Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi dất nông nghiệp tại xã Xuân ĐỉnhTừ Liêm Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.84 KB, 24 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới, với chính sách phát triển nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN mà Đảng và Nhà nước đã vạch ra, nền kinh tế nước ta đã có
những bước tiến đáng kể, đang hoà mình vào sự phát triển chung của nền kinh tế
thế giới.Với tốc độ phát triển trung bình đạt trên 8% một năm, quá trình CNH-
HĐH đất nước đang có những bước tiến đáng kể thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng từ kinh tế Nông nghiệp sang kinh tế Công nghiệp,thương mại,
dịch vụ.Hà Nội với vị thế là thủ đô của Việt Nam đã và đang phát huy vai trò của
mình trong việc phát triển kinh tế xã hội và cùng với TP.HCM là hai địa phương có
vai trò dẫn dắt nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới.Và
một hệ lụy của việc đô thị hóa công nghiệp hóa hiện đại hóa là đất nông nghiệp bị
thu hồi để phục vụ xây dựng các dự án.Xuân Đỉnh là một xã nằm ở huyện Từ Liêm
có tốc độ đô thị hóa vào hàng cao nhất của Hà Nội với phần lờn diện tích đất nông
nghiệp bị thu hồi lớn để phục vụ hàng loạt các dự án quan trọng đã và đang được
triển khai tại địa phương này.Trong những năm gần đây nhu cầu việc làm của
người dân rất lớn do quá trình đô thị hoá nông thôn và sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế đang diễn ra mạnh mẽ. Hàng năm số người đến tuổi lao động cùng với số lao
động Nông, lâm nghiệp trước đây phải chuyển sang làm nghề khác để giành đất
xây dựng các dự án. Như vậy phần lớn diện tích đất nông nghiệp của nông dân đã
bị thu hồi và trước mắt số lao động này sẽ phải chuyển đổi nghề nghiệp. Nhận thức
rõ tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề đào tạo nghề và giải quyết việc làm
cho số lao động có diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi em xin triển khai viết đề án
“đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi dất nông nghiệp tại
xã Xuân Đỉnh-Từ Liêm-Hà Nội”
1
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm khái quát chung về thực tế công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm
cho lao động bị thu hồi đất tại xã Xuân Đỉnh từ đó đưa ra những giải pháp nhằm thực
hiện có hiệu quả hơn việc đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho đối tượng lao động
này,góp phần giải quyết nạn thất nghiệp tại Xuân Đỉnh và đóng góp vào sự phát triển


chung của thành phố Hà Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm tại xã Xuân Đỉnh từ 2008 đến 2010
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khác nhau: phương pháp duy vật biện chứng & duy vật lịch sử đồng thời kết hợp sử
dụng phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp phân tích tổng hợp để làm rõ các
nội dung của đề tài thông qua việc thu thập dữ liệu tại xã Xuân Đỉnh,qua sách
báo,phương tiện thông tin đại chúng.
5. Kết cấu đề án bao gồm những nội dung chính sau đây:
-Thực trạng sử dụng đất nông nghiệp thu hồi tại xã Xuân Đỉnh
-Đời sống xã hội xã Xuân Đỉnh sau khi được đền bù đất nông nghiệp
-Đào tạo nghề cho lao động bị mất đất nông nghiệp xã Xuân Đỉnh
-Giải quyết việc làm cho lao động bị mất đất nông nghiệp xã Xuân Đỉnh
-Những vấn đề phát sinh và giải pháp khắc phục trong công tác đào tạo nghề
và giải quyết việc làm
2
PHẦN 1: CHUYỂN ĐỔI MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT –
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc chuyển đổi mục
đích sử dụng đất, triển khai các dự án lớn của nền kinh tế diễn ra mang tính quy luật.
Đất đai được chuyển đổi ở nước ta đã góp phần phát triển mạnh nền kinh tế - xã hội và
bảo đảm tiềm lực an ninh quốc phòng của đất nước.
Nhờ có đất thu hồi, cả nước đã xây dựng được 131 khu công nghiệp, thu hút
được hàng trăm dự án đầu tư lớn. Vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài 1988 -
2006 đạt 78.248,2 triệu USD (vốn thực hiện 37.271,7 triệu USD); đầu tư ở khu vực
dân doanh, giá thực tế năm 2006 đạt 150.500 tỉ đồng. Nước ta đã nâng cấp và xây
dựng mới được hệ thống kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại hơn. Một số thành phố lớn
được nâng cấp mở rộng nhanh. Nhiều thị xã được mở rộng, nâng cấp lên thành thành
phố, hình thành một hệ thống các đô thị trung tâm và đô thị vệ tinh, từng bước thực

hiện tốt mục tiêu chiến lược phát triển đô thị Việt Nam. Kinh tế phát triển đã tạo điều
kiện thu hút, giải quyết việc làm ổn định cho hàng triệu lao động với mức thu nhập
khá. Số lao động làm việc trực tiếp trong các khu công nghiệp do Chính phủ cấp phép
không ngừng tăng: năm 2000 là 201 nghìn lao động, đến năm 2005 là 953 nghìn
người. Ngoài ra, còn có trên 1 triệu lao động gián tiếp làm dịch vụ cho các khu công
nghiệp, khu chế xuất.
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất ở nước ta đặt ra các vấn đề cần được giải quyết
một cách đồng bộ là: đời sống, việc làm của người bị thu hồi đất; chuyển đổi nghề
nghiệp cho những người bị mất tư liệu sản xuất; chính sách đền bù, giải phóng mặt
bằng; vấn đề tái định cư, sử dụng hợp lý đất đã thu hồi… Theo báo cáo của 14
tỉnh/thành phố, tình hình lao động bị mất việc làm nông nghiệp giai đoạn 2001 - 2005
do bị thu hồi đất là 265.709 người. Bình quân, mỗi ha đất nông nghiệp bị thu hồi có
khoảng 13 lao động mất việc làm cần phải chuyển đổi nghề mới.
Việc thu hồi đất tập trung phần lớn vào đất canh tác nông nghiệp và vùng đông
dân cư, tập trung vào một số xã, nhất là ở ven đô thị lớn (khoảng 70% - 80%). Tính
chung, đất nông nghiệp bị thu hồi chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng diện tích đất nông
nghiệp (khoảng 1%-2%), nhưng tình trạng khó khăn về việc làm của người lao động
cũng phát sinh tập trung ở một số địa bàn nhất định.
3
Khu vực nông thôn hiện có khoảng 24 triệu lao động và họ chỉ mới sử dụng
khoảng 80% thời gian làm việc, 20% thời gian còn lại tương đương với 4,8 triệu lao
động thiếu việc làm. Trong 5 năm tới, số lao động tăng thêm là 5 triệu người, số lao
động thiếu việc làm 4,8 triệu người và 2,5 triệu lao động mất việc do đất nông nghiệp
bị thu hồi, tổng cộng riêng nông thôn là 12,3 triệu người. Như vậy, vấn đề việc làm và
thu nhập của những người có đất bị thu hồi 5 năm tới vẫn là vấn đề nóng bỏng tác
động sâu sắc đến sự phát triển bền vững của đất nước.
Khó khăn trong giải quyết việc làm cho lao động các hộ bị thu hồi đất nông
nghiệp thường gặp phải là:
- Người dân chưa kịp chuẩn bị để kiếm một nghề mới khi đột ngột mất đất, mất
việc làm. Bản thân họ ít có khả năng tìm ngay việc làm mới để bảo đảm thu nhập.

