
SỬ DỤNG QUY TRÌNH LẬP KẾ HOẠCH ĐÊ
LẬP KẾ HOẠCH QUẢN LÝ KHẢ NĂNG THANH TOÁN
CỦA CÔNG TY CP VPP HỒNG HÀ
1) Xác định mục đích tài chính của công ty trong năm tài chính 2010.
Từ phân tích về tình hình tài chính của công ty cổ phần văn phòng phẩm Hồng
Hà, ta có thể xác định mục tiêu tài chính của công ty trong 6 tháng cuối năm 2010 là
 Trở thành công ty đa ngành hay tiếp tục mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh, tăng sức mạnh cạnh tranh trên thị trường, tập trung nguồn lực để xây dựng
Hồng Hà thành doanh nghiệp văn phòng phẩm lớn nhất Việt Nam.
 Tăng khả năng sinh lợi của công ty, đảm bảo lợi ích cho các cổ đông và
nhân viên.
 Nâng cao khả năng thanh toán của công ty đối với bạn hàng và nhà cung cấp.

 Đảm bảo uy tín và duy trì hệ số an toàn cho công ty.
Tuy mục đích tài chính trong năm tài chính 2010 của công ty là như vậy nhưng
trong từng giai đoạn thì công ty lại đặt trọng số cho các mục tiêu là khác nhau.
Tuy nhiên để lập kế hoạch quản lý khả năng thanh toán cho công ty cổ phần
văn phòng phẩm Hồng Hà thì ta cần phân tích môi trường cho công ty như sau:
2) Nghiên cứu và phân tích môi trường.
 Phân tích môi trường ngành:
Sử dụng mô hình 5 lực lượng cạnh tranh của M.Porter:
Khách hàng:
Tỉ lệ người tiêu dùng sản phẩm giấy và đồ dùng văn phòng phẩm ngày một
tăng với yêu cầu ngày càng cao và đa dạng. Kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu
của con người ngày càng nâng cao với rất nhiều mục đích sử dụng khác nhau. Để
đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, công ty cổ phần văn phòng phẩm Hồng Hà
đứng trước thách thức cần phải không ngừng cải tiến về mẫu mã, nâng cao chất
lượng sản phẩm và đa dạng hóa các loại sản phẩm phù hợp với thị hiếu ngày càng
cao của người tiêu dùng. Việc ổn định giá cả sản phẩm cũng gây áp lực cho công ty.
Công ty VPP Hồng Hà cần phải giữ cho giá cả sản phẩm ổn định, ít biến động, điều
này cũng đồng nghĩa là sẽ phải đánh đổi với khả năng tạo lợi nhuận của công ty.
Sv: Đoàn Thùy Dương - 14 -
Đề án môn học
Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn:
Bao gồm đối thủ cạnh tranh sắp ra nhập thị trường và đối thủ cạnh tranh mới
ra nhập thị trường.
Các doanh nghiệp và công ty sản xuất sản phẩm thay thế
Do giấy nói chung và giấy viết cũng như các sản phẩm văn phòng phẩm là sản
phẩm thiết yếu và có những đặc thù riêng, cầu về các loại sản phẩm này rất cao và
rất ít co giãn, vì thế các sản phẩm này hầu như không có sản phẩm thay thế. Do đó,
áp lực về các sản phẩm thay thế cũng như những công ty sản xuất các sản phẩm
thay thế là không cao. Điều đó cũng cho thấy rằng, tình hình tài chính nói chung và
khả năng thanh toán của công ty không chịu nhiều áp lực cạnh tranh từ các sản

