Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Chính sách điều hành tỉ giá hối đoái ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.41 KB, 48 trang )

GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
MỤC LỤC
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ thế giới
WB World Bank Ngân hàng thế giới
WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
SDR Special Drawing Right Quyền rút vốn đặc biệt
FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
PPP Purchasing Power Parity Thuyết ngang giá sức mua
NHNN: Ngân Hàng Nhà Nước
NHTM: Ngân Hàng Thương Mại
NHTW: Ngân Hàng Trung Ương
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
LỜI MỞ ĐẦU
• Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đã biết thế giới đang bước vào kỷ nguyên của hội nhập kinh tế
và xu hướng toàn cầu hoá diễn ra rộng khắp. Quá trình toàn cầu hóa là quá trình
chứa đựng nhiều mâu thuẫn, có sự xung đột lợi ích giữa các nước, các nhóm nước
và là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế thế
giới hợp lý hơn, công bằng hơn. Khi gia nhập vào các tổ chức thương mại trong khu
vực và trên thế giới, mỗi quốc gia đều có những mục đích riêng, nhưng nhìn chung
thì các nước đều muốn hướng tới một nền kinh tế phát triển, một xã hội văn minh,
hiện đại, đời sống xã hội được cải thiện. Tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá, tiến
cùng thời đại tuy thách thức là rất lớn, nhưng cơ hội cũng rất nhiều: tiếp cận thị
trường về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư Các hoạt động giao dịch về thương mại,
dịch vụ, các giao giao dịch quốc tế diễn ra rất sôi động và với số lượng ngày một


tăng trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia. Tỷ giá hối đoái xuất hiện
cùng với sự xuất hiện của thương mại quốc tế trên cơ sở sản xuất, trao đổi và sử
dụng những lợi thế khác nhau trong phân công lao động quốc tế. Chúng ta biết rằng
duy trì ổn định kinh tế vĩ mô là yêu cầu cần thiết để tăng trưởng kinh tế và là mục
tiêu hàng đầu, tập trung các chính sách kinh tế của chính phủ. Một trong những
công cụ mà chính phủ sử dụng để tác động vào nền kinh tế đó là chính sách tỉ giá.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày nay, khi mà các quá trình quốc tế hoá đã
bao trùm tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh và trong cuộc sống thì sự gia
tăng hợp tác quốc tế nhằm phát huy và sử dụng những lợi thế so sánh của mình làm
cho việc quản lý tỷ giá hối đoái ngày càng quan trọng trong đời sống kinh tế của
mỗi quốc gia. Vì vậy việc quản lý tỷ giá hối đoái đòi hỏi phải có sự quan tâm sâu
sắc của chính phủ để có thể đưa ra những chính sách tỷ giá hợp lý nhất, phù hợp với
điều kiện của nền kinh tế để có thể cạnh tranh được trên thị trường quốc tế từ đó đạt
được mục tiêu phát triển kinh tế.
Ở Việt Nam, tỷ giá cũng đang là vấn đề nóng. Tỷ giá có vai trò lớn đối với
nền kinh tế, nó giúp so sánh sức mua, giá trị giữa các đồng tiền tạo điều kiện cho
các giao dịch quốc tế. Tỉ giá cũng ảnh hưởng tới tình hình xuât nhập khẩu của Việt
Nam và là một công cụ điều tiết vĩ mô đầy hiệu quả. Đối với một quốc gia có nền
kinh tế ổn định tăng trưởng, điều lý tưởng nhất đó là cả 3 chỉ số: lãi suất, tỷ giá và
lạm phát ở mức độ hợp lý. Nhưng đối với Việt Nam, chúng ta đang khó khăn cho cả
3 chỉ số trên. Thực tế trong thời gian vừa qua cả 3 chỉ số: Lãi suất, lạm phát và tỷ
giá đều có những bất ổn lớn. Chính vì thế, Ngân Hàng Nhà Nước, các nhà nghiên
cứu, nhà hoạch định chính sách cần đưa ra các biện pháp điều chỉnh tỷ giá phù hợp
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
1
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
nhằm ổn định và thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Và để hiểu hơn về tỷ giá, chính sách
điều hành tỷ giá từ năm 1986 đến nay, những tác động của tỷ giá đến nền kinh tế,
em xin chọn đề tài nghiên cứu: “Chính sách điều hành tỉ giá hối đoái ở Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”. Tuy nhiên trong bài nghiên cứu của em,

thì em sẽ tập trung nghiên cứu chính sách tỷ giá và những tác động của việc điều
chỉnh tỷ giá đến nền kinh tế trong giai đoạn gần đây. Trong quá trình nghiên cứu
chắc chắn sẽ có nhiều khó khăn, em xin được sự hướng dẫn của thày.
• Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về tỷ giá hối đoái để làm luận cứ
cho việc xây dựng chế độ tỷ giá hối đoái sao cho phù hợp với nền kinh tế Việt Nam
hiện nay và trong tương lai.
Nghiên cứu cơ sở hình thành và tác động của tỷ giá hối đoái đến các hoạt
động xuất khảu của Việt Nam thời gian qua. Từ đó tìm ra những vấn đề còn tồn tại
để giải quyết.
Đưa ra một số kiến nghị và giải pháp để hoàn thiện hệ thống tỷ giá hôi đoái
của Việt Nam thời gian tới và góp phần mở rộng và nâng cao hiệu quả của hoạt
động xuất khẩu của Việt Nam trong tương lai.
• Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu sự hình thành, các cơ chế quản lý, diễn biến của tỷ giá hối đoái
và tác động của tỷ giá hối đoái đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Từ đó đưa
ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế tỷ giá hối đoái phù hợp với tình hình
kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Tỷ giá hối đoái là một vấn đề rộng lớn, rất phức tạp, có
tác động đến nhiều mặt của hoạt động kinh tế xã hội. Tuy nhiên, đề tài này chỉ đi
sâu nghiên cứu tác động của tỷ giá đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ
sau đổi mới.
• Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử kết hợp với các phương pháp thu thập số liệu, thống kê, phân tích và tổng
hợp để nghiên cứu.
• Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Phân tích tổng hợp các vấn đề điều hành chính sách tỷ giá hối đoái của
Việt Nam.
Đánh giá thực trạng về công tác quản lý tỷ giá, chỉ ra những tồn tại và hạn

chế, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá để đạt được mục tiêu
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
2
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
tăng trưởng bền vững ở Việt Nam.
• Kết cấu của chuyên đề.
Ngoài phần mở đầu và kết luận ra nội dung nghiên cứu của đề tài gồm ba
chương:
Chương I: Tổng quan về tỉ giá hối đoái, chính sách tỉ giá hối đoái trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương II: Chính sách tỉ giá hối đoái của Việt Nam trong thời gian qua.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện chính sách tỉ giá hối đoái của Việt Nam
trong thời gian tới .

SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
3
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ TỈ GIÁ HỐI ĐOÁI, CHÍNH SÁCH TỈ GIÁ
HỐI ĐOÁI TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1 Tỉ giá hối đoái.
1.1.1 Khái niệm về tỉ giá hối đoái.
Trước hết chúng ta thấy tỷ giá là một trong những vấn đề rất được quan tâm
trong một nền kinh tế, đặc biệt là trong nền kinh tế của các nước đang phát triển,
đang từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia vào phân công lao
động quốc tế. Bởi hoạt động thương mại quốc tế của các nước này ngày càng phát
triển và đòi hỏi phải có sự tính toán so sánh về giá cả, tiền tệ với các nước đối tác.
Chính tỷ giá là một công cụ quan trọng được sử dụng trong tính toán này. Vậy tỷ
giá là gì?
Tỷ giá hối đoái được hiểu là giá của một đơn vị ngoại tệ tính theo đồng nội

tệ. Đây chính là giá cả của ngoại tệ trên thị trường và được xác định dựa trên quan
hệ cung cầu về ngoại tệ. Được coi là mấu chốt trong quản lý kinh tế vĩ mô, TGHĐ
có tác động ngược trở lại đến các mối quan hệ kinh tế, lên cán cân thanh toán quốc
tế, lên giá cả hàng hoá trong nước và lưu thông tiền tệ Nhìn chung, TGHĐ được
chia thành nhiều loại khác nhau tuỳ vào mục đích xem xét, nghiên cứu mà chúng ta
quyết định sử dụng loại tỷ giá nào.
1.1.2 Cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái .
 Thuyết ngang giá vàng
Trong thời kỳ bản vị kim loại, nhất là bản vị vàng (và bạc), các đồng tiền quốc
gia đều được so sánh, quy đổi với nhau trên cơ sở hàm lượng kim loại (vàng) chứa
đựng trong đồng tiền của mình hay do đơn vị đồng tiền của mình đại diện. Trong
giai đoạn này, đặc biệt từ năm 1870 đến thời kỳ đầu đại chiến thế giới lần thứ nhất,
người ta xác định tỷ giá giữa các đồng tiền bằng cách so sánh hàm lượng vàng chứa
trong mỗi đơn vị tiền tệ của từng nước.
Ví dụ: Hàm lượng vàng của một bảng Anh (GBP) là 2,488281 gam và của một
đô la Mỹ là 0,888671 gam. Do đó, tỷ giá hối đoái của GBP và USD là:
GBP/USD = 2,488281/0,888671= 2.80
Trong chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái của một nước cũng như trên thế
giới khá ổn định và thường chỉ biến động theo mức tăng giảm hàm lượng vàng chứa
đựng trong mỗi đơn vị tiền tệ.
Do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới sau Chiến tranh thế giới
lần thứ nhất, đặc biệt là do những bất lợi của chế độ bản vị vàng (kiềm chế sự phát
triển kinh tế và giao lưu kinh tế quốc tế ) nên phần lớn các nước đã từ bỏ chế độ
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
4
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
bản vị vàng vào đầu những năm 30. Đến năm 1971, các nước hoàn toàn bãi bỏ chế
độ bản vị vàng.
 Thuyết ngang giá sức mua ( Purchasing Power Parity - PPP )
Khi tỷ lệ lạm phát của một nước tăng tương đối so với lạm phát của một nước

