Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Tìm hiểu quy trình kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cua xanh (Scylla paramamosain Estampador, 1949) tại Trung tâm sản xuất giống hải sản ở Giao Thủy, Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 63 trang )


i
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn tốt nghiệp, tôi đã nhận
đƣợc sự giúp đỡ tận tình của các cá nhân và cơ quan đoàn thể. Qua đây tôi xin bày
tỏ lòng biết ơn chân thành tới:
ThS. Trần Văn Dũng, ngƣời đã giúp tôi định hƣớng nghiên cứu, hƣớng dẫn tôi
trong quá trình thực tập và hoàn thành bài luận văn này.
KS. Trần Thị Thúy, ngƣời trực tiếp hƣớng dẫn tôi trong quá trình làm đề tài.
Xin gửi lời biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo trong khoa Nuôi trồng Thủy
sản, trƣờng Đại học Nha Trang đã dạy dỗ và giúp đỡ tôi trong những năm học vừa
qua. Thƣ viện trƣờng Đại học Nha Trang đã tạo điều kiện cho tôi mƣợn tài liệu
tham khảo trong quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các anh chị, bạn bè là những ngƣời đã luôn bên
cạnh tôi, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn tốt
nghiệp này.
Cuối cùng, tôi xin dành sự biết ơn đặc biệt đến gia đình và ngƣời thân đã luôn
cổ vũ, động viên tôi vƣợt qua mọi khó khăn trong suốt quá trình học tập.

Nha Trang, tháng 6 năm 2013
Sinh viên
Trần Thị Huyền Trang

ii

DANH MỤC TỪ VÀ THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

CW : Chiều rộng giáp đầu ngực.
Wtb : Khối lƣợng trung bình toàn thân.
Z1-5 : Ấu trùng cua giai đoạn Zoea 1 - 5.
C1 : Cua bột 1.


SSSTT : Sức sinh sản thực tế.
AT : Ấu trùng.
TB : Trung bình
L : Lít







iii
MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN i
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG v
DANH MỤC HÌNH vi
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Đặc điểm sinh học của cua xanh 3
1.1.1. Đặc điểm phân loại 3
1.1.2. Đặc điểm hình thái cấu tạo 3
1.1.3. Tập tính và môi trƣờng sống 4
1.1.4. Đặc điểm dinh dƣỡng 6
1.1.5. Đặc điểm sinh trƣởng 6
1.1.6. Đặc điểm sinh sản 7
1.1.6.1. Di cƣ sinh sản và mùa vụ sinh sản 7
1.1.6.2. Kích thƣớc thành thục và sức sinh sản 7
1.1.6.3. Hoạt động giao phối 8

1.1.6.4. Các giai đoạn phát triển buồng trứng 9
1.1.6.5. Hoạt động đẻ trứng, thụ tinh và phát triển của phôi 12
1.1.6.6. Các giai đoạn phát triển ấu trùng 13
1.2. Tình hình nghiên cứu sản xuất giống cua xanh trên thế giới và
Việt Nam 14
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 14
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 16
1.2.3. Một số vấn đề cần quan tâm trong sản xuất giống cua xanh 17
CHƢƠNG 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21
2.1. Thời gian, địa điểm và đối tƣợng nghiên cứu 21
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 21
2.2.1. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu 21
2.2.2. Phƣơng pháp thu thập số liệu 21

iv
2.2.2.1. Phƣơng pháp thu thập số liệu thứ cấp 21
2.2.2.2. Phƣơng pháp thu thập số liệu sơ cấp 21
2.2.2.3. Một số công thức tính toán các thông số kỹ thuật 22
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 24
3.1. Điều kiện tự nhiên và hệ thống công trình phục vụ sản xuất giống 24
3.1.1. Điều kiện tự nhiên huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định 24
3.1.1.1. Vị trí địa lý và địa hình 24
3.1.1.2. Khí hậu 24
3.1.2. Hệ thống công trình phục vụ sản xuất giống 25
3.1.2.1. Giới thiệu về trại sản xuất giống 25
3.1.2.2. Sơ đồ trại 26
3.1.2.3. Hệ thống công trình phụ trợ sản xuất giống 26
3.1.2.4. Hệ thống công trình sản xuất giống 27
3.1.2.5. Các dụng cụ và thiết bị khác 27
3.2. Kỹ thuật cho sinh sản nhân tạo cua xanh 28

3.2.1. Kỹ thuật tuyển chọn và vận chuyển cua mẹ 28
3.2.2. Kỹ thuật nuôi vỗ và cho đẻ 30
3.2.2.1. Kỹ thuật nuôi vỗ 30
3.2.2.2. Kỹ thuật cho đẻ 32
3.2.3 Kỹ thuật ấp nở trứng và thu ấu trùng 34
3.2.3.1 Kỹ thuật ấp nở trứng 34
3.2.3.2. Kỹ thuật thu ấu trùng 35
3.3. Kỹ thuật ƣơng nuôi ấu trùng lên cua bột 36
3.3.1 Kỹ thuật ƣơng nuôi ấu trùng từ Z1 đến Z5 36
3.3.2. Kỹ thuật ƣơng từ Z5 lên cua bột 41
3.4. Thu hoạch và vận chuyển cua bột 48
CHƢƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 50
4.1. Kết luận 50
4.2. Đề xuất ý kiến 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO 51
PHỤ LỤC 54

v
DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: Kích thƣớc thành thục tối thiểu của loài cua xanh ở một số vùng địa lý 8
Bảng 1.2: Hình dạng bề ngoài của buồng trứng ở các giai đoạn thành thục 10
Bảng 1.3: Cấu tạo mô ở các giai đoạn khác nhau của buồng trứng 10
Bảng 1.4: Tỷ lệ số đo các kích cỡ mai, bụng ở các giai đoạn thành thục 11
Bảng 1.5: Tóm tắt quá trình phát triển phôi cua biển 13
Bảng 1.6: Các giai đoạn ấu trùng cua biển 13
Bảng 2.1: Dụng cụ đo yếu tố môi trƣờng và chỉ tiêu trong sản xuất 22
Bảng 3.1: Các loại dụng cụ thiết bị khác phục vụ cho sản xuất 27
Bảng 3.2: Kết quả tuyển chọn cua mẹ trong 3 đợt sản xuất 30
Bảng 3.3: Các yếu tố môi trƣờng trong bể nuôi vỗ 32

Bảng 3.4: Kết quả nuôi vỗ cua mẹ 33
Bảng 3.5: Tƣơng quan giữa nhiệt độ, độ mặn và thời gian phát triển phôi của cua . 35
Bảng 3.6: Kết quả ấp nở trong 3 đợt sản xuất 36
Bảng 3.7: Các yếu tố môi trƣờng trong quá trình ƣơng nuôi 39
Bảng 3.8: Kết quả ƣơng nuôi ấu trùng từ Zoea1 – Zoea5 40
Bảng 3.9: Diễn biến môi trƣờng trong bể ƣơng Z5 – cua bột 45
Bảng 3.10: Kết quả ƣơng nuôi ấu trùng Z5 đến cua bột 46

vi
DANH MỤC HÌNH


Hình 1.1: Hình thái cua biển (Scylla paramamosain) 4
Hình 1.2: Vòng đời cua biển 5
Hình 1.3: Cấu tạo mô từ giai đoạn I - V 9
Hình 1.4: Sự thay đổi hình dạng bụng của cua biển ở các giai đoạn thành thục 11
Hình 1.5: Hình dạng buồng trứng khác nhau từ giai đoạn I - V 12
Hình 2.1: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu 21
Hình 3.1: Sơ đồ trại 26
Hình 3.2: Cua mẹ đạt tiêu chuẩn khi tuyển chọn cho nuôi vỗ 28
Hình 3.3: Cua mẹ có gạch nhiều (trái) và gạch ít (phải) 29
Hình 3.4: Cua mẹ có yếm bầu và lớn (trái) và cách xem gạch cua mẹ (phải) 29
Hình 3.5: Bể nuôi cua mẹ đáy có lớp cát 33
Hình 3.6: Cua mẹ ôm trứng sau khi đẻ 3 ngày và 5 ngày 34
Hình 3.7: Cua mẹ ôm trứng sau khi đẻ 7, 9 và 11 ngày 34
Hình 3.8: Bể ƣơng ấu trùng Zoea 37
Hình 3.9: Phân chia thức ăn theo giai đoạn từ Z1-Z5 37
Hình 3.10: Bể ƣơng ấu trùng Z5 - cua bột 42
Hình 3.11: Giá thể xƣơng cá 42
Hình 3.12: Hút nƣớc để thu ấu trùng (trái) và tắm ấu trùng (phải) 43

