Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của chiều cao cắt cây và thời gian nuôi củ đến chất lượng củ giống hoa lily Sorbonne tại thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.48 KB, 39 trang )

Nghiên cứu ảnh hưởng của chiều cao cắt cây và thời gian nuôi củ đến chất
lượng củ giống hoa lily Sorbonne tại thành phố Việt Trì - tỉnh Phú Thọ
1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Hoa lily là loài hoa có nguồn gốc ôn đới, có vẻ đẹp sang trọng, được thị
hiếu người tiêu dùng rất ưa chuộng và hiện đang là những loại hoa có giá trị
kinh tế cao. Lily là loài hoa cắt cành cao cấp có vẻ đẹp sang trọng, độ bền cao,
hương thơm ngọt ngào, phong phú về màu sắc; không chỉ để trang trí mà còn
được sử dụng điều chế nước hoa, mỹ phẩm, kem chống lão hóa…
Trong chiến lược phát triển nông nghiệp giai đoạn 2010-2020, việc
chuyển đổi cơ cấu cây trồng để nâng cao hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện
tích đất đai đang là một yêu cầu bức thiết của sản xuất. Thực tế trong những
năm qua, ở hầu hết tất cả các địa phương trong cả nước đã có nhiều mô hình
chuyển đổi cơ cấu cây trồng đạt hiệu quả kinh tế cao, trong đó phải kể đến là
những mô hình trồng hoa có giá trị cao.
Phú Thọ là một tỉnh trung du, có nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi cho
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, trong đó phát triển cây hoa lily có rất nhiều tiềm
năng. Tuy nhiên, giống hoa đều phải nhập khẩu từ nước ngoài, chi phí rất cao từ
14 – 15.000đ/củ và đôi khi không chủ động về nguồn giống. Do vậy việc nghiên
cứu sản xuất củ giống nhằm hạ giá thành sản xuất, chủ động cung ứng giống cho
thị trường là rất cần thiết.
Xuất phát từ thực tiễn trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
"Nghiên cứu ảnh hưởng của chiều cao cắt cây và thời gian nuôi củ đến chất
lượng củ giống hoa lily Sorbonne tại thành phố Việt Trì - tỉnh Phú Thọ".
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định chiều cao cắt cây và thời gian nuôi củ đến chất lượng củ giống
hoa lily, góp phần hoàn thiện quy trình nhân giống củ hoa lily trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ.
3. Yêu cầu
Nghiên cứu ảnh hưởng của chiều cao cắt cây và thời gian nuôi củ sau thu


hoạch đến tỷ lệ nảy mầm, khả năng sinh trưởng và chất lượng của giống hoa lily.
2
4. Ý nghĩa của đề tài
4.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp các dẫn liệu khoa học làm cơ
sở bước đầu xây dựng quy trình bảo quản và nhân giống hoa lily.
4.2 Ý nghĩa thực tiễn
Đưa ra quy trình nhân giống củ hoa lily trong điều kiện tự nhiên vùng
Việt Trì, Phú Thọ.
3
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Nguồn gốc, đặc điểm thực vật học và yêu cầu ngoại ảnh của hoa Lily
1.1.1. Nguồn gốc
Hoa lily trên thế giới có nguồn gốc bắt đầu từ Trung Quốc và đây cũng là
nước trồng hoa lily sớm nhất. Những nghiên cứu cho rằng việc trồng lily để lấy
củ ăn làm thuốc bắt đầu từ đời nhà Đường (Trung Quốc), nhưng trước đó cũng
có nhiều bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của hoa lily, như vậy hoa lily được trồng lúc đầu
với hai mục đích làm thuốc và thưởng thức vẻ đẹp. Đến cuối thế kỷ XVI các nhà
thực vật học người Anh đã phát hiện và đặt tên cho các giống lily, đến đầu thế
kỷ XVII lily được di thực từ châu Âu sang châu Mỹ và đến thế kỷ XVIII các
giống lily của Trung Quốc di thực sang châu Âu nhờ vẻ đẹp và hương thơm nên
nó nhanh chóng phát triển và được coi là cây quan trọng của châu Âu và châu
Mỹ [4].
1.1.2. Đặc điểm thực vật học
Lily là cây thân thảo lâu năm, phần dưới mặt đất gồm thân vẩy, thân vẩy
con, thân rễ và rễ. Phần trên mặt đất gồm lá, cán thân, mầm hạt ( một số không
có mầm hạt)
a/ Thân vẩy
Thân vẩy là phần phình to của thân biến thành, trên đĩa thân vẩy có vài

chục vẩy hợp lại, có hình cầu dẹt, hình trứng, hình trứng dài, hình elip… Chất
đất, kỹ thuật trồng và tuổi của thân vẩy ảnh hưởng đến hình thái thân, không có
vỏ bao bọc. Mầu sắc thân vẩy tuỳ theo loài, giống khác nhau có mầu trắng,
vàng, đỏ cam, đỏ tím…Độ lớn của thân vẩy khác nhau do loài, giống. Loại nhỏ
chu vi 6 cm nặng 7 – 8g, loại to chu vi 24 – 25 cm nặng trên 100g, loại đặc biệt
chu vi 34 – 35 cm nặng 350g.
Độ lớn của thân vẩy tương quan chặt chẽ với số nụ hoa. Ví dụ giống lily
loại Thơm chu vi 10 – 13cm có 1- 2 nụ, chu vi 12 – 14cm có 2- 4 nụ, chu vi 14 –
16cm có trên 4 nụ.
Vốn có hình elip, hình kim xoè ra có đốt hoặc không có đốt, mầm vẩy to
ở ngoài, nhỏ ở trong là nơi dự trữ của thân vẩy. Trong đó nước chiếm 70%, chất
bột 23%, một ít lượng protein chất khoáng, chất béo. Bóc bỏ lớp thân vẩy thì tốc
độ nảy mầm của củ càng nhanh, nhưng giảm tốc độ hình thành và lớn của các cơ
quan, giảm số lá và hoa, hoa ra muộn hơn.
4
b/ Rễ
Rễ Lily gồm 2 phần: rễ thân và rễ gốc. Rễ thân còn gọi là rễ trên do
phần thân mọc dưới đất sinh ra có nhiệm vụ nâng đỡ thân, hút nước và dinh
dưỡng, tuổi thọ 1 năm. Rễ gốc gọi là rễ dưới, sinh ra từ gốc thân vẩy, có
nhiều nhánh to khoẻ, là cơ quan chủ yếu hút nước và dinh dưỡng của lily, rễ
lily có tuổi thọ đến 2 năm.
c/ Lá
Lily nhiều lá mọc rải rác thành vòng thưa, hình kim, xoè, hình thuỗn, hình
giải đầu hơi nhọn, không có cuống hoặc cuống ngắn, xanh, lá to hay nhỏ tuỳ
thuộc vào giống, điều kiện trồng và thời gian xử lý. Lá có từ 1 – 7 gân, gân giữa
rõ ràng hơn, giữa lá lõm xuống, lá mầu xanh bóng mềm.
d/ Củ con và mầm hạt
Đại bộ phận Lily có củ con ở gần thân rễ có đường chu vi 0,5 – 3cm số
lượng tuỳ thuộc giống và điều kiện trồng. Giống lily Quyển Đan và các giống
tạp Giao mạch lá có mầm hạt hình cầu hoặc hình trứng. Khi chín có mầu tím tối,