khác, mức cầu đồng tiền nước đó giảm do xuất khẩu giảm. Ngoài ra, người tiêu
dùng và các doanh nghiệp trong nước có lạm phát cao có xu hướng tăng nhập khẩu.
Như vậy, cả hai lực lượng này tạo áp lực giảm giá đồng tiền của nước có lạm phát
cao.Tỷ lệ lạm phát thường khác nhau giữa các quốc gia, tạo nên các kiểu mẫu mậu
dịch quốc tế để điều chỉnh thích hợp và ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái .
Một trong những lý thuyết nổi tiếng nhất và gây nhiều tranh cãi nhất trong tài
chính quốc tế là thuyết ngang giá sức mua, tập trung vào mối liên hệ lạm phát – tỷ
giá hối đoái.
Ý tưởng căn bản của thuyết ngang giá sức mua ban đầu được phát triển bởi
nhà kinh tế học cổ điển David Ricardo vào thế kỷ 19. Nhưng chính Gustar Cassel,
một nhà kinh tế người Thụy Điển mới là người phổ biến rộng rãi PPP vào những
năm 20 của thế kỷ XX. Trong những năm này, rất nhiều nước như Đức, Hungary,
Nga phải trải qua thời kỳ lạm phát phi mã vì sức mua đồng tiền của các nước đó
giảm rất mạnh, bị mất giá mạnh so với các đồng tiền ổn định như USD. Lúc này
quan niệm về thuyết PPP trở nên phổ biến trước thực trạng lịch sử như vậy. Có
nhiều hình thức khác nhau của thuyết PPP.
Theo hình thức tuyệt đối, thuyết PPP là sự phát triển của quy luật một giá.
Nội dung cơ bản của quy luật một giá là: nếu hai nước cùng sản xuất một loại hàng
hoá giống nhau thì giá cả của hai loại hàng hoá đó giống nhau trên toàn thế giới và
không phụ thuộc vào nước nào sản xuất ra nó.
Như vậy, theo quy luật một giá thì nếu như thép của Mỹ được sản xuất với
giá 100 USD/tấn, còn thép của Nhật được sản xuất ra với giá 10.000 JPY/tấn thì có
nghĩa là 1 USD = 100 JPY, tỷ giá USD/JPY = 100.
Giả sử tỷ giá USD/JPY = 50 thì điều đó có nghĩa: thép của Nhật bị đắt tương
đối so với thép của Mỹ. Khi đó cầu thép của Nhật sẽ giảm xuống cho đến khi giá
thép của Nhật còn 5000 JPY/tấn hoặc tỷ giá phải nâng lên USD/JPY = 100 (tức là
giảm giá đồng JPY). Tương tự khi tỷ giá là 150 JPY/USD thì xu hướng là cầu thép
của Nhật tăng tới 15.000JPY/tấn hoặc tỷ giá phải giảm xuống đến 100 JPY/USD
(tăng giá đồng JPY).
Trên cơ sở quy luật một giá, thuyết PPP phát biểu rằng: Tỷ giá bất kỳ

giữa hai đồng tiền của hai nước sẽ bằng tỷ số mức giá của hai nước đó tại
cùng thời điểm.
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
5
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
Ví dụ: Thép Nhật tăng giá 11.000 JPY/tấn, thép Mỹ vẫn ở giá 100 USD/tấn,
tỷ giá cũ là 100 JPY/USD, thì lúc đó thuyết PPP nói rằng tỷ giá sẽ được điều chỉnh
theo hướng giảm giá đồng JPY, tức là bằng 110 JPY/USD. Việc vận dụng thuyết
PPP chỉ cung cấp cho ta một hướng dẫn lâu dài về sự vận động của tỷ giá.
Tuy nhiên, trong ngắn hạn nó không được hoàn hảo, thậm chí còn bị sai lệch
đáng kể vì thị trường là không hoàn hảo, tồn tại chi phí vận chuyển, bảo hiểm, thanh
toán, thông tin và nhiều hàng rào thương mại khác, do đó, thuyết PPP tuyệt đối
hiếm khi thấy trong thực tế, nhưng thuyết PPP tương đối lại khá phổ biến.
Thuyết PPP tương đối được duy trì, dù cho sức mua của đồng tiền không
giống nhau ở mọi nơi, thay đổi mức giá cả giữa hai quốc gia được hấp thụ bởi sự
biến động của tỷ giá, do đó, quan hệ PPP được duy trì không thay đổi. Nếu nước A
có tỷ lệ lạm phát bằng 0% và nước B có tỷ lệ lạm phát bằng 10% thì đồng tiền của
nước B phải giảm giá 10% so với đồng tiền của nước A. Sự biến động của tỷ giá sẽ
duy trì tỷ lệ giá cả giữa hai nước trước và sau khi lạm phát xảy ra là không thay đổi.
Nếu thuyết PPP tương đối hoạt động, có hiệu lực ngay lập tức và chính xác,
thì chính sách tiền tệ sẽ không có tác dụng cải thiện cán cân thương mại. Bất cứ sự
thay đổi nào trong các mức giá cả giữa hai nước do thay đổi mức cung ứng tiền sẽ
được hấp thụ ngay lập tức bởi sự thay đổi của tỷ giá. Trong thực tế thuyết PPP
tương đối có ảnh hưởng tương đối tới sự biến động của tỷ giá, nhưng xảy ra chậm
hơn. Xu hướng là rõ ràng nhưng nhiều yếu tố có thể làm méo mó quan hệ này trong
ngắn hạn. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do trong giai đoạn ngắn hạn đối
với cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế thì giá cả hàng hoá được coi như
là cố định. Trong khi đó tỷ giá trao đổi thì được điều chỉnh thường xuyên do sự cập
nhật thông tin và do sự thay đổi của chính sách kinh tế. Điều đó có nghĩa, sự thay
đổi của tỷ giá đã tạo ra sự sai lệch lớn và kéo dài so với thuyết PPP.

1.1.3 Niêm yết tỷ giá hối đoái.
Theo tập quán kinh doanh tiền tệ của ngân hàng, tỷ giá hối đoái thường được
yết giá như sau:
USD/DEM = 1,4125/1,4175
USD/VND = 15.300/15.500
Trong công thức trên, đồng USD đứng trước gọi là đồng tiền yết giá và là
một đơn vị tiền tệ. VND đứng sau gọi là đồng tiền định giá và là một số đơn vị tiền
tệ và thường xuyên thay đổi phụ thuộc vào thời giá của tiền yết giá.
Tỷ giá đứng trước 15.300 là tỷ giá mua đô la trả bằng VND của ngân hàng,
được gọi là tỷ giá mua vào của ngân hàng (BID RATE).
Tỷ giá đứng sau 15.500 là tỷ giá bán đô la thu bằng VND của ngân hàng, gọi
là tỷ giá bán ra của ngân hàng (ASK RATE). Tỷ giá ASK thường lớn hơn tỷ giá
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
6
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
BID. Chênh lệch giữa chúng gọi là SPREAD, còn được gọi là lợi nhuận (chưa nộp
thuế) của ngân hàng trong giao dịch mua bán ngoại hối.
Trong giao dịch ngoại hối, khách hàng thường có thể lấy tên thủ đô của các nước
công nghiệp phát triển thay cho tên tiền tệ của nước đó ở vị trí tiền định giá. Ví dụ:
thay vì đọc USD/DEM người ta đọc “tỷ giá USD/FrankFurt”, USD/FRF là “tỷ giá
USD – Paris”
Để đảm bảo tính nhanh gọn, các tỷ giá thường không được đọc đầy đủ mà chỉ
đọc những con số thường biến động, đó là những con số cuối. Ví dụ: USD/DEM =
1,7015 chỉ được đọc các số lẻ sau dấu phẩy. Các số này chia làm hai nhóm số. Hai số
thập phân đầu tiên đọc là “Số” (Figure), hai số kế tiếp đọc là “Điểm” (Point). Tỷ giá
trên đọc là “Đô la, Đê mác bằng một, bảy mươi số, mười lăm điểm”. Cách đọc điểm
có thể dùng phân số “một phần tư” thay vì đọc 25, “ba phần tư” thay vì đọc 75.
Phương pháp yết giá ngoại tệ: Có hai phương pháp yết giá ngoại tệ là yết giá
trực tiếp và yết giá gián tiếp.
Nếu xét ở góc độ thị trường tiền tệ quốc tế, trên thế giới hiện nay chỉ có hai

