Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 1
Trường Đại học Kinh tế
Đại học Đà Nẵng
QUẢN TRỊ DANH MỤC ĐẦU TƯ
Giáo viên hướng dẫn : Th.s Đặng Hữu Mẫn
Nhóm thực hiện : Nhóm 34K07.2
Các thành viên :
1. Nguyễn Thị Hồng Xuân
2. Dương Thị Ngọc Sáu
3. Nguyễn Thị Thanh Huyền
4. Ngô Thị Lành
5.Trần Thị Thảo
6. Đặng Thị Ngọc Nin
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 4
Chương 1: PHÂN TÍCH VĨ MÔ.................................................................................4
Chương 2: PHÂN TÍCH NGÀNH............................................................................24
Chương 3: PHÂN TÍCH CÔNG TY.........................................................................38
Chương 4: PHẦN TÍNH TOÁN...............................................................................58
Chương 5: ĐƯỜNG BIÊN HIỆU QUẢ....................................................................60
Chương 6: ÁP DỤNG THỰC TẾ.............................................................................61
Chương 7: KẾT LUẬN..............................................................................................66
PHỤ LỤC.................................................................................................................. 69
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 3
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi Việt Nam tiến hành đường lối đổi mới kinh tế vào năm 1986, sau hơn 20
năm, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều biến chuyển quan trọng. Nước ta đã thoát khỏi
tình trạng khó khăn, nghèo đói và bắt đầu những bước phát triển vượt bậc trên mọi
phương diện kinh tế, xã hội, thương mại và quan hệ quốc tế. Cùng với sự phát triển của
nền kinh tế đã mở ra ngày càng nhiều những cơ hội đầu tư. Thị trường Việt Nam hiện
nay đã và đang cung cấp nhiều kênh đầu tư sinh lợi: thị trường vàng, thị trường bất
động sản hoặc cũng có thể gửi tiết kiệm ngân hàng. Và không thể không nhắc đến một
kênh đầu tư hết sức quan trọng - Thị trường chứng khoán.
Ngày 11/7/1998 Chính phủ đã ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và
TTCK chính thức khai sinh cho Thị trường chứng khoán Việt Nam. Sự ra đời này của
TTCKVN đánh một dấu mốc quan trọng cho giới đầu tư trong nước. Ngày 29/05/2006,
Quốc hội ban hành Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11, luật này ra đời đã tạo được
môi trường pháp lý cho việc phát hành và kinh doanh chứng khoán, bảo đảm cho thị
trường chứng khoán hoạt động có tổ chức, an toàn, công khai, hiệu quả, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Trải qua hơn 10 năm hoạt động, đến thời điểm này,
đã có 109 mã CK niêm yết tại HOSE và 97 mã CK niêm yết tại HNX.
Năm 2010, khủng hoảng tài chính đã được đẩy lùi và nền kinh tế đang bước vào
giai đoạn phục hồi, với chức năng như là “phong vũ biểu” của nền kinh tế, TTCKVN
đang có những bước chuyển biến tích cực và hứa hẹn mang lại nhiều cơ hội cho các nhà
đầu tư.
Với mỗi nhà đầu tư, mục tiêu cuối cùng luôn là tối đa hóa lợi nhuận cho danh mục
đầu tư của mình. Vậy đầu tư như thế nào để mang lại lợi ích cao nhất ? Đây luôn là câu
hỏi được đặt ra trong mọi trường hợp. Giải quyết bài toán này là cả một quá trình từ
việc cân nhắc, phân tích, lựa chọn và quản lý danh mục đầu tư.
Bằng những kiến thức đã được học và tham khảo thực tế, thông qua quá trình
phân tích và tìm hiểu, với những nguồn lực hiện có của mình chúng tôi quyết định đầu
tư vào lĩnh vực chứng khoán.
Bạn sẽ làm gì với 100 triệu đồng có trong tay ? Mua vàng, Bất động sản, Chứng
khoán hay gửi tiết kiệm ?
Hãy tham khảo mô hình đầu tư của nhóm chúng tôi !