Tình trạng thất nghiệp toàn phần và thất nghiệp một phần rất gay gắt. Đa số thanh niên
các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp có trình độ văn hóa thấp, trong
khi để có một nghề chắc chắn đáp ứng chỗ làm việc trong các doanh nghiệp, phần lớn
yêu cầu phải có trình độ từ phổ thông trung học.
- Chính phủ đã có những quy định cụ thể hỗ trợ cho những người mất đất được
đào tạo nghề mới hoặc chuyển đổi nghề nghiệp. Tuy nhiên, số tiền hỗ trợ chuyển đổi
ngành nghề từ 300 - 700 nghìn đồng/người chỉ có thể tham gia một khóa đào tạo ngắn
hạn với các nghề đơn giản. Đa số các cơ sở dạy nghề tại các vùng chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp không đủ năng lực tiếp nhận số lượng nhiều và đào tạo
nghề có chất lượng, nên đối tượng này khó cạnh tranh khi đi tìm việc làm trong các
khu công nghiệp, khu chế xuất
- Các doanh nghiệp có xu hướng tuyển dụng lao động trẻ, khỏe. Những lao động
lớn tuổi (trên 35 thậm chí từ 26 - 35 tuổi) chưa qua đào tạo rất khó tìm việc làm trong
khi, đa số họ là người phải gánh chịu trách nhiệm chính nuôi sống gia đình; bộ phận
này đứng trước nguy cơ thất nghiệp kéo dài lớn nhất.
- Tình trạng người lao động còn thụ động, ỷ lại vào chính sách hỗ trợ của Nhà
nước, vào tiền đền bù; tâm lý chờ nhận sự ưu đãi của Nhà nước đang tồn tại khá phổ
biến ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp.
- Cơ cấu nguồn thu của các hộ dân bước đầu đã có sự chuyển dịch theo hướng
tiến bộ. Nguồn thu từ sản xuất nông nghiệp giảm, thu từ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, từ tiền lương tiền công và từ thương mại dịch vụ tăng hơn. Tuy vậy, số
hộ bị giảm thu nhập còn rất lớn.Trên phương diện này, có thể đánh giá tính kém hiệu
4
quả của các phương thức đền bù mà các địa phương đã triển khai. Việc một bộ phận
hộ dân bị thu hồi đất nông nghiệp tăng tài sản do có tiền đền bù, nhưng là sự biến động
tăng không bền vững. Sử dụng tiền đền bù không đúng mục đích đang ẩn chứa những
yếu tố bất ổn trong thu nhập của họ.
Hiện nay, nhiều địa phương đã có chính sách quy định các doanh nghiệp sử dụng
đất phải có trách nhiệm sử dụng lao động tại chỗ mất việc làm do bị thu hồi đất nông
nghiệp. Nhưng các doanh nghiệp lại chưa quan tâm nhiều đến vấn đề này. Tình trạng

quy hoạch treo, hoặc chủ đầu tư nhận đất nhưng không triển khai dự án dẫn đến dân
mất đất mà không có việc làm, còn doanh nghiệp không thu hút được lao động vào
làm việc khá phổ biến.
Rõ ràng là, việc thu hồi đất nông nghiệp chưa có sự gắn kết với quy hoạch, kế
hoạch, chính sách và biện pháp chuyển đổi nghề, tạo việc làm mới, tăng thu nhập cho
người lao động. Hơn thế, việc tổ chức triển khai còn thiếu công khai, dân chủ, minh
bạch, thiếu thông tin, tuyên truyền để người lao động chủ động học nghề, chuyển nghề
và tự tạo việc làm. Tồn tại này là căn nguyên xảy ra những phức tạp trong đời sống,
gây hậu quả nặng nề và mất lòng tin của một bộ phận nhân dân vào chủ trương lớn,
đúng đắn của Đảng và Nhà nước, dẫn đến những khiếu kiện, có nguy cơ mất ổn định
xã hội. Phương châm địa phương có công trình, có dự án, dân có việc làm đang là vấn
đề khó khăn.
5
PHẦN 2: ĐỜI SỐNG XÃ HỘI TẠI XUÂN ĐỈNH SAU KHI ĐƯỢC ĐỀN BÙ
2.1.Thực trạng sử dụng đất nông nghiệp bị thu hồi tại xã Xuân Đỉnh
Xuân Đỉnh là xã thuần nông 100% của huyện Từ Liêm. Kinh tế địa phương chủ
yếu dựa vào hoạt động nông nghiệp, với tổng diện tích đất canh tác vào khoảng 250ha.
Từ năm 1999, với kế hoạch phát triển các vùng ven đô, hàng loạt các dự án đã đầu tư
vào Xuân Đỉnh.
Quy mô dự án lớn dần, diện tích đất nông nghiệp càng thu hồi lớn. Sau khi triển
khai xong 24 dự án ban đầu, những phần đất màu mỡ nhất vốn để cấy lúa, đã được thu
hồi phục vụ cho việc xây dựng. Phần diện tích còn lại chủ yếu nằm xen kẽ giữa các dự
án, rất khó canh tác.
Từ năm 2006, TP Hà Nội lại có quyết định triển khai thêm 4 dự án lớn tại Xuân
Đỉnh: Xây dựng khu Ngoại giao đoàn diện tích trên 62.8ha nhưng vẫn chưa thể triển
khai do công tác giải phóng mặt bằng gặp trục trặc, Công viên Hoà Bình diện tích trên
20ha đã cơ bản hoàn thành;dự án Tây Hồ Tây có tổng diện tích 250ha, nằm trải dài
trên cả 4 xã phường: Xuân La, Cổ Nhuế, Xuân Đỉnh, Nghĩa Đô, trong đó riêng diện
tích của Xuân Đỉnh đã chiếm 107ha và khu đô thị Ciputra tổng diện tích hơn
300ha.Thêm vào đó là một số dự án khu nhà ở nhưng diện tích không lớn.Khi tất cả