Hình 3.13: Thức ăn sử dụng trong quá trình ƣơng Z5 – cua bột 44
Hình 3.14: Z1 ngày ƣơng thứ 3 và Z2 ngày ƣơng thứ 7 47
Hình 3.15: Z3 ngày ƣơng thứ 9 và Z4 ngày ƣơng thứ 13 47
Hình 3.16: Z5 ngày ƣơng thứ 17 và Megalop ngày ƣơng thứ 24 47

1
MỞ ĐẦU
Nằm bên bờ biển Đông với gần 3260 km bờ biển trải dọc, Việt Nam là một quốc
gia có nhiều ngành kinh tế biển, trong đó nuôi trồng thủy sản đã và đang đƣợc xem là
một trong những ngành mũi nhọn để phát triển nền kinh tế đất nƣớc. Với tiềm năng
lớn về đất đai, diện tích mặt nƣớc và lao động, Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát
triển nuôi trồng thủy sản đặc biệt là hải sản. Trong những năm gần đây nguồn lợi thủy
sản ngày càng cạn kiệt do tình trạng đánh bắt mang tính chất hủy diệt. Vì vậy, việc mở
rộng phát triển nuôi trồng thủy sản là một trong những hƣớng phát triển để nâng cao
chất lƣợng thực phẩm cho con ngƣời, góp phần giảm bớt sự khai thác quá mức nguồn
tài nguyên sinh vật biển.
Với chiều dài bờ biển 72 km và nhiều đầm, vịnh, vùng cửa sông, đất đai phì
nhiêu, Nam Định có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế tổng hợp ven biển. Giao Thủy
là huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Nam Định, có chiều dài bờ biển 32km, từ lâu
nuôi trồng thủy sản đã đƣợc xác định một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, mang
lại thu nhập đáng kể cho nông - ngƣ dân vùng ven biển, góp phần xoá đƣợc đói, giảm
đƣợc nghèo và nhiều hộ vƣơn lên làm giàu. Huyện đã có những chính sách phát triển
nhằm đa dạng hoá đối tƣợng nuôi đƣợc, các đối tƣợng đƣợc chú trọng nhƣ ngao vạng,
tôm sú, tôm thẻ chân trắng, cá bống bớp, cua biển Để duy trì sự phát triển một cách
bền vững, giảm thiểu chi phí mua con giống ở các tỉnh miền trong, sản xuất giống
nhân tạo và nâng cao chất lƣợng con giống là yếu tố tiên quyết.
Cua biển là loại hải sản có kích thƣớc lớn, hàm lƣợng đạm rất cao, nhu cầu xuất
khẩu và tiêu thụ nội địa ngày càng nhiều. Chúng sống ở vùng cửa sông, rừng ngập
mặn và phân bố ở biển Ấn Độ - Thái Bình Dƣơng là đối tƣợng nuôi có giá trị kinh tế
cao ở nhiều nƣớc. Ở Việt Nam trong những năm qua nghề nuôi cua thƣơng phẩm phát

triển rất mạnh mẽ nhƣng khó khăn của nghề nuôi cua hiện nay là vấn đề giải quyết con
giống. Nguồn cua giống cung cấp cho các mô hình nuôi cua từ trƣớc đến nay chủ yếu
khai thác từ tự nhiên. Tuy nhiên, nguồn giống từ tự nhiên biến động theo mùa vụ, kích
thƣớc không đồng đều, trộn lẫn nhiều loại với nhau nên khó đáp ứng đƣợc yêu về chất
lƣợng cho các mô hình nuôi cua thƣơng phẩm. Mặt khác do bị khai thác quá mức nên
nguồn lợi cua tự nhiên đang có chiều hƣớng suy giảm.
Để giải quyết vấn đề cua giống cung cấp cho nghề nuôi, năm 1998 Trung tâm
Nghiên cứu Thủy sản III (nay là Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III) và một số

2
trƣờng đại học đã cho sinh sản nhân tạo giống cua xanh thành công nhƣng hầu hết tỉ lệ
sống ở các cơ sở sản xuất giống từ giai đoạn Zoea 1 đến Cua bột 1 dƣới 10% và vẫn
còn tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện quy trình.
Năm 2004, trung tâm sản xuất giống hải sản ở Giao Thuỷ, Nam Định tiếp nhận
công nghệ sản xuất giống cua xanh từ Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản III Nha
Trang và bƣớc đầu cho sinh sản thành công nhƣng tỉ lệ sống ở các giai đoạn ấu trùng
còn thấp.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của nghề nuôi nhằm vận dụng kiến thức đã học
vào thực tế sản xuất và hoàn thành khóa học, đƣợc sự đồng ý của Khoa Nuôi trồng
Thủy sản – Trƣờng Đại học Nha Trang, tôi thực hiện đề tài: “Tìm hiểu quy trình kỹ
thuật sản xuất giống nhân tạo cua xanh (Scylla paramamosain Estampador, 1949) tại
Trung tâm Sản xuất giống hải sản ở Giao Thủy, Nam Định” với các nội dung sau:
1. Hệ thống công trình phục vụ và chuẩn bị sản xuất.
2. Kỹ thuật tuyển chọn, nuôi vỗ thành thục và cho đẻ cua mẹ.
3. Kỹ thuật ƣơng nuôi ấu trùng.
4. Các biện pháp quản lý môi trƣờng và phòng trừ dịch bệnh.
5. Thu hoạch và sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế.
Mục tiêu:
1. Làm quen với phƣơng pháp nghiên cứu khoa học, áp dụng những kiến thức đã
học vào thực tiễn.

2. Tìm hiểu kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cua xanh.
3. Hoàn thành đợt thực tập tốt nghiệp và nộp báo cáo đúng hạn.

3
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm sinh học của cua xanh
1.1.1. Đặc điểm phân loại
Theo nghiên cứu của Sugama và ctv (1999) [30], xét về đặc điểm di truyền, cấu
trúc gen và đặc điểm hình thái bên ngoài cua xanh (Scylla) có 4 loài: S. serrata, S.
tranquebarica, S. olivacea, S. paramamosain. Cua xanh có hệ thống phân loại nhƣ
sau:
Ngành: Athropoda (Chân khớp)
Phụ ngành: Crustacea (Giáp xác)
Lớp: Malacostraca
Bộ: Decapoda Latreille 1803
Họ cua bơi: Portunidae Rafinesque 1815
Giống: Scylla de Haan 1833
Loài: S. paramamosain (Estampador, 1949)
Cua xanh có tên tiếng Anh là Mud-crab, Green crab hay Mangrove crab, tên
tiếng Việt là cua bùn, cua xanh và cua sú, đây là các loài giáp xác sống ở vùng cửa
sông hoặc vùng biển.
Cua xanh phân bố ở các vùng biển nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới nhƣ: Trung
Quốc, Nhật Bản, Singapore, Philippin, Nam Phi, Ấn Độ. Ở Việt Nam, tại đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL) theo Keenan và ctv (1998) có hai loài chủ yếu là Scylla
paramamosain (cua sen) và Scylla olivacea (cua lửa) [22], trƣớc đây bị nhầm lẫn là
Scylla serrata (Hoàng Đức Đạt, 1992) [6], Nguyễn Anh Tuấn và ctv (1996) [27].
Nhƣng thực sự loài Scylla serrata không đƣợc tìm thấy ở ĐBSCL, cũng nhƣ ở Việt
Nam. Theo Le Vay và ctv (2001), loài Scylla paramamosain chiếm trên 95% trong
quần thể Scylla, và loài Scylla olivacea chỉ chiếm khoảng 5% [23].
1.1.2. Đặc điểm hình thái cấu tạo

Loài S. paramamosain có kích thƣớc tƣơng đối lớn và có thể đạt đƣợc khối lƣợng
2kg. Cua có màu xanh lục hoặc màu vàng sẫm, mặt bụng thƣờng có màu sáng hơn mặt
lƣng.
Toàn bộ cơ thể đƣợc bao bọc trong lớp vỏ kitin dày, cơ thể cua dẹp theo hƣớng
lƣng bụng và chia làm 2 phần, phần đầu ngực lớn nằm trong giáp đầu ngực (mai cua),
phần bụng nhỏ và gập lại dƣới giáp đầu ngực (yếm cua).