phẩm thay thế.
Đối thủ cạnh tranh trực tiếp:
Bên cạnh các công ty khác cùng là công ty con của Tổng công ty giấy Việt
Nam VINAPACO như công ty giấy Bãi Bằng, công ty cổ phần giấy Clever up…
công ty cổ phần văn phòng phẩm Hồng Hà còn có những đối thủ cạnh tranh trực
Sv: Đoàn Thùy Dương - 15 -
Áp lực từ nhà
cung cấp cao:
Áp lực từ đối thủ
cạnh tranh trực
tiếp là trung bình
và cao:
Áp lực từ sản
phẩm thay thế là
thấp:
Áp lực từ đối thủ
cạnh tranh tiềm
ẩn:
.
Áp lực từ khách
hàng cao:
Cạnh tranh nội
bộ ngành cao:
Đề án môn học
tiếp khác như: Công ty giấy vở Hải Tiến, công ty TNHH giấy Tiến Thành, công ty
TNHH giấy An Toàn…
Các công ty cùng là công ty con của Tổng công ty giấy VINAPACO cùng có tỷ
lệ vốn nhà nước cao, tình hình thanh toán và khả năng thanh toán của các công ty này
so với công ty VPP HH có điểm chung là cùng chịu sự chi phối của Tổng công ty giấy
VINAPACO. Tuy nhiên, công ty cũng phải chịu áp lực từ chính sự giống nhau này.

Công ty cần có tình hình thanh toán và khả năng thanh toán lành mạnh và sáng sủa để
tạo uy tín và lòng tin từ Tổng công ty, từ đó có cơ hội thu hút nhiều vốn hơn.
Còn so với các công ty cùng ngành khác như công ty giấy Hải Tiến, Tiến
thành công ty VPP Hồng Hà có khả năng thanh toán sáng sủa và tương đối tốt. Tuy
nhiên, công ty cũng cần lấy đó làm mục tiêu để hoàn thiện và tăng khả năng thanh
toán của công ty hơn nữa trong thời gian tiếp theo.
Các nhà cung cấp, các nhà phân phối:
Các nhà cung cấp về đầu vào như: tài lực, vật lực, nguồn nhân lực…Cung cấp
về nhà xưởng, máy móc thiết bị làm tăng các khoản phải trả của công ty. Cũng như
các doanh nghiệp khác trong toàn nền kinh tế, trong quá trình hoạt động, sản xuất
kinh doanh không tránh khỏi việc đi vay vốn từ các nguồn ở ngoài để đầu tư cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình như ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các
doanh nghiệp khác…Do đó, các nhà cung cấp ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng
thanh toán của công ty. Vì thế công ty cần đảm bảo cho việc chi trả các khoản nợ
này đúng thời hạn.
 Phân tích môi trường vĩ mô,
Các chính sách vĩ mô của Nhà nước cũng ảnh hưởng tới khả năng thanh toán
của công ty.
Ví dụ: Nếu chính sách tiền tệ là nới lỏng, lãi suất sẽ thấp, từ đó doanh nghiệp
sẽ có cơ hội huy động vốn, từ đó khả năng thanh toán của công ty sẽ tăng.
Nếu chính sách tiền tệ là thắt chặt làm giảm lượng cung tiền và như vậy sẽ làm
tăng lãi suất, từ đó hàng hóa, dịch vụ cho tiêu dùng cũng như đầu tư giảm. Điều này
làm cho khả năng thanh toán của công ty gặp khó khăn.
Ngoài các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước ảnh hưởng tới khả năng
thanh toán của doanh nghiệp, mà còn có các yếu tố khác như:
Nếu như tỉ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam với các nước mà công ty nhập
khẩu giấy hoặc các thiết bị thì khả năng thanh toán của công ty sẽ gặp khó khăn
trong việc chi trả cho nhà cung cấp bên nước đó.
Sv: Đoàn Thùy Dương - 16 -
Đề án môn học