những dự án này hoàn thành,gần như toàn bộ diện tích đất nông nghiệp còn lại của địa
phương sẽ bị xoá sổ kéo theo hàng ngàn hộ dân sẽ rơi vào cảnh mất đất, không còn
việc làm.
2.2.Thực trạng sử dụng tiền đền bù đất
Với mặt bằng dân trí của lao động không cao,nghề nông vốn là nghề truyền
thống tại Xuân Đỉnh cho nên việc dân chúng sử dụng không hợp lí tiền đền bù đất là
điều không tranh khỏi.Không có một kế hoạch chi tiêu định hướng cho tương lai,đại
bộ phận người dân đã sử dụng khoản tiền đền bù như một phương tiện để hưởng thụ
cuộc sống. Hầu tiền đền bù không đúng mục đích, chủ yếu dùng để mua sắm, mà
không hướng vào đầu tư sản xuất, tìm công việc mới. Chỉ có số ít thanh niên kiếm
được vài công việc mang tính chất "thời vụ".
Theo thống kê của chính quyền xã thì việc sử dụng tiền đền bù đất diễn ra như
sau:
-57.5% dân chúng dùng tiền đền bù để xây nhà
-8.72% dân chúng dung tiến đền bù để mua đồ dùng sinh hoạt có giá trị lớn
6
-Chỉ 1.27% dân đầu tư cho sản xuất phi nông nghiệp
-2.55% dân đầu tư cho học nghề
-18.2% dân gửi tiền tiết kiệm hầu hết số tiền đền bù
Còn lại là sử dụng cho các hoạt động không lành mạnh vầ trái pháp luật
Với tình hình sử dụng tiền đền bù như trên thì không ngạc nhiên khi ma 50% hộ
dân trở nên khó khăn và 37% hộ dân đã bị giảm thu nhập sau một thời gian sử dụng
tiền đền bù đất.
2.3.Đời sống xã hội tại Xuân Đỉnh trong quá trình sử dụng tiền đền bù đất
Với việc trong chốc lát có trong tay khoản tiền lớn khiến cho đời sống nhân dân
và bộ mặt thôn xóm xã Xuân Đỉnh thay đổi nhanh chóng.Đầu làng cuối xóm những
ngôi nhà cao tầng cứ dần mọc lên thay thế cho những ngôi nhà mái ngói.Hệ thống điện
đường trường trạm va nhà văn hóa các thôn xóm đã được đầu tư xây dựng khá khang
trang.Cuộc sống của người dân đã không còn cảnh “ăn bữa trước lo bữa sau” nên
người dân đã chú trọng hơn tới việc chăm sóc sức khỏe, nâng cao đời sống vật chất

tinh thần và chú trọng hơn tới việc học tập cho con em họ.Các hoạt động dịch vụ vui
chơi giải trí được nhân dân quan tâm hơn.Nhiều hộ gia đình đã sử dụng tiền đền bù để
phát triển kinh tế hộ gia đình hoặc đầu tư vào những công việc kinh doanh dễ phát
triển tại địa phương và bước đầu đã thu được những kết quả nhất định.Song bên cạnh
những mặt tích cực đó là hàng loạt những tiêu cực phát sinh ngày một nghiêm trọng
hơn.Các tệ nạn xã hội trong những năm gần đây tại Xuân Đỉnh có chiêu hướng gia
tăng nhanh chóng như cờ bạc,ma túy ,mại dâm,buôn người,trộm cướp,buôn bán ma
túy,cho vay nặng lãi diễn ra với tính chất ngày càng nghiêm trọng.Việc phân hóa giàu
nghèo cũng phát triển nhanh chóng gây ra những biến đổi theo chiều hướng xấu trong
văn hóa làng xã.Việc xây dựng nhà cửa không theo quy hoạch cũng là một điều gây
khó khăn cho chính quyền xã.Đó lá chưa kể tới những việc làm không minh bạch của
một bộ phận người có chức quyền của xã trong công tác giải quyết tiền đền bù đất đã
gây ra những khiếu kiện kéo dài và không được giải quyêt thỏa đáng gây bất bình
trong dân chúng.Còn trong nội bộ dân cư của xã cũng thường xuyên diễn ra những vụ
tranh chấp tiền đền bù và quyền sở hữu đất đai.Chưa dừng lại ở đó,cũng do có quá
quan tâm tới việc hưởng thụ cuộc sống mà không quan tâm tới việc học nghề và
chuyển đổi nghề nghiệp mà trong những năm gần đây tình trạng thất nghiệp của người
dân có chiều hướng gia tăng rõ rệt.Thật đáng lo ngại khi lực lượng lao động mới bước
7
vào tuổi lao động và những lao động dưới tuổi 35 luôn trong tình trạng ăn và chơi
theo đúng nghĩa của cụm từ này.Theo thống kê của sở lao động thương binh xã hội Hà
Nội thì hiện nay trên địa bàn cùa xã Xuân Đỉnh thì cứ 1ha đất nông nghiệp bị thu hồi
tại địa phương này thì có đến gần 20 lao động thất nghiệp hoặc mất việc làm.Con số
thống kê này còn tăng vì mỗi năm số người bước vào tuổi lao động tại đây tăng.Vấn
nạn thất nghiệp và mất việc làm tại Xuân Đỉnh đã khiến cho không chỉ chính quyền xã
mà ngay cả lãnh đạo thành phố cũng phải lo nghĩ.Và để góp phần giải quyết vấn nạn
này các cơ quan chức năng đá thúc đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo nghề và giải
quyết việc lam cho lao động xã Xuân Đỉnh.Đây cúng là chiến lược nhỏ trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của thành phố trong định hướng phát triển đến 2030 và
tầm nhìn đến 2050.

