Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Phân tích tài chính doanh nghiệp của Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.8 KB, 66 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại, đứng
vững và ngày càng phát triển, đòi hỏi phải có một tiềm lực tài chính mạnh mẽ để
tiến hành sản xuất kinh doanh và cạnh tranh có hiệu quả. Mặt khác, theo đà phát
triển của nền kinh tế, các mối quan hệ kinh tế tài chính ngày càng trở nên phong
phú và phức tạp.
Vì vậy, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải thường xuyên tiến hành
công tác phân tích tài chính và không ngừng hoàn thiện công tác này, trên cơ sở đó,
định hướng cho các quyết định nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, cải
thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thực tiễn đã chứng minh, nếu các nhà
quản trị doanh nghiệp quan tâm đúng mức tới công tác phân tích tài chính thì họ sẽ
có những quyết định đúng đắn và có nhiều cơ hội thành đạt trong kinh doanh,
ngược lại họ sẽ khó tránh khỏi những quyết định tài chính sai lầm và thất bại.
Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện là một Công ty thành
viên của Tổng Công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam có nhiệm vụ chính là
khảo sát, thiết kế các công trình thông tin và tư vấn xây dựng trên khắp 64 tỉnh
thành. Công tác phân tích tài chính của Công ty đã bước đầu được quan tâm và có
nhiều tiến bộ, tuy nhiên vẫn không tránh khỏi những khó khăn, hạn chế.
Nhận thức được tầm quan trọng của phân tích tài chính, nghiên cứu thực
trạng công tác phân tích tài chính của Công ty, sau thời gian thực tập tại phòng Tài
chính - Kế toán, được sự giúp đỡ của Ban Giám đốc, các cô, chú trong phòng tài
chính - kế toán và cô giáo hướng dẫn PGS.TS Phan Thị Thu Hà em đã lựa chọn đề
tài “Giải pháp hoàn thiện công tác Phân tích tài chính doanh nghiệp của Công ty
Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện” làm đề tài cho chuyên đề tốt
nghiệp của mình. Em xin chân thành cảm ơn các cô, các chú trong Công ty Cổ
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện và cô giáo hướng dẫn đã tận tình giúp
đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:


Chương I: Những vấn đề cơ bản về công tác phân tích tài chính doanh
nghiệp.
Chương II: Thực trạng hoạt động phân tích tài chính tài chính của Công ty
Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài
chính của Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ch¬ng 1
Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ c«ng t¸c ph©n tÝch tµi chÝnh
doanh nghiÖp
1. Khái niệm và mục tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1. Khái niệm
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động
kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
Doanh nghiệp là một cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân.
Có nhiều hoạt động kinh tế chỉ có thể thực hiện được bởi các doanh nghiệp chứ
không phải các cá nhân.
Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp: doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh - tức là thực hiện
một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh
nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp chủ
yếu là: quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước, quan hệ giữa doanh nghiệp với
thị trường tài chính, quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác, quan hệ
trong nội bộ doanh nghiệp. Việc quản lý tài chính luôn luôn giữ một vị trí trọng yếu
trong hoạt động quản lý của doanh nghiệp, nó quyết định tính độc lập, sự thành bại
của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh, đặc biệt trong xu thế hội nhập khu

3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vực và quốc tế, trong điều kiện cạnh tranh đang diễn ra khốc liệt trên phạm vi toàn
thế giới, quản lý tài chính càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Nghiên cứu phân tích tài chính là một khâu quan trọng trong quản lý doanh
nghiệp. Phân tích tài chính được các nhà quản lý bắt đầu chú ý từ cuối thế kỷ XIX.
Từ đầu thế kỉ XX đến nay, phân tích tài chính thực sự được phát triển và được chú
trọng hơn bao giờ hết bởi nhu cầu quản lý doanh nghiệp có hiệu quả ngày càng
tăng, sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống tài chính, sự phát triển của các tập đoàn
kinh doanh và khả năng sử dụng rộng rãi công nghệ thông tin.
Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và
các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý
nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và
chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó.
Quy trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi
trong mọi đơn vị kinh tế được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh nghiệp
thuộc mọi hình thức, các tổ chức xã hội, tập thể và các cơ quan quản lý, tổ chức
công cộng. Đặc biệt sự phát triển của các doanh nghiệp, các ngân hàng và của thị
trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để phân tích tài chính chứng tỏ thực sự là có ích và
vô cùng cần thiết.
1.2. Mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp
Thông qua việc tính toán các chỉ tiêu tài chính, xem xét các mối quan hệ
chiến lược, phân tích tài chính giúp cho người sử dụng thông tin đánh giá chính xác
sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi, triển vọng phát triển của doanh nghiệp và là
cơ sở để dự báo về tình hình tài chính, đưa ra các quyết định tài chính. Bởi vậy,
phân tích tài chính là mối quan tâm của nhiều nhóm người khác nhau như: Ban
giám đốc, các nhà đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, các khách hàng, các nhà quản
lý, kể cả các cơ quan Nhà nước và bản thân người lao động trong doanh nghiệp.
Mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ
4