chu vi từ 0,5 – 1,5cm.
e/ Hoa
Hoa Lily mọc đơn lẻ, hoặc xếp đặt trên hoa, bao hoa hình lá nhỏ. Hoa
chúc xuống, vươn ngang hoặc hướng lên. Hình dáng hoa là căn cứ chủ yếu để
phân loại lily như dạng: hình loa kèn thì 1/3 phía trước cong ngược lên, dạng
hình phễu thì 1/3 phía trước cong ngược ra, dạng hình cái cốc, phía trước hơi
cong, dạng hình cầu có 6 cánh hoa thành 2 vòng nối nhau do 3 vòng đài và 3
cánh tạo thành. Mầu sắc như nhau nhưng đài hoa hẹp hơn, cánh đều có hình
elip, gốc có tuyến mật. Nhị đủ 6 cái giữa có cuống mầu xanh nhạt gắn với nhau
thành hình chữ T trục hoa nhỏ dài, đầu trục phình to có 3 khía, tử phòng ở trên.
Mầu sắc hoa rất phong phú: trắng, phấn hồng, đỏ, vàng cam, đỏ tím…
phấn hoa có mầu vàng, đỏ cam, đỏ nâu, nâu tím.
f/ Quả
Hình trứng dài, mỗi quả có vài trăm hạt, 3 ngăn, hạt hình bẹt, xung quanh
có cánh mỏng, hình bán cầu, hình 3 góc, vuông dài, độ lớn, trọng lượng hạt và
số lượng hạt tuỳ theo giống. Trong điều kiện khô lạnh bảo quản được 3 năm [4].
1.1.3. Kỹ thuật nhân giống lily
Có thể nhân giống Lily bằng cách cắm cành, tách củ, nuôi cấy mô, nhân
bằng hạt, mầm hạt…
a/ Giâm vẩy
5
Thời gian giâm vào mùa xuân và mùa thu khi đào củ, chọn củ to mập bóc
bỏ lớp vẩy khô hoặc thối bên ngoài, rồi bóc lấy vỏ lành khoẻ đem ngâm trong
dung dịch Foocmalin 80 lần trong 20 phút, lấy ra dùng nước rửa sạch, hong khô.
Vườn ươm chọn nơi nhiệt độ ổn định thường xuyên duy trì từ 20 – 25
o
C, không
có ánh sáng chiếu xạ. Vườn giâm chiều rộng 40 – 100m, chiều dài tuỳ ý, chất
nền có thể dùng cát thô, cục than bùn, tốt nhất là dùng than bùn có đường kính
0,2 – 0,5cm, độ dày 8 – 10 cm. Giâm vẩy bằng cách cắm nghiêng vẩy vào đất

nền cách nhau 3cm, độ sâu cắm bằng 1/3 đến chiều dài vẩy. Để kích thích ra rễ
có thể dùng NAA nồng độ 100 mg/l phun vào vẩy tỷ lệ ra rễ cao và củ ra rễ
nhanh cây sinh trưởng nhanh. Khi chăm sóc dùng bình phun nước vào vẩy làm
cho vẩy tiếp xúc tốt với đất nền, duy trì ở nhiệt độ 20 – 25
o
C, độ ẩm 30-35%,
sau đó tưới ít nước đề phòng vẩy bị thối. Sau 40 – 60 ngày ở vết thương của vẩy
sẽ ra củ con có rễ, mỗi vẩy có thể đẻ ra 1 – 4 củ con, khi mỗi củ con có đường
kính 0,3 – 1cm sẽ mọc ra 1 -5 rễ con, đợi khi củ con lớn có thể bứng cây con đi
chăm sóc.
b/ Tách củ
Thường thực hiện vào mùa xuân và mùa thu. Chọn củ không sâu bệnh chu
vi từ 8 – 10 cm ngâm trong dung dịch Foocmalin 1/80 lần trong 30 phút lấy ra
rửa sạch hong khô. Lily là cây ưa khí hậu mát và ẩm nên đất trồng phải chọn nơi
nhiệt độ trung bình tháng 7 không quá 22
o
C, đất tốt tơi xốp có điều kiện tưới
nước. Luống rộng từ 100 – 120cm, độ dài tuỳ ý. Khoảng cách hàng và cách cây
10x20cm, mỗi luống rạch 5-6 hàng sâu 12cm, rạch xong tưới đủ nước đợi nước
ngấm đi rồi đặt củ vào hàng cách nhau 10cm, sau đó lấp đất dày 8- 10cm. Chăm
sóc cây con sau khi cây mọc đều thì bón 1 ít đạm, có thể kết hợp bón FeSO
4
để
điều chỉnh độ chua. Mỗi ha bón 37kg (NH4)
2
HPO
4
, 74kg ure, 3,75kg SO
4
hoà

phân vào nước để tưới. Sau 20 ngày bón một lần nữa giống như trên, đến giữa
tháng 6 khi cây bắt đầu có nụ thì mỗi ha bón 75kg (NH
4
)
2
HPO
4
, 22,5 kg KH
2
PO
4
để củ lớn nhanh. Cuối tháng 6 thì phun lên lá dung dịch K
2
SO
4
, KH
2
PO
4
và axit
boric với lượng 22,5kg, 15kg, 30kg cho mỗi ha. Cứ 10 ngày phun 1 lần cho đến
cuối tháng 7 để đảm bảo an toàn, nếu hoà vào nước thì sử dụng với nồng độ
phân là 0,3% nếu phun lên lá thì dùng nồng độ 0,2% [4].
c/ Nhân giống bằng hạt
Nhân giống Lily bằng hạt thường hạn chế ở một số giống như: dòng lily
Thơm, lily Đài Loan, lily Vương. Hạt lily ở trong 3 ngăn nhỏ, hạt chín có mầu
nâu, dẹt bằng mỗi quả có trên 100 hạt, có thể gieo hạt vào chậu hoặc vào khay,
6
đất gieo hạt được phối trộn theo tỷ lệ: đất vườn-mùn cát nhỏ = 2 : 2 : 1 trộn thêm
một lượng phân bón cho hoa. Đáy chậu cần lót sỏi để thoát nước. Hạt gieo cách

nhau 2 – 3cm, gieo hạt xong phủ 1 lớp đất mỏng. Hạt mới thu về thì nảy mầm
nhanh bảo quản càng lâu sức nảy mầm càng kém. Đặt chậu gieo hạt vào trong
nhà ấm, đậy kính hoặc nilon lên trên để giữ nhiệt. Khi nảy mầm trước hết mọc
ra lá mầm giống như cỏ sau đó ra lá rất nhanh, gieo hạt vào vụ xuân đến vụ thu
đã có một số lớn cây ra hoa. Nhân giống bằng hạt có nhiều ưu điểm, được nhiều
cây khoẻ không bị bệnh, có thể được những loại hình mới do tạp giao. Nhưng
đối với đa số Lily từ gieo hạt cho đến khi ra hoa phải mất từ 3 đến 4 năm nên
người ta ít sử dụng phương pháp này [4].
d/ Nhân giống bằng mầm hạt
Có một số Lily nách lá có thể sinh ra nhiều mầm hạt đen tím, mầm hạt
là do một số vẩy hợp lại nó có thể ra rễ, ra lá nếu hái xuống rồi trồng có thể
thành cây con.
1.1.4. Yêu cầu về điều kiện ngoại cảnh
a/ Nhiệt độ
Lily là cây chịu rét khá chịu nóng kém, ưa khí hậu mát ẩm, nhiệt độ thích
hợp ban ngày là 20 – 25
o
C ban đêm là 12
o
C. Nhiệt độ là yếu tố ảnh hưởng đến
sinh trưởng và phát dục của lily, quan trọng nhất là ảnh hưởng đến nẩy mầm của
hạt, đến phát dục của thân, đến sinh trưởng của lá. Xử lý củ giống dòng tạp giao
lily Thơm ở nhiệt độ 4 - 5
o
C trong 5 tuần, có thể kích thích lá vươn dài, đốt dài
và tỷ lệ sinh trưởng của cây ( 1,65 lá/ngày), nhưng làm cho thân nhỏ hơn, giảm
số lá và nụ, sau khi xử lý 18 tuần làm giảm rõ rệt tỷ lệ sinh trưởng và số lá. Từ
khi xuất hiện nụ cho đến khi ra hoa nhiệt độ chênh lệch ngày/đêm ảnh hưởng
đến sinh trưởng của thân, nếu nhiệt độ chênh lệch từ -16
o