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 4
Chương 1: PHÂN TÍCH VĨ MÔ
1.1 Phân tích vĩ mô thế giới
1.1.1 Kinh tế thế giới sau khủng hoảng
Nền kinh tế thế giới đã trải qua cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong lịch sử. Khủng
hoảng tài chính bùng phát tại Mỹ và lan rộng toàn cầu, kéo theo sự sụp đổ đồng loạt các
định chế tài chính khổng lồ. Thị trường chứng khoán khuynh đảo. Kinh tế thế giới suy
thoái. Thị trường hàng hoá biến động khôn lường. Dưới đây là một số thống kê của WB
về các chỉ số kinh tế chính của thế giới trong ba năm 2007, 2008, 2009.
Bảng 1 : Thống kê một số chỉ số kinh tế chính của WB
Thương mại thế giới
Kim ngạch thương mại của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều sút giảm mạnh.
Theo thống kê của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tính hết Q3/2009 thương mại
hàng hóa thế giới theo giá hiện hành vẫn giảm 26.4% so với cùng kỳ năm trước (tính
theo năm). Tại Mỹ, xuất khẩu giảm 21.5%, nhập khẩu giảm 29.1%. Trong khi đó, xuất
khẩu Nhật Bản giảm 24.4%, nhập khẩu giảm 30.6%. Xuất khẩu của Trung Quốc giảm
20.5%, nhập khẩu giảm 11.8%. Kim ngạch thương mại ở các quốc gia phát triển cũng
giảm mạnh.
Kim ngạch thương mại thế giới giảm mạnh phần lớn đều do sự giảm giá của các
hàng hóa, đặc biệt là các mặt hàng nhiên, nguyên vật liệu như dầu thô, sắt thép… Theo
ước tính của WB, nếu loại trừ yếu tố giá thì kim ngạch thương mại năm 2009 chỉ sụt
giảm 2.1%, trong khi kim ngạch thương mại các nước đang phát triển tăng trưởng 2.1%.
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 5
Tuy nhiên, có một tín hiệu lạc quan là thương mại thế giới đang có chiều hướng
tăng lên khá mạnh, nhập khẩu tháng sau thường cao hơn tháng trước. Ngoài sức cầu
đang tăng trở lại, thương mại thế giới còn được hưởng lợi từ sự tăng giá của nhiều hàng
hóa. Tuy vậy, lo ngại lại đến từ việc các quốc gia dường như đang tăng cường hơn các
chính sách bảo hộ để bảo vệ hàng hóa trong nước. Những vụ kiện thương mại và các
chính sách bảo hộ gia tăng mạnh trong năm 2009, và nhiều khả năng tiếp tục tăng trong
năm 2010.
Thất nghiệp và lạm phát
Về thất nghiệp, dù kinh tế thế giới đã xuất hiện những dấu hiệu tích cực, nhưng tỷ
lệ thất nghiệp ở các quốc gia vẫn ở mức cao. Tình trạng thất nghiệp ở mức cao cho thấy
đà phục hồi kinh tế thế giới chưa có dấu hiệu bền vững.
Tại Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 12/2009 vẫn đứng ở mức 10%. Đây là tỷ lệ
cao nhất kể từ sau cuộc suy thoái kinh tế Mỹ năm 1983. Thất nghiệp tại Mỹ đã liên tục
tăng cao trong năm 2009 từ mức 7.4% vào tháng 1 tăng lên mức cao nhất 10.1% vào
tháng 10.
Tại châu Âu, tỷ lệ thất nghiệp cũng tiếp tục tăng cao. Tính đến tháng 12/2009, tỷ
lệ thất nghiệp của châu Âu đang ở mức 10%, đây cũng là mức cao nhất trong năm. Một
số quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp cao như Tây Ban Nha 19.4%, Thổ Nhĩ Kỳ 13.4%,
Ireland 12.5%. Ba cường quốc châu Âu là Anh, Pháp, Đức có tỷ lệ thất nghiệp lần lượt
là 7.9%, 10% và 8.1%.
Tỷ lệ thất nghiệp ở Nhật Bản tháng 12/2009 chỉ còn 5.1%, thấp hơn khá nhiều so
với mức đỉnh 5.7% vào tháng 7. Tuy nhiên, đây cũng là mức khá cao so với tỷ lệ thất
nghiệp trung bình dài hạn của nước này.