Website: Email : Tel : 0918.775.368
khác nhau, sử dụng các chỉ số và các thông tin thu được để đưa ra các quyết định
khác nhau.
Phân tích tài chính đối với các nhà quản trị
Các hoạt động nghiên cứu tài chính trong doanh nghiệp được gọi là phân tích
tài chính nội bộ khác với phân tích tài chính bên ngoài do các nhà phân tích ngoài
doanh nghiệp tiến hành, do có thông tin đầy đủ và hiểu rõ hơn về doanh nghiệp, các
nhà phân tích tài chính trong doanh nghiệp có nhiều lợi thế để có thể phân tích tài
chính tốt nhất.
Phân tích tài chính nội bộ có nhiều mục tiêu:
- Tạo thành các chu kỳ đánh giá đều đặn về các hoạt động kinh doanh quá
khứ, giúp nhà quản trị tài chính đánh giá được hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp từ đó tiến hành cân đối tài
chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, trả nợ và rủi ro tài chính của doanh
nghiệp.
- Định hướng các quyết định của Ban giám đốc cũng như của Giám đốc tài
chính: quyết định về đầu tư, tài trợ, phân chia lợi tức cổ phần…
- Là cơ sở cho các dự báo tài chính: kế hoạch đầu tư, phần ngân sách tiền
mặt…
- Cuối cùng phân tích tài chính là công cụ để kiểm soát các hoạt động quản
lý.
Phân tích tài chính làm nổi bật tầm quan trọng của dự báo tài chính và là cơ
sở cho các nhà quản trị, làm sáng tỏ không chỉ chính sách tài chính mà còn làm rõ
các chính sách chung.
Phân tích tài chính với các nhà đầu tư.
Các nhà đầu tư có thể là các cá nhân hoặc các tổ chức đã giao vốn cho doanh
nghiệp - là cổ đông của doanh nghiệp hoặc là những người có vốn nhưng chưa đầu
tư và đang có nhu cầu sử dụng vốn mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Thu nhập của
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368

các nhà đầu tư sẽ là tiền chia lợi tức và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư (thu nhập
trên cổ phiếu), hai yếu tố này chịu ảnh hưởng của lợi nhuận kỳ vọng của doanh
nghiệp. Ngoài ra, một phần không nhỏ thu nhập mà các nhà đầu tư kỳ vọng là phần
giá trị tăng thêm của vốn đầu tư do sự biến động của giá cổ phiếu trên thị trường.
Các nhà đầu tư thường không hài lòng với lợi nhuận tính theo sổ sách kế
toán mà họ thường dựa vào kết quả phân tích tài chính của các nhà chuyên môn để
dự báo vể triển vọng của doanh nghiệp, đánh giá cổ phiếu của doanh nghiệp. Họ rất
quan tâm tới tình hình thu nhập của chủ sở hữu, tới khả năng sinh lời của doanh
nghiệp. Đó là một trong những căn cứ giúp nhà đầu tư ra quyết định có bỏ vốn vào
doanh nghiệp hay không, có nên mua thêm hay bán cổ phiếu mà họ đang nắm giữ?
Phân tích tài chính với người cho vay.
Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của
khách hàng. Chẳng hạn, để quyết định cho vay, một trong những vấn đề mà người
cho vay cần xem xét là doanh nghiệp có thực sự có nhu cầu vay hay không? Khả
năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào? Vì vậy việc phân tích tài chính khách
hàng là rất cần thiết nhằm mục tiêu xác định rõ hiện trạng tài chính của khách hàng:
giá trị tài sản, tình hình công nợ, khả năng thanh toán. Dự báo về tình hình tài chính
của khách hàng trong tương lai, dự báo về các rủi ro có thể xảy ra ảnh hưởng đến
khả năng trả nợ của khách hàng.
Việc phân tích tài chính đối với những khoản nợ dài hạn và ngắn hạn là khác
nhau:
- Nếu là những khoản cho vay ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm
đến khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp.
- Nếu là những khoản vay dài hạn, người cho vay phải tin chắc khả năng
hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà việc hoàn trả vốn và lãi sẽ tuỳ
thuộc vào khả năng sinh lời này.
Phân tích tài chính với những người hưởng lương trong doanh nghiệp
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khoản tiền lương nhận được từ doanh nghiệp luôn là nguồn thu nhập đáng

kể của những người lao động trong doanh nghiệp vì vậy kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp sẽ có tác động lớn đến tiền lương và thu nhập khác
của họ. Ngoài ra, trong một số doanh nghiệp, người lao động được tham gia mua
một lượng vốn cổ phần nhất định, nên có quyền lợi và trách nhiệm gắn với doanh
nghiệp như một nhà đầu tư. Do đó họ rất quan tâm đến tình hình tài chính doanh
nghiệp.
Ngoài ra, phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với một số đối tượng khác
như các cán bộ thuế, thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật sư…Dù họ công tác ở các vị trí
khác nhau, nhưng họ đều muốn hiểu biết về hoạt động của doanh nghiệp nhằm
phục vụ cho công việc của mình.
2. Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp
2.1. Xây dựng quy trình phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính có ý nghĩa quyết định đến kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh, vì vậy công tác phân tích tài chính phải có hiệu quả, mang lại những
thông tin chính xác, đầy đủ phục vụ cho việc ra quyết định của người sử dụng
thông tin. Muốn vậy, công tác phân tích tài chính cần phải được tổ chức thực hiện
theo một quy trình hoàn thiện với nguồn thông tin chất lượng, với phương pháp và
nội dung phân tích phù hợp, khoa hoc. Công tác phân tích tài chính có thể được tiến
hành theo các bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị cho công tác phân tích
- Xác định mục tiêu, kế hoạch phân tích, từ đó lập ra các kế hoạch chi tiết về
nguồn thông tin sử dụng, thời gian tiến hành phân tích, số lượng nhân sự, yêu cầu
trình độ, chuyên môn cán bộ cần cho công tác phân tích, tổ chức phân công công
việc khoa học…
- Lập kế hoạch phối hợp giữa các bộ phận trong quá trình phân tích.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Lựa chọn các phương pháp và nội dung phân tích nhằm hoàn thành mục
tiêu đề ra.
- Thu thập và xử lý sơ bộ các nguồn thông tin bên trong và bên ngoài doanh