C đến 16
o
C thì độ cao
của thân từ 14,2 đến 27cm. Nhiệt độ còn là nhân tố quan trọng điều tiết, khống
chế sự phân hoá hoa. Sự ra hoa của các giống thuộc dòng tạp giao châu á và tạp
giao Lily Thơm đều cần một số ngày nhiệt độ thấp nhất định để thực hiện việc
xuân hoá thì mới có thể ra hoa được.
b/ Ánh sáng
Lily là cây ưa sáng, nhưng ở môi trường hơi bị che sáng thì càng thích
hợp, khoảng 70 – 80% ánh sáng tự nhiên là tốt nhất là với thời kỳ 20cm. Lily là
cây dài ngày, chiếu sáng dài hay ngắn không những ảnh hưởng đến phân hoá
hoa mà còn ảnh hưởng đến sinh trưởng phát dục của hoa. Boontpes 1973 phát
hiện trong quá trình hoạt hoá, mỗi ngày tăng thêm 8 giờ chiếu sáng có thể ra hoa
7
sớm 5 tuần, xử lý dài ngày sẽ tăng tốc độ sinh trưởng và số lượng hoa. Miller
1984 ngày ngắn làm tăng chiều cao cây, cuống hoa và đốt cũng dài thêm, chất
lượng hoa giảm. Chất lượng ánh sáng cũng ảnh hưởng rõ rệt đến sự sinh trưởng
phát dục của củ. Suk… 1960 nghiên cứu ảnh hưởng của ánh sáng lam, đỏ, hồng
ngoại đến sự hình thành củ con của Casabanca và Connecticutking cho thấy tia
hồng ngoại làm tăng số lượng củ con. Nhưng chất lượng ánh sáng không ảnh
hưởng đến độ lớn của củ.
c/ Nước
Đất khô hoặc quá nhiều nước đều ảnh hưởng sinh trưởng, phát dục của
Lily. Thời kỳ đầu cây cần nhiều nước, giai đoạn ra hoa yêu cầu nước giảm nhiều
nước củ dễ bị thối và rụng nụ. Ẩm độ thích hợp nhất cho lily sinh trưởng, phát
triển từ 80 – 85%. Nếu ẩm độ biến động lớn sẽ dẫn đến cháy lá.
d/ Không khí:
Độ nhạy cảm Ethylen ở các giống khác nhau. Giống của dòng châu Á mẫn cảm
nhất, các dòng khác yếu hơn khi chiếu sáng bổ sung 200w/m2, nếu nồng độ CO
2

trong nhà vườn tới 1000u/g sẽ giảm độ nụ bị bại dục và tăng được phẩm chất
hoa [1].
e/ Đất:
Lily có thể trồng trên mọi loại đất, nhưng tốt nhất là trồng trên đất nhiều
mùn, đất thịt pha cát tưới và thoát nước. Lily rất mẫn cảm với muối, đất nhiều
muối cây không hút được nước ảnh hưởng đến sinh trưởng, phân hoá hoa và ra
hoa. Đất kiềm hút sắt, magiê, nhôm không đủ dẫn tới thiếu sắc tố. Các giống
thuộc dòng tạp giao Á châu, lily Thơm yêu cầu pH = 6 – 7, các giống thuộc
dòng Phương Đông yêu cầu thấp hơn pH = 5,5 – 6,5. Đất thiếu canxi lily dễ bị
vàng lá, không ngọn lá.
f/ Phân bón:
Sau khi trồng lily 3 tuần là giai đoạn cần nhiều dinh dưỡng nhất, bởi lúc
này rễ non dễ bị ngộ độc muối. Lily cũng mẫn cảm với Flor dễ bị cháy lá vì vậy
không bón các loại phân có chứa Flor cao mà bón loại phân có hàm lượng Flor
thấp như CaHPO
4
[4].
1.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa trên thế giới
Ngày nay, sản xuất hoa trên thế giới đang phát triển một cách mạnh mẽ và
trở thành một ngành thương mại cao. Sản xuất hoa mang lại lợi ích to lớn cho
nền kinh tế các nước trồng hoa cây cảnh.
8
Diện tích trồng hoa trên thế giới ngày càng mở rộng và không ngừng
tăng lên. Trên thế giới hiện nay sản xuất hoa để xuất khẩu đang trở thành một
ngành mũi nhọn, hầu hết các nước trên thế giới đều có đủ các điều kiện để trở
thành một nước trồng hoa chuyên nghiệp. Các nước khác nhau ở những vùng
địa lý khác nhau có nhu cầu về hoa cũng khác nhau. Nhu cầu thưởng thức hoa
của các nước trên thế giới đều cùng mong muốn được sở hữu những bông hoa
đẹp, thơm, để được thời gian dài, mầu sắc phong phú. Tuy nhiên hoa là cây
trồng sống trong điều kiện tự nhiên có những loại hoa chỉ phù hợp với điều

kiện khí hậu, đất đai ở một nơi nào đó, cho nên không thể nhân ra để trồng
rộng rãi được. Có những giống lại có điều kiện thích nghi cao có thể trồng
được ở khắp mọi nơi. Tình hình xuất hoa trên thế giới được thể hiện ở bảng 1.1
và bảng 1.2 như sau.
Bảng 1.1: Tình hình nhập khẩu hoa một số nước trên thế giới năm 2002
STT N ước % thị trường Loại hoa
1 Đức 36,0 Cẩm chướng, cúc, hồng, layơn, lan
2 Mỹ 21,9 Cẩm chướng, cúc, hồng
3 Pháp 7,4 Cẩm chướng, cúc, hồng, layơn, Đồng tiền
4 Anh 7,0 Cúc, hồng, layơn, đồng tiền
5 Thụy Điển 4,9 Cúc, hồng, đồng tiền
6 Hà lan 4,0 Hồng, layơn, lan
7 Italya 2,9 Cúc, hồng, layơn, đồng tiền
8
Các nước
khác
15,9 Cẩm chướng, cúc, hồng, layơn, lan…
Nguồn: Nguyễn Xuân Linh,2002
Các loại hoa được nhập khẩu nhiều nhất trên thế giới là cẩm chướng,
layơn, cúc, lan, hồng Nước nhập khẩu hoa nhiều nhất chiếm 36% thị trường
hoa thế giới là Đức, nước nhập khẩu hoa nhiều thứ 2 trên thế giới là Mỹ. Các
nước khác nhập khẩu hoa chiếm số lượng nhỏ so với thị trường hoa thế giới.
Ngoài nhu cầu về vật chất con người còn có những nhu cầu khác nữa là nhu cầu
được thưởng thức, nhu cầu được giao lưu học hỏi hoa là một cầu nối tinh thần
giúp con người bày tỏ tâm tư, tình cảm, bộc lộ các cung bậc cảm xúc, giúp con
người giải toả tinh thần, giải toả những vướng mắc trong cuộc sống. Có đôi khi
9
nhờ hoa mà ta nói được nên những lời khó nói. Cây hoa hiện nay được hiện diện
ở khắp nơi, đi đến đâu ta cũng bắt gặp một vườn hoa, một chậu hoa hay chỉ là
một bình hoa nhỏ. Nhưng nhờ có nó mà cuộc sống của chúng ta được tô đẹp