Về lạm phát, Giá cả của hầu hết các hàng hóa đều giảm xuống mức thấp nhất vào
khoảng tháng 2 – 3/2009, sau đó bắt đầu phục hồi lại khá mạnh. Dưới đây là biểu đồ về
giá của một số hàng hoá cơ bản trên thế giới
Biểu đồ 1: Một số chỉ số hàng hoá cơ bản của thế giới
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 6
Nguồn: VietstockFinance
Giá dầu thô từ mức đỉnh hơn 150 USD/thùng, chưa đầy 6 tháng sau đó xuống gần
chạm mốc 30 USD/thùng vào giữa tháng 2/2009. Mức giá này tương đương với giá dầu
thô vào năm 2004. Sự sụt giảm mạnh của giá dầu thô như là một chỉ báo cho thấy kinh
tế thế giới sẽ đi vào một giai đoạn suy thoái nặng nề. Tuy nhiên, ngoài dự đoán của
nhiều người, giá dầu nhanh chóng phục hồi khá mạnh. Chỉ 4 tháng sau đó, giá dầu đã
tăng gấp đôi lên trên mức 70 USD/thùng.
Giá cao su cũng tăng lên khá mạnh sau khi đạt mức đáy vào tháng 12/ 2008. Tính
từ mức đáy cho đến nay giá cao su đã tăng hơn gấp 2 lần và hiện đang dao động quanh
mức 1.3 USD/pound. Giá các mặt hàng nông sản, đường, cà phê, ngô và các kim loại
cũng tăng lên khá mạnh.
1.1.2 Kinh tế thế giới năm 2010
Tăng trưởng kinh tế
Theo ước tính của IMF, trong quý I/2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu đạt
4,3%, cao hơn mức kỳ vọng và gần sát mức đỉnh điểm 5% trước khủng hoảng; tuy
nhiên, khả năng tăng trưởng có thể yếu dần vào giai đoạn nửa sau của năm 2010, phụ
thuộc mức độ phục hồi của khu vực tư nhân, sự ổn định của khu vực tài chính, đặc biệt
là khu vực đồng Euro. Dự báo cả năm 2010, kinh tế toàn cầu tăng trưởng 4,25%, cao
hơn nhiều so với mức -0,6% của năm 2009.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế không đồng đều giữa các khu vực, trong đó các nền
kinh tế đang phát triển và mới nổi đạt tốc độ tăng trưởng mạnh nhất là 7,6% trong Quý
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 7
I/2010, riêng Trung Quốc đạt tốc độ tăng trưởng tới 11,9%. Đối với các nước phát triển,
Mỹ đang có tốc độ phục hồi nhanh hơn so với khu vực Châu Âu và Nhật Bản, mặc dù
cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu từ cuối năm 2008 bắt nguồn từ
Mỹ.
Lạm phát và thất nghiệp
Lạm phát toàn cầu trong nửa đầu năm 2010 tăng so với năm 2009 những vẫn duy
trì ở mức thấp và trong tầm kiểm soát. Cùng với việc tăng trưởng kinh tế mạnh hơn thì
lạm phát tại các nước đang phát triển và mới nổi cũng tăng nhanh hơn so với các nước
phát triển do ảnh hưởng của các biện pháp mở rộng cung tiền mạnh mẽ tại các nước này
trong năm 2009 (tỷ lệ lạm phát tháng 4/2010 tại Trung Quốc là 2,8% so với cùng kỳ
năm 2009, trong đó tại Mỹ là 2,2% và Khu vực Châu Âu là 1,5%). Riêng Nhật Bản vẫn
tiếp tục rơi vào tình trạng giảm phát (-1,2%). Trong 4 tháng đầu năm, tỷ lệ thất nghiệp
tăng ở nhiều quốc gia, trong đó tỷ lệ tại Mỹ là 9,9%, khu vực Châu Âu là 10,1% và Nhật
Bản là 5,1%.
Thương mại quốc tế
Thương mại toàn cầu bắt đầu phục hồi từ giữa năm 2009 với khối lượng thương
mại tăng trên 10% (từ quý III/2010 đến quý I/2010). Trong quý I/2010, tổng kim ngạch
thương mại của Mỹ tăng 20,88% so với quý I/2009 (nhập khẩu tăng 21,3% và xuất khẩu
tăng 20,3%); riêng tháng 3/2010, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Mỹ đạt mức tăng
cao nhất kể từ tháng 10/2008 (trên 28%), trong đó xuất khẩu tăng chủ yếu từ các sản
phẩm dầu, máy phát điện, chất bán dẫn và nhập khẩu tăng chủ yếu do nhập khẩu dầu thô
và ôtô sản xuất ở nước ngoài.