đồng tiền quốc gia: USD, GBP và hai tiền tệ quốc tế: SDR, EURO (trước đây là
ECU) là dùng cách yết giá trực tiếp (Certain quotation), các tiền tệ còn lại dùng
cách yết giá gián tiếp (incertain quotation):
Ví dụ: USD/DEM, GBP/FRF, SDR/FRF, SDR/FRF
Có nghĩa là giá của USD, GBP hay của SDR, EURO được thể hiện trực tiếp
ra bên ngoài, còn các tiền tệ khác như DEM, FRF, VND mới thể hiện gián tiếp ra
bên ngoài.
Ví dụ: USD/VND = 15.000
Tức là giá của một USD bằng 15.000 VND, còn giá của một VND chưa thể
hiện trực tiếp ra bên ngoài; muốn xác định ta làm phép chia như sau:
1 VND = 1/15000 ≈ 0,00007 USD
Nếu xét ở góc độ thị trường tiền tệ quốc gia, thì nước Anh và nước Mỹ dùng cách
yết giá gián tiếp để thể hiện giá cả ngoại hối, còn các quốc gia khác lại dùng cách
yết giá trực tiếp để thể hiện giá cả ngoại hối.
1.1.4 Các loại tỷ giá hối đoái.
Có nhiều loại tỷ giá hối đoái khác nhau.Tuy nhiên, ta có thể phân chia theo
một số tiêu thức chính như sau:
Căn cứ vào các nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối
Tỷ giá thường được niêm yết tại ngân hàng là tỷ giá điện hối, tức là tỷ giá
chuyển ngoại hối bằng điện. Đây là tỷ giá cơ sở để xác định các mức tỷ giá khác.
Bên cạnh đó còn có tỷ giá thư hối, tức là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư. Khi
niêm yết tỷ giá hối đoái, ngân hàng thường công bố tỷ giá bán và tỷ giá mua. Tỷ giá
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
7
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
bán bao giờ cũng cao hơn tỷ giá mua và khoản chênh lệch này là lợi nhuận kinh
doanh ngoại hối của ngân hàng.
Thông thường ngân hàng không công bố tất cả tỷ giá của các hợp đồng đã ký
kết trong một ngày mà chỉ công bố tỷ giá của hợp đồng ký kết cuối vùng trong ngày
hôm đó, người ta gọi đó là tỷ giá đóng cửa. Tỷ giá đóng cửa được coi là chỉ tiêu chủ

yếu về tình hình biến động cửa tỷ giá trong ngày hôm đó. Ngoại hối cũng có thể là
tiền mặt, cũng có thể là tiền tài khoản khi hoạt động kinh doanh ngoại hối của các
ngân hàng được tiến hành trên hệ thống tài khoản thì bên cạnh tỷ giá tiền mặt còn
có tỷ giá chuyển khoản.
Ngoài ra trong hoạt động kinh doanh ngoại hối người ta còn áp dụng tỷ giá
giao nhận ngay và tỷ giá giao nhận có kỳ hạn. Tỷ giá giao nhận ngay là tỷ giá áp
dụng khi bán ngoại hối thì được nhận tiền ngay vào ngày hôm đó hay sau đó hai
ngày.Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn là tỷ giá áp dụng khi bán ngoại hối nhưng sau một
thời hạn nhất định: 1 tháng hay 3 tháng mới nhận được tiền.
Phân tích dưới góc độ tỷ giá là công cụ điều tiết của Nhà nước
Ở các nước đang phát triển, ngoài thị trường ngoại hối chính thức còn hình thành thị
trường ngoại hối tự do. Do đó bên cạnh tỷ giá chính thức do Nhà nước quy định còn có
tỷ giá thị trường do quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường này quyết định.
Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, để khuyến khích xuất khẩu, nhập khẩu
hoặc các hoạt động lưu chuyển vốn như: đầu tư, du lịch, kiều hối các nước thường
áp dụng chế độ nhiều tỷ giá. Trên cơ sở “tỷ giá hối đoái cơ bản”, Nhà nước xác định
một mức tỷ giá ưu đãi cụ thể cho từng hoạt động, từng nhóm hàng, từng khu vực
bán hàng.
Căn cứ vào phương pháp xác định tỷ giá
Có thể chia thành tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực tế .
Tỷ giá danh nghĩa là tỷ giá phổ biến được sử dụng hàng ngày trong giao dịch trên
các thị trường ngoại hối. Ví dụ: tại Việt Nam tỷ giá danh nghĩa giữa USD và VND
được yết và sử dụng trong giao dịch ngoại hối như sau: tỷ giá USD/VND = 15.000;
tại Pháp: tỷ giá USD/FRF = 5 Như vậy, tỷ giá danh nghĩa chính là tỷ lệ trao đổi số
lượng tuyệt đối giữa hai đồng tiền. Hay nói cách khác, tỷ giá danh nghĩa là giá cả
của một đồng tiền được biểu thị thông qua đồng tiền khác mà không đề cập đến
tương quan sức mua hàng hoá và dịch vụ giữa chúng. Nhưng thay đổi trong tỷ giá
danh nghĩa thường được biểu diễn dưới dạng chỉ số; ví dụ: tỷ giá danh nghĩa giữa
USD và VND tại thời điểm (t) là 14.000; và tại thời điểm (t+1) là 15.000. Sự thay
đổi tỷ giá này thường được biểu diễn bằng chỉ số như sau: chọn thời điểm (t) là cơ

sở có chỉ số tỷ giá là 100%, tại thời điểm (t+1) chỉ số tỷ giá sẽ là: (15.000 :14.000) x
100% = 107,14%. Như vậy, khi tỷ giá danh nghĩa tăng thì chỉ số tỷ giá danh nghĩa
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
8
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
cũng tăng, điều này bao hàm ý rằng đồng tiền yết giá lên giá và đồng tiền định giá
giảm giá (trong ví dụ trên USD lên giá còn VND giảm giá).
Đối với mỗi quốc gia, khi tỷ giá danh nghĩa tăng lên hay giảm xuống không
nhất thiết phải đồng nghĩa với sự tăng hay giảm sức cạnh tranh thương mại quốc tế
của quốc gia này. Do đó, để đo sự thay đổi trong sức cạnh tranh thương mại quốc tế
người ta sử dụng khái niệm tỷ giá thực.
Tỷ giá thực bằng tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh bởi thay đổi trong tương
quan giá cả trong nước và nước ngoài. Tương quan giữa tỷ giá thực E
R
và tỷ giá
danh nghĩa E được biểu diễn như sau:
E
R
= E.P
*
/P
Trong đó:
P
*
- mức giá cả ở nước có đồng tiền yết giá.
P - mức giá cả ở nước có đồng tiền định giá.
Công thức trên cho thấy: tỷ giá thực bằng tỷ giá danh nghĩa đã được điều
chỉnh bởi tỷ số giữa mức giá cả ở nước ngoài và mức giá cả ở trong nước. Tỷ giá
thực là thước đo đầy đủ sức cạnh tranh hàng hoá của Việt Nam (hay của nước có
đồng tiền định giá) so với hàng hoá nước ngoài (hay của nước có đồng tiền yết giá),

xét về phương diện giá cả, nghĩa là khi phân tích sức cạnh tranh quốc tế của hàng
hoá Việt Nam phải đề cập không những thay đổi trong tỷ giá danh nghĩa, mà còn
phải đề cập đến tương quan thay đổi giá cả nước ngoài so với nội địa.
1.1.5 Các chế độ của tỷ giá hối đoái.
a. Tỷ giá hối đoái cố định.
Là một kiểu chế độ tỷ giá hối đoái trong đó giá trị của một đồng tiền được gắn
với giá trị của một đồng tiền khác hay với một rổ các đồng tiền khác, hay với một
thước đo giá trị khác, như vàng chẳng hạn. Khi giá trị tham khảo tăng hoặc giảm,
thì giá trị của đồng tiền neo vào cũng tăng hoặc giảm. Đồng tiền sử dụng chế độ tỷ
giá hối đoái cố định gọi là đồng tiền cố định. Tỷ giá hối đoái cố định là một lựa
chọn chế độ tỷ giá ngược hoàn toàn với tỷ giá hối đoái thả nổi.
Mặc dù việc thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi sẽ hạn chế khả năng của
chính phủ trong vận hành một chính sách tiền tệ nội địa độc lập nhằm duy trì ổn
định kinh tế trong nước, song trong thực tế, nhiều chính phủ vẫn thích chế độ tỷ giá
hối đoái cố định bởi nó tạo ra sự ổn định. Trong lịch sử, từ sau Chiến tranh Thế giới
thứ hai đã từng tồn tại hệ thống Bretton Woods cho phép Tây Âu và Nhật Bản có
được tỷ giá cố định so với dollar Mỹ cho đến tận năm 1970. Gần đây, Trung Quốc,
Hong Kong và Malaysia đã rất thành công trong việc duy trì tỷ giá hối đoái cố định
để giữ ổn định kinh tế trong nước. Đồng euro hiện nay cũng có thể được xem là một
chế độ tỷ giá hối đoái cố định giữa các quốc gia châu Âu tham gia.
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
9
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
Nhiều quan điểm cho rằng tỷ giá hối đoái cố định quá cứng nhắc nên che mất
những thông tin cần thiết cho thị trường hoạt động đúng hướng. Đó là vì đồng tiền
không còn thể hiện giá trị thị trường thực của chúng. Sự che đậy thông tin nào tạo ra
tính không chắc chắn, kích thích các kẻ đầu cơ "tấn công" các đồng tiền cố định và
nhiều nước sẽ mất sạch cả dự trữ ngoại hối khi cố gắng bảo vệ đồng tiền của mình
chứ không chịu để nó mất giá. Thái Lan trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á là
một trường hợp như vậy.