thêm. Ngắm nhìn những bông hoa ta cảm thấy yêu đời hơn.
Bảng 1.2: Tình hình xuất khẩu hoa một số nước trên thế giới năm 2002
TT N ước % thị trường Loại hoa
1 Hà lan 64,8 Lily, hồng, layơn, đồng tiền, tuylip
2 Colombia 12,0 cúc, hồng, layơn, đồng tiền
3 Isarael 5,7 Cẩm chướng, hồng, Đồng tiền
4 Italya 5,0 hồng, cẩm chướng
5 Tây Ban Nha 1,9 Cẩm chướng, hồng
6 Thái Lan 1,6 Cẩm chướng, phong lan
7 Kenya 1,1 hồng, đồng tiền
8 Các nước khác 7,9 Cẩm chướng, cúc, hồng, layơn, đồng tiền…
(Nguồn: Nguyễn Xuân Linh,2002)
Hà Lan là nước xuất khẩu hoa lớn nhất trên thế giới chiếm 64,8% thị
trường hoa thế giới. Đứng thứ 2 về xuất khẩu hoa là Colombia với 12% thị
trường hoa thế giới. Các loại hoa xuất khẩu chủ yếu cũng là cẩm chướng, layơn,
đồng tiền, hồng Hà Lan vừa nước nhập khẩu hoa về chủ yếu để xuất khẩu.[10]
Theo Roger và Alan, ba nước sản xuất hoa lớn chiếm khoảng 50% sản
lượng hoa của thế giới là Nhật Bản khoảng 3.731 tỷ USD; Hà Lan khoảng 3.558
tỷ USD; Mỹ khoảng 3.270 tỷ USD.[5]
Ngành sản xuất hoa hiện nay đang là ngành cho thu nhập cao nhất trong
nền sản xuất nông nghiệp. Từ trồng hoa cho thu nhập cao gấp 4 - 5 lần so với
trồng các cây trồng khác. Hiện nay, trên thế giới đang có xu thế chuyển những
diện tích đất trồng cây cho thu nhập thấp sang trồng hoa có giá trị kinh tế cao.
Bảng 1.3: Giá trị xuất khẩu hoa một số nước năm 2002
Nước
Giá trị xuất khẩu ( Triệu đôla ) Tỷ lệ thay đổi
năm 2002/2001
Tổng
số
Củ Cây

Hoa
cắt

cảnh
10
Toàn thế giới 9.012 790 3.589 3.858 774 + 23
Hà Lan 4.350 607 1.515 2.108 120 +17
Colombia 551 0 0 547 4 +25
Italya 546 3 352 92 100 +99
Đan Mạch 527 5 428 6 88 +95
Bỉ 354 15 186 121 33 +26
Đức 297 13 229 25 29 +13
Kenya 238 0 28 210 1 +14
(Nguồn: Www.pathfastpublishing.com, 2004)
Hà Lan là nước xuất khẩu hoa nhiều nhất trên thế giới nên giá trị xuất
khẩu hoa của nước này cũng cao nhất. Các nước còn lại giá trị xuất khẩu hoa
tương đương với phần trăm xuất khẩu hoa trên thị trường thế giới. Hà Lan là
trung tâm sản xuất hoa của thế giới, nhắc đến hoa thì người tiêu dùng nói đến
hoa hồng Hà Lan, Bungary, Hungary, hoa Tuy lip Hà Lan là nổi tiếng trên toàn
thế giới và không ở nơi đâu trồng được loại hoa này đẹp như ở đất nước những
chiếc cối xay gió. Ngoài ra còn phải kể đến một số nước có truyền thống trồng
hoa ở châu Á như Thái Lan chủ yếu trồng hoa phong lan để xuất khẩu, Trung
Quốc nổi tiếng với hoa đỗ quyên, cúc, các loại hoa trồng chậu. Chi phí sản xuất
hoa ở châu Á thường rẻ hơn so với chi phí sản xuất hoa ở một số nước châu Âu,
vì ở đây giá nhân công rẻ, giá thành các loại vật tư thấp nên một số công ty
trồng hoa của nước ngoài đầu từ vào các nước này để trồng hoa bán thu được lãi
suất cao hơn.
Năm 1997, Hà Lan có 356 ha lily, đứng thứ hai trong tổng diện tích hoa
cắt trồng bằng củ (sau Tuy líp). Sở dĩ hoa lily được phát triển mạnh trong những
năm gần đây là do người Hà Lan đã tạo ra rất nhiều giống mới có hoa đẹp,

chống chịu sâu bệnh tốt, năng suất cao. Ngoài ra, còn do kỹ thuật điều khiển hoa
phát triển nhanh có thể cho hoa quanh năm. Một nguyên nhân nữa là do có sự
đầu tư cơ giới hoá trong việc trồng và chăm sóc đã làm giảm giá thành, vì vậy
hiệu quả kinh tế từ việc trồng lily cao hơn hẳn trước đây.
Hiện nay Hà Lan mỗi năm trồng 18.000ha hoa lily, trong đó xuất khẩu
70%. Nhật Bản là nước có truyền thống dùng hoa cắm và cũng là một trong
những nước tiêu thụ và nhập khẩu hoa cắt lớn nhất châu Á (mỗi năm khoảng
500 triệu USD). Những năm gần đây Hàn Quốc là một trong những nước phát
triển nghề trồng hoa mạnh, lượng xuất khẩu hoa của Hàn Quốc lớn nhất khu vực
Đông Bắc Á. Theo thống kê năm 2002, Hàn Quốc có 15.000 ha trồng hoa với
1,2 vạn người tham gia, giá trị sản lượng đạt 700 triệu USD, gấp 8 lần năm
11
1989. Trong đó, lily là loại cây có hiệu quả kinh tế cao nhất trong các loại hoa ở
Hàn Quốc.[10]
Kenia là nước sản xuất hoa chủ yếu của châu Phi và là nước xuất khẩu
hoa tươi lớn nhất châu lục này. Hiện nay, nước này có tới 3 vạn nông trường
với hơn 2 triệu người trồng hoa, chủ yếu là hoa phăng, hoa lily, hoa hồng.
Mỗi năm nước này xuất khẩu sang châu Âu 65 triệu USD, trong đó riêng hoa
lily chiếm 35%.
Công nghệ sản xuất hoa lily cắt cành ở Đài Loan rất tiên tiến, trình độ
canh tác còn cao hơn Hàn Quốc, chỉ kém Nhật Bản, năm 2001 nước này đã có
490ha trồng lily, trong đó xuất khẩu lily cắt cành đạt 7,4 triệu USD.
Hà Lan là nước có công nghệ tạo giống và trồng lily tiên tiến nhất hiện
nay. Mỗi năm Hà Lan tạo ra từ 15 - 20 giống mới, sản xuất 1,3 triệu củ giống
lily, cung cấp cho 35 nước khác nhau trên toàn thế giới.
Ngoài các nước kể trên còn có nhiều nước trồng lily lớn khác như: Italia,
Mỹ, Đức, Mêhycô, Côlômbia, Israel
1.2.1. Sản xuất và tiêu thụ hoa ở châu Á
Châu Á có 134.000 ha trồng hoa chiếm khoảng 60% diện tích trồng hoa
của thế giới nhưng diện tích trồng hoa thương mại nhỏ. Tỷ lệ thị trường hoa

chiếm 20% thị trường hoa thế giới. Nguyên nhân do các nước châu Á có phần
lớn diện tích đất trồng hoa trong điều kiện tự nhiên và chủ yếu phục vụ cho nhu
cầu của nội địa.
Nghề trồng hoa ở châu Á có từ lâu đời nhưng trồng hoa thương mại phát
triển mạnh từ những năm 80 của thế kỷ XX. Khi các nước châu Á mở cửa tăng
cường đầu tư, đời sống nhân dân được nâng cao, yêu cầu hoa cho khách sạn, du
lịch lớn nên thị trường hoa phát triển mạnh.
Các loại hoa như cúc, layon, huệ đặc biệt hoa lan là sản phẩm hoa nhiệt
đới, đặc sản hoa châu Á được thị trường châu Âu và châu Mỹ ưa chuộng: hoa
đồng tiền, hoa hồng (có nguồn gốc ôn đới), căn cứ vào số liệu lưu lại cho thấy
con người biết trồng hoa hồng từ lâu. Nước Ba Tư cổ đại đã có vườn hồng nổi
tiếng vào thế kỷ thứ VI sau công nguyên. Loài Rosa Gallia là thuỷ tổ của hơn
5000 giống hồng mà ngày nay đang trồng trên khắp thế giới.(Vũ Phạm Hồng
Oanh).[13]
Theo khảo sát của thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, tập quán tặng
hoa và chi tiêu mua hoa của người Nhật đang tăng mạnh trong các dịp kỷ
niệm và các ngày lễ lớn trong năm. Thói quen tặng hoa đang trở thành
12
nếp sống văn hoá của người Nhật Bản. Do điều kiện thiên nhiên ưu đãi,
Nhật Bản có thể tự trồng và cung cấp hầu hết nhu cầu hoa trong nước.
Tuy nhiên, do nhu cầu trong nước về các loại hoa khá phong phú và
giảm chi phí, nhân công tại Nhật khá đắt đỏ không thể cạnh tranh với các
nước khác, kim ngạch nhập khẩu hoa của Nhật Bản ngày càng tăng trong
các năm gần đây.
Hàng năm, nhu cầu nhập khẩu hoa của Nhật Bản khoảng 453 triệu USD,
do nhu cầu trong nước ngày càng tăng cao, năm 2005 kim ngạch nhập khẩu hoa
của Nhật đạt 500 triệu USD. Hoa nhập chủ yếu là các loại hoa không được trồng
phổ biến ở Nhật Bản. Hà Lan là nước cung cấp các loại hoa hồng, hoa loa kèn
và các loại hạt, củ hoa tulíp. Việt Nam, hàng năm xuất khẩu hoa sang Nhật Bản
khoảng 6,2 triệu USD chiếm 1,4% thị phần nhập khẩu hoa Nhật Bản.