4







Hình 1.1: Hình thái cua biển (Scylla paramamosain)
Phần đầu ngực là sự liên hiệp của 5 đốt đầu và 8 đốt ngực nằm phía dƣới mai. Do
ranh giới giữa các đốt không rõ ràng, nên việc phân biệt các đốt có thể dựa vào số bộ
phụ trên các đốt. Đầu gồm 5 đốt: có mắt, anten và các phần phụ miệng. Ngực gồm 8
đốt: có mang, chân hàm và các chân bò. Mai cua to và phía trƣớc có nhiều răng. Trƣớc
mai có hai hố mắt, có hai mắt nằm trên cuống mắt. Giữa hai hố mắt: mỗi bên mép
trƣớc của giáp đầu ngực có 9 gai nằm liên tiếp nhau. Mặt trên của giáp đầu ngực phân
chia thành từng vùng nhỏ ngăn cách bởi rãnh và gờ rõ rệt. Phía trƣớc là vùng trán, kế
tiếp là vùng dạ dày ngăn cách với nhau bởi hai gờ, kế là vùng tim và sau vùng tim đến
vùng ruột. Hai bên vùng dạ dày là vùng gan và ngoài cùng là vùng mang. Mặt bụng
của phần đầu ngực có các tấm bụng, các tấm bụng làm thành vùng lõm ở giữa chứa
phần bụng gập vào. Ở con cái có đôi lỗ sinh dục nằm ở tấm bụng thứ ba đƣợc phần
bụng gập lại che lấp [3], [7].
Phần bụng gồm 7 đốt với các phần phụ bị tiêu giảm nằm gấp lại dƣới phần đầu
ngực làm cho cua thu ngắn chiều dài và gọn lại giúp cua bò đƣợc dễ dàng. Ở con cái

các đốt bụng I, II và VI có thể cử động, các đốt khác bất động. Các chân bụng chẻ đôi
biến thành các chùm lông yếm để trứng đẻ ra và bám vào đấy để phát triển. Ở con đực
các đốt bụng I, II, IV và VI khớp động với các đốt bên. Các chân bụng thoái hoá biến
thành đôi gai giao cấu, lỗ hậu môn nằm ở cuối cùng [7].
1.1.3. Tập tính và môi trƣờng sống
Vòng đời cua xanh trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có tập tính sống khác
nhau. Giai đoạn phôi đƣợc cua mẹ mang trong yếm, phôi phát triển ở vùng ven bờ. Ấu
trùng Zoea và Megalop sống trôi nổi nhờ dòng nƣớc đƣa vào ven bờ, ấu trùng Zoea nở
ra có thể bơi ngay và có tính hƣớng quang mạnh. Ấu trùng Megalop bơi lội chủ động

5
trƣớc khi biến thái thành cua bột và thƣờng sống bám trên những giá thể là rong hay
đá ở đáy biển.








Hình 1.2: Vòng đời cua biển
Hình chụp: David Mann, Sắp sếp lại: Williams và ctv. (1999).
Cua con bắt đầu sống bò trên đáy và lớn dần có tập tính chui rúc vào các gốc cây,
bụi rậm đồng thời với việc chuyển từ đời sống ở môi trƣờng nƣớc mặn sang nƣớc lợ,
thƣờng ở các rừng ngập mặn, vùng cửa sông hay tập trung ở các bãi trung triều [3],
[4], [10], [26]. Với tập tính sống nhƣ vậy là một trong những điều kiện để nghiên cứu
về giá thể bám cho ấu trùng trong điều kiện sản xuất nhân tạo.
Cua sắp trƣởng thành di cƣ vào vùng trung triều để kiếm mồi lúc triều cao và trở
lại vùng hạ triều khi triều thấp. Tuy nhiên, cua trƣởng thành hầu nhƣ chỉ thấy ở vùng

hạ triều [5], [8], [12]. Đến giai đoạn thành thục sinh dục cua di cƣ ra vùng gần bờ để
sinh sản rồi tiếp tục lặp lại vòng đời.
Ấu trùng Zoea thích hợp với nồng độ mặn từ 25 - 30‰, cua con và cua trƣởng
thành thích nghi và phát triển tốt trong phạm vi 2 - 38‰. Tuy nhiên, trong thời kỳ đẻ
trứng đòi hỏi độ mặn từ 22 - 32‰ [3], [4], [6], [13].
Cua sống ở vùng nƣớc lợ có độ pH trong khoảng 7,5 - 9,2, thích hợp nhất là từ
7,5 - 8,8. Tuy nhiên, cua có thể chịu đựng đƣợc trong nƣớc có độ pH thấp hơn 6,5.
Cua có khả năng thích ứng cao với sự thay đổi độ mặn trong môi trƣờng nƣớc, cũng có
thể sống trong vùng gần nhƣ ngọt cho đến độ mặn trên 33‰ [7], [14].
Ở Việt Nam cua xanh phân bố rất rộng và ở những vùng vĩ tuyến cao, cua chịu
đựng nhiệt độ nƣớc thấp rất tốt. Ở vùng biển nƣớc ta cua biển thích nghi với nhiệt độ
nƣớc từ 25 - 29
0
C. Nhiệt độ cao thƣờng ảnh hƣởng xấu đến các hoạt động sinh lý của
cua và là một trong những nguyên nhân gây chết hàng loạt khi nuôi thƣơng phẩm [7].

6
1.1.4. Đặc điểm dinh dƣỡng
Tính ăn của cua xanh thay đổi tùy theo giai đoạn phát triển. Giai đoạn ấu trùng
cua thích ăn thực vật và động vật phù du (luân trùng, Nauplius của Artemia, Artemia
sinh khối…). Khác với cua có kích thƣớc lớn hoạt động về đêm, ấu trùng cua có tính
hƣớng quang mạnh, có thể dùng ánh sáng để kích thích chúng bắt mồi. Cua con
chuyển sang ăn tạp và kiếm ăn vào ban đêm. Thức ăn tự nhiên của chúng chứa 50%
động vật thân mềm, 21% giáp xác, phần còn lại là cá tạp. Tập tính kiếm ăn của chúng
cũng thay đổi theo tuổi, cua con 2-7 cm chủ yếu ăn giáp xác, cua từ 7-13 cm thích ăn
động vật thân mềm, cua lớn hơn thƣờng ăn cua nhỏ, ghẹ, cá… Cua là loài bắt mồi tích
cực thời gian bắt mồi thƣờng nhiều hơn thời gian vùi mình dƣới đáy hoặc trong hang.
Cua thƣờng trú ẩn vào ban ngày và bắt mồi vào ban đêm. Cua thƣờng ăn rất nhiều
nhƣng cũng có thể nhịn đói từ 10 - 15 ngày trong những điều kiện bất lợi [3], [26].
1.1.5. Đặc điểm sinh trƣởng