Nếu như lạm phát tăng, tiền Việt mất giá, khi đó doanh nghiệp đứng trước khó
khăn về kinh tế, các nhà đầu tư sẽ giảm đầu tư vào Việt Nam cũng như ngành giấy.
Lạm phát tăng còn kéo theo giá các đầu vào tăng lên, giá các thành phẩm cũng tăng
lên. Tất cả các điều này làm cho khả năng thanh toán của công ty gặp khó khăn
trong việc chi trả cho các khoản nợ phải trả và cân đối giữa doanh thu và chi phí
cho hợp lý, làm giảm lợi nhuận của công ty….
Nếu như tỷ lệ đầu tư vào ngành giấy trong nước tăng, doanh nghiệp sẽ có cơ
hội tăng trưởng và phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Điều này thúc đẩy
doanh nghiệp phải nâng cao khả năng thanh toán, có tình hình tài chính sáng sủa để
thu hút được nhiều hơn vốn đầu tư cho doanh nghiệp mình.
 Phân tích môi trường nội bộ của Hồng Hà:
• Về hoạt động sản xuất:
Công ty có cơ sở sản xuất hiện đại với các trang thiết bị hiện đại. Hệ thống các
nhà phân phối trải dài khắp các miền đất nước => Tạo nên hệ thống phân phối bán
hàng tốt => tạo cơ hội làm tăng doanh thu bán hàng => tạo điều kiện để giảm lượng
hàng hóa tồn kho và tăng doanh thu bán hàng, tăng lợi nhuận cũng như tăng khả năng
thanh toán cho công ty.
• Về các hoạt động liên quan tới nguồn nhân lực:
Công ty có đội ngũ nguồn nhân lực trẻ, năng động, nhiệt tình và tận tâm với công
việc. Công ty cũng có những khóa đào tạo huấn luyện cho đội ngũ cán bộ, công nhân
viên trong công ty về năng lực và chuyên môn công việc. Việc đãi ngộ với công nhân
viên cũng được ban giám đốc công ty chú ý: Công ty sắp xếp chỗ ăn nghỉ cho công
nhân viên ở xa, tạo điều kiện cho các công nhân viên được phát huy khả năng của
mình, tạo môi trường làm việc tốt, thân thiện. Công ty cũng có những chế độ lương
thưởng, bảo hiểm xã hội và phụ cấp cho công nhân viên. Công ty quan tâm tới đời
sống của công nhân viên và cả tới gia đình của họ khi gặp những chuyện khó khăn như
thiên tai lũ lụt…=> nguồn nhân lực là điều kiện đầu tiên để công ty có được thành công
như ngày hôm nay, từ một xưởng sản xuất nhỏ với số công nhân viên hạn chế nhưng
nhiệt tình và tâm huyết, nay đã trở thành một trong số những công ty hàng đầu về văn
phòng phẩm => tạo điều kiện tăng năng suất lao động, tăng số lượng sản phẩm đầu ra

về chất lượng và chủng loại => tạo lòng tin với các nhà cung cấp, với bạn hàng và đặc
biệt với khách hàng là người tiêu dùng trực tiếp.
Sv: Đoàn Thùy Dương - 17 -
Đề án môn học
• Về các hoạt động tài chính
ông ty là 1 trong những công ty con của tổng công ty giấy Việt Nam
VINAPACO, được có những ưu đãi về vốn. Nhưng nguồn vốn này là hạn chế. Do
đó hạn chế công ty trong việc phát triển công ty. Nhưng từ khi công ty chuyển đổi
thành công ty cổ phần, được tham gia vào thị trường chứng khoán, công ty có thể
huy động vốn dễ dàng và thuận lợi hơn => khả năng thanh toán sáng sủa hơn, và có
thuận lợi hơn.
• Về hoạt động Marketing.
Về giá: Công ty luôn ưu tiên về ổn định giá cả các sản phẩm tới tay người tiêu
dùng. Ngay cả khi giá cả giấy và bột giấy toàn thế giới đang có xu hướng tăng. Sản
phẩm của Hồng Hà có giá cao hơn các sản phẩm tương tự nhưng mức chênh lệch là
không đáng kể, từ 200đ/sp tới 400đ/sp. Tuy nhiên, công ty luôn giữ cho giá cả ổn
định ở mức cao nhất có thể khi mà các sản phẩm khác tăng giá khi nguồn nguyên
liệu tăng giá.
Về sản phẩm: Công ty luôn cố gắng đem tới cho khách hàng những sản phẩm
chất lượng tốt nhất với mẫu mã đẹp , phong phú và đa dạng về chủng loại…
Về phân phối: Công ty có mạng lưới các nhà phân phối rộng khắp, tuy nhiên ở
miền Nam lại chưa được đầu tư chú trọng => khả năng phân phối của công ty là
tương đối tốt.
Về xúc tiến hỗn hợp: Công ty luôn tạo lập uy tín với khách hàng và các đối tác
để tạo lập lên thương hiệu của mình và luôn cố gắng giữ vững thương hiệu đó. Việc
đưa hình ảnh công ty cũng như sản phẩm của công ty tới người tiêu dùng được công
ty đặc biệt quan tâm.
• Về quản lý:
Đội ngũ quản lý của công ty là những người giàu kinh nghiệm, năng động sâu
sát. Ban quản lý cấp cao luôn hành động theo định hướng khách hàng và tạo điều