Hàn Quốc là nước sản xuất hoa ở vùng Bắc Á, với các loại hoa nổi
tiếng: cúc, lily, và địa lan. Diện tích trồng trọt tăng nhanh từ 2249 ha (1985) lên
4.6.22 ha (2002) và thu lại lợi nhuận cao từ trồng hoa với 789 tỷ won (tương
đương 607 triệu USD).
Sản xuất hoa ở châu Á là một tiềm năng quan trọng thúc đẩy nghề trồng
hoa phát triển trong tương lai. Tuy nhiên hiện nay sự phát triển hoa của các nước
Châu á gặp các điều kiện thuận lợi và hạn chế sau:
- Thuận lợi:
+ Có nguồn gen cây hoa phong phú, đa dạng
+ Khí hậu nhiệt đới, đất đai phù hợp với sinh trưởng và phát triển của
nhiều loài hoa
+ Lao động dồi dào, giá lao động thấp
+ Chính phủ đầu tư khuyến khích phát triển hoa
- Hạn chế:
+ Thiếu giống hoa đẹp, chất lượng cao
+ Chưa có kỹ thuật sản xuất hoa thương mại
+ Vốn đầu tư cao, vay vốn với lãi suất cao
+ Cơ sở hạ tầng cho sản xuất, bảo quản, vận chuyển còn thiếu
+ Thông tin về thị trường chưa đầy đủ
+ Thiếu vốn đầu tư cho nghiên cứu, đào tạo cán bộ
+ Thuế cao, sự kiểm dịch khắt khe của các nước nhập khẩu
1.2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa tại Việt Nam
13
Việt Nam có diện tích đất tự nhiên là 33 triệu ha, trong đó diện tích
trồng hoa còn hạn chế chỉ chiếm khoảng 0,02 % diện tích trồng trọt. Diện tích
hoa tập trung ở các vùng trồng hoa truyền thống như: Ngọc Hà, Quảng An,
Nhật Tân, Tây Tựu (Hà Nội), Đằng Hải, Đằng Lâm (Hải Phòng), Gò Vấp,
Hoóc Môn (Thành phố Hồ Chí Minh), Đà Lạt với tổng diện tích trồng hoa
khoảng 3.500 ha.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2003 cả nước có 9.430 ha hoa

và cây cảnh các loại với giá trị sản lượng 482.6 tỷ đồng được thể hiện ở bảng 1.4
như sau:
Bảng 1.4: Diện tích và giá trị sản lượng hoa cây cảnh
ở Việt Nam năm 2003
STT Tên tỉnh Diện tích (ha) Giá trị sản lượng (triệu đồng)
1 Cả nước 9.430 482.606
2 Hà Nội 1.642 81.729
3 Hải Phòng 814 12.210
4 Vĩnh Phúc 1.029 38.144
5 Hưng Yên 658 26.230
6 Nam Định 546 8.585
7 Lào Cai 52 12.764
8 TP. HCM 572 24.194
9 Lâm Đồng 1.467 193.500
10 Bình Thuận 325 6.640
11 Các tỉnh khác 2.325 78.520
Nguồn: Số liệu Cục Thống kê, 2003
Phong trào trồng hoa ở Việt Nam trong những năm gần đây đã được chú ý
phát triển, diện tích hoa tăng nhanh. Điều kiện khí hậu và đất đai đa dạng tạo
điều kiện để trồng nhiều loại hoa, trong đó phát triển hệ thống hoa thâm canh
được nhà nước quan tâm hỗ trợ. Theo Viện Nghiên cứu rau quả thì hiện nay lợi
nhuận thu được từ 1 ha trồng hoa cao hơn 10 - 15 lần so với trồng lúa, 7 - 8 lần
so với trồng rau. Thông thường các dịp lễ hội hàng năm thường tập trung vào
các thời điểm sau Tết Nguyên đán, khiến cho việc tiêu thụ hoa và giá trị hoa
cũng cao hơn, do vậy các thời vụ trồng hoa dao động từ tháng 11 trở đi (Đặng
văn Đông, Nguyễn Xuân Linh).[3]
Hiện nay, sản xuất hoa ở nước ta được thực hiện bởi 2 đối tượng chính:
nông dân sản xuất tự phát theo xu hướng nhu cầu thị trường trong nước và bởi
14
các doanh nghiệp tư nhân trong nước liên doanh với nước ngoài hoặc 100% vốn

nước ngoài sản xuất hoa chủ yếu cho xuất khẩu. Hoa tiêu thụ trong nước chủng
loại đa dạng và cung cấp ra thị trường theo mùa vụ, chất lượng từ thấp đến cao,
giá cả vừa phải hiệu quả kinh tế không cao, sản xuất nhỏ lẻ thiếu ổn định. hiện
nay, Việt Nam đã xuất khẩu được các sản phẩm hoa cắt cành như hoa hồng,
phong lan, đồng tiền, layơn, lily… sang Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan,
Nhật Bản, ….Tuy nhiên số lượng xuất khẩu không nhiều với doanh thu hơn 10
triệu USD/năm. Sở dĩ sản phẩm hoa cây cành Việt Nam khó thâm nhập vào thị
trường thế giới là do chủng loại, chất lượng, kích cỡ không đồng đều, chưa đáp
ứng được thị hiếu của khách hàng quốc tế.
Ở Việt Nam đã hình thành 3 vùng trồng hoa lớn sau:
- Vùng trồng hoa Đồng bằng sông Hồng: với khí hậu bốn mùa và nhiều
vùng khí hậu đặc thù nên rất thích hợp cho trồng nhiều loại hoa. Hoa được trồng
hầu hết ở các tỉnh trong đó tập trung ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải
Phòng, Nam Định, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc. Hoa ở vùng này chủ yếu phục vụ nhu
cầu trong nước và một phần xuất khẩu sang Trung Quốc
(cúc, hồng ). Hồng là loại hoa trồng phổ biến nhất chiếm 35%, hoa cúc chiếm
30%, hoa đồng tiền là 10%, các loại hoa khác 25%.
- Vùng trồng hoa Đà Lạt: Đà Lạt có điều kiện thời tiết khí hậu rất phù hợp
cho trồng các loại hoa, đây là nơi sản xuất các loại hoa cao cấp với chất lượng
tốt: lily, hồng, đồng tiền, lan Riêng phong lan, địa lan theo thống kê cho thấy
Việt nam có 125 chi, 800 loài lan mọc ở thiên nhiên nước ta. Họ lan đã trở thành
đối tượng cực kỳ phong phú, đặc sắc của hệ thực vật Việt Nam
(Võ Văn Chi - Trần Hợp - Trần Minh Tâm)[13].
- Vùng trồng hoa Đồng bằng sông Cửu Long: đây là vùng trồng hoa có
khí hậu ấm, nóng quanh năm nên thích hợp với nhiều loại hoa nhiệt đới: hoa lan,
đồng tiền Thành phố Hồ Chí Minh là nơi phát triển hoa lan nhiệt đới nhanh
nhất trong cả nước, nhiều trang trại hoa lan được thành lập, kinh doanh và phát
triển mô hình theo trang trại hoa lan tại Thái lan.
Lâm Đồng được coi là trung tâm sản xuất hoa cắt cành lớn nhất cả nước
với khả năng sản xuất hầu như quanh năm. Diện tích trồng hoa của Lâm Đồng