Quá trình phát triển của cua từ ấu trùng Zoea 1 đến cua trƣởng thành trải qua
nhiều lần lột xác, mỗi lần lột xác vừa để sinh trƣởng, biến thái thay đổi kích thƣớc và
đạt đến hình dạng của cua trƣởng thành. Thời gian lột xác thay đổi tùy theo từng giai
đoạn phát triển. Ở giai đoạn ấu trùng và cua bột thời gian giữa các lần lột xác thƣờng
ngắn 2 - 3 ngày hoặc 3 - 5 ngày, ở cua giống và cua trƣởng thành thời gian giữa hai lần
lột xác dài hơn vì cần thời gian tích lũy dinh dƣỡng lâu hơn. Sự lột xác của cua có thể
bị tác động bởi 3 loại kích thích tố: kích thích tố ức chế lột xác, kích thích tố thúc đẩy
lột xác, kích thích tố điều khiển hút nƣớc lột xác. Đặc biệt trong quá trình lột xác cua
có thể tái sinh những phần bị mất nhƣ chân hoặc càng [3], [12].
Trƣớc khi lột xác, cua tiết ra rất nhiều dịch tố để tách vỏ mềm ở bên trong ra khỏi
vỏ cứng, phần đầu ngực và phần bụng xuất hiện một vết nứt, hai bên cửa miệng cũng
lần lƣợt xuất hiện một vết nứt. Lúc đầu bộ phận đầu ngực nâng lên, vết nứt lớn ra, khối
đầu ngực lộ ra ngoài, bụng co lại phía sau, các chân cử động co về giữa, đôi chân bơi
thoát ra ngoài, sau đến phần bụng và chân càng đƣợc lột ra sau cùng. Cua không chỉ
lột vỏ ngoài mà vỏ cũ của dạ dày, mang, ruột… cũng đƣợc lột xác [12].
Thời gian lột xác diễn ra trong khoảng 30 - 60 phút, lớp vỏ trong biến thành lớp
vỏ ngoài còn nhăn nheo sau đó mới dần dần căng ra. Cua mới lột xác yếu không ăn,
không có khả năng tự vệ, nằm ở đáy 2 - 3 giờ mới trở lại bình thƣờng và sau 1 - 2 ngày

7
vỏ mới cứng lại. Trong thời gian lột xác, cua thƣờng bị kẻ thù tấn công rất dễ chết, sau
mỗi lần lột xác cua tăng khối lƣợng từ 40 - 80% [4], [12].
1.1.6. Đặc điểm sinh sản
1.1.6.1. Di cƣ sinh sản và mùa vụ sinh sản
Di cƣ sinh sản
Cua sống và sinh trƣởng ở các vùng rừng ngập nƣớc lợ, trƣớc mùa sinh sản di cƣ
ra vùng biển ven bờ, lột xác tiền giao vĩ. Cua cái tiến hành giao vĩ sau đó tuyến sinh
dục tiếp tục phát triển cho đến lúc trứng chín, đẻ trứng, ấp phôi, ấu trùng nở ra khỏi vỏ
trứng rời cua mẹ kết thúc quá trình sinh sản.
Ở những vùng địa lý khác nhau có điều kiện môi trƣờng khác nhau thì mùa di cƣ

khác nhau. Vùng biển phía Bắc thì gặp cua ôm trứng nhiều vào tháng 4 - 7, các tỉnh
duyên hải Nam Trung bộ thƣờng bắt gặp cua ôm trứng từ tháng 4 - 10. Ở vùng biển
phía Nam nƣớc ta, cua thƣờng bắt đầu di cƣ vào tháng 7, 8 và mùa sinh sản thƣờng bắt
đầu từ tháng 10 - 2 năm sau. Tuy vậy, cũng có thể bắt gặp cua ôm trứng sớm hơn [7].
Mùa vụ sinh sản
Ở Việt Nam, thời gian sinh sản của cua xanh khác nhau tùy vào từng vùng khác
nhau. Cua xanh đẻ trứng quanh năm, tuy vậy chúng vẫn thể hiện tính mùa vụ rất rõ
nét, mùa vụ sinh sản chính tập trung từ tháng 2 - 3 và từ tháng 7 - 8 trong năm. Theo
Hoàng Đức Đạt (1992) thì ở vùng biển phía bắc Việt Nam, mùa đẻ trứng của cua xanh
tập trung từ tháng 4 - 7, ở vùng biển phía nam Việt Nam cua xanh bắt đầu di cƣ vào
tháng 7 - 8 và mùa sinh sản chính bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau. Nhìn
chung, mùa vụ sinh sản chính chi phối bởi yếu tố nhiệt độ, vì vậy có thể nói ở những
vùng địa lý khác nhau thì mùa vụ sinh sản chính xuất hiện theo thời gian khác nhau
trong năm [7], [12], [14].
1.1.6.2. Kích thƣớc thành thục và sức sinh sản
Kích thƣớc và khối lƣợng của cua xanh ở giai đoạn thành thục: cua cái có khối
lƣợng trên 250g và chiều rộng giáp đầu ngực (CW) từ 11,5 – 12,0 cm, cua đực có khối
lƣợng từ trên 350g và chiều rộng của giáp đầu ngực từ 10 – 11 cm trở lên. Theo nghiên
cứu thì toàn bộ cá thể loài S. paramamosain có CW ≥ 10 cm tƣơng ứng với khối lƣợng
trung bình toàn thân trên 267g đều thành thục và có khả năng tham gia sinh sản. Tuy
nhiên, kích thƣớc thành thục thay đổi theo loài và trong cùng một loài thay đổi do ảnh
hƣởng của các điều kiện khí hậu theo từng vùng địa lý. Cua cái S. Serrata thành thục

8
lần đầu tiên khoảng 12 cm và CW đạt tối đa là 24 cm, trong khi đó loài S.
paramamosain lột xác thành thục ở cỡ 8 - 9 cm và có thể đạt CW tối đa là 14 – 15 cm
[11]. Cua xanh ở khu vực miền Bắc Việt Nam có kích thƣớc thành thục CW ≥ 10 cm.
So sánh với kích thƣớc thành thục của cua xanh ở một số nƣớc, chúng ta thấy kích
thƣớc thành thục cua xanh ở khu vực miền Bắc Việt Nam ở mức độ trung bình.
Bảng 1.1: Kích thƣớc thành thục tối thiểu của loài cua xanh ở một số vùng địa lý

[3]
Quốc gia
CW (cm)
Vĩ độ
Tác giả
Malaysia
Papua New Guinea
Philippine
Thái Lan
Việt Nam
India
South Africa
9,2
9,0
8,5
9,3
10,0
9,7
13,7
5
o
N
6
o
S
8
o
N
12
o

N
22
o
N – 8
o
S
13
o
N
24
o
S
Ong (1996)
Norman (1987)
Escitor (1970)
Varikul và ctv. (1972)
Nguyễn Cơ Thạch (????)
Raja (1955)
Hill (1975)

Nghiên cứu về mối tƣơng quan giữa kích thƣớc cơ thể và sức sinh sản cho thấy
chúng có sự tƣơng quan tỷ lệ thuận. Nhóm có kích thƣớc CW 10 – 11 cm có sức sinh
sản thực tế khoảng 1.200.000 trứng/lần đẻ, trong khi đó nhóm có kích thƣớc CW 12,1
– 13,0 cm thì sức sinh sản thực tế khoảng 1.800.000 trứng/lần đẻ [4].
1.1.6.3. Hoạt động giao phối
Trƣớc khi lột xác khoảng 2 - 10 ngày, cua đực và cua cái sẽ ghép đôi với nhau.
Trƣớc khi giao vĩ cua cái tiết ra một loại pheromone để thu hút con đực. Cua đực dùng
3 đôi chân bò ôm lấy mặt lƣng của con cái và cùng di chuyển với nhau khoảng 3 - 4
ngày. Đến khi con cái sắp lột xác, con đực mới rời con cái ra nhƣng vẫn ở bên cạnh,
con cái vừa lột xác xong con đực liền ôm con cái, cua đực và cái áp sát mặt bụng vào

nhau và cua đực gỡ yếm con cái ra để giao túi tinh vào túi nhận tinh của con cái. Thời
gian giao vĩ từ 7 đến 12 giờ, có thể kéo dài đến cả ngày. Kết thúc quá trình giao phối
con đực buông cua cái ra nhƣng vẫn đi cạnh để bảo vệ cua cái. Túi tinh đƣợc giữ ở bộ
phận nhận tinh của cua cái suốt mùa sinh sản. Trong mùa sinh sản, một cua cái có thể
đẻ trứng 1 - 3 lần và thụ tinh nhờ tinh trùng nhận đƣợc vào đầu mùa sinh sản [7], [26].