nghiệp
Bước 2: Tiến hành phân tích
- Tính toán các chỉ tiêu, nhóm chỉ tiêu tài chính cần thiết, trên cơ sở đó, tuỳ
theo góc độ nghiên cứu khác nhau mà sẽ đi sâu vào phân tích các nội dung có liên
quan.
- Lập bảng biểu để so sánh, phân tích các chỉ tiêu đã tính toán, nhằm tìm ra
nguyên nhân gây ra thực trạng của tình hình tài chính.
Bước 3: Báo cáo kết quả phân tích tài chính.
- Đưa ra nhận xét đánh giá về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Dựa vào đó, đề xuất những giải pháp nhằm phát huy những thành
công và khắc phục những hạn chế.
- Lập kế hoạch, dự báo tài chính cho năm tới.
2.2. Thu thập và xử lý thông tin
* Thu thập thông tin
Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý giải, thuyết
minh thực trạng hoạt động tài chính của doanh nghiệp, phục vụ quá trình dự đoán
tài chính. Nó bao gồm cả những thông tin nội bộ và những thông tin bên ngoài,
những thông tin kế toán và cả những thông tin quản lý khác, những thông tin về số
lượng và giá trị trong đó các thông tin kế toán phản ánh tập trung trong các báo cáo
tài chính là những nguồn thông tin đặc biệt quan trọng.
Thông tin bên ngoài doanh nghiệp.
Trong thông tin bên ngoài, doanh nghiệp cần lưu ý thu thập những thông tin
chung (thông tin liên quan đến trạng thái nền kinh tế, cơ hội kinh doanh, chính sách
thuế, lãi suất), thông tin về ngành kinh doanh (thông tin liên quan đến vị trí của
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngành trong nền kinh tế, cơ cấu ngành, các sản phẩm của ngành tình trạng công
nghệ, thị phần, hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành)
- Các thông tin chung: hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chịu
tác động của nhiều yếu tố thuộc môi trường kinh tế vĩ mô, nên khi tiến hành phân

tích tài chính doanh nghiệp nhà phân tích cần đặt tình hình của doanh nghiệp trong
bối cảnh chung của nền kinh tế trong nước và khu vực.
Sự suy thoái hoặc tăng trưởng của nền kinh tế có tác động mạnh mẽ đến cơ
hội kinh doanh, đến sự biến động của các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ sản
phẩm đầu ra, từ đó tác động đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Khi các tác động diễn ra theo chiều hướng có lợi, hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận tăng và nhờ đó kết quả kinh
doanh trong năm là khả quan. Tuy nhiên, khi các tác động diễn ra theo chiều hướng
bất lợi, nó sẽ tác động xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, các chính sách thuế như thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu, thuế
tiêu thụ đặc biệt và thuế thu nhập doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn đến các quyết
định tài trợ và sản xuất của doanh nghiệp. Bên cạnh đó các cơ hội kinh doanh, các
định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước, sự ổn định chính trị, xã hội…cũng ảnh
hưởng không nhỏ tới kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chính vì vậy, để có sự đánh giá một cách khách quan, chính xác về tình hình
tài chính của doanh nghiệp chúng ta phải xem xét cả các thông tin kinh tế bên ngoài
có liên quan.
- Các thông tin theo ngành kinh tế: Nội dung nghiên cứu trong phạm vi ngành
là việc đặt sự phát triển của doanh nghiệp trong mối liên hệ với các hoạt động
chung của ngành kinh doanh.
Việc nghiên cứu theo ngành chỉ rõ:
+ Tầm quan trọng của ngành nghiên cứu trong nền kinh tế.
+ Các sản phẩm và hoạt động khác nhau của ngành.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Quy trình công nghệ
+ Các khoản đầu tư
+ Cơ cấu ngành (mức độ tập trung hoá, các tập đoàn chủ yếu…)
+ Độ lớn của thị trường và triển vọng phát triển.
Thông tin theo ngành kinh tế đặc biệt là hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành là

cơ sở tham chiếu để người phân tích có thể đánh giá, kết luận chính xác về tình
hình tài chính doanh nghiệp.
Thông tin trong nội bộ doanh nghiệp.
Để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của một doanh nghiệp, có
thể sử dụng thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông
tin quan trọng bậc nhất. Đó là các thông tin tổng quát về tình hình tài sản, sự hình
thành tài sản, sự vận động và thay đổi của chúng qua mỗi chu kỳ kinh doanh của
doanh nghiệp. Tất cả các thông tin này được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo
tài chính.
Hệ thống báo cáo tài chính gồm có:
Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của
một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là một báo cáo tài chính
có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh
doanh và quan hệ quản lý với doanh nghiệp. Thông thường, Bảng cân đối kế toán
được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán: Một bên phản
ánh tài sản và một bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp.
Bên tài sản của Bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện
có tại thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp bao
gồm tài sản cố định và tài sản lưu động. Bên nguồn vốn phản ánh số vốn để hình
thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo: đó là vốn chủ sở
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hữu và các khoản nợ. Các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán được sắp xếp theo
khả năng chuyển hoá thành tiền giảm dần từ trên xuống dưới.
Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh quy mô vốn và kết cấu các loại tài sản;
bên nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả năng độc lập về
tài chính của doanh nghiệp. Bên tài sản và bên nguồn vốn của Bảng cân đối kế toán
đều có các cột chỉ tiêu: số đầu kỳ, số cuối kỳ. Ngoài các khoản mục trong nội bảng
còn có một số khoản mục ngoài Bảng cân đối kế toán như: Một số tài sản thuê