Nợ công ở một số quốc gia
theo dự báo của IMF và ADB, các kế hoạch kích thích tài chính tại nhiều quốc gia
đã làm cho tình trạng nợ công ngày càng tăng cao trong năm 2009 và tiếp tục tăng cao
hơn trong năm 2010. Các nước phát triển nói chung và nhóm G7 nói riêng có tỷ lệ nợ
công/GDP cao nhất với tỷ lệ dự báo trong năm 2010 lần lượt là 97,1% và 112,5% (tăng
so với tỷ lệ 90% và 104,9% của năm 2009); riêng Mỹ, nợ công trong 5 tháng đầu năm
2010 đã tăng lên mức 90% GDP (tương đương 13.000 tỷ USD) và dự báo có thể tăng
lên mức 92,6% vào cuối năm 2010. Các quốc gia mới nổi ít chịu ảnh hưởng từ cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu nên nợ công vẫn duy trì ở mức vừa
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 8
phải (khoảng 37% GDP trong năm 2009 và 2010). Tại khu vực đồng tiền chung Châu
Âu, nợ công của một số nước như Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha trở nên trầm
trọng ngay đầu năm 2010 và gây bất ổn trực tiếp cho toàn bộ khu vực đồng Euro; dự
báo, nợ công năm 2010 của Hy Lạp lên tới 124,9% (trong đó nợ nước ngoài có thể lên
tới 80%) trong khi thâm hụt ngân sách tiếp tục duy trì ở mức cao (-12,2%) dẫn đến nguy
cơ vỡ nợ cao, tạo phản ứng lan truyền sang Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và ảnh hưởng tới
hoạt động kinh tế của cả khu vực. Mới đây, các tổ chức định mức tín nhiệm như S&P,
Moody’s và Fitch Rating đã hạ mức độ tín nhiệm đối với trái phiếu chỉnh phủ Hy Lạp,
Bồ Đào Nha xuống mức thấp.
Diễn biến tỉ giá
Trong 6 tháng đầu năm 2010, đồng USD tăng giá mạnh so với đồng Euro, GDP và
AUD trong khi lại giảm giá đối với hầu hết các đồng tiền chủ chốt Châu Á. Nguyên
nhân chính của việc đồng USD tăng giá mạnh so với đồng Euro, GDP và AUD là do
cuộc khủng hoảng nợ tại Hy Lạp, Bồ Đào Nha gây ra. Trong khi, tình trạng thâm hụt
ngân sách và thâm hụt thương mại tăng cao tại Mỹ trong quý I/2010 đã khiến đồng USD
giảm giá so với các đồng tiền Châu Á – khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh.
Tính đến ngày 31/5/2010, đồng USD tăng 16,4% so với đồng EURO, tăng 11,22% so
với GDP, tăng 5,93% so với AUD và giảm 1,89% so với JYP
Diễn biến lãi suất của Ngân hàng trung ương các nước
Trong 6 tháng đầu năm 2010, NHTW của hầu hết các nước tiếp tục duy trì lãi suất
chủ chốt như cuối năm 2009 (0,25% tại Mỹ và Thuỵ Sỹ, 1% tại Châu Âu và Pháp, 0,5%
tại Anh, 0,1% tại Nhật Bản, 2% tại Hàn Quốc, 5,31% tại Trung Quốc, 1,25% tại Thái
Lan, 0,03% tại Singapore, 6,5% tại Indonesia,...), ngoại trừ NHTW Australia 3 lần tăng
lãi suất từ 3,75% lên 4,5%, NHTW Canada tăng từ 0,25% lên 0,5%, NHTW Na Uy tăng
từ 1,61% lên 1,75%.