9
1.1.6.4. Các giai đoạn phát triển buồng trứng
Buồng trứng khi chƣa phát triển có dạng dải mảnh. Khi phát dục buồng trứng
lớn dần, từ chỗ không màu chuyển sang trắng đục, da cam và đỏ cam. Sự phát triển
buồng trứng của cua đƣợc phân ra làm 6 giai đoạn dựa vào màu sắc, đặc điểm mô,
kích thƣớc của tế bào trứng và hình dạng bên ngoài của cua nhƣ mô tả trong Bảng 1.2 ,
Bảng 1.3 và Hình 1.4. Màu sắc buồng trứng thay đổi từ trong suốt (giai đoạn I) đến
màu đỏ da cam (giai đoạn V) trong suốt quá trình thành thục (Hình 1.3). Hình dạng
của buồng trứng rất khó phát hiện ở giai đoạn I, kích thƣớc tăng dần lên ở giai đoạn II,
III, IV và đặc biệt noãn sào nở rộng ra ở giai đoạn V. Sau khi đẻ, đặc điểm buồng
trứng giống nhƣ ở giai đoạn II hoặc giai đoạn III, lúc này buồng trứng đang phát triển,
tuyến sinh dục mỏng, noãn sào bắt đầu nở rộng [10].

(a) (b)

(c) (d) (e)
Hình 1.3: Cấu tạo mô từ giai đoạn I - V trong suốt quá trình thành thục buồng
trứng. (a) Giai đoạn I; (b) giai đoạn II; (c) giai đoạn III; (d) giai đoạn IV; (e) giai
đoạn V
Hình chụp: Ngân (2005) [10]







10

Bảng 1.2: Hình dạng bề ngoài của buồng trứng ở các giai đoạn thành thục [10]
Giai đoạn
Đặc điểm
I
Chƣa thành thục; tuyến sinh dục mỏng và trong suốt, khó phân biệt, dễ
lẫn lộn với mô.
II
Tuyến sinh dục đang phát triển; tuyến sinh dục mỏng, nhƣng noãn sào
có màu trắng hay cam vàng.
III
Đang thành thục; noãn sào nở rộng; màu vàng hay cam nhạt.
IV
Thành thục; noãn sào tăng kích thƣớc; màu cam nhạt hoặc đậm.
V
Thành thục; noãn sào nở rộng chiếm hết diện tích; màu cam đậm.
VI
Sau đẻ; noãn sào mỏng, giống nhƣ giai đoạn II và III.

Bảng 1.3: Cấu tạo mô ở các giai đoạn khác nhau của buồng trứng [10]
Giai đoạn
buồng trứng
Đặc điểm mô
Kích thƣớc tế
bào trứng (μm)
I
Noãn nguyên bào phân cắt ở nhiều giai đoạn

khác nhau, màng tế bào follicle bao bọc xung
quanh và giữa các thùy.
15,9

2,9
II
Màng tế bào follicle bắt đầu bao xung quanh
trứng; thùy trứng dễ dàng phân biệt đƣợc.
60,0

6,8
III
Trứng tăng kích thƣớc, màng tế bào follicle
bao xung quanh trứng, noãn hoàng bắt đầu xuất
hiện.
67,7

3,9
IV
Giọt noãn hoàng lớn dần và tăng về số lƣợng.
93,9

16,9
V
Giọt noãn hoàng bao phủ tất cả tế bào chất,
nhân có kích thƣớc nhỏ hơn; màng tế bào
follicle khó thấy.
190,5

22,0

VI
Noãn nguyên bào, trứng ƣu baze và phần còn
lại của trứng trƣởng thành bị phân hủy có thể
quan sát đƣợc.
63,62

7,92

Phạm Thị Tuyết Ngân (2005) đã phân tích sự liên hệ giữa cấu trúc mô và hình
dạng bên ngoài của cua ở các giai đoạn thành thục khác nhau đã cho thấy mối tƣơng
quan giữa sự phát triển của buồng trứng và hình dạng bên ngoài (Bảng 1.4). Tỷ lệ
chiều cao/chiều rộng mai tăng dần từ giai đoạn I đến V (0,415 - 0,424 mm), tỷ lệ chiều
dài bụng/chiều rộng bụng giảm dần từ giai đoạn I - V (1,14 - 0,94 mm), sự thay đổi
này rõ rệt nhất ở giai đoạn I và II, nhƣng sau đó ổn định ở giai đoạn IV và V [10].


11
Bảng 1.4: Tỷ lệ số đo các kích cỡ mai, bụng ở các giai đoạn thành thục [10]
Giai đoạn
Chiều cao/rộng mai
(mm)
Chiều dài/rộng mai
(mm)
Chiều dài bụng/rộng
bụng (mm)
I
0,415

0,020
0,700


0,060
1,14

0,08
II
0,416

0,020
0,700

0,018
1,05

0,12
III
0,417

0,023
0,704

0,022
0,97

0,06
IV
0,422

0,019
0,701


0,013
0,94

0,05
V
0,424

0,015
0,707

0,022
0,94

0,05


(a)

(b)
Hình 1.4: Sự thay đổi hình dạng bụng của cua biển ở các giai đoạn thành thục

(a)

(b)


(c)

(d)


(e)

12
Hình 1.5: Hình dạng buồng trứng khác nhau từ giai đoạn I - V
(a) GĐ I; (b) GĐ II; (c) GĐ III; (d) GĐ IV; (e) GĐ V
Hình chụp: Ngân (2005) [10]
1.1.6.5. Hoạt động đẻ trứng, thụ tinh và phát triển của phôi
Sau khi giao vĩ, cua cái không ngừng tích luỹ chất dinh dƣỡng để phát triển
buồng trứng. Đẻ trứng là kết quả của quá trình tích luỹ đầy đủ vật chất kèm theo sự
biến đổi màu sắc của buồng trứng, khi những nhân tố môi trƣờng sống phù hợp và
đảm bảo cho sự phát triển của phôi thì những cua cái có buồng trứng chín muồi sẽ đẻ
và trứng đƣợc thụ tinh.
Khi đẻ cua cái nằm ở đáy, các chân bò bám vào nền đáy để nâng cơ thể lên,
phần bụng cua mở về phía sau, hai hàng chân bụng dựng lên, các phiến lông tơ của
chân bụng ở vị trí thuận lợi để sẵn sàng kết dính trứng. Trứng chín tách khỏi màng
follicle theo ống dẫn trứng đổ về 2 lỗ đẻ nằm đối xứng ỏ gốc chân bò 3, nhờ sự hoạt
động nhịp nhàng của các chân bụng và cấu tạo đặc biệt của trứng mà hầu hết trứng đẻ
ra đƣợc dính vào các lông tơ của chân bụng mà không dính lẫn nhau [2], [5]. Thời gian
đẻ kéo dài từ 30 phút đến 2 giờ, cua đẻ trứng tốt, trứng dính đều và dày trên tất cả các
lông tơ của các chân bụng và có rất ít trứng rơi ra ở đáy. Trứng đẻ ra đƣợc chứa trong
phần bụng con cái, trứng có 2 lớp màng: Màng ngoài hút nƣớc trƣơng lên, giữa 2 lớp
màng có niêm dịch, nhờ cử động của phần bụng, trứng bám trên lông tơ của chân
bụng, kéo dài ra thành “cuống trứng”, làm cho trứng tuy dính vào lông tơ của chân
bụng nhƣng vẫn “tự do” mà trứng không dính lại với nhau [6], [9], [26].
Số lƣợng trứng của cua cái đẻ rất lớn, một con cái có khối lƣợng 300g có thể đẻ
và mang trên 1 triệu trứng. Trứng đƣợc cua mẹ ôm và ấp cho đến lúc thành ấu trùng
Zoea. Trứng mới đẻ ra có màu vàng tƣơi, sau khi đẻ 1 giờ tất cả trứng đƣợc thụ tinh sẽ
bắt đầu phân cắt. Ở điều kiện nhiệt độ nƣớc 28 – 30
o

C, độ mặn 28 – 33‰, pH từ 7 –
8,5 thì quá trình phát triển diễn ra bình thƣờng [6].