năm 2005 đạt 2027 ha chủ yếu tập trung ở thành phố Đà Lạt, sản lượng hoa
khoảng 640 triệu cành nghề trồng hoa ở Đà lạt dang có xu hướng phát triển
mạnh cùng với việc áp dụng những công nghệ mới.
15
Những năm gần đây, nghề trồng hoa phát triển khá mạnh ở nhiều địa
phương. Theo điều tra của Viện Di truyền nông nghiệp, tại nhiều địa phương
hoa là cây trồng cho thu nhập khá. Ở Hà Nội so với sản xuất 2 lúa 1 mầu, trong
cùng thời điểm trên cùng một diện tích thì trồng hoa có lợi nhuận cao gần 12
lần. Ở Thái Bình có doanh nghiệp trồng hoa đã thu lãi tới 160 triệu
đồng/ha/năm, hay ở Lâm Đồng bình quân cho mức lãi 250 - 300 triệu
đồng/ha/năm từ sản xuất hoa.
Hiện nay, vấn đề quan tâm không chỉ là đảm bảo mục tiêu về diện tích
trồng hoa mà còn là chất lượng và hiệu quả bền vững, cần phải đa dạng hoá các
loại hoa phục vụ nhu cầu trong nước, mặt khác chú trọng các loại hoa chất lượng
cao phục vụ xuất khẩu. Ở Việt Nam một số công ty nước ngoài thiếu đất, lập
doanh nghiệp hoặc liên doanh hợp tác sản xuất hoa. Chỉ tính riêng tỉnh Lâm
Đồng đã có 4 công ty: Nhật Bản, Thái Lan ở Bảo Lộc; Đài Loan ở Di Linh;
Hasfasm ở Đà Lạt. Họ rất chú trọng đến sản xuất các loại hoa chất lượng cao.
Đây là một tín hiệu đáng mừng cho sự phát triển ngành sản xuất hoa ở Việt Nam
nói chung, song cũng đáng lo cho những doanh nghiệp, người sản xuất hoa nội
địa, nếu không cố gắng vươn lên sẽ không thể cạnh tranh được với các doanh
nghiệp này.(Đặng Văn Đông, 2000).[2]
Diện tích trồng hoa ở Việt Nam ngày một tăng nhanh, nhằm đáp ứng nhu
cầu hoa trong nước và để phục vụ cho xuất khẩu. Diễn biến diện tích trồng hoa
của Việt Nam từ năm 2001 – 2010 thể hiện ở bảng số liệu 1.5:
Bảng 1.5: Diễn biến diện tích trồng hoa ở Việt Nam
STT Năm Diện tích (ha)
1 2001 8.002
2 2002 8.520
3 2003 8.960

4 2004 9.500
5 2005 13.000
6 2010 16.000 (ước tính)
( Viện nghiên cứu rau-quả, 2006)
1.2.3. Phương hướng phát triển sản xuất và xuất khẩu hoa tươi đến năm
2015 của nước ta
16
a. Về ứng dụng công nghệ cao: đã được cải thiện đáng kể như thay đổi cơ
cấu giống, nuôi cấy mô, kỹ thuật canh tác, Bảo vệ thực vật tiên tiến, áp dụng
công nghệ nhà lưới có mái che sáng…Tuy nhiên, sự thay đổi này diễn ra không
đồng đều giữa các vùng sản xuất vì có nhiều lí do ( khí hậu thời tiết, trình độ
thâm canh, khả năng đầu tư, khả năng tiếp cận kỹ thuật tiến bộ và thị trường),
Đà lạt có thể coi là địa bàn có tiến bộ nhanh nhất trong cả nước về phát triển sản
xuất hoa cắt cành.
b. Kỹ thuật sản xuất hoa: ở nhiều nơi vẫn chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và
phương pháp nhân giống cổ truyền như: gieo từ hạt, trồng từ củ, mầm nhánh. Các
phương pháp này dễ trồng, giá thành cây giống thấp nhưng chất lượng giống
không cao, dễ bị thoái hóa, làm giảm chất lượng hoa. Vì vậy tuy chủng loại hoa
của Việt Nam khá phong phú nhưng thiếu giống hoa đẹp, chất lượng cao.
c. Về qui mô và tổ chức sản xuất: hầu hết những cơ sở sản xuất hoa cắt
cành ở nước ta còn ở qui mô nông hộ nhỏ, tổ chức sản xuất đơn lẻ, với diện tích
trung bình từ 2000 - 3000 m
2
/hộ. Hộ sản xuất hoa cũng chỉ từ 1 - 2ha. Ở qui mô
sản xuất này không thể áp dụng những tiến bộ như nhà kính, nhà lưới, sân bãi,
mặt bằng, dây chuyền chế biến, bảo quản, vận chuyển lạnh…để đưa sản xuất trở
thành sản xuất công nghiệp. Từng hộ nông dân sản xuất đơn lẻ, thiếu hợp tác là
trở ngại lớn cho việc tạo nguồn hàng hóa lớn và đa dạng với chất lượng hoa cao,
đồng nhất.
d. Nhìn chung sản xuất hoa ở nước ta bị hạn chế rất lớn về thời vụ do

điều kiện khí hậu không thích hợp: ở phía bắc hầu hết các loại hoa có chất lượng
cao chỉ có thể sản xuất được với chất lượng khá trong vụ đông xuân, còn ở các
tỉnh phía nam khí hậu lại càng ít thuận lợi hơn (trừ một số vùng đặc thù).[16]
1.3. Tình hình nghiên cứu hoa lily ở Việt Nam
Những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về hoa lily bước
đầu đã thu được một số kết quả đáng khích lệ. Trong đó phải kể đến một số công
trình nghiên cứu như: " Nghiên cứu nhân nhanh cây hoa Loa kèn mầu (chỉ các
giống lily nói chung) bằng phương pháp tạo củ in vitro". Theo các kết quả
nghiên cứu về tạo củ in vitro hoa Loa kèn mầu thì môi trường thích hợp cho quá
trình tạo củ là môi trường MS có nồng độ đường Saccharose là 4 - 5%. Chế độ
ánh sáng là tối hoàn toàn, tuổi chồi đưa vào tạo củ là 8 tuần tuổi, bình nuôi
không có sự trao đổi khí.
Nghiên cứu nhân nhanh cây loa kèn mầu bằng phương pháp tạo hạt nhân
tạo". Trong tạo hạt nhân tạo nồng độ Na -alginate là 3%, nồng độ dung dịch
17
muối CaCl2 là 75 mM và bảo quản ở nhiệt độ 10
o
C thì khả năng sống và nảy
mầm của hạt là tốt nhất.
Nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ sản xuất hoa lily tại Thành phố
Thái Nguyên năm 2006 – 2007. Do Th.s Bùi Bảo Hoàn làm chủ nhiệm đề tài
Lily là loại hoa cắt cành cao cấp, có vẻ đẹp sang trọng, độ bền cao, hương
thơm ngọt ngào, phong phú về mầu sắc, không chỉ để trang trí mà còn được sử
dụng điều chế nước hoa, mỹ phẩm, kem chống lão hóa…Bởi rất nhạy cảm nên
lily dễ mắc các bệnh gây ra bởi nấm, vi khuẩn, virus…Để tạo cây giống có khả
năng kháng virus và các nguồn bệnh khác, một số nước đã nghiên cứu, ứng
dụng công nghệ tế bào thực vật nhằm nhân giống nhanh và chọn tạo giống mới.
Tiêu biểu, Hà Lan có những phòng thí nghiệm mỗi năm sản xuất cả chục triệu
củ giống Lily để xuất khẩu.
Ở Việt nam từ năm 1991 đến nay, TS Dương Tấn Nhật cùng một số thạc