b. Tỷ giá hối đoái thả nổi tự do
Theo chế độ tỷ giá hối đoái này, mức tỷ giá hối đoái được quyết định hoàn
toàn bởi các lực lượng cung cấp cầu về ngoại tệ. Trong hệ thống này chính phủ giữ
thái độ thụ động, để cho thị trường ngoại tệ đánh giá giá trị của ngoại tệ - loại tỷ giá
hối đoái này ít được áp dụng vì các thị trường tiền tệ thường không hoàn hảo và do
vậy luôn cần có vai trò can thiệp của nhà nước.
c. Tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết
Theo chế độ này, chính phủ không cam kết duy trì một tỷ lệ cố định với
ngoại tệ, mà thả nổi đồng tiền của mình và có biện pháp can thiệp mỗi khi thị
trường trở nên (mất trật tự) , hoặc khi tỷ giá hối đoái đi chệch xa mức thích hợp loại
tỷ giá hối đoái này hiện đang được áp dụng tại các nước Tư Bản Chủ Nghĩa, nơi mà
lạm phát đạt thấp, các thị trường phát triển ở trình độ cao.
d. Tỷ giá hối đoái ổn định có điều tiết
Theo chế độ này, chính phủ không để ngoại tệ trôi nổi tự do, mà can thiệp
vào thị trường ngoại tệ bằng cách mua bán ngoại tệ nhằm ổn định tỷ giá qui định.
Sau mỗi thời gian nhất định, mức tỷ giá hối đoái lại được điều chỉnh cho phù hợp và
duy trì ổn định.
 Luận cứ lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái
Sự quản lý tối ưu của tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào các mục tiêu kinh tế của
các nhà hoạch định chính sách, vào nguồn gốc của các cơn sốc đối với nền kinh tế
và đặc trưng cơ cấu của nền kinh tế đang xét. Vì vậy các giả thiết khác nhau về
nhân tố đó có thể dẫn đến sự thay đổi về mức độ tối ưu của chế độ tỷ giá hối đoái.
 Các yêu cầu khi lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái:
Một số tiêu chuẩn quy định tỷ giá phụ thuộc vào bản chất của cơn sốc lên
nền kinh tế cũng như đặc trưng cơ cấu của nền kinh tế. Tuy vậy trong thực tế khó
mà áp dụng đó cho các trường hợp cụ thể. Các khó khăn đó không những lên quan
đến các vấn đề thực tiễn, sự nhận biết nguồn gốc các cơn sốc và các đặc trưng cơ
cấu mà còn liên quan đến mâu thuẫn tiềm tàng giữa các mục tiêu chính sách khác
nhau. Tiêu chuẩn để lựa chọn một chế độ tỷ giá hối đoái thích hợp còn phụ thuộc
vào các mục tiêu chính sách do chính phủ đặt ra.

SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
10
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
1.2 Chính sách tỉ giá hối đoái.
1.2.1 Khái niệm chính sách tỉ giá hối đoái.
Chính sách tỷ giá hối đoái là những hoạt động của chính phủ (mà đại diện
thường là ngân hàng trung ương) thông qua một chế độ tỷ giá nhất định (hay cơ chế
điều hành tỷ giá) và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố
định hay tác động để tỷ giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu
của chính sách tiền tệ quốc gia.
Để duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến một
mức cần thiết, thì cần phải có một chế độ tỷ giá và một hệ thống các công cụ can
thiệp thích hợp.
1.2.2 Mục tiêu của chính sách tỉ giá hối đoái.
Chính sách tỷ giá hối đoái là một bộ phận của chính sách tiền tệ, nên mục
tiêu của chính sách tỷ giá cũng phải phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Tùy theo mỗi quốc gia, mà mục tiêu chính sách tiền tệ có thể khác nhau , nhưng
nhìn chung nó bao gồm: ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công ăn
việc làm đầy đủ, cân bằng cán cân vãng lai.
a. Về mục tiêu ổn định giá cả.
Với các yếu tố khác không đổi, khi phá giá nội tệ (tỷ giá tăng) làm cho giá
hàng hóa nhập khẩu (bao gồm hàng tiêu dung, nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị
cho sản xuất trong nước) tính bằng nội tệ tăng. Giá hàng hóa nhập khẩu tăng làm
cho mặt bằng giá cả chung của nền kinh tế tăng, gây ra tình trạng lạm phát. Tỷ giá
tăng càng cao và tỷ trọng hàng nhập khẩu càng lớn thì tỷ lệ lạm phát càng cao.
Ngược lại, khi nâng giá nội tệ (tỷ giá giảm) làm cho giá hàng hóa nhập khẩu
tính bằng nội tệ giảm, gây áp lực giảm phát.
Qua phân tích cho thấy, chính sách tỷ giá có thể được sử dụng như một công
cụ hữu hiệu nhằm đạt mục tiêu ổn định giá cả. Với các yếu tố khác không đổi, muốn
kiềm chế lạm phát gia tăng, NHTW có thể sử dụng chính sách nâng giá nội tệ (tác

động làm cho tỷ lệ lạm phát giảm). Muốn kích thích lạm phát gia tăng, NHTW có
thể sử dụng chính sách phá giá đồng nội tệ. Muốn duy trì giá cả ổn định, NHTW
phải sử dụng chính sách tỷ giá ổn định và cân bằng.
b. Về mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm đầy đủ.
Khi các yếu tố khác là không đổi, thì việc phá giá nội tệ sẽ làm cho:
Kích thích tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, trực tiếp làm tăng thu nhập
quốc dân và tăng số lượng công ăn việc làm. Điều này được thể hiện qua công thức
tính thu nhập quốc dân:
Y = C + I + G +X - M
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
11
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình

Phá giá nội tệ làm cho những ngành sản xuất không sử dụng hoặc sử dụng ít
đầu vào là hàng nhập khẩu sẽ tăng được lợi thế cạnh tranh về giá so với những
ngành sử dụng nhiều đầu vào là hàng nhập khẩu, từ đó có thể mở rộng sản xuất,
tăng thu nhập và tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên, để có được một cuộc phá giá thành công, thì trong nền kinh tế
phải có sẵn các điều kiện cần thiết như năng lực sản xuất và thị trường cho hàng
xuất khẩu, năng lực sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu. Đồng thời tránh
vòng xoáy của (phá giá – lạm phát và lạm phát – phá giá) thì phải áp dụng một
chính sách tiền tệ thắt chặt và một quỹ dự trữ ngoại tệ đủ mạnh để can thiệp trong
thời gian đầu. Có như vậy phá giá nội tệ mới làm cho các biến số thực trong nền
kinh tế thay đổi theo hướng có lợi cho nền kinh tế.
Ngược lại, khi nâng giá nội tệ (các yếu tố khác không đổi), sẽ tác động làm
giảm tăng trưởng kinh tế, gây gia tăng thất nghiệp.
c. Về mục tiêu cân bằng cán cân vãng lai.
Như đã phân tích ở trên, chính sách tỷ giá tác động trực tiếp đến hoạt động
xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, là hai bộ phận củ yếu cấn thành cán cân
vãng lai. Do đó, có thể nói chính sách tỷ giá ảnh hưởng trực tiếp đến cán cân vãng