(c)

(d)

(e)

13
Bảng 1.5: Tóm tắt quá trình phát triển phôi cua biển [2], [4]
Quá trình phát triển
Màu sắc – kích thƣớc
Sau 1 giờ trứng bắt đầu phân cắt
Vàng da cam (270µm )
Quá trình phôi vị sau 5 – 7 ngày
Vàng xám (320µm)
Xuất hiện điểm mắt sau 7 ngày
Xám vàng nâu (390µm)
Xuất hiện nhịp tim sau 10 ngày
Xám đen (480µm)
Xuất hiện đày đủ các phần phụ, nhịp tim đập
nhanh, mạnh đến khi vỏ trứng nở ra xuất hiện ấu
trùng sau 13 – 14 ngày (kể từ khi đẻ)
Đen

Sự phân cắt diễn ra nhƣ sau: Sự phân cắt và phôi vị hoá đều xảy ra trong 5 ngày
đầu, khi trứng ngả sang màu xám thì bắt đầu xuất hiện mầm chân mắt. Lúc đầu mắt có
dạng mảnh dài, màu sáng, đối xứng hai bên, xung quanh xuất hiện các đốm hình sao
và cuối cùng hình thành đôi mắt kép màu đen [7], [8].

Ấu trùng phá màng vỏ chui ra ngoài bƣớc vào thời kỳ ấu trùng Zoea, gặp điều
kiện thuận lợi cua ấp trứng tốt, phôi phát triển đồng đều ấu trùng nở ra đồng loạt và
thƣờng từ 3 - 6 giờ ấu trùng nở xong thì kết thúc quá trình sinh sản.
1.1.6.6. Các giai đoạn phát triển ấu trùng
Ấu trùng khi mới nở ra khỏi cua mẹ thì bƣớc ngay vào thời kỳ ấu trùng Zoea.
Các giai đoạn ấu trùng cua biển có thể phân biệt bằng những đặc điểm cơ bản sau.
Bảng 1.6: Các giai đoạn ấu trùng cua biển [3]
Giai
đoạn
Thời
gian sau
khi nở
(ngày)
Kích cỡ
(mm)
Đặc điểm phân biệt quan trọng
Zoea 1
0 – 3
1,65
Mắt chƣa có cuống, chân hàm I và II đều mang
4 lông tơ trên nhánh ngoài, có 5 đốt bụng.
Zoea 2
3 – 6
2,18
Mắt có cuống, nhánh ngoài của chân hàm I và
II mang 6 lông tơ, có 5 đốt bụng.
Zoea 3
6 – 8
2,70
Nhánh ngoài của chân hàm I mang 8 lông tơ,

chân hàm II mang 9 lông tơ, có 6 đốt bụng, gai
bên của đốt bụng 3 - 5 dài hơn.
Zoea 4
8 – 11
3,54
Nhánh ngoài của chân hàm I mang 10 lông tơ,
chân hàm II mang 10 lông dài, 1 - 2 lông ngắn,
mầm chân bụng xuất hiện trên các đốt bụng 2 -
6.
Zoea 5
10 – 16
4,50
Nhánh ngoài của chân hàm I mang 11 lông dài,
1 - 4 lông ngắn, nhánh ngoài của chân hàm II

14
mang 12 lông dài và 2 - 3 lông ngắn, chân bụng
trên đốt bụng 2 - 6 rất phát triển, nhánh ngoài
của chân bụng có thể mang 1 - 2 lông tơ.
Megalop
15 – 23
4,01
Mất gai lƣng, gai trán rất ngắn, mắt to Telson
không còn chẻ 2 mà dạng bầu dục và có nhiều
lông trên chân đuôi, chân bụng rất phát triển và
có nhiều lông trên các nhánh, ấu trùng mang 2
càng.
Cua con
(Cua 1)
23 – 30

2-3 CW
Cua có hình dạng nhƣ cua trƣởng thành mặc dù
carapace hơi tròn.

1.2. Tình hình nghiên cứu sản xuất giống cua xanh trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Cua biển là đối tƣợng nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao ở nhiều nƣớc trên thế
giới. Vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu về đối tƣợng này.
Từ năm 1940, trên thế giới đã có nhiều nhà khoa học tiến hành nghiên cứu về đặc
điểm sinh học sinh sản của cua biển. Nhiều công trình nghiên cứu nhằm xây dựng
hoàn thiện quy trình kỹ thuật sinh sản nhân tạo giống cua biển nhƣ nghiên cứu về vòng
đời [23], nghiên cứu của Serene (1980), Starobogator (1980) về các đặc điểm sinh lý,
sinh hóa, kỹ thuật sinh sản nhân tạo, sự tác động của các yếu tố môi trƣờng nhƣ nhiệt
độ, độ mặn,… đến sự sinh trƣởng và phát triển cua [20].
Arriola (1940) nghiên cứu về vòng đời của cua biển và nhận thấy: Cua biển sinh
trƣởng và phát triển ở vùng nƣớc lợ, sau khi giao vĩ cua di cƣ ra vùng cửa sông để đẻ
trứng, ấu trùng Zoea sống ở biển. Hoạt động đẻ trứng của cua diễn ra quanh năm với
mùa vụ chính từ tháng 5 đến tháng 7, sự thụ tinh xảy ra bên trong cơ thể cua cái [16].
Ong (1964) lần đầu tiên đã mô tả các giai đoạn của ấu trùng cua. Ấu trùng cua
sau khi nở là Zoea 1, trải qua 4 lần lột xác trở thành Zoea 5, trong khoảng 17 - 20
ngày. Zoea 5 biến thái thành Megalop và giai đoạn này kéo dài 8 - 11 ngày, sau đó ấu
trùng trở thành cua con. Cua con trải qua 16 - 18 lần lột xác nữa trƣớc khi thành thục,
thời gian này ít nhất khoảng 338 - 523 ngày. Nhìn chung, chu kỳ sống của cua đƣợc
chia làm 4 giai đoạn chính: Giai đoạn ấu trùng, cua con, tiền trƣởng thành và trƣởng
thành. Trong quá trình phát triển cùng với sự lột xác các loài cua nói chung có khả
năng tái sinh những phần đã bị mất của cơ thể [28].
Brick (1974) đã thử nghiệm tìm hiểu ảnh hƣởng của chất lƣợng nƣớc, thuốc
kháng sinh, tảo và thức ăn đến tỉ lệ sống của ấu trùng cua xanh S. serata. Kết quả
nghiên cứu cho thấy ấu trùng cua xanh đã đƣợc nuôi thành công khi sử dụng phối hợp


15
giữa thuốc kháng sinh – tảo - Nauplius của Artemia. Tảo Chlorella có tác dụng làm
tăng tỉ lệ sống của ấu trùng Zoea, Nauplius của Artemia đƣợc coi là thức ăn thích hợp
nhất [17].
Heasman và Fielder (1983) đã thử nghiệm cho cua đẻ ở phòng thí nghiệm và
nuôi đại trà cua biển từ giai đoạn Zoea đến cua bột. Kết quả nghiên cứu cho thấy cần
duy trì chất lƣợng nƣớc bằng hệ thống lọc nƣớc tuần hoàn, với các điều kiện môi
trƣờng, nhiệt độ nƣớc 27
o
C, độ mặn 28 – 32‰, mật độ thức ăn nauplius Artemia 5 –
30 con/L đƣợc coi là điều kiện thích hợp cho quá trình ƣơng nuôi ấu trùng. Với điều
kiện này tỷ lệ sống đạt 1 – 4% [20].
Trong suốt quá trình thành thục, cua di cƣ ra ngoài cửa biển. Qua phân tích tỉ lệ
giới tính của cua ở vùng nƣớc lợ và nƣớc ngọt, Prasad (1987) thấy rằng tỉ lệ phần trăm
con đực và con cái tƣơng đƣơng nhau ở hai vùng nƣớc [29]. Theo Ong (1964), tỉ lệ
con cái trƣởng thành giảm đáng kể ở vùng nƣớc lợ tại thời điểm đỉnh cao của mùa sinh
sản và tăng lên trong các quần thể cua ở nƣớc mặn và cua có trứng chỉ tìm thấy ở vùng
biển của Ấn Độ [28].
Nghiên cứu ảnh hƣởng các yếu tố môi trƣờng nhƣ nhiệt độ, độ mặn lên tỷ lệ sống
và phát triển của ấu trùng một số giống loài cua đƣợc nhiều tác giả nghiên cứu ở
những môi trƣờng khác nhau và đã đƣợc báo cáo. Prasad (1989) giả thuyết rằng độ
mặn, nhiệt độ và khả năng cung cấp thức ăn là những nhân tố quan trọng kích thích cơ
thể đẻ trứng [29].
Nghiên cứu của Prasad (1989) chỉ ra độ mặn và nhiệt độ không cao cũng không
thấp vào mùa sinh sản rộ là điều kiện rất lý tƣởng cho quá trình ấp trứng và phát triển
của ấu trùng [29]. Trong thí nghiệm đánh giá về ảnh hƣởng của nhiệt độ và độ mặn
đến ấu trùng Zoea đầu tiên, Hill (1974) thấy rằng tỷ lệ chết của ấu trùng Zoea gia tăng
đáng kể khi ƣơng trong điều kiện nhiệt độ 25
o
C hoặc độ mặn dƣới 17,5‰, qua đó, tác