ngoài, vật tư, hàng hoá nhận giữ hộ, nhận gia công, hàng hoá nhận bán hộ, ngoại tệ
các loại…
Mặt hạn chế của Bảng cân đối kế toán cũng như của các báo cáo tài chính
nói chung làm ảnh hưởng đến công tác phân tích tình hình tài chính, đó là dữ liệu
mà chúng cung cấp thuộc về quá khứ trong khi phân tích lại hướng đến tương lai.
Tuy nhiên, Bảng cân đối kế toán vẫn là một tư liệu quan trọng bậc nhất giúp
cho các nhà phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh
toán và khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp. Nhìn vào Bảng cân đối kế toán,
nhà phân tích có thể nhận biết được loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ
tài chính của doanh nghiệp.
Báo cáo kết quả kinh doanh.
Báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của
doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh cũng giúp nhà phân tích
so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá dịch vụ, so sánh tổng
chi phí phát sinh với số tiền thực xuất quỹ, nó cung cấp những thông tin tổng hợp
về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình
độ quản lý sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Nội dung của Báo cáo kết quả kinh doanh là chi tiết hoá của các chỉ tiêu của
đẳng thức tổng quát quá trình kinh doanh:
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Doanh thu – Chi phí = Lợi nhuận
Từ đó Báo cáo kết quả kinh doanh cho biết tình hình sản xuất - kinh doanh
của doanh nghiệp trong năm là lỗ hay lãi. Báo cáo kết quả kinh doanh bao gồm các
khoản mục: doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài
chính, doanh thu từ các hoạt động bất thường và chi phí tương ứng với từng hoạt
động đó.
Hạn chế của Báo cáo kết quả kinh doanh là các chỉ tiêu chi phí phụ thuộc
vào quan điểm của kế toán trong quá trình hoạch toán, doanh thu bán hàng được

ghi nhận ngay khi khách hàng chấp nhận thanh toán, trong khi việc thanh toán tiền
hàng lại xảy ra vào một thời điểm khác. Nhược điểm này dẫn đến sự cần thiết của
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Để đánh giá một doanh nghiệp có đảm bảo được chi trả hay không, cần tìm
hiểu tình hình Ngân quỹ của doanh nghiệp. Ngân quỹ thường được xác định cho
thời hạn ngắn (thường là từng tháng), xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập
quỹ từ hoạt động kinh doanh; dòng tiền thực nhập quỹ từ hoạt động đầu tư, dòng
tiền thực nhập quỹ từ hoạt động bất thường. Xác định dự báo dòng tiền thực xuất
quỹ bao gồm: Dòng tiền xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh doanh, dòng tiền xuất
quỹ thực hiện hoạt động đầu tư, tài chính; dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động
bất thường.
Về cơ bản có hai phương pháp lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Phương pháp
trực tiếp và phương pháp gián tiếp. Phương pháp trực tiếp đơn giản với người lập
và dễ dàng cho người đọc thuộc mọi đối tượng, bắt đầu từ tiền thu bán hàng, đi qua
tất cả các nghiệp vụ kinh tế có liên quan đến chi, thu tiền thực tế để đến dòng ngân
lưu. Phương pháp gián tiếp khá trừu tượng dựa vào các suy luận ngược, bắt đầu từ
lợi nhuận ròng sau đó điều chỉnh các khoản hạch toán thu chi không dùng đến tiền
mặt, loại trừ các khoản lỗ lãi từ hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính, sau đó
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
điều chỉnh những thay đổi của tài sản lưu động trên bảng cân đối kế toán, để đi đến
dòng ngân lưu. Phương pháp gián tiếp nói rõ mối quan hệ giữa Bảng cân đối kế
toán và Báo cáo kết quả kinh doanh.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cùng với Báo cáo kết quả kinh doanh, Bảng cân
đối kế toán chỉ ra được chất lượng của lợi nhuận. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ còn
giúp nhà phân tích giải thích được nguyên nhân thay đổi về tình hình tài sản, nguồn
vốn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp và thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối
thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục tiêu đảm bảo chi trả.
Thuyết minh báo cáo tài chính.

Đây là báo cáo quan trọng được trình bày bằng lời văn nhằm giải thích thêm
chi tiết của những nội dung thay đổi về tài sản, nguồn vốn mà các dữ liệu bằng số
trong các báo cáo tài chính không thể thể hiện hết được như: đặc điểm hoạt động
kinh doanh (hình thức sở hữu, hình thức hoạt động, lĩnh vực kinh doanh…), chế độ
kế toán áp dụng tại doanh nghiệp, phương thức phân bổ chi phí, phương thức trích
khấu hao, tỉ giá hối đoái được dùng để hạch toán trong kỳ, sự thay đổi trong đầu tư,
tài sản cố định, vốn chủ sở hữu, tình hình thu nhập của nhân viên và các tình hình
khác.
Tóm lại, để phân tích tình hình tài chính của một doanh nghiệp, các nhà phân
tích cần phải đọc và hiểu được các báo cáo tài chính, qua đó, họ nhận biết được và
tập trung vào các chỉ tiêu tài chính liên quan trực tiếp tới mục tiêu phân tích của họ.
Thu thập thông tin trong phân tích tài chính là bước đầu tiên nhưng có ý
nghĩa xuyên suốt quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp. Trong bước này, căn
cứ vào mục đích của công tác phân tích tài chính, nhà phân tích sẽ lựa chọn thông
tin cho phù hợp.
* Xử lý thông tin: Giai đoạn tiếp theo của phân tích tài chính là quá trình xử
lý thông tin đã thu thập được. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin ở các
góc độ nghiên cứu, ứng dụng khác nhau, có phương pháp xử lí thông tin khác nhau
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phục vụ mục tiêu phân tích đã đặt ra. Xử lý thông tin là quá trình sắp xếp các thông
tin theo những mục tiêu nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh giá, xác
định nguyên nhân của các kết quả đã đạt được phục vụ cho quá trình dự đoán và
quyết định.
Tuy nhiên phân tích tài chính không có ý nghĩa khi chỉ đơn thuần là công
việc tổng hợp và sắp xếp số liệu trong khi các đối tượng tài chính cần nghiên cứu
lại luôn luôn biến động về số lượng và trạng thái tồn tại. Cho nên ở bước này, các
nhà phân tích tài chính phải biết đặt một đối tượng tài chính này trong mối quan hệ
biện chứng với các đối tượng khác và trong mối liên hệ với các tiêu chuẩn, các định
mức tài chính và kinh tế.