lai.
Với chính sách tỷ giá định giá thấp đồng nội tệ sẽ có tác động thúc đẩy xuất
khẩu và hạn chế nhập khẩu giúp cải thiện được cán cân vãng lai từ trạng thái thâm
hụt trở về trạng thái cân bằng hoặc thặng dư.
Với chính sách tỷ giá định giá cao đồng nội tệ se có tác động làm giảm xuất
khẩu và tăng nhập khẩu, giúp cán cân vãng lai từ thặng dư trở về trạng thái cân
bang hoặc thâm hụt.
Với chính sách tỷ giá cân bằng sẽ có tác dụng làm cho cân bằng xuất khẩu và
nhập khẩu, gúp cán cân vãng lai tự động cân bằng.
Từ những kết quả phân tích ở trên cho ta thấy rằng, tỷ giá là một biến số kinh
tế, tác động đến hầu hết các mặt hoạt động của nền kinh tế, nhưng hiệu quả ảnh
hưởng của tỷ giá lên các hoạt động khác nhau là rất khác nhau. Trong đó, hiệu quả
tác động của tỷ giá đến các hoạt động xuất nhập khẩu là rõ ràng và nhanh chóng.
Chính vì vậy, trong điều kiện mở cửa, hội nhập, hợp tác, tự do hóa thương mại như
hiện nay, các quốc gia luôn sử dụng tỷ giá trước hết như một công cụ hữu hiệu để
điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của mình.
1.2.3 Các công cụ điều hành chính sách tỉ giá.
Tỷ giá hối đoái là một trong những công cụ đươc chính phủ và NHTW sử
dụng trong điều hành chính sách tiền tệ , nhằm thực hiện những mục tiêu về kinh tế
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
12
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
tài chính .Để làm việc này Chính phủ và NHTW áp dụng các biện pháp để điều
chỉnh tỷ giá hối đoái theo chiều hướng có lợi cho nền kinh tế quốc dân. Các biện
pháp gồm có :
a. Nhóm công cụ trực tiếp.
 Mua bán ngoại hối trên thị trường.
Đây là nghiệp vụ dễ dàng thực hiện và có tác động trực tiếp đến tỷ giá hối đoái.
Nghiệp vụ này tác động đến cung tiền trong nước, NHTW đóng vai trò là người
mua bán tiền tệ trực tiếp cuối cùng trên thị trường liên ngân hàng tại một mức tỷ giá

nào đó. Để công cụ này có hiệu quả thì quốc gia phải có lượng dự trữ ngoại tệ lớn.
Trong lưu thông khi mà ngoại tệ bị thừa dẫn đến ảnh hưởng đến đồng VND bị định
giá cao làm ảnh hưởng đến xuất khẩu thì NHTW tiến hành mua mua ngoại tệ vào và
đẩy VND ra nhằm làm tỷ giá ổn định.
 Biện pháp kết hối.
Việc chính phủ quy định với các thể nhân và pháp nhân có nguồn thu ngoại tệ
phải bán một tỷ lệ nhất định trong một thời hạn nhất định cho các tổ chức được
phép kinh doanh ngoại hối. Biện pháp này được áp dụng trong thời kỳ khan hiếm
ngoại tệ giao dịch trên thị trường ngoại hối. Mục đích chính của biện pháp này là
tăng cung ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho thị trường, hạn chế hành vi đầu
cơ và giảm áp lực phá giá đồng nội tệ .
Ví dụ: Năm 1997 do ảnh hưởng của khủng hoản tiền tệ nên các doanh nghiệp
đều giữ ngoại tệ làm cho cung cầu ngoại tệ mất cân đối. Chính phủ ra quyết định
197/QĐ-TTg về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cu trú là các tổ chức
với tỷ lệ kết hối bắt buộc là 80%.Sau một thời gian khi tình hình ngoại tệ đã bớt
căng thẳng hơn thì 30/8/1999 Chính phủ đã có quyết định giảm tỷ lệ kết hối xuống
còn 50% sau đó xuống 30%.
Quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, quy định hạn chế mục đích sử
dụng ngoại tệ, quy định hạn chế số lượng người mua ngoại tệ, quy định hạn chế thời
điểm mua ngoại tệ. Tất cả các biện pháp này để giảm áp lực thiếu hụt ngoại tệ, tránh
đầu cơ và giữ cho tỷ giá cố định. Tuy nhiên các biện pháp này có tính chất hành
chính không phù hợp với xu thế tự do hóa và thương mại hóa nền kinh tế .
b. Nhóm công cụ gián tiếp.
 Lãi suất tái chiết khấu.
Phương pháp lãi suất tái chiết khấu để điều chỉnh tỷ giá hối đoái là phương
pháp được sử dụng vừa mang tính cấp bách vừa mang tính chiến lược lâu dài trong
mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế.
Khái niệm: Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất mà NHTW đánh vào các khoản
tiền cho các NHTM vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt ngắn hạn hoặc bất thường của
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436

13
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
các ngân hàng này. Lãi suất tái chiết khâu là một công cụ của chính sách tiền tệ để
điều chỉnh lượng cung tiền và nó có tác động đến tỷ giá hối đoái.
Cơ chế tác động: Dựa trên cung và cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.Trong
điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, khi NHTW tăng mức lãi suất tái chiết
khấu sẽ làm mặt bằng lãi suất trên thị trường sẽ tăng. Cụ thể khi lãi suất cơ bản tăng
thì lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi tăng. Lãi suất tăng sẽ thu hút nhiều luồng vốn
ngoại tệ chạy vào trong nước. Chính điều này sẽ làm cho cung ngoại tệ tăng, trong
khi cầu ngoại tệ không đổi làm cho đồng nội tệ lên giá tương đối so với đồng ngoại
tệ. Điều này có nghĩa là tỷ giá hối đoái giảm.
Ngược lại, khi NHTW điều chỉnh giảm lãi suất tái chiết khấu sẽ làm cho mặt
bằng chung về lãi suất trên thị trường nước này giảm. Điều này làm cho các luồng
vốn ngắn hạn nước ngoài đang đầu tư ở thị trường sinh lợi ít hơn so với thị trường ở
nước ngoài. Dẫn đến tình trạng các luồng ngoại tệ rút ra khỏi nước này và đầu tư ở
các nước khác, làm cho cung ngoại tệ giảm trong khi cầu không đổi và làm cho tỷ
giá sẽ tăng lên. Lãi suất và tỷ giá là các công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ. Vì
vậy, trong quản lý vĩ mô chính sách lãi suất và tỷ giá phải được xử lý một cách
đồng bộ và phù hợp với thực trạng của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định.
Tuy nhiên, cách dùng lãi suất để điều hành chính sách tỷ giá cũng có những
hạn chế nhất định. Bởi vì lãi suất và tỷ giá chỉ có mối quan hệ tác động qua lại lẫn
nhau một cách gián tiếp, chứ không phải là mối quan hệ trực tiếp và nhân quả.
Phương án sử dụng công cụ lãi suất can thiệp tới tỷ giá vẫn là một trong những
phương án được các nước sử dụng nhiều nhất trong các công cụ gián tiếp và nó tỏ
ra có hiệu quả nhất
 Thuế quan
Thuế quan là một trong những công cụ phổ biến nhất mà chính phủ dùng để hạn
chế hay kích thích xuất nhập khẩu ,loại thuế này buộc nhà nhập khẩu phải nộp một tỷ
lệ nhất định theo giá trị hàng hóa nhập khẩu trên cơ sở giá quốc tế. Nên giá hàng nhập
khẩu cao hơn hàng sản xuất trong nước.Điều naỳ lam tăng cầu hàng nội và dẫn tới tăng

giá của đồng nội tệ về lâu dài làm giảm tỷ giá đẩy giá trị đồng nội tệ lên cao.
Thuế quan cao có tác dụng hạn chế nhập khẩu ,cầu ngoại tệ giảm nội tệ lên giá
, làm giảm sức ép lên tỷ giá. Do đó kéo tỷ giá đi xuống dần dẫn đến thế cân bằng
trên thị trường hối đoái. Khi thuế quan thấp có tác dụng ngược lại Vì vậy cho nên
không nên áp đặt một mức thuế quá cao sẽ dẫn tới khả năng xuất khẩu bị giảm sút (do
nội tệ lên giá), thuế quan cũng gây ra tệ nạn buôn lậu, thuế càng cao buôn lậu càng tăng
và những điều này làm giảm phúc lợi chung do đó làm giảm hiệu quả khai thác nguồn
lực của nền kinh tế. Đối với những nước có nền sản suất non trẻ thì thuế quan cũng là
một cách để bảo hộ trước sự tấn công của hàng hoá các nước khác.
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
14
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
 Hạn ngạch.
Hạn nghạch (hạn chế số lượng) là quy định một nước về số lượng cao nhất
của một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất hoặc nhập từ một thị trường
trong một thời gian nhất định thông qua hình thức giấy phép. Hạn nghạch có tác
dụng hạn chế nhập khẩu do đó có tác dụng lên tỷ giá tương tự như thuế quan.Dỡ bỏ
hạn nghạch có tác dụng làm tăng nhập khẩu, do đó có tác dụng lên tỷ giá giống như
thuế quan thấp .
Hiện nay các nước ít sử dụng hạn nghạch mà sử dụng thuế quan để thay thế
cho hạn nghạch và đây cũng là quy định khi gia nhập WTO.
 Giá cả.
Thông qua hệ thống giá cả, chính phủ có thể trợ giá cho những mặt hàng xuất
khẩu chiến lược hay đang trong giai đoạn đầu sản xuất.Trợ giá xuất khẩu làm cho
khối lượng xuất khẩu tăng, làm tăng cung ngoại tệ, nội tệ lên giá. Chính phủ cũng
có thể bù giá cho một số mặt hàng nhập khẩu thiết yếu, bù giá làm tăng nhập khẩu
nội tệ giảm giá.
Trợ cấp chia làm 2 loại: trực tiếp bổ trợ tức là trực tiếp chi tiền cho nhà xuất
khẩu và gián tiếp bổ trợ tức là ưu đãi về tài chính về một số mặt hàng cho nhà xuất
khẩu như ưu đãi về thuế trong nước, thuế xuất khẩu…