8
PHẦN 3:ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG BỊ THU HỒI ĐẤT TẠI
XÃ XUÂN ĐỈNH
3.1.Mục tiêu đào tạo
Căn cứ thực trạng thất nghiệp và thiếu việc làm tại các vùng bị thu hồi đất trên
địa bàn Hà Nội cùng với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội và quốc gia
trong tương lai,mục tiêu đào tạo đã được bộ Lao động thương binh xã hội đề ra áp
dụng cho những vùng bị thu hồi đất nông nghiệp trong đó có xã Xuân Đỉnh như sau:
Trang bị cho lao động các kiến thức,kĩ năng đầy đủ và tiên tiến về ngành nghề
được đào tạo;tạo điều kiện cho lao động đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, tạo việc làm và thu nhập cho lao động.
-Đào tạo đội ngũ lao động đáp ứng quá trình đô thị hóa công nghiệp hóa hiện
đại hóa,thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế,cơ cấu lao động theo hướng phats triển
các ngành nghề và lao động phi nông nghiệp,tham gia phân công lao động quốc tê
́.Đồng thời tạo bước chuyển mạnh mẽ trong nội bộ ngành nông nghiệp.
-Đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động cho các cơ sở sản xuất kinh doanh,các khu
công nghiệp,khu dịch vụ trên địa bàn Hà Nội.
-Góp phần khôi phục và phát triển các nghề truyền thống của mỗi địa
phương,các lợi thế so sánh của mỗi địa phương,đảm bảo cho quá trình đô thị hóa công
nghiệp hóa hiện đại hóa và phat triển kinh tế xã hội của Hà Nội.
3.2.Mô hình đào tạo
Hiện nay trên địa bàn xã Xuân Đỉnh diện tích đất nông nghiệp gần như không
còn,người dân chủ yếu chỉ trồng được rau và hoa màu trên đất dự án khu ngoại giao
đoàn đang vướng mắc trong khâu giải phóng mặt bằng.Chính vì lẽ đó mà chỉ đòa tạo
được lao động theo mô hình phi nông nghiệp bao gồm những ngành nghề như kĩ thuật
hàn,cắt gọt kim loại,điện dân dụng điện công nghiệp,sửa chữa máy móc động cơ,mộc
công nghiệp,sản xuất hàng thủ công mĩ nghệ, may dân dụng…Tại trường dạy nghề của
huyện Từ Liêm hiện nay vẫn đang tiếp tục chiêu sinh các lớp học may công
nghiệp,sửa chữa xe máy hàn điện, điện dân dụng,tin học.Đây là môi trường học tập
khá tốt để cho lao động trong xã có điều kiện học nghề và chuyển đổi nghề nghiệp.

9
3.3.Các căn cứ để chọn nghề đào tạo cho lao động
-Độ tuổi lao động
Theo tiêu chí này lao động được chia ra làm 3 nhóm:nhóm bước vào độ tuổi lao
động,nhóm lao động dưới 35 tuổi và nhóm trên 35 tuổi. Số lao động không có việc làm
ở địa phương nhiều nhất vẫn là trong độ tuổi từ 45-60. Chương trình dạy nghề cho
nông dân lại bị giới hạn về trình độ và lứa tuổi (tốt nghiệp THPT và dưới 35 tuổi - PV)
nên chỉ có khoảng 40% đáp ứng được yêu cầu, vẫn còn 60% người dân không có cơ
hội học nghề, tìm việc làm.
-Nhu cầu học nghề của lao động
Bao gồm những ngành nghề được người lao động đặc biệt quan tâm.Các lao động
có độ tuổi khác nhau,trình độ văn hóa khác nhau có những nhu cầu khác nhau về
ngành nghề được đào tạo.Để nắm bắt được nhu cầu học nghề của lao động các ban
ngành hữu quan cần tiến hành khảo sát nhu cầu trước khi đào tạo,tránh tình trạng đào
tạo lệch pha dân đến khó khăn cho lao động trong quá trình đào tạo và tìm việc sau
đào tạo.
-Nhu cầu sử dụng lao động trên địa bàn thành phố
Là những ngành nghề mà các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố có nhu cầu sử
dụng trong hiện tại và tương lai.Phải tiến hành điều tra khảo sát nhu cầu sử dụng lao
động trên địa bàn thành phố để đưa ra những ngành nghề đào tạo hợp lí cả về thời gian
lẫn loại hình đào tạo.Việc giải quyết được việc làm cho lao động của thành phố ngay
tại địa phương có ý nghĩa lớn góp phần giảm bớt nạn thất nghiệp cho lao động tại các
địa phương bị thu hồi dất nông nghiệp như Xuân Đỉnh lại vừa tiết kiệm chi phí tuyển
dụng lao động cho các doanh nghiệp
-Thế mạnh và lợi thế so sánh của địa phương
Xuân Đỉnh nổi tiếng với hồng xiêm và làng nghề bánh mứt kẹo.Nhưng giờ chỉ
còn lai làng nghề bánh mứt kẹo do đất nông nghiệp đã gần như bị xóa sổ.Muốn liên
kết đào tạo và giải quyết việc làm cho lao động bằng nghề truyền thống này cần sự
đầu tư phát triển của thành phố và Nhà Nước cả về chất lượng lẫn số lượng cho làng
nghề.Hiện nay làng nghề này chỉ sản xuất chủ yếu vào dịp lễ tết và đang gặp khó khăn

do không đảm bao vệ sinh an toàn thực phẩm trong quá trình sản xuất.
-Nhu cầu sử dụng lao động của nước ngoài
Hiện nay lao động Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang các nước châu Á như
Hàn Quốc,Đài Loan,Malaysia.Quan tâm tới xuấ khẩu lao động là chủ trương chính
10
sách đúng đắn của Đảng và Nhà Nước ta vì vừa góp phần giải quyết nạn thất nghiệp
trong nước lại tham gia phân công lao động thế giới.Muốn phát triển loại hình này
Đảng và Nhà Nước cần tiến hành điều tra khảo sát kĩ hơn nhu cầu sử dụng lao động
của nước ngoài từ đó đưa ra những ngành nghề và biện pháp đào tạo phù hợp.
3.4.Các biện pháp đào tạo
-Phối hợp với nghệ nhân và lao động có tay nghề cao tại làng nghề bánh mứt
kẹo để tiến hành đào tạo.
Theo cách thức đào tạo này những nghệ nhân lành nghề trong làng nghề sẽ trực
tiếp hướng dẫn cho người lao động về kiến thức lẫn kĩ năng nghề nghiệp.Biện pháp
này có ưu điểm lớn là khả năng người lao động có được việc làm sau đào tạo là rất
cao.Song muốn biện pháp này thực sự phát huy tác dụng thì vấn đề đầu tư phát triển
làng nghề được coi là mục tiêu số một.Phát triển ở đây là cả về chất lượng sản phẩm
sản xuất lẫn số lượng cơ sở sản xuất.
-Liên kết với cơ sở sản xuất và khu công nghiệp trên địa bàn thành phố để đào
tạo nghề
Theo phương pháp này các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố sẽ về địa phương
để chọn lấy những lao động đáp ứng được những yêu cầu đặt ra để đào tạo trong
doanh nghiệp.Lao động sẽ được trực tiếp học kiến thức và kĩ năng nghề qua công việc
thực tiễn và có thể được thực hành luôn qua việc làm thử.Ưu điểm của phương pháp
này là lao động sẽ được đào tạo những nghề mà hiện nay có nhu cầu sử dụng lao động
lớn.Song việc lao động có được nhận vào làm trong doanh nghiệp sau đào tạo hay
không còn phụ thuộc vào thái độ học tập của họ,thái độ của doanh nghiệp trước những
chính sách hỗ trợ của thành phố và Nhà Nước.
-Mở các lớp dạy nghề trên địa bàn xã và huyện
Đây có thể là phương pháp thu hút được nhiều hoc viên theo học nhất bởi tính đa