* Dự đoán và ra quyết định: Thu thập xử lí thông tin nhằm chuẩn bị những
tiền đề và điều kiện cần thiết để người sử dụng thông tin dự đoán nhu cầu và đưa ra
các quyết định tài chính. Có thể nói, mục tiêu của phân tích tài chính là đưa ra các
quyết định tài chính. Đối với chủ doanh nghiệp phân tích tài chính nhằm đưa ra các
quyết định liên quan tới mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tăng trưởng, phát
triển, tối đa hoá giá trị xí nghiệp. Đối với người cho vay và đầu tư vào xí nghiệp là
đưa ra các quyết định về tài trợ và đầu tư, đối với cấp trên của doanh nghiệp đưa ra
các quyết định quản lý doanh nghiệp …
Tuy nhiên hiệu quả của công tác dự đoán và ra quyết định tài chính còn phụ
thuộc vào trình độ chuyên môn của các nhà nhân tích cũng như những người sử
dụng thông tin từ hoạt động phân tích tài chính.
2.3. Lựa chọn phương pháp phân tích tài chính
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện
pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối liên hệ bên trong
và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính
tổng hợp và chi tiết, nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp.
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lựa chọn phương pháp phân tích tài chính là một nội dung cơ bản của công
tác phân tích tài chính trong các doanh nghiệp, là chìa khoá để cung cấp thông tin
cho nhà quản trị theo các lợi ích khác nhau. Xuất phát từ đặc điểm hoạt động kinh
doanh của từng bộ phận, từng doanh nghiệp khác nhau trong quá trình phân tích có
thể vận dụng những phương pháp cho phù hợp với mục đích của việc nghiên cứu.
Về lý thuyết có nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp nhưng
trên thực tế người ta thường sử dụng phương pháp so sánh, phương pháp tỷ số và
phương pháp Dupont.
* Phương pháp so sánh.
Phương pháp so sánh là phương pháp sử dụng phổ biến và quan trọng trong
phân tích kinh tế nói riêng và phân tích tài chính nói chung. Theo phương pháp
này, nhà phân tích thường đối chiếu các chỉ tiêu kinh tế với nhau để thấy được mức

độ biến động của các đối tượng đang nghiên cứu. Phương pháp này có ưu điểm là
đơn giản, ít tính toán khi phân tích nên được sử dụng rộng rãi.
Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện để có thể
so sánh được của các chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội
dung, tính chất và đơn vị tính toán...) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc
so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc về mặt thời gian hoặc không gian, kỳ phân
tích được lựa chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể lựa chọn
bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân.
Nội dung so sánh bao gồm:
- So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu
hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của
doanh nghiệp.
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành, của
các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình tốt
hay xấu, được hay chưa được.
- So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng
thể, so sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số tương
đối và số tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp.
Phương pháp này thường được áp dụng rộng rãi trong hầu hết các doanh
nghiệp vì tính đơn giản, dễ thực hiện lại đánh giá được rất nhiều các chỉ tiêu kinh
tế, đặc biệt là các doanh nghiệp thường xuyên xây dựng định mức, kế hoạch, doanh
nghiệp thuộc các ngành đã xây dựng được hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành để
làm chuẩn mực.
*Phương pháp tỷ số
Phương pháp truyền thống được áp dụng trong phân tích tài chính là phương
pháp tỷ số. Phương pháp tỷ số là phương pháp trong đó các tỷ số được sử dụng để

phân tích, đó là các tỷ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu này so với chỉ tiêu khác.
Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng ngày càng
được bổ sung và hoàn thiện do nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến,
cung cấp đầy đủ hơn là cơ sở để hình thành những tỷ lệ tham chiếu đáng tin cậy;
việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích luỹ dữ liệu và thúc đẩy nhanh quá
trình tính toán các tỷ số, hệ thống được hàng loạt các tỷ số theo chuỗi thời gian liên
tục.
Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực của các tỷ số của đại lượng tài
chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến đổi các tỷ số phản ánh sự biến đổi của
các đại lượng tài chính. Các tỷ số này được phân thành các nhóm tỷ số đặc trưng,
phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp.
Bao gồm nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán, nhóm chỉ tiêu về cơ cấu vốn, nhóm
chỉ tiêu về năng lực hoạt động và nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
số lại bao gồm nhiều tỷ số phản ánh riêng lẻ từng bộ phận hoạt động tài chính trong
mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân tích, người phân tích lựa chọn các
nhóm chỉ tiêu khác nhau để phục vụ mục tiêu phân tích của mình.
Cũng như phương pháp so sánh,phương pháp tỷ số đơn giản và được sử
dụng ở rất nhiều doanh nghiệp, nó yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các
định mức, để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, trên cơ sở so
sánh các tỷ số của doanh nghiệp với tỷ lệ tham chiếu. Vì vậy để nâng cao hiệu quả
phân tích tài chính, phương pháp tỷ số thường được sử dụng kết hợp với phương
pháp so sánh.
*Phương pháp Dupont.
Ngoài hai phương pháp trên, người ta còn hay sử dụng phương pháp
Dupont. Phương pháp này do Công ty Dupont của Mỹ sử dụng trong phân tích tài
chính lần đầu tiên vào khoảng sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Ngay sau đó,
phương pháp này đã nhanh chóng thu hút sự chú ý của giới chuyên môn vì tính hữu
dụng của nó và dưới nhiều hình thức được áp dụng rộng rãi tại các công ty lớn ở