kiện phát triển nguồn nhân lực trong công ty.
Sv: Đoàn Thùy Dương - 18 -
Đề án môn học
Từ những phân tích về môi trường như trên, ta có bảng tổng hợp SWOT như sau:
Strength Weakness Opportunities Threats
 Công ty có lịch sử 45
năm tồn tại và phát triển,
do đó thương hiệu VPP
HỒNG HÀ được nhiều
người biết đến và tin
tưởng sử dụng. Sản phẩm
của công ty được người
tiêu dùng bình chọn là
“Hàng Việt Nam chất
lượng cao”, được đứng
trong top 5 những sản
phẩm ngành giấy vở,
thương hiệu Hồng Hà
được bình chọn là một
trong 100 thương hiệu
mạnh. Ngoài ra công ty
cũng được nhận giải
thưởng “Sao vàng đất
Việt” cho thương hiệu
Hồng Hà. Điều này cho
thấy rằng, thương hiệu
giấy vở viết Hồng Hà đã,
đang và sẽ được người
tiêu dùng biết đến,tin
tưởng sử dụng.

 Là một trong những
công ty con của Tổng
công ty giấy Việt Nam
VINAPACO, nên có
nhiều lợi thế về ưu đãi
vốn của nhà nước. V dụ:
được ưu đãi về vốn, về
hoạt động nhập khẩu
giấy và bột giấy…
 Do nguồn nhân lực
đang được trẻ hóa nên
còn hạn chế về kinh
nghiệm, còn nhiều biến
động, không theo kịp so
với sự phát triển của
công ty, cần được đào
tạo bài bản và chuyên
sâu.
 Số lượng các mặt
hàng sản phẩm quá nhỏ
lẻ nên có sự dàn trải
vốn cho các loại sản
phẩm, do vậy không tập
trung theo chiều sâu
vào phát triển sản phẩm
văn phòng phẩm, giấy
vở viết…
 Hệ thống phân phối
được trải rộng về không
gian nhưng chưa

chuyên sâu theo các
dịch vụ việc mở rộng
thị trường miền Trung
và Nam còn gặp khó
khăn do trụ sở chính đặt
tại Hà Nội, gặp khó
khăn trong nghiên cứu
và mở rộng thị trường.
 Do nguyên liệu giấy
trong nước chỉ đáp ứng
được 60% nhu cầu sử
dụng nên phải nhập
khẩu ở nước ngoài chủ
 Công ty đã tham
gia sàn giao dịch
chứng khoán nên việc
huy động vốn được
cải thiện đáng kể, có
cơ hội huy động được
lượng vốn lớn để mở
rộng quy mô sản xuất
và tăng sức cạnh
tranh trên thị trường.
 Số lượng học
sinh, sinh viên trong
toàn nước chiếm tỉ lệ
khá lớn, do đó nhu
cầu sử dụng giấy viết
và đồ dùng văn
phòng phẩm rất lớn

và tiếp tục phát triển
mạnh.
 Ngành giấy Việt
Nam đã cung cấp
được 60% nhu cầu
giấy và tỉ lệ này đang
có xu hướng tăng lên.
 Ngành giấy nói
chung và văn phòng
phẩm nói riêng vẫn
hấp dẫn đầu tư, thu
hút nguồn vốn đầu tư
từ nước ngoài.
 Việt Nam đã gia
nhập WTO nên Hồng
Hà đứng trước thách
thức phải cạnh tranh
không chỉ với các
doanh nghiệp trong
nước mà còn cả doanh
nghiệp nược ngoài về
cả chất lượng, mẫu mã
và số lượng.
 Nguồn nguyên liệu
nhập khẩu phụ thuộc
vào tỷ giá giữa đồng
VN so với ngoại tệ, do
đó công ty đứng trước
thách thức phải đảm
bảo giá sản phẩm ổn