ngành nghề được đào tạo.Các học viên có thể học những nghề mà họ cảm thấy
thích.Ngành nghề được đào tạo bao gồm kĩ thuật hàn,sửa chữa máy móc,điện,điện
tử,may công nghiệp v.v…Dù lớp học được mở ở đâu thì việc đảm bảo cơ sở vật chất
và giáo viên giảng dạy là điều rất quan trọng vì ảnh hưởng lớn tới chất lượng dạy và
học.Lớp học phải đảm bảo cơ sở vật chất,giáo viên giảng dạy được lựa chọn phải đảm
bảo có trình độ chuyên môn,kĩ năng nghề nghiệp và khả năng truyền đạt.Hơn nữa việc
đảm bảo đầy đủ trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập cũng vô cùng quan trọng
11
vì nó đảm bảo cho học viên có thể kết hợp việc học kiến thức kĩ năng với việc thực
hành.Việc kiểm tra chất lượng dạy và học cần phải được hết sức chú trọng.
-Mở các lớp đào tạp chuyên biệt để tiến hành xuất khẩu lao động
Theo phương pháp này học viên theo học sẽ được đào tạo ngoại ngữ và những
kiến thức cơ bản về nghề tùy thuộc vào quốc gia đi xuất khẩu.Thông thường lao động
được đào tạo tại các trung tâm chuyên đào tạo để đi xuất khẩu lao động.Để biện pháp
này phát huy hiệu quả tích cực thì Nhà Nước cần có cơ chế hỗ trợ cho lao động hạn
chế tới mức tối đa tình trạng người lao động muốn có cơ hội được xuất khẩu phải chờ
đợi trong thời gian dài hoặc phải chạy bằng một khoản tiền lớn.
Bên cạnh đó việc tư vấn cho người dân để họ tự tiến hành kinh doanh cũng vô
cùng quan trọng và phải được tiến hành tích cực hơn nữa vì nếu người dân tự kinh
doanh được thì sẽ không tốn nhiều kinh phí dành cho đào tạo mặt khác lại giải quyết
được nạn thấ nghiệp trong xã.
12
PHẦN 4.GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG BỊ THU HỒI ĐẤT
NÔNG NGHIỆP XÃ XUÂN ĐỈNH
4.1.Tổ chức tìm các nguồn cung cấp việc làm cho lao động
-Liên kết với các cơ sở sản xuất của làng nghề trên địa bàn xã
Như đã đề cập trong phần dào tạo nghề ,việc bố trí việc làm cho lao động ngay tại
làng nghề bánh mứt kẹo của xã vừa giải quyết việc làm cho nhiều lao động trên địa
bàn vừa góp phần phát triển làng nghề.Tất nhiên,những lao động được giải quyết việc
làm là những lao động đã qua đào tạo tại các cơ sở sản xuất và ưu tiên những lao động

trên 35 tuổi do họ khó có khả năng học các nghề khác.Tuy nhiên để số lượng lao động
được nhận vào làm cao thì chính quyền các cấp cần phải ưu tiên phát triển làng nghề
cả về quy mô lẫn chất lượng,uy tín,thương hiệu cho các cơ sở bằng việc hỗ trợ mở
rộng nhà xưởng,cải tiến máy móc thiết bị cũng như giải quyết vấn đề mất vệ sinh an
toàn thực phẩm trong quá trình sản xuất.
-Liên kết với các khu công nghiệp cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn thành
phố
Cũng giống như việc liên kết với làng nghề của xã ,công tác này cũng đòi hỏi các
cấp chính quyền cần có những biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong việc thu nhận lao
động.Hiện nay trên địa bàn thành phố nhu cầu sử dụng lao động tại doanh nghiệp là
khá lớn do quy mô doanh nghiệp ngày càng tăng,những lao động được đào tạo các
nghề như may công nghiệp,điện có cơ hội lớn tìm được việc làm.
-Hợp đồng xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động hiện nay của nước ta chủ yếu sang các nước Châu Á.Việc
xuât khẩu lao động đang được Đảng và Nhà Nước ta quan tâm vì biện pháp này giúp
giải quyết nạn thất nghiệp trong nước lại tham gia phân công lao động quốc tế.Việc hỗ
trợ xuất khẩu lao động đang được chúng ta đẩy mạnh và như thế lao động đã được
đào tạo trong các khóa học chuyên biệt dành cho xuất khẩu sẽ có nhiều cơ hội hơn
được lao động tại nước ngoài.
-Hỗ trợ người lao động tự tìm việc và phát triển công việc kinh doanh cho riêng
họ.
Đây là biện pháp được đề cập tới như là một hướng đi mới trong việc giải quyết
việc làm cho lao động.Để biện pháp này phát huy hiệu quả tích cực thì công tác tư vấn
trước đào tạo phải được quan tâm phát triển mạnh hơn nữa.Và một điều quan trọng là
13
xác định mức độ hỗ trợ như thế nào là hợp lí để đảm bảo lao động sớm tìm được việc
và phát triển kinh doanh cho bản thân và lao động không quá dựa dẫm ỷ lại vào chính
sách hỗ trợ.
4.2.Bố trí việc làm hợp lí cho lao động
Đây là một nhiệm vụ quan trọng mà các cấp chính quyền và các cơ quan chức