Khi mức giá cả hàng hóa, dịch vụ trong nước tăng so với mức giá cả hàng hóa
dịch vụ nước ngoài, các hãng sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng, các hãng sản xuất
của một nước nói chung có xu hướng thu hẹp quy mô sản xuất do chi phí đầu vào
tăng. Do đó xuất khẩu giảm, cung ngoại tệ giảm, đồng thời cầu về hàng ngoại tăng
 Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các NHTM.
Khi thị trường khan hiếm ngoại hối thì NHTW có thể tăng dự trữ ngoại hối đối
với các khoản ngoại tệ huy động được của các NHTM , chi phí huy động ngoại tệ
tăng cao NHTM phải hạ lãi suất huy động để tránh bị lỗ khiến cho việc nắm giữ
ngoại tệ trở nên kém hấp dẫn so với việc nắm giữ nội tệ tăng cung ngoại tệ trên thị
trường, tỷ giá giảm.
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
15
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
CHƯƠNG II:
CHÍNH SÁCH TỈ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA
2.1 Chính sách tỉ giá hối đoái ở Việt Nam.
2.1.1 Giai đoạn trước 1989: tỷ giá cố định, đa tỷ giá
2.1.1.1 Chính sách tỷ giá.
Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mang nặng tính bao cấp, Nhà nước thực
hiện chính sách tỷ giá cố định. Quan hệ tỷ giá của VNĐ chủ yếu là với SUR và các
nước trong khối XHCN theo phương thức thỏa thuận, còn lại với các đồng tiền khác
về cơ bản là ko xác lập quan hệ tỷ giá. Tỷ giá được chia làm 2 khu vực, bao gồm
Khu vực 1: Tỷ giá trong phe XHCN và Khu vực 2: Tỷ giá ngoài phe XHCN:
Tỷ giá khu vực I:
Trong thời gian này, VN có quan hệ thương mại chủ yếu với các nước
XHCN. Hình thức buôn bán phổ biến là hàng đổi hàng theo 1 tỷ giá cố định được
quy định trong các hiệp định song phương và đa phương. Tỷ giá được chia thành
nhiều nhóm tương thích với từng mục đích quan hệ KT khác nhau, bao gồm:
Tỷ giá mậu dịch: Là tỷ giá dùng trong thanh toán có liên quan đến mua, bán

hàng hóa, dịch vụ vật chất giữa các nước trong phe XHCN. Nó được xác định dựa
trên cơ sở so sánh giá hàng hóa xuất khẩu tính bằng VND và tính bằng ngoại tệ ở
nước ngoài.
Tỷ giá phi mậu dịch: Là tỷ giá dùng trong thanh toán, chi trả hàng hóa hoặc
dịch vụ vật chất không mang tính thương mại giữa các nước trong phe XHCN, như
chi về ngoại giao, đào tạo, hội thảo, hội nghị… Nó được xác định trên cơ sở giá bán
lẻ của một số mặt hàng tại 2 nước tính theo đồng tiền của 2 nước. Tại VN trong 1
thời kỳ dài đã quy định tỷ giá phi mậu dịch thấp hơn rất nhiều so với tỷ giá mậu
dịch để điều tiết lại phần “chênh lệch giá” do những người nước ngoài được mua rẻ
ở VN. Trong thời kỳ này nếu tỷ giá mậu dịch là 3,27 VND/SUR thì tỷ giá phi mậu
dịch là 1,7 VND/SUR cùng thời điểm. Tất cả các tỷ giá phi mậu dịch giữa VN với
các nước đều dần dần hết hiệu lực trong năm 1989 và cuối cùng là ngày
31/12/1999.
Tỷ giá kết toán nội bộ: Được xác định trên cơ sở tỷ giá chính thức cộng thêm
hệ số phần trăm để bù lỗ cho các đơn vị xuất khẩu. Tỷ giá này không công bố ra
ngoài mà chỉ áp dụng trong thanh toán nội bộ (nên gọi là kết toán nội bộ). Tỷ giá
chính thức (tỷ giá mậu dịch) do Nhà nước công bố và cố định trong một thời gian
dài. Tại thời điểm công bố, tỷ giá chính thức thường thấp hơn tỷ giá thị trường (tức
VND bị định giá cao), do đó hoạt động xuất khẩu tính theo tỷ giá chính thức bị lỗ.
Để bù lỗ cho xuất khẩu, Nhà nước dùng tỷ giá kết toán nội bộ bằng tỷ giá chính
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
16
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
thức cộng thêm một tỷ lệ phần trăm quy định cho từng nhóm hàng.
Đối với hàng nhập khẩu như vật tư nguyên liệu, thiết bị, Nhà nước đứng ra
phân phối cho các ngành trong nền KTQD tính theo tỷ giá chính thức (giá phân
phối). Như vậy các ngành, các địa phương được phân phối các loại vật tư, nguyên
liệu thì được lợi, còn Nhà nước không thu được chênh lệch giá. Để hạn chế nhập
khẩu hàng hóa tiêu dùng hoặc hàng xa xỉ phẩm, Nhà nước áp dụng mức tỷ giá cao
hơn rất nhiều so với tỷ giá chính thức.

Tỷ giá chính thức thấp nên các tổ chức KT và cá nhân có ngoại tệ không bán
cho ngân hàng vì như vậy sẽ bị thiệt. Các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân
nước ngoài cũng hạn chế chuyển tiền vào tài khoản ở ngân hàng để chi tiêu mà
thường đưa hàng từ nước ngoài vào hoặc sử dụng ngoại tệ tiền mặt trực tiếp trên thị
trường tự do. Do đó, cơ chế tỷ giá thời kỳ này đã trở thành 1 yếu tố tạo cho ngoại tệ
bị thả nổi, mua bán trên thị trường tự do, tạo môi trường tốt cho đô la hóa.
Tỷ giá kiều hối: Nhằm thu hút nguồn ngoại tệ mạnh từ các nước tư bản do
kiều bào chuyển về hoặc khuyến khích khách du lịch tại VN (nên còn gọi là tỷ giá
du lịch), Nhà nước tính thêm 1 hệ số thu hút cộng vào tỷ giá chính thức. Vì vậy, tỷ
giá này thường cao hơn tỷ giá công bố chính thức và có thể lên tới 50%.
Tỷ giá khu vực II:Thời kỳ này Ngân hàng VN dựa vào quan hệ tỷ giá giữa
VND với đồng đô la Hongkong và tính chéo ra tỷ giá với các đồng ngoại tệ khác.
Chính sách xuyên suốt về tỷ giá đối với các nước ngoài phe XHCN là ngay từ đầu
VN chỉ áp dụng một loại tỷ giá chính thức, không phân biệt theo các loại quan hệ
mậu dịch hay phi mậu dịch.
2.1.1.2 Tác động của chính sách tỷ giá đến nền kinh tế.
Giai đoạn này nhà nước độc quyền về ngoại thương và ngoại hối do đó độc
quyền về ban hành và ấn định tỷ giá. Việc ấn định tỷ giá ko tuân theo quan hệ cung
cầu trên thị trường làm bóp méo tỷ giá thực, gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu
trong thời gian dài.
Với việc thực hiện tỷ giá kết toán nội bộ, mức tỷ giá chính thức thường cố
định trong thời gian tương đối dài và thấp hơn rất nhiều so với mức tỷ giá trên thị
trường.VD:giai đoạn từ năm 1985 đến 1988, 1 Rup có giá vào khoảng 1500 VND, 1
Dola có giá vào khoảng 3000 VND . Trong khi đó, tỷ giá kết toán nội bộ trong
thanh toán quan hệ xuất nhập khẩu ở mức khoảng 1SUR=150VND và
1USD=225VND. Từ đó, 1 Rup nhập khẩu Nhà nước phải bù lỗ một số tiền là 1350
đồng và 1 Dola phải bù lỗ 2775 đồng. Như vậy, nếu kim ngạch trong năm 1987 là
650 triệu SUR-USD , trong đó khu vực đồng Rup là 500 triệu và khu vực Dola là
150 triệu thì số tiền phải bù lỗ lên đến 900 tỷ VND . Tình hình này dẫn đến một
thực trạng là những địa phương, những ngành nghề nào đó càng xuất khẩu nhiều thì