Mỹ.
Bản chất của phương pháp phân tích tài chính Dupont là tách một tỷ số tổng
hợp thành tích của chuỗi các tỷ số có mối liên hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho
phép phân tích những ảnh hưởng của các tỷ số thành phần với tỷ số tổng hợp. Với
phương pháp này, các nhà phân tích có thể nhận ra những nguyên nhân dẫn đến các
hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp.
Ví dụ từ chỉ tiêu doanh lợi tài sản - ROA, áp dụng phương pháp Dupont ta có
một cách tính mới như sau:
ROA = LNST / Tài sản = LNST / Doanh thu x Doanh thu / Tài sản
Với cách tính ROA mới này có thể thấy khả năng sinh lợi của đồng vốn
doanh nghiệp bỏ ra đầu tư chịu ảnh hưởng bởi khả năng sinh lợi từ hoạt động tiêu
thụ sản phẩm và hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp.
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phương pháp Dupont rất có hiệu quả trong phân tích, tuy nhiên nó không
được áp dụng rộng rãi mà chỉ áp dụng cho các công ty lớn, có đội ngũ cán bộ phân
tích chuyên trách, có trình độ là do phương pháp này không chỉ đòi hỏi đánh giá sự
tác động của chỉ tiêu thành phần với chỉ tiêu tổng hợp mà còn sử dụng kinh tế
lượng để đánh giá mức độ tác động của các chỉ tiêu thành phần với nhau.
Trong quá trình xây dựng quy trình phân tích tài chính, người làm công tác
quản lý phải biết lựa chọn những phương pháp phân tích phù hợp tuỳ thuộc vào ưu
nhược điểm, điều kiện áp dụng của từng phương pháp cũng như đặc điểm, điều
kiện cụ thể của doanh nghiệp mình.
2.4. Xác định nội dung phân tích tài chính
*Phân tích khái quát hoạt động tài chính doanh nghiệp.
Qua các số liệu từ Báo cáo kết quả kinh doanh và Bảng cân đối kế toán,
chúng ta tiến hành phân tích một cách khái quát nhất tài chính doanh nghiệp để
thấy được xu hướng thay đổi của từng khoản mục theo thời gian. Việc phân tích
được tiến hành ở 3 nội dung chủ yếu sau:
- Về tài sản: so sánh số đầu kỳ với số cuối kỳ về số tuyệt đối và tỷ trọng, so

sánh tỷ trọng từng khoản mục bên tài sản với tổng số tài sản hiện có để thấy được
xu hướng biến động của chúng qua các năm.
- Về nguồn vốn cũng so sánh tương tự như phần tài sản nhằm rút ra những
kết luận chung nhất về khả năng thanh mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, về
khả năng tài trợ cho các tài sản.
- Về kết quả kinh doanh: xem xét sự thay đổi của doanh thu thuần, lợi nhuận
thuần cũng như tỷ trọng của từng loại chi phí trong tổng doanh thu (giá vốn hàng
bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý) để đánh giá xu hướng thay đổi của từng chỉ
tiêu và đánh giá kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
*Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn:
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn là xem xét và đánh giá sự thay
đổi của các chỉ tiêu cuối kỳ so với đầu kỳ trên Bảng cân đối kế toán về nguồn vốn
và cách thức sử dụng vốn của doanh nghiệp. Để tiến hành phân tích diễn biến
nguồn vốn và sử dụng vốn trước tiên nhà phân tích tiến hành lập bảng kê nguồn
vốn và sử dụng vốn (Bảng tài trợ), nó giúp nhà quản lý xác định rõ các nguồn cung
ứng vốn và việc sử dụng các nguồn vốn đó.
Để lập bảng này, trước hết phải liệt kê sự thay đổi các khoản mục trên bảng
cân đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột: Sử
dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc: nếu các khoản mục bên tài sản tăng hoặc
các khoản mục bên nguồn vốn giảm thì điều đó thể hiện việc sử dụng vốn; nếu các
khoản mục bên tài sản giảm hoặc các khoản mục bên nguồn vốn tăng thì điều đó
thể hiện việc tạo nguồn.
Bảng tài trợ
Đơn vị tinh:…
Khoản mục N-1 N Sử dụng vốn Nguồn vốn
I.Tài sản
1. Tiền và tương đương tiền
2. Phải thu