năng cần tiến hành đúng đắn.Lao động có được việc làm phù hợp tức là họ được nhận
công việc có nội dung thực hiện đúng với những kiến thức kĩ năng mà họ được học
không chỉ trước mắt mà phải tính đến lâu dài.Do đó việc liên kết với các doanh
nghiệp,các khu công nghiệp của thành phố Hà Nội trong việc thu hút lao động phải
được đẩy mạnh và được coi như là phương án trọng tâm.Để thực hiện tốt công tác này
thì việc bố trí đội ngũ những người tham gia tìm nguồn cung cấp việc làm phải được
chú trọng bởi họ giữ vai trò lớn trong việc người lao động có được nhiều cơ hội việc
làm hay không.Đội ngũ này có thể bao gồm những bộ phận chuyên trách về nguồn
cung việc làm của thành phố kết hợp với những cán bộ của xã có liên quan tới việc
giải quyết việc làm cho lao động.Nhưng dù đội ngũ này được hình thành theo cơ cấu
như thế nào chăng nữa cũng phải đảm bảo được tính chuyên nghiệp, am hiểu nhiệm
vụ,tận tình trong công việc và phải có sự phân công quyền hạn trách nhiệm giữa những
người trong đội.
14
PHẦN 5. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁT SINH VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TRONG
CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
BỊ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI XUÂN ĐỈNH
5.1.Những vấn đề phát sinh trong công tác đào tạo nghề
-Lao động không thiết tha với việc học nghề
Đây không phải là khó khăn của riêng Xuân Đỉnh mà của tất cả những địa
phương bị thu hồi đất tại Hà Nội.Theo những ghi nhận từ khảo sát thực tế tại đây cho
thấy phần lớn thanh niên xã trong độ tuổi lao động và đến tuổi lao động không hề mảy
may tính đến việc đi học nghề.Điều này xuất phát từ nhiều lí do song lí do chính là
việc họ đang sống dựa dẫm vào tiền đền bù đất.Không nhận thấy được hậu quả của
việc sử dụng sai mục đích tiền đền bù và cứ sống theo kiểu “trưởng giả” thanh niên
trong xã coi chuyện học nghề không có gì đáng quan tâm.Đã có những lớp học nghề
cho lao động được mở trên địa bàn xã song số người học mỗi lúc một thưa dần mặc dù
được miễn giảm và trợ cấp học phí.Phần lớn những học viên tới đây học là người từ
nơi khác.Có lẽ đây chỉ là một trong nhiều nguyên nhân. Nhiều đối tượng có nhu cầu
học nghề phản ánh rằng, thủ tục để được hỗ trợ học nghề phức tạp mà số tiền nhận

được lại ít ỏi nên sau thời gian tìm hiểu đã không còn thiết tha với chính sách này. Bên
cạnh đó cũng có rất nhiều người làm hồ sơ để được hỗ trợ nhưng lại "ách tắc" ở khâu
kiểm chứng hồ sơ do công tác quản lý nhà nước ở cơ sở còn bất cập. Nhiều người khác
thì không được hưởng chính sách do quy định chỉ hỗ trợ những hộ dân có đất nông
nghiệp thuộc diện thu hồi sau thời điểm ngày 1-7-2008.
-Việc đào tạo diễn ra chậm,không triệt để và thiếu đồng bộ
Vẫn là chuyện thực hiện chậm trễ chủ trương chính sách của chính quyền các
cấp.Lí do ở đây một phần do cơ chế chính sách không kịp thời được phổ biến và cũng
do chính quyền xã chưa thực sự quyết liệt trong việc tổ chức đào tạo nghề cho lao
động trong xã.Sự không triệt để và thiếu đồng bộ là ở chỗ chỉ có cơ chế đào tạo nghề
cho lao động không quá 35 tuổi còn những lao động đã quá tuổi 35 phải tự chuyển đổi
nghề cho mình bởi vì những ngành nghề được đào tạo không hợp với họ.Mặt
khác,những nghề mà người dân muốn học lại không có trong danh mục đào tạo Từ
chọn nghề và đáp ứng nhu cầu học nghề đã có sự lệch pha thì đến khâu giải quyết việc
làm là một sự chệch hướng lớn
-Trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học tập không được đảm bảo
15
Thực tế cho thấy những thiếu bị phục vụ giảng dạy và học tập của giáo viên và
học viên chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.Điều này là do phần lớn những lớp học
được mở ra trên địa bàn của xã chứ không phải là cơ sở dạy nghề của huyện cho nên
thiết bị phục vụ không đầy đủ.Mặt khác nhiều thiết bị tại cơ sở dạy nghề của huyện lại
không phải thiết bị dùng cho những ngành nghề được đào tạo cho lao động của xa
̃.Chính những nguyên nhân này đã gây khó khăn cho việc kết hợp học tập kiến thức và
kết hợp thực hành thực tế cho lao động.Đó cũng là nguyên nhân khiến cho lao động
được đào tạo xong có chất lượng không cao.
-Thiếu sự tuyên truyền,tư vấn cho lao động trước khi đào tạo
Khâu tuyên truyền,tư vấn cho lao động trước khi đào tạo là vô cùng quan
trọng.Tuyên truyền là để người lao động thấy được sự bức thiết của việc phải học nghề
và chuyển đổi nghề nghiệp trong tình hình thực tế tại Xuân Đỉnh và quá trình đô thị
hóa rất nhanh trên địa bàn Hà Nội.Tư vấn giúp người lao động thấy được bản thân họ

đang có lợi thế và bất lợi gì và học nghề gì với họ là phù hợp với bản thân cũng như
tình hình thực tế hiện nay.Thực tế cho thấy tại Xuân Đỉnh cũng có khá nhiều những
buổi tuyên truyền tư vấn nhưng mà hiệu quả không cao một phần cũng do đội ngũ
những người được chọn để tư vấn chưa hiểu hết tầm quan trọng của công tác này.Cũng
chính bởi lí do nay mà xuất hiện tình trạng người dân đổ xô đăng kí học một nghề nhất
định mà không biết nghề đó có phù hợp với mình không.
5.2.Những vấn đề phát sinh trong khâu giải quyết việc làm cho lao động
-Lao động thụ động ỷ lại vào chính sách của Nhà nước và tiền đền bù
Vẫn biết việc giải quyết việc làm cho lao động vùng bị thu hồi đất là nhiệm vụ
cấp thiết đặt ra cho chính quyền thành phố Hà Nội và Nhà Nước song cũng cần phải
đặt vai trò của bản thân người lao động trong việc tự giải quyết việc làm cho mình.Nhà
nước đã đền bù đất và cũng đã hỗ trợ nhiều trong việc đào tạo.Mặt khác Nhà Nước
cũng không thể nào giải quyết triệt để được việc làm cho tất cả số lao động mất đất
nên người lao động phải phát huy tính tự chủ của mình trong việc này.Tại Xuân Đỉnh
hiện nay chỉ số ít lao động sau khi được đào tạo đã tìm được nghề cho mình còn phần
lớn lao động trong xã vẫn không chủ động tìm việc cho mình mà phụ thuộc vào cơ chế
chính sách hỗ trợ của thành phố và Nhà Nước.
-Doanh nghiệp và tổ chức không giữ lời hứa trong việc sử dụng lao động
16
Với những doanh nghiệp lien kết đào tạo nghề cho lao động trong xã,sau khi đào
tạo xong họ đã không sử dụng lượng lao động như đã cam kết.Nhiều biện pháp được
họ đặt ra để han chế đến mức tối đa nguồn lao động này.Điều này cũng không thể
trách được doanh nghiệp khi mà lao động học nghề không nghiêm tú.Mặt khác doanh
nghiệp nào cũng muốn tuyển mộ lao động trên thị trường lao động bởi lực lượng đó
thực sự có trình độ và nhu cầu là việc.Còn với những tổ chức đã sử dụng đất thu hồi
thì tình trạng cũng không khả quan hơn. Khi làm thủ tục bàn giao đất, chủ đầu tư các
dự án đều cam kết sẽ hỗ trợ việc làm cho nông dân mất đất. Thế nhưng, sau khi các dự
án triển khai xong, số lao động địa phương được nhận vào làm việc không đáng bao
nhiêu. Dự án Nhà máy Nước Cáo Đỉnh mới chỉ có 4 người được nhận vào làm việc.
Dự án Khu đô thị cao cấp Ciputra sau khi hoàn tất sơ bộ cũng chỉ nhận 40 người, chủ