1.1.3 Triển vọng và thách thức nền kinh tế thế giới trong những năm tới
Theo dự báo, tăng trưởng GDP toàn cầu sẽ giảm từ 4,4% năm 2010 xuống còn
3,6% năm 2011 khi các gói kích thích tài chính hết hiệu lực. Triển vọng của các thị
trường mới nổi cải thiện chút ít và các nhà đầu tư đang mua vào các tài sản có tính rủi ro
cao hơn. Điều này đang tạo ra những quan ngại về việc định giá đồng tiền có thể tạo ra
bong bóng giá tài sản và dù khả năng suy thoái kép chưa hiện hữu, song vẫn phải mất
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 9
một thời gian khá dài để sự phục hồi toàn cầu tới mức an toàn. Giới phân tích cho rằng
sự phục hồi kinh tế toàn cầu có được là nhờ các gói kích thích tài chính vốn không bền
vững. Giờ đây, hiệu quả của các gói kích thích này bắt đầu mờ nhạt dần và các nền kinh
tế chủ chốt như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và khu vực đồng euro sẽ có mức tăng
trưởng chậm hơn trong năm 2011. Cụ thể :
Tại Mỹ, Thực trạng nền kinh tế Mỹ sẽ tạo ra nhiều thách thức cho tăng trưởng
toàn cầu năm 2011 với GDP của Mỹ dự kiến tăng 2,3% năm 2010, song sẽ giảm còn
1,5% năm 2011. Thị trường lao động và nhà đất của Mỹ được dự báo không mấy cải
thiện và Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) có thể sẽ sớm nới lỏng chính sách tiền
tệ để thúc đẩy kinh tế.
Tại Nhật Bản, những quan ngại về việc đồng yên mạnh đang phủ bóng lên sự
phát triển kinh tế, nhưng khó khăn hơn là cách kích cầu nội địa. Sự tăng trưởng mạnh
mẽ nhờ xuất khẩu của Nhật Bản cuối năm 2009 và đầu năm 2010 giúp tăng trưởng GDP
năm 2010 của Nhật Bản có thể đạt 3%. Tuy nhiên, mức tăng này sẽ giảm xuống còn
1,3% trong 2 năm tới.
Tại EU, Khu vực đồng tiền chung châu Âu được dự báo sẽ tiếp tục vật lộn với
cuộc khủng hoảng nợ công. Tuy nhiên, tình hình khu vực này cũng có phần cải thiện
nhờ xuất khẩu của Đức tăng, với GDP của cả khối dự kiến đạt 1,4% năm 2010, song sẽ
lại giảm xuống còn 0,8% vào năm tới. Tây Âu bị tác động khá nặng của cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu và sẽ phải mất nhiều thời gian mới có thể hồi phục. Tuy nhiên,
xuất khẩu và sản lượng công nghiệp của khu vực này bắt đầu hồi sinh và tốc độ tăng
trưởng kinh tế của khu vực này được dự báo sẽ tăng trong 2 năm tới
Châu Á vẫn đang ở vị trí tiên phong của quá trình phục hồi kinh tế thế giới nhờ
sự cải thiện của hệ thống thương mại toàn cầu cũng như các gói kích cầu nội địa. Tuy
nhiên, tăng trưởng của khu vực này cũng sẽ chậm lại khi nhu cầu tại các nền kinh tế
phát triển giảm. GDP của châu Á dự kiến tăng 7,9% năm 2010 và giảm xuống còn 6,6%
năm 2011. Gói kích cầu của Trung Quốc cùng với việc hệ thống ngân hàng tăng cường
cho vay sẽ giúp Bắc Kinh đạt mức tăng trưởng khoảng 10% trong năm 2010. Tuy nhiên,
GDP của Trung Quốc năm 2011 sẽ giảm với dự kiến tăng 8,6%.
. Mỹ Latinh cũng gây nhiều ngạc nhiên trong năm 2010 nhờ xuất khẩu hàng
hóa tăng, thị trường việc làm hồi phục nhanh và thị trường Mỹ mạnh trở lại. Tuy nhiên,
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 10
triển vọng năm 2011 sẽ không được "sáng sủa" lắm và nhiều khả năng tăng trưởng sẽ
chậm lại với khả năng giảm từ 5,2% năm 2010 xuống còn 3,6% năm 2011.
Trung Đông và châu Phi, tăng trưởng kinh tế tại khu vực Trung Đông và châu
Phi năm 2010 được thúc đẩy nhờ giá dầu mỏ cao, chính sách nội địa được nới lỏng và
nhu cầu nguyên liệu thô từ Trung Quốc. Năm 2011, tăng trưởng tại các khu vực này vẫn
duy trì ở mức 4,5%.
Từ những phân tích ở trên, ta có thể thấy kinh tế thế giới trong những năm tới sẽ
tiếp tục phục hồi tuy vẫn còn nhiều trở ngại. Tuy nhiên nhà đầu tư hoàn toàn có quyền
hi vọng về một tương lại sáng sủa của nền kinh tế, nhất là ở các quốc gia đang phát triển
như Trung Quốc hay Việt Nam bởi những quốc gia này đang có tốc độ phát triển
nhanh hơn hẳn các nước phát triển.