3. Dự trữ
4. Tài sản cố định hữu hình
5.Tài sản cố định vô hình
6.Tài sản tài chính
II. Nguồn vốn
1. Phải trả nhà cung cấp
2. Phải trả, phải nộp khác
3. Vay ngắn hạn
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4. Vay dài hạn
5. Vốn ban đầu
6. Quỹ
7.Lợi nhuận chưa phân phối
Tổng cộng
Việc thiết lập Bảng tài trợ là cơ sở để chỉ ra những trọng điểm đầu tư vốn và
những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để đầu tư.
Ngoài phân tích việc sử dụng vốn và nguồn vốn, người ta còn phân tích tình
hình tài chính theo luồng tiền để xác định sự tăng (giảm) tiền và nguyên nhân tăng
giảm tiền. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp sẽ có những biện pháp quản lý ngân quỹ tốt
hơn.
*Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần có tài sản bao gồm
Tài sản lưu động (TSLĐ) và đầu tư ngắn hạn, Tài sản cố định (TSCĐ) và đầu tư dài
hạn. Để hình thành hai loại tài sản này phải có các nguồn tài trợ tương ứng bao
gồm nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn.
- Nguồn vốn ngắn hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong khoảng
thời gian dưới 1 năm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm: nợ ngắn hạn, nợ
quá hạn, nợ nhà cung cấp và nợ phải trả ngắn hạn khác.
- Nguồn vốn dài hạn là nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng lâu dài cho hoạt

động kinh doanh bao gồm: vốn chủ sở hữu, nguồn vốn vay trung và dài hạn.
Nguồn vốn dài hạn trước hết được dùng để hình thành TSCĐ, phần dư của
nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn được đầu tư hình thành TSLĐ. Chênh
lệch giữa vốn dài hạn với TSCĐ hay giữa vốn ngắn hạn với TSLĐ được gọi là vốn
lưu động thường xuyên (hay còn gọi là vốn lưu động ròng).
Vốn lưu động thường xuyên = Nguồn vốn dài hạn – TSCĐ
hoặc: Vốn lưu động thường xuyên = TSLĐ - Nguồn vốn ngắn hạn
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mức độ an toàn của tài sản ngắn hạn phụ thuộc vào mức độ của vốn lưu
động thường xuyên. Khi vốn lưu động thường xuyên < 0 nguồn vốn dài hạn không
đủ đầu tư cho TSCĐ, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư một
phần TSCĐ. TSLĐ của doanh nghiệp không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ
ngắn hạn đến hạn. Nếu vốn lưu động thường xuyên > 0, nguồn vốn dài hạn dư thừa
sau khi đầu tư vào TSCĐ, phần dư thừa đầu tư vào TSLĐ. Đồng thời TSLĐ >
nguồn vốn ngắn hạn do vậy khả năng thanh toán tốt.
Vốn lưu động thường xuyên = 0 có nghĩa là nguồn vốn dài hạn đủ tài trợ cho
TSCĐ và TSLĐ đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn, tình hình tài chính
như vậy là lành mạnh.
Vốn lưu động thường xuyên là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng để đánh
giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, cho biết doanh nghiệp có đủ khả năng
thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không và TSCĐ của doanh nghiệp có được tài
trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không.
Ngoài vốn lưu động thường xuyên nghiên cứu tình hình bảo đảm nguồn vốn
cho hoạt động kinh doanh người ta còn sử dụng các chỉ tiêu như nhu cầu vốn lưu
động thường xuyên và vốn bằng tiền.
Nhu cầu vốn lưu
động thường xuyên
= Hàng tồn kho +
Các khoản

phải thu
- Nợ ngắn hạn
Vốn bằng tiền =
Vốn lưu động
thường xuyên
-
Nhu cầu vốn lưu động
thường xuyên

Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp
cần để tài trợ cho một phần TSLĐ, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu. Nhu
cầu vốn lưu động thường xuyên > 0 tức là tồn kho và các khoản phải thu > nợ ngắn
hạn, tại đây các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn
hạn, doanh nghiệp phải dùng vốn dài hạn để tài trợ cho phần chênh lệch. Ngược lại,
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nếu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên < 0 nghĩa là các nguồn vốn ngắn hạn dư
thừa để tài trợ các sử dụng ngắn hạn, doanh nghiệp không cần nhận vốn ngắn hạn
để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh.
Vốn bằng tiền < 0 xảy ra tình trạng mất cân đối trong nguồn vốn ngắn hạn và
dài hạn hoặc mất cân đối trong đầu tư dài hạn.
Như vậy, để đảm bảo nguồn vốn và sử dụng vốn kinh doanh đảm bảo sự lành
mạnh về tài chính doanh nghiệp, trước tiên phải có vốn lưu động thường xuyên > 0.
Nếu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên > 0 phải tìm cách làm giảm hàng tồn kho,
tăng thu từ các khoản phải thu; nếu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên < 0 phải
hạn chế vay ngắn hạn từ bên ngoài.
*Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian
Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian nhằm đánh giá chi tiết tình hình tài
chính và dự báo những điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp. Những chỉ tiêu
này là cơ sở để xác lập nhiều hệ số rất có ý nghĩa về hoạt động, cơ cấu vốn…của

doanh nghiệp.
Lãi gộp = Doanh thu - Giá vốn hàng bán
Thu nhập trước khấu
hao và lãi vay
= Lãi gộp -
Chi phí bán hàng,
quản lý
Thu nhập trước thuế
và lãi vay
=
Thu nhập trước
khấu hao và lãi vay
- Khấu hao
Thu nhập trước thuế =
Thu nhập trước thuế
và lãi vay
- Lãi vay
Thu nhập sau thuế = Thu nhập trước thuế -
Thuế thu nhập
doanh nghiệp
Trên cơ sở đó, nhà phân tích có thể xác định mức tăng tuyệt đối và mức tăng
tương đối của các chỉ tiêu qua các thời kỳ để nhận biết tình hình hoạt động của
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
doanh nghiệp. Đồng thời, nhà phân tích cũng so sánh chúng với các chỉ tiêu cùng
loại của các doanh nghiệp cùng ngành để đánh giá vị thế của doanh nghiệp.
*Phân tích các nhóm chỉ tiêu tài chính
Có 4 nhóm chỉ tiêu chủ yếu là tỷ số về khả năng thanh toán, tỷ số về khả
năng cân đối vốn, tỷ số về khả năng hoạt động, tỷ số về khả năng sinh lời.
Tuỳ theo mục đích phân tích tài chính mà nhà phân tích chú trọng nhiều hơn