định đồng thời duy trì
doanh thu và chi phí ở
mức hợp lý.
 Sự phân bổ nguồn
nguyên liệu và nhà
máy chưa hợp lý, chủ
yếu ở miền Bắc và
miền Trung, nhưng thị
trường miền Nam lại
bị bỏ ngỏ trong khi
nhu cầu tiêu thụ ở
miền Nam lại rất lớn.
Sv: Đoàn Thùy Dương - 19 -
Đề án môn học
 Nguồn nhân lực đang
được trẻ hóa, nhiệt tình
và tâm huyết trong công
việc.
 Mạng lưới các nhà
phân phối rộng khắp từ
Bắc vào Nam, có trụ sở
tọa lạc tại vị trí đẹp, thuận
tiện giao lưu với các đối
tác cũng như bạn hàng…
Công ty đang tiến hành
xây dựng mạng lưới các
đại lý và cơ sở sản xuất
rộng khắp hơn nữa…
 Bộ máy quản lý cao
cấp năng động sâu sát và

không ngừng được hoàn
thiện
yếu là ở Indonexia, do
đó có nhiều phụ thuộc
vào tỷ giá, không đồng
đều và ổn định.
 Do giá điện, giá
than đang chuyển sang
cơ chế thị trường, giá
xăng thì chuyển hẳn
sang cơ chế thị trường
nên việc sản xuất bị phụ
thuộc nhiều. Đây là khó
khăn chung của tất cả
các doanh nghiệp và
công ty trong nước.
 Cổ đông lớn nhất
của công ty là Tổng
công ty giấy Việt Nam,
nên việc giải ngân vốn
có độ trễ, vì thế việc
đầu tư vào thiết bị và
công nghệ hiện đại chỉ
dừng ở mức trung bình
và không đồng bộ.
3) Mục tiêu của công ty trong 6 tháng cuối năm 2010.
6 tháng cuối năm này, do thị trường có nhiều biến động lớn, giá vàng và đô la
Mĩ liên tục tăng. Một số đầu mối nhập khẩu các mặt hàng như giấy, các loại chất
dẻo nguyên liệu cho biết từ đầu tháng 10 đến nay, giá nhập khẩu các mặt hàng này
liên tục tăng. Do đó, mục tiêu về khả năng thanh toán mà công ty đặt ra