sĩ, kỹ sư, sinh viên (Phân viện sinh học Đà Lạt) triển khai nhiều đề tài nghiên
cứu nhân giống vô tính hoa lily.
Thời gian gần đây Phân viện sinh học Đà lạt lại có bước đột phá khi
nghiên cứu sản xuất thành công củ giống hoa lily, có thể cung ứng cho thị
trường với giá 3.000 - 5.000 đồng (tùy theo loại, mầu sắc) chỉ bằng 1/2 hoặc 1/3
giá nhập ngoại.
Các nhà khoa học thuộc Phân viện Công nghệ sinh học Đà Lạt và trường
Đại học khoa học tự nhiên (Đại học Quốc gia TP.HCM) đã cho ra đời phương
pháp nhân giống thành công cây hoa lily bằng kỹ thuật nuôi cấy bioreactor. Từ
tế bào của củ hoa lily được nuôi cấy trong bình thủy tinh, được thiết kế chuyên
biệt và đặt trên máy lắc. Sau 3 tháng nuôi cấy, tế bào mô sẽ ra rễ và tạo củ. Sau
đó củ sẽ được nuôi cấy bằng kỹ thuật bioreactor. Từ 1 củ con ban đầu, sau 3
tháng nuôi cấy có thể tạo ra 3 - 4 củ mới. Kỹ thuật nuôi cấy này mở ra triển
vọng mới trong nhân giống và sản xuất cây lily con giá rẻ, chất lượng tốt.
1.4. Kỹ thuật trồng hoa lily
Kỹ thuật trồng hoa lily được tóm tắt theo qui trình sau:
1.4.1. Làm đất và lên luống
- Chọn đất trồng tơi xốp, thoát nước tốt.
- Kiểm tra độ chua của đất để điều chỉnh pH cho thích hợp.
18
- Xử lý đất bằng Foocmaline với tỷ lệ 1/80 - 1/100, tủ nilon 3 - 5 ngày sau
đó mở ra cho đất hả hơi, 3 - 5 ngày nữa mới tiến hành trồng.
- Có thể ngâm ruộng, tốt nhất là đất trồng luân canh với các cây trồng
nước, không dùng đất đã trồng các cây dạng củ: layơn, lily…
- Cách làm đất: cầy lật đất, bừa nhỏ phẳng, nhặt sạch cỏ rác.
- Lên luống: độ cao thấp của luống tùy thuộc vào điều kiện khí hậu, địa
thế đất mà lên luống đảm bảo thoát nước tốt tránh được ngập úng, chân luống
rộng 1,6 m, mặt luống rộng 1- 1,2m, độ cao của luống 30 - 35cm.
1.4.2. Chuẩn bị phân bón lót
- Trước khi trồng trải đều phân trên mặt luống trộn đều phân với đất.

- Thành phần phân hữu cơ hoai mục + vôi + lân.
- Lượng phân bón cho 1m
2
là: 3 - 4 kg phân hữu cơ hoai mục + 0,5 - 1 kg
vôi bột + 5 kg super lân.
1.4.3. Thời vụ
- Lily là cây trồng có nguồn gốc ôn đới nên khi trồng ở Việt Nam thích hợp
là vụ đông, với khí hậu ở Đà Lạt và ở Sapa thì có thể trồng được quanh năm.
- Tùy tthuộc vào thời gian sinh trưởng, phát triển của các giống mà xác
định thời vụ cho thích hợp để thu hoạch hoa vào những ngày lễ, tết, hội hè…
1.4.4. Mật độ, khoảng cách
- Căn cứ vào độ lớn của củ thời vụ trồng mà bố trí cho phù hợp.
- Mật độ 25 - 45 cây(củ)/m
2
- Khoảng cách 15 x 20cm hoặc 20 x 20cm
1.4.5. Cách trồng
- Rạch rãnh sâu 10 cm theo chiều ngang của luống.
- Đặt củ xuống theo khoảng cách đã định
- Lấp lớp đất bột lên trên củ, độ dày lớp đất này tùy thuộc vào kích thước
của củ giống: củ có chu vi 18 - 20 cm lấp sâu 8 - 10 cm, củ có chu vi 16 - 18 cm
lấp sâu 7 - 8 cm.
- Trồng xong phải tưới đẫm nước, có thể tủ gốc giữ ẩmm cho luống
1.4.6. Che sáng
- Sau khi trồng dùng lưới đen che 2 lớp ( bao gồm cả phía trên và xung
quanh luống).
- Khi cây cao được 25 - 30 cm thì tiến hành tháo 1 lớp lưới đi và tháo nốt
lớp còn lại khi cây bắt đầu chớm ra nụ.
1.4.7. Chế độ bón phân thúc, tưới nước cho cây
19
- Bón thúc cho lily vào 2 giai đoạn:

+ Giai đoạn sinh trưởng lá: Sau khi cây mọc 2 - 3 tuần cho đến khi cây có
nụ bón 50g ure + 50g K
2
SO
4
cho 10 m
2
, chia làm 2 - 3 lần.
+ Giai đoạn ra nụ: bón đạm với nồng độ thấp có thể dùng KNO
3
50 -
200g/m
2

- Lily rất cần kali để tăng sức chống chịu và cho hoa đẹp. Cần bón đủ dinh
dưỡng cho cây.
- Cần duy trì ẩm độ ở giai đoạn đầu cho cây ( 80 - 85 %)
- Có thể áp dụng tưới phun, tưới ngấm, tưới nhỏ giọt
1.4.8. Làm cỏ, xới xáo, làm giàn đỡ cây
- Thường xuyên nhổ sạch cỏ, mặt luống luôn tơi xốp. Xới nhẹ khi cây còn
nhỏ đến khi cây cao được 60 cm thì không cần xới nữa
- Khi cây cao được 20 cm thì có thể dùng lưới căng để đỡ cây, nâng lưới
dần theo chiều cao của cây, cũng có thể dùng cọc để đỡ cây.
1.4.9. Công tác phòng trừ sâu bệnh hại
- Bệnh khô lá: làm lá có vết bệnh mầu nâu dài 6 cm, giữa đốm nâu có
đốm vàng. Dùng Boocdo hoặc Daconil.
- Bệnh mốc tro: có các vết tròn hoặc hình trứng mầu tro, khi bị ẩm độ cao.
Dùng Score hoặc Rovral.
- Bệnh thối rễ, củ: dùng Vicacben, Rhidomil
- Bệnh do virus: gây héo, bạc lá. Chỉ phòng là chính.

* Sâu hại:
- Rệp bông: chích hút hại thân lá. Phun Supraside, Shepa, Selectron…
- Bọ nhẩy: truyền bệnh virus. Phun Shepa, Ofatoc, Selectron…
1.4.10. Thu hoạch và bảo quản
- Cắt hoa khi nụ đầu tiên trên cành chuyển mầu, chừa lại gốc 5 - 6 lá.
- Phân loại cành hoa theo chiều cao và số hoa trên cành
- Tuốt bớt lá ở gốc buộc 10 cành thành 1 bó, bọc trong túi nilon
- Nhúng ngay chân cành hoa vào nước sạch để nơi mát 15 - 20
o
C
- Bảo quản trong kho lạnh, chờ đưa đến nơi tiêu thụ



20
CHƯƠNG II
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Chiều cao cắt cây và thời gian nuôi củ của giống
hoa lily Sorbonne
- Vật liệu nghiên cứu: Giống hoa lily Sorbonne
- Địa điểm thí nghiệm: TT Thực nghiệm, trường Đại học Hùng Vương.
- Thời gian: Từ tháng 10/2010 đến tháng 12/2011
2.2. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng của chiều cao cắt cây và thời gian nuôi củ đến khả
năng để giống của hoa lily.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp điều tra thu thấp số liệu
21
Điều tra các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội theo phương pháp điều tra

thu thập số liệu từ các nguồn: Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, Trạm
khí tượng thuỷ văn, Trung tâm khuyến nông, Trung tâm thực nghiệm trường
Đại học Hùng Vương, các tạp chí chuyên ngành
2.3.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm
- Phương pháp bố trí thí nghiệm: theo khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh
( RCBD) 10 công thức, 3 lần nhắc lại, diện tích ô thí nghiệm là 1 m
2
, chiều dài 1
m, chiều rộng 1 m cho 1 lần nhắc, diện tích khu thí nghiệm là 30 m
2