1.2 Phân tích vĩ mô Việt Nam
1.2.1 Phân tích các yếu tố theo mô hình PESTEL
Nhóm chúng tôi đã sử dụng mô hình PESTEL để nghiên cứu, đánh giá sự tác động
cũng như dự báo sự thay đổi của các nhân tố vĩ mô đến các ngành kinh tế. Các yếu tố
này là các yếu tố bên ngoài của của doanh nghiệp và ngành, và ngành phải chịu các tác
động của nó đem lại như một yếu tố khách quan. Các doanh nghiệp dựa trên các tác
động sẽ đưa ra những chính sách, hoạt động kinh doanh phù hợp.
1.1.1.1 Môi trường chính trị - luật pháp (Political)
Sự ổn định về chính trị
Việt Nam là một đất nước ổn định, an toàn về chính trị- xã hội và đây là một trong
những yếu tố quan trọng, góp phần làm cho các nhà đầu tư trên thế giới ngày càng
hướng sự chú ý vào Việt Nam. Sự ổn định chính trị là một trong những yếu tố không thể
thiếu, góp phần giúp Việt Nam có thể kiên trì chính sách phát triển kinh tế. Nền chính trị
ổn định tạo cho Việt Nam có được một nền hoà bình và thịnh vượng. Nếu nhìn sang một
số quốc gia trong khu vực, dễ thấy rằng, trừ Singapore, thì từ năm 1990 trở lại đây, hầu
hết các nước khu vực đều trải qua các cuộc đảo chính hay khủng hoảng chính trị. Trong
khi đó, nền chính trị của Việt Nam luôn ổn định, đây là một đảm bảo cho sự gắn kết để
thực hiện chính sách kinh tế nhất quán. Đây là một trong những điều kiện hết sức thuận
lợi cho các ngành kinh tế phát triển.
Hệ thống luật pháp
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 11
Hệ thống pháp luật ngày càng phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, chặt chẽ hơn về
quản lý, bảo vệ quyền lợi người lao động, hướng tới sự phát triển bền vững. Việt Nam
ngày càng hòa nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Các hiệp ước quốc tế
về kinh tế, thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thuế quan, bảo vệ môi trường mà Việt
Nam đã và đang ký kết, đàm phán..thúc đẩy quá trình rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban
hành các văn bản qui phạm pháp luật cho phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và các điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. (Nguồn: Nghị quyết -Bộ Chính Trị)
Xu hướng phát triển bền vững ngày càng thể hiện rõ hơn trong hệ thống pháp luật và
các hoạt động của chính phủ Việt Nam. Việt Nam đang nhận thức và đeo đuổi mô hình
phát triển hài hòa giữa kinh tế - xã hội - môi trường.(Nguồn: Báo Công Thương). Giai
đoạn 2010 - 2015 sẽ là giai đoạn có rất nhiều sự đổi mới, trong đó, đổi mới mô hình
tăng trưởng, đổi mới cơ cấu kinh tế nhằm đạt được mục tiêu là nước Công nghiệp hóa
vào năm 2020 sẽ là động lực thúc đẩy sự thay đổi các chính sách của chính phủ, hệ
thống pháp luật phù hợp với mục tiêu phát triển. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp được
thực hiện chặt chẽ hơn, các qui định về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp được giám sát và điều chỉnh theo hướng tăng cường cơ chế quản lý của nhà
nước, và bảo vệ quyền lợi của người lao động. Khuyến khích phát triển thị trường lao
động để xây dựng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.
(Nguồn: Nghị quyết -Bộ Chính Trị )
Đẩy mạnh tiến độ đơn giản hóa các thủ tục hành chính và các bộ luật, tạo điều
kiện kinh doanh tốt cho doanh nghiệp. Thủ tục hành chính nhiêu khê trong lĩnh vực xây
dựng và bất động sản là một nỗi ám ảnh lớn của doanh nghiệp mà báo chí đã phản ánh
rất nhiều trong thời gian vừa qua. Mới đây, Bộ Xây Dựng báo cáo kết quả rà soát thủ
tục hành chính trong phạm vi của Bộ. Theo đó, tỉ lệ đơn giản hóa các thủ tục hành chính
lên 95,8%. Tuy nhiên xem xét trên thực tế, hiện nay vẫn còn bộc lộ rất nhiều bất cập về
thủ tục hành chánh. Thí dụ, về thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt và điều chỉnh quy
hoạch chi tiết xây dựng, đến nay nhiều đô thị vẫn chưa xây dựng bản đồ tỷ lệ 1/2.000
nên thiếu cơ sở để quản lý, dẫn đến tình trạng phải thoả thuận lại về quy hoạch, kiến
trúc, làm phát sinh nhiều thủ tục, mất nhiều thời gian, dễ dẫn đến tuỳ tiện, tiêu cực.