tới nhóm tỷ số này hay nhóm tỷ số khác. Chẳng hạn, các chủ nợ ngắn hạn đặc biệt
quan tâm tới tình hình khả năng thanh toán của người vay. Trong khi đó, các nhà
đầu tư dài hạn quan tâm nhiều hơn đến khả năng hoạt động và hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Họ cũng cần nghiên cứu tình hình về khả năng thanh toán để đánh giá
khả năng của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thanh toán hiện tại và xem xét lợi
nhuận để dự tính khả năng trả nợ cuối cùng của doanh nghiệp.
Mỗi nhóm tỷ số bao gồm nhiều tỷ số và trong từng trường hợp các tỷ số
được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích. Tuy
nhiên việc phân tích các tỷ số sẽ có ý nghĩa hơn nếu sử dụng số liệu trong các báo
cáo tài chính để minh hoạ bản chất, cách tính toán và ý nghĩa của chúng.
Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp luôn cần huy động các
nguồn tín dụng để tài trợ cho nguồn vốn thiếu hụt của mình. Việc doanh nghiệp có
huy động được nguồn vốn tín dụng hay không phụ thuộc vào uy tín và khả năng tài
chính của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đảm bảo được khả năng thanh toán các
khoản nợ đến hạn thì các chủ ngân hàng, các tổ chức tín dụng yên tâm cho doanh
nghiệp vay vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh. Họ luôn đặt ra câu hỏi liệu
doanh nghiệp có khả năng trả các khoản nợ tới hạn hay không? Để trả lời các câu
hỏi đó thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
- Hệ số khả năng thanh toán hiện hành (hay khả năng thanh toán ngắn hạn)
Khả năng thanh toán hiện hành =
TSLĐ
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nợ ngắn hạn
Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn
hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn
được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương
đương với thời hạn của các khoản nợ đó.
Giá trị của hệ số này còn phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, ngành nghề

nào mà TSLĐ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản thì hệ số này lớn và ngược lại.
Nếu hệ số này lớn hơn 1 thì được coi là an toàn, còn hệ số này nhỏ hơn 1 thì doanh
nghiệp rất dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Tuy nhiên nếu hệ số này
quá cao, khả năng thanh toán là khả quan nhưng khả năng sinh lời chưa hẳn đã tốt
bởi có thể do đầu tư quá nhiều vào TSLĐ so với nhu cầu, một sự đầu tư không
mang lại hiệu quả lâu dài, đòi hỏi doanh nghiệp phải có chính sách phân phối vốn
hợp lí hơn.
- Hệ số khả năng thanh toán nhanh.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh =
Tiền + Phải thu
Nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán nhanh là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh
với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng
chuyển đổi thành tiền, bao gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu.
Tài sản dự trữ (tồn kho) là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng TSLĐ
và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, hệ số khả năng thanh toán nhanh cho biết
khả năng trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ.
Hệ số này cao là tốt cho khả năng thanh toán của doanh nghiệp, nhưng nếu qua cao
có thể do tỷ trọng các khoản phải thu trong tổng TSLĐ quá lớn, điều chứng tỏ
doanh nghiệp đang bị chiếm dụng nhiều vốn hoặc có thể do doanh nghiệp đang duy
trì một mức dự trữ ngân quỹ không hợp lý.
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Hệ số khả năng thanh toán tức thời
Hệ số khả năng thanh toán tức thời = Tiền
Nợ đến hạn
Nợ đến hạn ở đây bao gồm các khoản nợ ngắn han, trung hạn và dài hạn đến
hạn trả. Tuy thuộc vào ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh khác nhau mà các doanh
nghiệp có hệ số khả năng thanh toán tức thời hợp lý khác nhau. Tuy nhiên nếu tỷ số
này quá thấp thì các doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong thanh toán, còn nếu

chỉ tiêu này quá cao có thể do tiền của doanh nghiệp bị ứ đọng quá nhiều, vòng
quay tiền chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn.
Hệ số khả năng thanh toán lãi vay.
Khả năng thanh toán lãi vay =
EBIT
Tổng số lãi vay phải trả trong kỳ
Trong đó EBIT là tổng số lợi nhuận trước thuế và lãi vay phản ánh toàn bộ
số lợi nhuận do các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ mang lại.
Tổng số lãi vay phải trả trong kỳ bao gồm lãi vay ngắn hạn của ngân hàng, công
nhân viên và lãi vay qua trái phiếu. Hệ số khả năng thanh toán lãi vay cho biết mức
độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. Việc không trả được
các khoản nợ này sẽ thể hiện khả năng doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản.
Nhóm chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn
Trong công tác quản trị tài chính doanh nghiệp thì các nhà quản lý thường
mong muốn đạt tới cơ cấu vốn và nguồn vốn tối ưu để sử dụng vốn và nguồn vốn
có hiệu quả nhất. Nhưng trong quá trình phát triển của doanh nghiệp thì cơ cấu này
luôn bị thay đổi, phá vỡ do tình hình đầu tư. Vì vậy việc nghiên cứu về khả năng
cân đối vốn của doanh nghiệp sẽ cung cấp những thông tin cần thiết cho nhà quản
lý để từ đó có sự điều chỉnh hợp lý.
25

×