là: Phải nâng cao khả năng thanh toán và duy trì lợi nhuận ở mức hợp lý. Từ
đó ta có cây mục tiêu như sau
Sv: Đoàn Thùy Dương - 20 -
Đề án môn học
4) Xác định các phương án của kế hoạch và lựa chọn phương án tối ưu:
Nâng cao hệ số thanh toán ngắn hạn:
Nâng cao tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, bên cạnh đó giảm bớt nợ ngắn hạn
của doanh nghiệp. Để làm được điều này doanh nghiệp cần phải tăng cường quản lý tài sản
lưu động, nếu như tài sản lưu động lớn thì nhu cầu vay nợ ngắn hạn của doanh nghiệp sẽ
giảm. Tăng tốc độ lưu chuyển hàng tồn kho để tăng hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp,
khiến cho doanh nghiệp giảm được một khoản cho trích dự phòng giảm giá hàng tồn kho.
Tăng đồng thời cả tổng (tài sản lưu động, đầu tư ngắn hạn) và nợ ngắn hạn của
doanh nghiệp nhưng làm sao cho tốc độ tăng của tổng tài sản lưu động lớn hơn tốc
độ tăng của các khoản vay ngắn hạn của doanh nghiệp.
Giảm đồng thời cả tổng tài sản lưu động và nợ ngắn hạn của doanh nghiệp
nhưng kiềm chế tốc độ giảm của tổng tài sản lưu động sao cho tốc độ giảm này nhỏ
hơn tốc độ giảm của nợ ngắn hạn mà doanh nghiệp đang có nghĩa vụ phải trả.
Cải thiện hệ số thanh toán nhanh:
Tăng khoản tiền, đầu tư ngắn hạn, các khoản phải thu và giảm lượng giá trị nợ
ngắn hạn. Doanh nghiệp có thể vay nợ dài hạn để chi trả cho các khoản nợ ngắn hạn
cũng như tăng lượng tiền mặt trong quỹ của doanh nghiệp. Điều này cũng đồng thời
làm cho nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được thu hẹp lại. Nhưng điều này quá mạo
hiểm tới khi các khoản nợ dài hạn tới hạn trả mà doanh nghiệp không có điều kiện
dùng nợ ngắn hạn để chi trả. Doanh nghiệp cũng có thể thúc đẩy lưu chuyển hàng
tồn kho để chuyển giá trị hàng tồn kho thành tài sản có tính thanh khoản cao hơn
như tiền, các khoản phải thu hay đầu tư tài chính ngắn hạn. Điều này buộc doanh
nghiệp phải chú ý và nâng cao chất lượng dịch vụ bán hàng, làm tăng doanh thu và
chất lượng dịch vụ. Để tăng đầu tư tài chính ngắn hạn thì doanh nghiệp nên tăng
lượng chứng khoán trên sàn giao dịch, nhưng cũng cần kiểm tra kỹ lưỡng mệnh giá cổ
phiếu, số lượng giao dịch cũng như lựa chọn những công ty hay ngân hàng phù hợp.

Sv: Đoàn Thùy Dương - 21 -
Nâng cao khả năng thanh toán, duy trì
lợi nhuận ở mức hợp lý
Nâng cao hệ số thanh
toán ngắn hạn từ 1,042
lên xấp xỉ mức 1,5 là
tốt.
Cải thiện hệ số
thanh toán nhanh
từ 0,449 lên mức 0,5
tới 1 là tốt.
Nâng cao hệ số thanh
khoản từ tiền và các
khoản tương đương
tiền
Đề án môn học
Thúc đẩy tốc độ tăng của tài sản lưu động sao cho lớn hơn tốc độ tăng của nợ
ngắn hạn. Trong 1 doanh nghiệp, việc vay nợ ngắn hạn là hết sức cần thiết bởi vì
lượng tiền tự tài trợ của doanh nghiệp không thể tài trợ hoàn toàn hoạt động sản
xuất kinh doanh. Hơn nữa công ty vpp Hồng Hà lại đang trong giai đoạn theo đuổi
mục tiêu tăng trưởng về kinh doanh và quy mô sản xuất nên không thể nào tránh khỏi
việc phải vay nợ nói chung và nợ ngắn hạn nói riêng. Do đó nợ ngắn hạn tăng lên là
điều không thể tránh khỏi. Vì thế trong giai đoạn này cần tập trung, chú trọng để đẩy
mạnh tốc độ tăng của tài sản lưu động lớn hơn tốc độ tăng của nợ ngắn hạn. Để tăng
các loại tài sản có tính thanh khoản cao trong doanh nghiệp như tiền mặt, các khoản
đầu tư tài chính ngắn hạn hay các khoản phải thu. Điều này nghĩa là doanh nghiệp cần
đẩy mạnh tốc độ lưu chuyển hàng tồn kho để quy giá trị hàng tồn kho ra các loại tài sản
khác có tính thanh khoản cao hơn, đồng thời làm cho doanh nghiệp bớt phụ thuộc vào
giá trị hàng tồn kho trong việc chi trả các khoản nợ ngắn hạn tức là nâng cao hiệu suất
sử dụng vốn, không để vốn bị tồn đọng quá nhiều trong doanh nghiệp.