yếu làm bảo vệ, công nhân vệ sinh môi
trường. Dự án Tượng đài Hoà Bình đã cam kết lấy 40 người nhưng việc thực hiện
đến đâu thì còn phải… chờ thời gian. Riêng dự án Tây Hồ Tây, mặc dù lấy phần lớn
diện tích của Xuân Đỉnh thế nhưng cơ hội việc làm cho người dân địa phương cũng rất
thấp. Phía dự án cho biết, sẽ lấy khoảng 100 lao động của 2 xã Cổ Nhuế, Xuân Đỉnh
nhưng phải là lao động trình độ cao, từ trung cấp chuyên nghiệp trở lên.Thực trạng
trên khiến cho chính quyền các cấp gặp khó khăn lao đao.
- Lao động bị thiếu thông tin về thị trường lao động Hà Nội
Nảy sinh vấn đề này là do trang thiết bị và cơ sở vật chất dành cho thông tin thị
trường lao động còn nghèo nàn, lạc hậu chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao
động. Hệ thống các Trung tâm giới thiệu việc làm và các doanh nghiệp hoạt động giới
thiệu việc làm còn thiếu sự gắn kết trong quá trình hoạt động. Từ thành phố tới các
quận, huyện, phường, xã chưa thiết lập được hệ thống thông tin đồng bộ về tình hình
thị trường lao động, số lượng, chất lượng nguồn lao động và kiểm soát kết quả giải
quyết việc làm. Việc báo cáo tình hình lao động không thường xuyên, thiếu chính xác
cho nên công tác đánh giá kết quả giải quyết việc làm hằng năm, dự báo về thị trường
lao động không được liên tục và kịp thời do không đủ cơ sở dữ liệu. Tất cả những tồn
tại ấy làm cho thị trường lao động của Hà Nội không có tính bền vững, tiềm ẩn nhiều
nguy cơ ảnh hưởng tới sự phát triển về kinh tế - xã hội nói chung và tất nhiên cũng ảnh
hưởng tới lao động của Xuân Đỉnh.
17
5.3.Giải pháp khắc phục những nảy sinh trên
5.3.1.Trong công tác đào tạo nghề
-Tăng cường công tác tuyên truyền tư vấn tầm quan trọng của việc đào tạo nghề
và chuyển đổi nghề
Việc tuyên truyền tư vấn cho người lao động trước khi đào tạo được coi là khâu
mở đầu và cũng là khâu quyết định đến chất lượng đào tạo cũng như việc định hướng
nghề nghiệp cho lao động trong tương lai.Tuyên truyền tư vấn không chỉ dừng lại ở
các lao động tham gia đào tạo mà còn phải phổ biến tới mọi tầng lớp dân cư trong xã
để họ hiểu và chủ động bảo ban con em họ trong việc học nghề.Không chỉ có người

lao động của xã được phổ biến nhận thức mà ngay cả những người tham gia vào công
tác này cũng phải được nâng cao nhận thức về công tác dạy nghề bằng việc đẩy mạnh
hơn nữa công tác tuyên truyền một cách thường xuyên, sâu rộng chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về dạy nghề theo Quyết định 1956/QĐ-TTg bằng nhiều
hình thức; giúp người lao động nhận thức được việc học nghề là quyền lợi, trách
nhiệm và là cơ hội cho việc tiến thân lập nghiệp. Trong công tác này, các cơ quan
truyền thông - báo chí, tổ chức Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh phải thực sự
đóng vai trò nòng cốt.
-Phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề,chương trình dạy nghề và đội ngũ giáo
viên giảng dạy
Nhà nước và thành phố cần phát triển mạnh hơn nữa mạng lưới cơ sở dạy nghề
cho lao động để không chỉ lao động Xuân Đỉnh mà tất cả các lao động mất đất sản
xuất khác trên địa bàn thành phố có được nhiều cơ hội hơn để học nghề.Các chương
trình dạy nghề cũng phải thường xuyên cập nhật thay đổi phát triển cho phù hợp với
tình hình thực tiễn trên cơ sở tham khảo các chương trình đào tạo của các trường dạy
nghề của địa phương khác.Đội ngũ giáo viên có vai trò trực tiếp quyết định tới chất
lượng đào tạo đội ngũ lao động xã cho nên phải được tuyển chọn kĩ lưỡng và thường
xuyên phải được nâng cao kiến thức,kĩ năng,khả năng truyền đạt. Bên cạnh đó, việc
đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị dạy nghề cũng được chú trọng theo hướng đáp ứng
và phù hợp với nhu cầu thực tiễn của xã.Và một điểm quan trọng nữa là phải đẩy mạnh
công tác kiểm tra giám sát việc đào tạo nghề để đảm bảo chất lượng dạy và học.
-Đẩy mạnh hơn nữa việc hỗ trợ người lao động trong công tác đào tạo nghề
Ở xã hiện nay việc hỗ trợ học nghề chủ yếu dưới hình thức hỗ trợ miễn giảm học
phí và chưa có hình thức nào khiến cho người lao động cảm thấy họ sẽ có được việc
18
làm sau đào tạo.Vì thế cần có những biện pháp hỗ trợ khác để họ yên tâm học nghề
như
5.3.2.Trong khâu giải quyết việc làm
-Đẩy mạnh việc hợp tác với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố trong việc sử
dụng đối tượng lao động này