Nhìn chung, chính phủ đang rất quyết tâm cải cách thủ tục hành chánh và tạo hành
lang pháp lý tốt, thông thoáng cho doanh nghiệp. Dự án 30 – rà soát cải cách thủ tục
hành chánh của Bộ Xây Dựng được hoàn thành trong năm nay là một bước tiến lớn,
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 12
khẳng định xu thế tích cực. Các doanh nghiệp hoạt động trong ngành xây dựng và bất
động sản sẽ được hưởng lợi từ dự án này. (Nguồn: Dự án 30- Bộ Xây Dựng).
1.2.2 Môi trường kinh tế (Economics)
Hệ thống kinh tế
Kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hỗn hợp với nhiều thành phần kinh tế. Nhà nước
đang xây dựng hệ thống kinh tế hòa nhập với hệ thống toàn cầu. Kinh tế Việt Nam là
một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, nhiều nước và khối kinh tế bao gồm cả
một số nền kinh tế thị trường tiên tiến cũng công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị
trường. Tuy nhiên, cho đến nay Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản vẫn chưa công nhận kinh tế
Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Tổ chức Thương mại Thế giới công nhận Việt Nam
là nền kinh tế đang phát triển ở trình độ thấp và đang chuyển đổi.
Mức ổn định tỉ giá hối đoái
Trong nhiều năm trở lại đây, Ngân hàng nhà nước (NHNN) kiên trì chính sách ổn
định đồng tiền Việt Nam so với đồng đô la Mỹ. Diễn biến tỷ giá trong năm 2009 là
tương đối phức tạp. Mặc dù NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá liên ngân hàng và biên độ
từ + 3% lên + 5% vào tháng 4/2009, trên thị trường tự do giá ngoại tệ nhanh chóng áp
sát mức 18.300 đồng/đô la Mỹ và đến tháng 11 đã lên trên 19.000 đồng/đô la Mỹ.
Biểu đồ 2 : Diễn biến tỷ giá USD/VND 2008-2009
Biểu đồ cho thấy càng về cuối năm tỷ giá càng biến động và mất giá mạnh, thị
trường ngoại hối luôn có biểu hiện căng thẳng, đồng thời USD tín dụng thì thừa, USD
thương mại thì thiếu. Các ngân hàng không có ngoại tệ để bán cho doanh nghiệp và nếu
có bán thì mức tỷ giá cũng cao hơn mức tỷ giá trần do NHNN quy định. Những bất ổn
trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái đã tiếp tục gây ra những khó khăn cho hoạt
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 13
động xuất nhập khẩu. Hơn nữa, đồng tiền mất giá còn ảnh hưởng đến lạm phát trong
nước do giá hàng nhập khẩu tăng mạnh.
Trong bối cảnh lạm phát có xu hướng gia tăng và tính không ổn định trên thị
trường tiền tệ, đòi hỏi cần phải có sự lựa chọn linh hoạt cơ chế điều hành tỷ giá để đạt
được mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ. Chế độ tỷ giá thả nổi
không những giúp nền kinh tế loại trừ tác động của những cơn sốc từ thị trường hàng
hóa mà còn giúp đạt mục tiêu cân bằng ngoại một cách dễ dàng do tỷ giá tự biến động
để duy trì trạng thái cân bằng cung cầu ngoại tệ. Tuy vậy, các công cụ điều tiết thị
trường hối đoái hiện vẫn còn sơ sài, chưa phát huy đúng mức khả năng hạn chế rủi ro
hối đoái.
Thị trường tài chính
Thị trường tài chính của bất kì quốc gia nào cũng đều gồm thị trường vốn ngắn
hạn (thị trường tiền tệ) và thị trường vốn trung dài hạn (thị trường chứng khoán).