- Sơ đồ bố trí thí nghiệm:
I 5 8 1 10 6 7 2 9 4 3
II 10 3 6 4 2 1 5 7 8 9
III 7 2 9 5 8 4 3 10 6 1
Công thức 1: cắt cao 10 cm, để củ 1 tháng
Công thức 2: Cắt cao 20 cm, để củ 1 tháng
Công thức 3: Cắt cao 30 cm, để củ 1 tháng
Công thức 4: Cắt cao 10 cm, để củ 2 tháng
Công thức 5: Cắt cao 20 cm, để củ 2 tháng
Công thức 6: Cắt cao 30 cm, để củ 2 tháng
Công thức 7: Cắt cao 10 cm, để củ 3 tháng
Công thức 8: Cắt cao 20 cm, để củ 3 tháng
Công thức 9: Cắt cao 30 cm, để củ 3 tháng
Công thức 10 (Đ/C): không xử lý, dùng củ thương mại được cung cấp bởi
công ty giống cây trồng.
Mỗi công thức 15 củ, với 3 lần nhắc lại tổng thí nghiệm là 450 củ.
- Vụ Đông xuân năm 2010 - 2011 trồng thí nghiệm để lấy củ cho thí
nghiệm vụ tiếp theo. Sau khi thu hoạch hoa, củ lily được xử lý theo các công
thức thí nghiệm, sau đó đưa vào bảo quản ở nhiệt độ 4 - 6

o
C.
2.3.3. Đo đếm thí nghiệm
Cố định các cây theo dõi, 5 ngày theo dõi một lần.
2.3.4. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Các số liệu thí nghiệm được xử lý thống kê theo chương trình xử lý
IRRISTART
2.3.5. Các chỉ tiêu theo dõi
2.3.5.1. Các chỉ tiêu ở thời kỳ bảo quản
22
- Tỷ lệ ra rễ của các công thức: Theo dõi toàn bộ số củ trên từng công thức (%).
Tỷ lệ ra rễ =
Số củ ra rễ
× 100
Tổng số củ trồng
- Tỷ lệ nẩy mầm của các công thức. Theo dõi toàn bộ số củ trên từng công
thức thí nghiệm (%).
Tỷ lệ nảy mầm =
Số củ nảy mầm
× 100
Tổng số củ trồng
2.3.5.2. Các chỉ tiêu sinh trưởng
- Động thái tăng trưởng chiều cao của cây (cm): đo từ mặt đất đến đỉnh
sinh trưởng cao nhất.
- Chiều cao cây ra nụ (cm): đo từ mặt đất đến đỉnh sinh trưởng của cây.
- Động thái ra lá (lá/cây): đếm số lá trên một thân của cây.
- Đường kính thân (cm): mỗi lần nhắc lại đo 10 cây (đo ở vị trí cách mặt
đất 20 cm), tính trung bình.
- Sức nẩy mầm của các giống (10%, 50% và 80%). Theo dõi toàn bộ số củ
trên từng công thức thí nghiệm (ngày). Sức nảy mầm là tỷ lệcủ có mầm lên khỏi

mặt đất.
- Thời gian xòe lá thứ nhất: theo dõi ngày đạt 10%, 50%, 80% cây xòe lá
thứ nhất (ngày)
2.3.5.3. Các chỉ tiêu về hoa
- Ngày ra nụ đầu tiên: là ngày có 10%, 50%, 80% số cây ra nụ đầu tiên.
- Số hoa trên cây (hoa/cây): mỗi lần nhắc lại đếm 10 cây.
- Ngày hoa hé nở (ngày): theo dõi từ trồng đến 10 %, 50%, 80% số cây có
hoa hé nở trên từng công thức.
- Ngày hoa thứ nhất nở hoàn toàn (ngày): theo dõi từ trồng đến 10%,
50%, 80% số cây có hoa nở hoàn toàn của từng công thức.
- Ngày hoa thứ nhất có mầu (ngày): từ trồng đến 10 %, 50%, 80% số cây
có hoa thứ nhất có mầu của từng công thức.
- Phân loại hoa.
2.3.5.4. Độ bền hoa
- Hoa cắt: khi hoa đầu tiên hé nở, cắt vào cắm trong lọ nước sạch mỗi
ngày thay nước một lần, xác định số ngày hoa tồn tại ( nở, héo, tàn), số ngày cả
cành hoa tàn ( hoa cuối cùng tàn), mỗi nhắc lại cắm 3 cành.
23
- Theo dõi độ bền hoa tự nhiên: khi hoa đầu tiên hé nở, xác định số
ngày một hoa tồn tại ( nở, héo, tàn), số ngày cả cành hoa tàn, mỗi nhác lại
theo dõi 3 cành.
2.3.5.5. Tình hình sâu bệnh
- Bệnh hại, đếm số cây bị bệnh ở từng thời điểm xuất hiện bệnh trên tổng
số cây/ô.
- Sâu hại, đếm số cây bị sâu hại ở từng thời điểm xuất hiện sâu trên tổng
số cây/ô.
2.3.5.6.Hạch toán thu chi
Tính toán thu, chi của từng công thức, tính toán lãi thuần thu được trên
một đơn vị diện tích.
24

CHƯƠNG III
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của chiều cao cắt cây và thời gian nuôi củ đến chất lượng củ
giống hoa lily Sorcbonne vụ đông xuân năm 2011
Hoa lily có tính ngủ nghỉ dài nên trong quá trình trồng trọt ta cần phải phá
thời gian ngủ nghỉ của chúng. Bảo quản củ giống có ảnh hưởng rất lớn đến khả
năng sinh trưởng, phát triển, và chất lượng hoa cắt sau này.
Hoa lily được bảo quản trong giá thể (mùn cưa ẩm đã xử lý thuốc diệt
nấm bệnh) để trong kho lạnh sau một thời gian sẽ nảy mầm và ra rễ.
Qua nghiên cứu thí nghiệm, kết quả về tỷ lệ ra rễ và nảy mầm của các
công thức thí nghiệm được trình bày ở bảng 3.1:
Bảng 3.1: Ảnh hưởng của chiều cao cắt cây và thời gian nuôi củ
đến tỷ lệ ra rễ, tỷ lệ nảy mầm và sức nảy mầm giống hoa lily Sorbonne
Công thức Tỷ lệ ra rễ (%) Số rễ (cái) Tỷ lệ nảy mầm (%)
1 100 13,30 27,50
2 80 3,80 7,51
3 100 6,50 17,73
4 100 10,70 36,87
5 100 3,80 6,23
6 100 6,90 7,17
7 100 8,70 13,73
8 100 3,00 84,70
9 100 9,70 80,53
10 (đ/c) 100 12,70 100,00
LSD 0,05 3,953 1,646 4,596
CV% 2,3 12,6 8,2
Qua bảng 3.1 ta thấy:
- Tỷ lệ ra rễ của các công thức thí nghiệm có sự chênh lệch. Trong đó các
công thức đều có tỷ lệ ra rễ tương đương với đối chứng, chỉ có công thức 2 thấp
hơn đối chứng ở mức tin cậy 95%.

- Số rễ/ cây ở các công thức có sự biến động từ 3-13,3 rễ. Trong đó thấp
nhất là công thức 8, thấp hơn đối chứng 9,7 rễ ở mức tin cậy 95%.
- Tỷ lệ nảy mầm ở các công thức đều thấp hơn công thức đối chứng ở
mức tin cậy 95%.
3.2. Ảnh hưởng của chiều cao cắt cây và thời gian nuôi củ đến khả năng
sinh trưởng của lily Sorbonne
25

×