ngân sách Nhà nước càng phải bù lỗ nhiều. Nếu bù lỗ không đủ hay chậm trễ sẽ dẫn
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
17
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
đến tình trạng nợ chồng chất lẫn nhau và thiếu vốn kinh doanh. Bên cạnh đó, do tỷ
giá chính thức quy định thấp, các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ lại tìm cách
không bán cho ngân hàng, các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài
cũng hạn chế việc chuyển tiền vào tài khoản ở ngân hàng để chi tiêu mà thường đưa
hàng từ nước ngoài vào hay sử dụng trực tiếp tiền mặt trên thị trường. Thực tế này
vừa gây thiệt hại về kinh tế cho Nhà nước vừa làm phát sinh những tiêu cực trong
đời sống kinh tế xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ những hoạt động phi pháp và chính điều
này tác động ngược trở lại làm tình hình tỷ giá trong thị trường càng diễn biến phức
tạp. Đối với nhập khẩu, Nhà nước thường đứng ra phân phối nguyên vật liệu, trang
thiết bị, máy móc nhập khẩu cho các nghành đơn vị trong nền kinh tế với giá rẻ
( theo tỷ giá chính thức). Như vậy, các nghành, các đơn vị được phân phối hàng
nhập khẩu thì được chênh lệch giá. Do đó, cách thức xây dựng và điều hành tỷ giá
cùng cơ chế ngoại thương như vậy đã được xem là một trong những nguyên nhân
cơ bản dẫn đến những thâm hụt trầm trọng trong ngân sách Nhà nước ở giai đoạn
này. Tóm lại, tỷ giá hối đoái được xác lập và vận hành ở Việt Nam trong giai đoạn
trước tháng 3/1989 là một hệ thống khá phức tạp, được xác lập theo ý đồ phục vụ
cho kế hoạch do Nhà nước quyết định, không xuất phát từ luật thực tại trong nền
kinh tế trong và ngoài nước mà hậu quả là làm cho việc tính toán,phản ánh thu chi
ngân sách Nhà nước bị sai lệch, công tác điều hành ngân sách Nhà nước gặp khó
khăn, cản trở các quan hệ kinh tế cả trong và ngoài nước. Đây cũng là vừa một biểu
hiện và cũng vừa là kết quả của một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
2.1.2 Giai đoạn 1989 – 1992: tỷ giá thả nổi.
2.1.2.1 Chính sách tỷ giá.
Giai đoạn này có thể được coi là cái mốc quan trọng trong phát triển TGHĐ ở
nước ta khi quan hệ ngoại thương được bao cấp với các thị trường truyền thống
Đông Âu và Liên Xô(cũ) bị gián đoạn, khiến chúng ta phải chuyển sang buôn bán

với khu vực thanh toán bằng dola Mỹ. Kể từ đó cơ chế tỷ giá ổn định đã được thay
thế dần bằng cơ chế Nhà nước điều tiết theo quan hệ thị trường. Để đi tới một chính
sách TGHĐ tự chủ như ngày nay, cơ chế quản lý ngoại tệ nói chung, quản lý hối
đoái nói riêng đã trải qua những điều chỉnh lớn.
Nước ta chính thức áp dụng tỷ giá thả nổi. Tỷ giá được xác định dựa hoàn
toàn trên cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Mặc dù tỷ giá được NHTW công bố
nhưng thực chất là thả nổi theo giá thị trường. Ngày 16/8/1991 thống đốc NHNN
ban hành quyết định 107 về quy chế hoạt động của 2 trung tâm giao dịch ngoại tệ
tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Hoạt động của NHNN trong giai đoạn này: Trực tiếp theo dõi và tham gia
vào các phiên giao dịch tại 2 trung tâm giao dịch ngoại hối để theo dõi và kịp thời
điều chỉnh; Đề xuất với thủ tướng thành lập quỹ điều hòa ngoại tệ.
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
18
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
19
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
2.1.2.2 Tác động của chính sách tỷ giá đến nền kinh tế.
Mặc dù trong giai đoạn 1989-1992 chính sách quản lý ngoại tệ của Nhà
Nước đã có nhiều thay đổi, như chuyển từ hình thức quản lý theo tỷ giá kết toán
nội bộ bình quân cho tất cả các nhóm hàng hoá và duy trì tương đối ổn định các tỷ
giá này, hoặc nếu có thay đổi thì cũng chỉ ở mức nhỏ nhằm ổn định hệ thống giá vật
tư và xuất khẩu, nhập khẩu, tỷ giá công bố vẫn cách xa mức giá hình thành trên thị
trường.
Diễn biến tỷ giá hối đoái từ năm1989 đến năm 1992 không những nói nên
khoảng cách giữa tỷ giá của nhà nước với tỷ giá hình thành trên thị trường tự do mà
còn phản ánh xu hướng tăng nhanh của giá trị đồng dola ở cả khu vực nhà nước lẫn
thị trường. Năm 1990, giá trị đồng dola vào thời điểm cuối năm đã tăng tới 50% so
với đầu năm. Mức tăng giá USD trong 1991 còn cao hơn .Tình trạng leo thang của

giá đồng dola đã kích thích tâm lý nắm giữ đồng dola , nhằm đầu cơ ăn chênh lệch
giá. Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại không được dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu
mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức trong nước . Mọi cố gắng quản lý
ngoại tệ của chính phủ ít đem lại hiệu quả . Giai đoạn này Ngân hàng không kiểm
soát được lưu thông tiền tệ. Trong các năm 1991-1992 do ảnh hưởng của sự đổ vỡ
các mối quan hệ ngoại thương với LiênXô và Đông Âu , nhập khẩu giảm sút một
cách nghiêm trọng ( năm 1991 là 357.0 triệu USD đến năm 1992 chỉ còn 91,1 triệu
USD ). Các doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu theo hình thức trả chậm và phải chịu
một lãi suất cao do thiếu dollar, dollar đã thiếu lại càng thiếu dẫn đến các cơn sốt
dollar theo chu kỳ vào giai đoạn này.
Hoạt động giao dịch ngoại hối ở 2 trung tâm không phản ánh hết tình hình
cung cầu ngoại tệ toàn nền kinh tế, tính thiết thực đối với cái thành viên tham gia thị
trường giao dịch ngoại tệ thấp, dự trữ ngoại tệ của NHNN mỏng nên khả năng điều
tiết kém. Đồng thời với chính sách tỷ giá thả nổi, tỷ giá trên thị trường bị thay đổi
liên tục bởi hoạt động đầu cơ thao túng, gây lao đao cho thị trường ngoại hối và
hoạt động xuất nhập khẩu, cán cân thương mại thâm hụt. (Chúng ta có thể thấy rõ
điều nay qua đồ thị 1) năm 1990-1991 giá trị xuất khẩu là -10%. Do đó, ở giai đoạn
sau, Nhà nước quyết định thi hành chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết.
2.1.3 Giai đoạn 1992 – 1996: tỷ giá thả nổi có điều tiết
2.1.3.1 Chính sách tỷ giá.
Vào thời điểm cuối năm 1992 , do kết quả sự can thiệp của Ngân hàng Nhà
nước vào thị trường ngoại tệ, tỷ giá dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ đầu cơ
trong các doanh nghiệp được tung ra , hướng mạnh vào kinh doanh xuất nhập khẩu.
Đồng thời có một lượng ngoại tệ được chuyển về do người Việt Nam ở nước ngoài
gửi về cho người thân tăng lên khoảng 300-400 triệu USD làm cung ngoại tệ lớn
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
20
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
hơn cầu ngoại tệ và kéo theo tỷ giá VND/USD giảm mạnh. Lĩnh vực tài chính tiền
tệ bắt đầu trở ngại. Bên cạnh đó, cùng với việc quản lý các đại lý thu đổi ngoại tệ

còn lỏng lẻo, sự chênh lệch lớn giữa TGHĐ ở thị trường chính thức và thị trường
chợ đen dẫn đến việc các đại lý lợi dụng danh nghĩa của Nhà nước để buôn bán trục
lợi, các ngân hàng không thu mua được lượng ngoại tệ đáng kể qua nguồn này. Một
mặt tình trạng này làm hạn chế khả năng kiểm soát các luồng ngoại tệ lưu hành
trong nước.
Chính sách tỷ giá hối đoái được điều chỉnh để chống lạm phát và thu hút đầu
tư nước ngoài. Để thực hiện mục tiêu chống lạm phát, chính sách tỷ giá được điều
hành cố gắng duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Thực chất của chính
sách tỷ giá thả nổi có điều tiết là việc NHNN quy định mức tỷ giá liên ngân hàng và
cho phép giao động trong biên độ nhỏ (<1%).
Ngày 20/09/1994 NHNN ban hành quyết định 203 về quy chế tổ chức và
hoạt động của Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, theo đó: Các thành viên tham gia
TT ngoại tệ liên NH ko chỉ bao gồm các NHTM mà còn có các tổ chức Tài chính
được phép kinh doanh trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng. NHNN ko trực tiếp
mua bán ngoại tệ với cá nhân, tổ chức, mọi giao dịch ngoại tệ đề qua NHTM.
NHNN sử dụng quỹ điều hòa ngoại tệ với tư cách là người mua bán cuối cùng nhằm
mục đích điều tiết, ổn định tỷ giá. Để thực hiện mục tiêu chống lạm phát, chính sách
tỷ giá được điều hành để cố gắng duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái danh nghĩa.
Do vậy trong giai đoạn này tỷ giá biến động rất ít. Thực chất của chính sách tỷ giá
thả nổi có điều tiết là việc NHNN quy định mức tỷ giá liên ngân hàng và cho phép
giao động trong biên độ nhỏ (<1%).
2.1.3.2 Tác động của chính sách tỷ giá đến nền kinh tế.
Việc ngân hàng Nhà nước khống chế chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá
bán là cứng nhắc. Điều này làm cho tỷ giá vận hành thoát ly hoàn toàn quan hệ cung
cầu và không khuyến khích các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thuơng mại hoạt
động theo đúng quan hệ nội tại của nó và thực tế không ít các ngân hàng thương
mại đã phá rào.
Tình hình giá cả đồng Dola Mỹ trên thị trường tiền tệ quốc tế thường xuyên
có sự biến động mạnh so với hàng loạt các đồng tiền chủ chốt khác như: Yên Nhật.
Mác Đức, NDT của Trung Quốc…Trong khi đó, đồng Dollar Mỹ lại có sự ổn định