Kiềm chế tốc độ giảm của tài sản lưu động so với tốc độ giảm của nợ ngắn
hạn. Điều này rất khó thực hiện. Bởi vì trong giai đoạn này, doanh nghiệp sẽ có xu
hướng gia tăng sản xuất và mở rộng quy mô sản xuất, điều này cũng đồng nghĩa với
việc doanh nghiệp sẽ đi vay vốn ngắn hạn nhiều hơn để tài trợ cho hoạt động sản
xuất. Thông qua bảng báo cáo kết quả kinh doanh thì ta thấy trong 6 tháng đầu năm
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả tức là giá trị tài sản có tính thanh khoản như
tiền, đầu tư ngắn hạn và các khoản phải thu không thể có xu hướng giảm xút.
Nâng cao hệ số thanh khoản hiện thời (Hệ số thử axits)
Trong 6 tháng đầu năm 2010, công ty cổ phần văn phòng phẩm Hồng Hà có
hệ số thử axit là 0,209. Để nâng cao hệ số thanh toán này, doanh nghiệp cũng có 3
phương cách chính là: tăng lượng tiền mặt trong quỹ và đầu tư tài chính ngắn hạn,
đồng thời giảm nợ ngắn hạn. Thứ 2 là thúc đẩy tốc độ tăng của tiền và các khoản
đầu tư tài chính ngắn hạn lớn hơn so với tốc độ tăng của nợ ngắn hạn. Thư 3 là làm
sao kiềm chế cho tốc độ giảm của tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn là
nhỏ hơn so với tốc độ giảm của nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, với những phân tích dựa
trên mục đích và chiến lược của công ty trong năm tài chính 2010 thì việc giảm nợ
ngắn hạn không phù hợp với chiến lược mà công ty đang theo đuổi vì công ty không
tự tài trợ cho hoạt động sản xuất bằng vốn tự có và lợi nhuận chưa phân phối (lợi
nhuận chưa phân phối cuối kỳ giảm so với đầu kỳ). Vì thế công ty cần phải tăng tốc độ
của tiền và đầu tư ngắn hạn với tỷ lệ lớn hơn so với tốc độ tăng của nợ ngắn hạn.
Sv: Đoàn Thùy Dương - 22 -
Đề án môn học
KẾT LUẬN
Như vậy, qua phân tích tình hình thanh toán của Công ty cổ phần văn phòng
phẩm Hồng Hà trong 6 tháng đầu năm 2010, ta thấy tình hình thanh toán của công
ty là tương đối tốt, sáng sủa và lành mạnh. Tuy nhiên, trong những tháng cuối năm
và sang những năm tài chính sau đó, công ty nên có kế hoạch để nâng cao khả năng
thanh toán hơn nữa.
Sau khi phân tích tình hình thanh toán của công ty, tôi đã đề xuất kế hoạch để
nâng cao khả năng thanh toán của công ty như đã trình bày ở trên.

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn Th.s Đỗ Thị Hồng Việt đã tận tình
hướng dẫn tôi để tôi hoàn thành bản đề án này.
Xin chân thành cảm ơn!
Sv: Đoàn Thùy Dương - 23 -
Đề án môn học
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Lưu Thị Hương – PGS.TS Vũ Duy Hào, năm 2009,Giáo trình tài
chính doanh nghiệp(dùng cho ngoài ngành), Nhà xuất bản đại học Kinh Tế Quốc
Dân, Hà Nội.
2. T.S Đoàn Thị Thu Hà – T.S Nguyễn Thị Ngọc Huyền, năm 2002, Giáo
trình khoa học quản lý 2, nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
3. Phạm Văn Dược và Đặng Kim Cương, năm 1999, Kế toán quản trị và
phân tích kinh doanh, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
4. Lê Thị Phương Hiệp, năm , Phân tích hoạt động kinh tế doanh nghiệp,
Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
5. Nguyễn Tấn Bình, Phân tích tài chính doanh nghiệp, nhà xuất bản Đại
học Mở, Thành Phố Hồ Chí Minh.
6.
7.
8.
Sv: Đoàn Thùy Dương

×