giả kết luận ấu trùng Zoea không thích hợp với điều kiện môi trƣờng vùng cửa sông
[21]. Cũng theo Ong (1964), ấu trùng có thể chịu đựng đƣợc nhiệt độ dƣới 15
o
C,
nhƣng chúng sẽ trở nên bất động ở dƣới 10
o
C. Tác giả cho rằng cua cái sẽ không di cƣ
ra vùng biển có nhiệt độ dƣới 12
o
C để đẻ trứng [28]. Tuy nhiên, Heasman và ctv
(1983) lại nhận thấy tần số bắt mồi của ấu trùng cua tăng lên khi nhiệt độ tăng trên
khoảng 20 – 27
o
C và chậm lại khi nhiệt độ thấp dƣới 20
o
C [20]. Một số thí nghiệm
khác cũng cho thấy ƣơng ấu trùng cua đạt kết quả tốt hơn ở nhiệt độ 27 – 30
o
C và độ

16
mặn khoảng 35‰ so với các điều kiện nhiệt độ và độ mặn khác [8], [20], [21]. Ong
(1964) nhận thấy rằng giai đoạn Megalop lớn nhanh hơn khi độ mặn giảm xuống còn
21 - 27‰ và chúng có khuynh hƣớng di chuyển vào vùng nƣớc lợ [28].
Tuy những kết quả nghiên cứu của các tác giả nói trên đã mô tả các đặc điểm
sinh học sinh sản, kỹ thuật cho đẻ, ƣơng nuôi các giai đoạn ấu trùng, thức ăn, nhiệt độ
nƣớc, độ mặn, chất lƣợng nƣớc, ảnh hƣởng của thuốc kháng sinh… đến đối tƣợng
nghiên cứu. Nhƣng sự mô tả đó có tính chất khái quát, để áp dụng vào sản xuất đòi hỏi
phải có những nghiên cứu cụ thể chi tiết phù hợp với từng điều kiện sinh thái của mỗi
thủy vực.

1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Việt Nam có nguồn lợi cua biển phong phú và có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho
việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản nói chung và nuôi cua nói riêng.
Để giải quyết vấn đề con giống, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã giao
nhiệm vụ cho các Viện Nghiên cứu triển khai thực hiện từ những năm 1980. Tuy
nhiên, tại thời điểm đó các tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu về định loài và nghiên
cứu đặc điểm sinh học làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo sau này. Trong
những năm đầu của thập kỷ 90, các tác giả nhƣ Hoàng Đức Đạt, Đoàn Văn Đẩu,
Nguyễn Cơ Thạch nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản và sản xuất giống, với mong
muốn tìm ra quy trình sản xuất giống nhân tạo, kết quả đạt đƣợc vẫn còn hạn chế.
Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Hải (1997) khi nuôi vỗ cua cắt mắt trong bể 1m
3
,
cua có thể đẻ trong vòng 5 ngày sau khi cắt mắt và thả nuôi. Tuy nhiên, cũng có
trƣờng hợp kéo dài đến 111 ngày mới đẻ và một số con không đẻ. Cua đẻ trứng không
luôn luôn xảy ra vào những ngày trăng kém hay trăng rằm mà bất kỳ ngày nào trong
tháng. Cua thƣờng đẻ trứng vào ban đêm, song cũng có lúc đẻ trứng vào buổi sáng hay
chiều. Cua cái tham gia đẻ trứng thƣờng có kích cỡ 200 - 300g, cua có thể đẻ lại sau
20 - 30 ngày.
Năm 1998, Bộ Khoa học Công nghệ & Môi trƣờng đã giao cho Viện nghiên cứu
Nuôi truồng Thủy sản III thực hiện đề tài “Nghiên cứu sinh sản nhân tạo và xây dựng
quy trình kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cua Xanh loài S. paramamosain” sự thành
công của đề tài này đã giúp giải quyết phần nào nguồn cua giống cho nghề nuôi cua.
Năm 2003, lƣợng cua giống sản xuất nhân tạo là 0,5 triệu con và con số này đã tăng
lên 10 triệu con vào năm 2004 [3], [5], [6].

17
Cũng trong thời gian này, Trƣờng Đại học Cần Thơ cũng nghiên cứu sinh sản
nhân tạo thành công cua xanh và bƣớc đầu thử nghiệm nuôi cua xanh thƣơng phẩm từ
nguồn giống nhân tạo [10].

Năm 2004, Viện Nghiên cứu NTTS III bắt đầu chuyển giao công nghệ sản xuất
giống cua xanh nhân tạo cho một số Trung tâm Khuyến ngƣ, Trung tâm Giống các
tỉnh: Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Thừa Thiên Huế, Bến Tre, Phú Yên, Sóc
Trăng, Bình Định và Quảng Bình. Tuy nhiên, do tỉ lệ sống các giai đoạn ấu trùng từ
giai đoạn Zoea 1 đến cua bột 1 đạt khoảng 5%, lƣợng cua giống nhân tạo đƣợc sản
xuất ra còn ít, chƣa trở thành hàng hoá phục vụ cho nuôi cua thƣơng phẩm.
Năm 2006 – 2007, Viện Nghiên cứu Nuôi Trồng Thủy sản III đã thực hiện dự án
chuyển giao công nghệ sản xuất giống cua xanh cho Trung tâm Khuyến ngƣ của 2 tỉnh
là Bà Rịa – Vũng Tàu và Thái Bình, do Nguyễn Diễu làm chủ nhiệm dự án. Kết quả
đạt đƣợc qua các đợt sản xuất tại hai tỉnh với tỷ lệ sống từ 13 – 15% [5].
1.2.3. Một số vấn đề cần quan tâm trong sản xuất giống cua xanh
Thức ăn
Hiện nay thức ăn dùng để ƣơng nuôi ấu trùng trong sản xuất hay nuôi thử nghiệm
chủ yếu là: Artemia, luân trùng, tảo, có nhiều nghiên cứu về việc sử dụng loại thức ăn
này trong việc ƣơng ấu trùng cua. Trong đó vai trò của Artemia là rất quan trọng, điều
này đƣợc thấy rõ qua các nghiên cứu nhƣ: Ong (1964) sử dụng một lọai thức ăn là
Nauplius Artemia để làm nguồn thức ăn ƣơng ấu trùng cua và có nhận xét rằng rằng ấu
trùng Artemia dƣờng nhƣ quá lớn và bơi lội quá nhanh nên ấu trùng cua khó bắt đƣợc
mồi [28]. Trong khi đó, Dominisae (1974) thử ƣơng ấu trùng cua với luân trùng,
Nauplius Artemia và men bánh mì ở giai đoạn Zoea, dùng nghêu và Artemia cỡ lớn
cho giai đoạn Megalop [18]. Brick (1974) dùng Artemia làm thức ăn cho ấu trùng cua
đạt kết qủa tốt [17]. Dùng luân trùng, tảo Chlorela và Spirulina để ƣơng ấu trùng và
dùng Artemia cho các giai đoạn ƣơng cua sau (Jing & ctv, 1980) [1].
Ngoài ra, axít béo rất quan trọng, nó giúp tăng tỉ lệ sống chi ấu trùng cua. Luân
trùng với hàm lƣợng 0,8% (n - 3)HUFA là thức ăn thích hợp nhất giúp tăng tỷ lệ sống
cho ấu trùng cua. Thức ăn sống đƣợc làm giàu bằng thức ăn tổng hợp cũng giúp nâng
cao tỷ lệ sống ấu trùng cua [17].
Vì vậy, nguồn thức ăn sống: Artemia, luân trùng, tảo… đƣợc xem là nguồn thức
ăn chính cho ấu trùng cua, nhƣng việc sử dụng thức ăn này tốn thời gian nuôi, giá