trên thị trường Việt Nam, điều này cho thấy biện pháp can thiệp của chính phủ mà
đặc biệt là Ngân hàng nhà nước thật sự phát huy tác dụng một cách mạnh mẽ. Trong
bối cảnh nến kinh tế thế giới và thị trường tiền tệ quốc tế đầy biến động mà nền
kinh tế xã hội Việt Nam lại đạt được sự ổn định và tăng trưởng cao, điều này đã thể
hiện tính hợp lý về cơ bản của các tỷ số kinh tế vĩ mô và tất yếu là có biến số
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
21
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
TGHĐ.Tuy nhiên, khi đánh giá về mối quan hệ giữa TGHĐ và ngoại thương của
Việt Nam từ cuối năm 1992 đến đầu năm 1997, tất cả các công trình nghiên cứu
trong những năm gần đây và cũng theo nhận định chung của các nhà kinh tế thì đây
là giai đoạn tăng giá mạnh của đồng tiền Việt Nam. Các kết luận thường cho rằng:
Chính điều này là nguyên nhân gây ra tình trạng thâm hụt lớn trong ngoại thương
của Việt Nam. Ví dụ: Nếu ước tính một cách tương đối và lấy gốc là năm 1992 thì
đầu năm 1997, chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam đã tăng 36.8% trong khi ở Mỹ là
16,5% thì theo thuyết ngang giá sức mua, nếu tỷ giá chính thức vào đầu năm 1993,
là 1 USD = 10500VND thì đàu năm 1997 tỷ giá phải là 1USD = 103000(1+ 16,5%)
= 12095VND. Trong khi đó, tỷ giá chính thức trên thị trường Việt Nam thực tế chỉ
khoảng 1USD = 1100VND. Như vậy theo ngang giá sức mua, đồng Việt Nam đã
tăng giá thực tế xấp xỉ 9%. và số liệu thực tế cho thấy nếu xét về giá trị tuyệt đối
bằng tiền tệ thì thâm hụt trong cán cân thương mại của Việt Nam đã có sự tăng liên
tục qua các năm (1993 là 547, 1994 là 1170, 1995 là 2345, 1996 là 3150 triệu
Dollar Mỹ). Nếu so sánh mức thâm hụt này với tổng kim ngạch xuất khẩu thì con số
cũng có chiều hướng tăng lên (năm 1993 là 8,4% năm 1994 là 12,8% năm 1995 là
18,4% và năm 1996 là 17,7%)
Bên cạnh đó sự thâm hụt trong cán cân thương mại của Việt Nam phải
đặc biệt nghiêm trọng trong 3 năm liên tiếp 1994,1995, 1996, có thể nói phần lớn là
do tác động trực tiếp của việc Trung Quốc phá giá mạnh của đồng NDT vào đầu
năm 1994. Số liệu thực tế cho thấy, ngay sau cuộc phá giá kim ngạch nhập khẩu từ
Trung Quốc (chính ngạch) tăng lên rất nhanh. Nếu như trong năm 1992 kim ngạch

nhập khẩu từ Trung Quốc là 31,8% USD, chiếm 1,3% tổng kim ngạch xuất khẩu thì
trong các năm 1994, 1995, 1996, con số này lần lượt là 144,2% triệu USD chiến
2,7%, 793,9 triệu USD chiếm 10,5% và 926,5% triệu USD chiếm 8,8%. Thực tế đó
cũng đã chỉ ra rằng sự điều hành chính sách TGHĐ và chính sách ngoại thương của
Việt Nam trong giai đoạn từ cuối năm 1993 đến đầu năm 1997 đôi khi quá thụ
động. Sự phá giá mạnh của đồng NDT vào cuối năm 1993 là một sụ kiịen không có
tác động trực tiếp đến ngoại thương của Việt Nam nói riêng và nền kinh tế nói
chung. Nhưng có thể thấy rằng trong suốt những năm 1993 đến 1996, hoàn toàn
không có bất kỳ một điều chỉnh nào trong chính sách tỷ giá hối đoái nhằm phản ánh
hay đối phó tình hình này (điều này phản ánh tính tự chủ trong chính sách tiền tệ
nói chung và trong đó có chính sách tỷ giá hối đoái nói riêng là chưa cao).
2.1.4 Giai đoạn 1997-1998: tỷ giá thả nổi có quản lý
Nếu như ở giai đoạn 1992-1996 Ngân Hàng Nhà Nước áp dụng chế độ tỷ giá
thả nổi có điều tiết, thì ở giai đoạn 1997-1998 NHNN áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi
có sự quản lý. Điểm khác nhau ở đây giữa hai giai đoạn này là: giai đoạn 1992-1996
SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
22
GVHD: GS. Nguyễn Như Bình
mức độ điều tiết là việc NHNN quy định mức tỷ giá liên ngân hàng và cho phép
giao động trong biên độ nhỏ (<1%). Còn trong giai đoạn 1997-1998 thì sự quản lý
của NHNN được thể hiện qua việc: nâng tỷ giá chính thức và mở rộng biên độ giao
dịch, chúng ta có thể thấy rõ biên độ giao động áp dụng vào khoảng +/-1% đến +/-
10% tùy từng thời điểm (bảng dưới đây).
2.1.4.1 Chính sách tỷ giá hối đoái.
Khủng hoảng tài chính châu Á diễn ra, ảnh hưởng đến kinh tế trong nước,
tăng trưởng kinh tế chậm lại, thâm hụt thương mại tăng, nợ nước ngoài tăng. Cùng
với các đồng tiền châu Á, VND bị mất giá so với USD. Tỷ giá thực xác lập theo
quan hệ cung cầu ngoại tệ ngày càng chênh lệch lớn so với tỷ giá NHNN công bố.
Để ổn định tâm lý thị trường, trong 2 năm 1997-1998 NHNH đã 4 lần công bố điều
chỉnh tỷ giá theo 2 hướng: nâng tỷ giá chính thức và mở rộng biên độ giao dịch.

Thời điểm Biên độ giao động Tỷ giá chính thức
Quy mô điều
chỉnh(%)
27/02/1997 Từ +/-1% lên +/-5% Không đổi 4
13/10/1997 Từ +/-5% lên +/-10% Không đổi 5
16/02/1998 Không đổi 11.175 lên 11.800 5.6
07/08/1998 Từ +/-10% xuống +/-7% 11.815 lên 12.998 7
Nguồn: www.gso.gov.vn
Thời kỳ 1997 - 1998 cũng ghi nhận ba lần điều chỉnh tỷ giá
Tháng 7-1997 bình quân 11.690 VND/USD
Tháng 2-1998 bình quân 12.664 VND/USD
Tháng 8-1998 bình quân 13.715 VND/USD
2.1.4.2 Tác động của chính sách tỷ giá.
Việc Ngân hàng nhà nước điều chỉnh liên tục tỷ giá chính thức cùng biên độ
trong giai đoạn này có nhiều lý do, do gạt bỏ những lý do khác và chỉ đứng trên góc
độ lựa chọn chế độ tỷ giá thì có thể thấy. Nếu phân loại chế độ tỷ giá gồm 3 chế độ
chính là chế độ tỷ giá cố định, chế độ tỷ giá thả nổi thuần tuý và nằm giữa hai thái
cực này gọi chung là chế độ tỷ giá bán thẩ nổi hay thả nổ có quản lý, thì việc có
nhiều những điều chỉnh trong tỷ giá chính thức cùng biên độ tuy không làm thay đổi
về cơ bản mà hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về lựa chọn chế độ tỷ giá: "Một chế
độ tỷ giá thả nổi sẽ góp phần hạn chế những cơn sốc và xuất phát từ thị trường thế
giới ( khủng hoàng tài chính Đông Nam á).

SV: Cù Trung Kiên MSSV: CQ491436
23

×