Hiện nay trên địa bàn thành phố có nhiều doanh nghiệp đang thiếu lao động.Nha
nước và thành phố Hà Nội nên chú trọng việc đưa người lao động của xã vào làm việc
tại các doanh nghiệp này bằng các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp như hỗ trợ kinh phí
cho doanh nghiệp nhận lao động tính theo đầu người hoặc hỗ trợ cho doanh nghiệp
trong việc giải quyết thủ tục giấy tờ,nhận các hợp đồng kinh doanh.Nhưng cũng cần
phải có những ràng buộc với doanh nghiệp để tránh tính trạng lao động không được
làm việc lâu dài trong doanh nghiệp.
-Hỗ trợ cho việc phát triển các khu công nghiệp cơ sở sản xuất kinh doanh của
thành phố mở rộng quy mô
Việc này nhằm giúp các doanh nghiêp trên địa bàn thành phố có điều kiện để phát
triển quy mô sản xuất kinh doanh từ đó sẽ có nhu cầu tuyển dụng thêm lao động.Qua
đó lao động của xã sau học nghề có thêm cơ hội được nhận vào làm tại các địa điểm
này.Tuy nhiên phải xác định các doanh nghiệp nào nằm trong diện có ngành nghề mà
lao động được đào tạo để hỗ trợ tích cực hơn và cũng cần có những điều kiện ràng
buộc doanh nghiệp trong việc sử dụng đối tượng lao động này.
-Lập quỹ hỗ trợ người dân tự phát triển công việc kinh doanh cho bản thân họ
Giai pháp này đã được quận Cầu Giấy tiến hành và đạt hiệu quả tốt.Theo đó các
cấp uỷ Đảng, chính quyền phối hợp cùng các ngành, Hội xây dựng kế hoạch, vận động
các cơ quan, đơn vị và nhân dân trên địa bàn huyện xã ủng hộ quỹ Hỗ trợ nông
dân.Đây la biện pháp rất hữu hiệu có tác dụng tạo ra sự quan tâm của mọi tầng lớp
nhân dân,các tổ chức trong thành phố trong việc giải quyêt việc làm cho lao động mất
đất sản xuất hơn nữa nó có tác dụng đề cao tính chủ động cho người lao đông trong
việc tự xây dựng sự nghiệp kinh doanh cho mình.Giai pháp này cần được tiến hành
sâu sắc hơn đối với lao động trên 35 tuổi do họ khó có khả năng chuyển đổi nghề
nghiệp.
-Tăng cường cung cấp thông tin về thị trường lao động cho người lao động
19
Hiện nay việc người lao động tiếp cận được với thông tin trên thị trường lao động
còn gặp nhiều hạn chế cho nên doanh nghiệp và người lao động khó khăn trong việc
tiếp cận với nhau.Vấn đề này đòi hỏi cần phải tăng cường phát triển hơn nữa mạng

lưới thông tin về thị trường lao động cho lao động cả về chất lượng lẫn số lượng.Giai
quyết được khâu này sẽ tạo điều kiện cho lao động và doanh nghiệp nhanh chóng được
tiếp cân với nhau và như thế cơ hội cho người lao động tìm được việc làm sẽ cao hơn.
-Hỗ trợ chi phí cho người lao động tự đi tìm việc
Hiện nay,Nhà Nước đang phối hợp cùng lãnh đạo thành phố Hà Nội xây dựng
quỹ hỗ trợ chi phí cho người lao động tự đi tìm việc sau khi được đào tạo.Đối tượng
của quỹ này là những lao động đăng kí học nghề đã có chứng chỉ học nghề do cơ sở
đào tạo cấp và những đối tượng lao động khó chuyển đổi nghề trong diện bị thu hồi
đất.Đây là một giải pháp được phần lớn những người có trách nhiệm trong việc giải
quyết việc làm đồng thuận do phát huy được tính chủ động tự giác của lao động.Song
cơ chế phân bổ chi phí và việc ban hành các văn bản hướng dẫn cho từng người lao
động sử dụng chi phí đó như thế nào cần phải được tính toán hợp lí để người lao động
sử dụng tốt chi phí đó,nhanh chóng tìm được nghề,tránh tình trạng sử dụng không hiệu
quả chi phí và sử dụng sai mục đích của khoản chi phí đó.
20
KẾT LUẬN
Xuân Đỉnh vốn là xã thuần nông nằm ở ngoại thành Hà Nội,những năm trở lại
đây địa phương này đã bị thu hối gần như toàn bộ diện tích đất nông nghiệp để phục
vụ xây dựng các dự án lớn của thành phố.Hệ lụy của việc mất đất sản xuất thì có nhiều
và vấn nạn thất nghiệp tai xã được coi là hệ lụy nghiêm trọng nhất,là căn nguyên của
các vấn nạn khác.Để giải quyết những vấn nạn này thì công tác đào tạo nghề và giải
quyết việc làm cho lao động trong xã được coi là mục tiêu của các cấp chính
quyền.Mặc dù đã có nhiều giải pháp được đưa ra nhằm đào tạo,đào tạo lại lao động và
giải quyết việc làm cho lao động nhưng mà phần lớn không đem lai hiệu quả.Chính vì
lẽ đó Đảng Nhà Nước cũng như chính quyền thành phố cần đẩy mạnh hơn nữa những
công tác này,bên cạnh đó những biện pháp chính sách hỗ trợ cũng cần phải được tăng
cường đổi mới cho phù hợp với tình hình thực tiễn.Giai quyết được vấn nạn này cho
Xuân Đỉnh nói riêng và các địa phương bị thu hồi đất nông nghiệp của Hà Nội nói
riêng là góp phần xây dựng Hà Nội mục tiêu đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050
theo đúng chiến lược mà thành phố đề ra.

21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
-Đề án “Việc làm và thu nhập cho lao động bị thu hồi đất trong quá trình công
nghiệp hóa-hiện đại hóa và đô thị hóa” (kx.01-2005-trường đại học KTQD)
-Giai quyết vấn đề việc làm cho các hộ dân bị thu hồi đất trong quá trình phát
triển các khu công nghiệp ở Hà Nội (NCKH.151-LÊ THỊ HOA-trường đại học KTQD)
-Web của tổng cục dạy nghề tcdn.gov.vn
-Web của sở lao động thương binh xã hội Hà Nội
-Web của trung tâm hướng nghiệp dạy nghề huyện Từ Liêm tuliem.du.vn
-vi.wikipedia.org/wiki/Xuân_Đỉnh
-Tài liệu về thu hồi và đền bù đất nông nghiệp của UBND xã Xuân Đỉnh
-vietbao.vn/Viec-lam/Lung-tung-tim-viec-cho-nong-dan-bi-thu-hoi-
dat/20423687/271
tin247.com/vnmedia/phai_co_co_che_tao_viec_lam_cho_nong_dan_bi_thu_hoi_
dat-16-8066
-tapchicongnghiep.vn/News/channel/1/News/151/13508/Chitiet.html
22
MỤC LỤC
23

×