18
thành cao mà nó còn là nguồn mang mầm bệnh rất nhiều làm ảnh hƣởng tới quá trình
ƣơng cua nếu nhƣ chúng ta không quản lý, chăm sóc cẩn thận trong quá trình chuẩn bị
thức ăn sống. Vấn đề đặt ra là phải tìm nguồn thức ăn thay thế thức ăn tƣơi sống mà
vẫn đảm bảo cung cấp đầy đủ dinh dƣỡng cho ấu trùng cua.
Tập tính ăn nhau trong giai đoạn ƣơng ấu trùng
Hiện tƣợng ăn thịt lẫn nhau thƣờng xảy ra ở tất cả các giai đoạn ấu trùng cua
biển, làm giảm tỉ lệ sống đặc biệt là giai đoạn chuyển từ Zoea 5 sang Megalop.
Nguyên nhân là do sự lột xác không đều, ấu trùng lột xác trƣớc ăn ấu trùng chƣa lột
xác [28] hoặc do thức ăn chƣa phù hợp [15]. Khi chuyển sang giai đoạn Megalop ấu
trùng đã xuất hiên đôi càng, trở nên năng động, bơi lội tự do và bắt mồi sống. Nếu
ƣơng với mật độ dày xảy ra hiên tƣợng Megalop cắn Zoea 5, điều này thể hiên rõ khi tỉ
lệ sống từ Zoea 5 sang Megalop rất thấp. Sự phong phú thức ăn tự nhiên trong môi
trƣờng nuôi và mật độ ƣơng thƣa có thể khắc phục đƣợc tình trạng này [20].
Các điều kiện môi trƣờng trong ƣơng cua
Trong tự nhiên cũng nhƣ trong điều kiện nuôi, nhiệt độ, độ mặn và ánh sáng là
những yếu tố môi trƣờng ảnh hƣởng đến sinh trƣởng, lột xác và tỉ lệ sống của ấu trùng.
Hill (1974) thấy rằng ấu trùng Zoea thích hợp sống trong điều kiện vùng cửa sông là
do độ mặn thấp [21]. Còn Heasman và ctv (1983) lại nhận thấy tần số bắt mồi của ấu
trùng tăng lên khi nhiệt độ tăng trên khoảng 20 – 27
0
C và chậm lại khi nhiệt độ thấp
dƣới 20
0
C [20]. Nguyễn Cơ Thạch (2003) đã xác định nhiệt độ từ 26 – 30
0
C, độ mặn
25 – 30‰ là điều kiện thích hợp nhất cho sự phát triển của ấu trùng cua biển. Giai
đoạn ấu trùng cua biển có quá trình di cƣ (trôi theo dòng nƣớc) theo chiều hƣớng độ
mặn giảm dần, giai đoạn Megalop có khuynh hƣớng lớn nhanh khi độ mặn giảm còn

21 – 27 ‰ và chúng có khuynh hƣớng di chuyển vào vùng nƣớc lợ [20], [21], [26].
Ngoài yếu tố nhiệt độ, độ mặn thì ánh sáng cũng ảnh hƣởng đến tốc độ sinh
trƣởng và tỉ lệ sống của ấu trùng cua. Theo Wormhoudt và Humbert (1994), đối với
giáp xác, mức độ sáng tối ổn định, nhiệt độ giảm và sự đói ăn đều làm chậm tần số lột
xác. Ngƣợc lại khi tăng nhiệt độ, chiều dài thời gian chiếu sang thích hợp sẽ kích thích
quá trình lột xác. Ánh sáng ảnh hƣởng rất lớn đến hoạt động bơi lội và khả năng bắt
mồi của giáp xác. Một điều chắc chắn rằng ấu trùng giáp xác là loài bắt mồi không cần
sự hiện diện của ánh sáng nhƣng không loại trừ khả năng sự hiện diện của ánh sáng
giúp chúng bắt mồi hiệu quả hơn [15].

19
Theo Minagava và Murano (1993), tốc độ bắt mồi cuả ấu trùng Zoea cua Ranina
trong ngày cao gấp 2,6 – 2,8 lần so với ban đêm [25]. Trong khi đó thì Yatsuzuka
(1962) cho rằng tốc độ bắt mồi của ấu trùng ghẹ Portunus pelagicus trong ngày cao
gấp 3 đến 4 lần so với ban đêm. Ánh sáng giúp ấu trùng dễ dàng tìm thấy mồi nhƣng
cũng dễ dàng phát hiện nhau nên hiện tƣợng ăn nhau càng mạnh mẽ hơn [31].
Ánh sáng phản xạ từ mặt bể cũng ảnh hƣởng đến tốc độ sinh trƣờng và phát triển
của ấu trùng. Ấu trùng cua biển có màu đen do đó trong ƣơng nuôi ngƣời ta thƣờng sử
dụng bể có màu trắng hoặc sáng để dễ quan sát ấu trùng. Nhƣng theo nghiên cứu của
Abed và Chaoshu Zeng (2005) về ảnh hƣởng của màu sắc bể đến tỷ lệ sống và sự phát
triển của ấu trùng cua biển Scylla serrata, với 5 màu bể: đen, nâu sẫm, xanh đen, xanh
da trời và trắng, bể màu đen cho tỷ lệ sống của ấu trùng cao nhất. Ƣơng trong bể màu
đen và nâu sẫm, thời gian phát triển của các giai đoạn ấu trùng ngắn nhất. Trong khi
đó bể màu trắng cho tỉ lệ sống thấp nhất, ấu trùng tập trung về đáy bể có màu sáng, đặc
biệt là giai đoạn Zoea 1 thì tính hƣớng quang cao, ấu trùng tập trung về đáy bể. Tuy
nhiên ở đáy bể lại luôn tập trung thức ăn thừa và xác chết của ấu trùng nên có nhiều
mầm bệnh, khí độc làm cho ấu trùng bị bệnh hay stress, thiếu oxy và bị chết [15].
Bệnh
Bệnh của cua thƣờng là do vi khuẩn, nấm, nguyên sinh động vật hay vi rút gây
ra. Tác nhân gây bệnh và bệnh của ấu trùng cua cũng đã đƣợc nhiều nhà khoa học

nghiên cứu từ những năm 1990. Kết quả quan sát cua đẻ trong ao cho thấy cua thƣờng
bị nhiễm nhiều động vật nguyên sinh hoặc các sinh vật khác dẫn đến tỷ lệ nở thấp.
Trong thí nghiệm sử dụng formalin 25 ppm để khử sự nhiễm nấm của trứng cua cho
thấy nó gây độc cho trứng một ngày sau khi đẻ và độc với cả cua mẹ nếu giữ cua một
thời gian lâu hơn. Do đó, nên xử lý nhiễm nấm bằng formaline ở các giai đoạn đầu của
ấu trùng tốt hơn là ở giai đoạn cua mang trứng. Sử dụng 50 ppm formaline ngâm cua
mẹ và trứng trong 1 giờ mỗi ngày có thể diệt và ngăn chặn nấm và ký sinh trùng có
hiệu quả (Trƣơng Trọng Nghĩa và ctv. 2001) [11].
Kết quả nghiên cứu của Zafran và ctv. (1993) đã tìm thấy nấm Lagenidium ở ấu
trùng Zoea. Tác giả đề xuất sử dụng formalin (10 ppt trong 24 giờ) để phòng và trị sự
lây lan của nấm ở ấu trùng cua. Prastowo và Wagimsam (1996) đã tìm thấy trong bể
cua mẹ và sau khi ấp nở kí sinh trùng có thể lây lan sang ấu trùng Zoea mới nở làm ấu
trùng chết rất nhiều. Nhiều biện pháp phòng trị bằng cách sử dụng hóa chất hoặc

×