Về thị trường vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị trường tiền tệ. Nhìn chung thị
trường này chưa phát triển và Ngân hàng Nhà nước NHTW, chưa thực sự đóng vai trò
can thiệp có hiệu quả vào thị trường này. Các loại lãi suất của NHTW: lãi suất cơ bản,
lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất đấu
thầu tín phiếu kho bạc nhà nước có tác động rõ nét đến thị trường. Các công cụ điều
hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ dự trữ bắt buộc... thiếu linh hoạt. Các
NHTM và Tổ chức tín dụng cạnh tranh với nhau tăng lãi suất huy động vốn một cách
một chiều, tạo nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho chính các NHTM.
Về thị trường chứng khoán. Có thể khẳng định rằng, trong tiến trình phát triển Thị
trường chứng khoán Việt Nam, tiềm năng của việc tham gia của các NHTM là rất lớn.
Việc các NHTM cổ phần niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, các
NHTM NN cổ phần hóa thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu trên Trung tâm, cũng như
tới đây sẽ có thêm một số Công ty kinh doanh chứng khoán của các NHTM đi vào hoạt
động... sẽ tạo đà thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển mạnh hơn nữa.
Song cho đến thời điểm này, mới chỉ có gần 100 công ty cổ phần niêm yết cổ
phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh là quá ít, tạo ra sự
nghèo nàn hàng hóa trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu của các NHTM chưa được
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 14
niêm yết và giao dịch cũng phần nào hạn chế tính sôi động của thị trường. Tính thanh
khoản của thị trường chưa cao, thông tin chưa thật sự minh bạch.
Những phân tích trên đây cho thấy thị trường tài chính nước ta chưa thực sự cung
cấp những yếu tố thuận lợi cho sự phát triển của các ngành kinh tế trong nước. Tuy
nhiên, trong thời gian tới với những chính sách đúng đắn trong việc ổn định kinh tế vĩ
mô của nhà nước, hi vọng thị trường tài chính sẽ có bước phát triển vượt bậc và bền
vững.
Cơ sở hạ tầng
Hiện nay, cơ sở hạ tầng của nền kinh tế nước ta còn rất nghèo nàn trong đó chi phí
thuê cơ sở vật chất cao còn ở mức cao, và đang được cải thiện.
Theo tính toán Việt Nam sẽ cần khoảng gần 140 tỷ USD để đầu tư cho lĩnh vực cơ
sở hạ tầng (viễn thông, bến cảng, sân bay, đường bộ, đường sắt, hàng không) trong 5-10
năm tới. Chính phủ sẽ huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cũng như
đóng góp từ khu vực kinh tế tư nhân để đáp ứng nhu cầu này.
Lực lượng lao động
Lực lượng lao động Việt Nam được đánh giá là mạnh về kỹ thuật tuy nhiên lại yếu
về trình độ quản lý.
Trong những năm đổi mới vừa qua, nền kinh tế nước ta luôn duy trì tăng trưởng ở
mức cao và ổn định (7,5%/năm), một trong những nhân tố quan trọng đóng góp cho
tăng trưởng là yếu tố lao động. Theo đánh giá của tổ chức quốc tế, yếu tố lao động Việt
Nam tham gia vào tăng trưởng khoảng 20%, yếu tố vốn 57,5%, yếu tố các nhân tố tổng
hợp 22,5%. Tuy nhiên, trong yếu tố lao động, vấn đề quyết định nhất là chất lượng lao
động thông qua giáo dục đào tạo. Trình độ văn hoá (học vấn) của lao động Việt Nam
được thế giới đánh giá vào loại khá; về cơ bản Việt Nam đã phổ cập tiểu học, đang triển
khai phổ cẩp Trung học cơ sở, đến hết 2004, cả nước có 25 tỉnh, thành phố đạt chuẩn
phổ cập giáo dục THCS. Đến năm 2005, 32,36% lực lượng lao động đã tốt nghiệp
THCS và 21,21% tốt nghiệp THPT. Đào tạo nghề nghiệp cho người lao động đang tăng
nhanh. Trong 5 năm qua, số học sinh tuyển mới vào các trường Cao đẳng, Đại học, sau
Đại học, công nhân kỹ thuật tăng từ 1,321 triệu người (năm 2001) lên 1,867 triệu người
(năm 2005), tăng 41,36%, bình quân mỗi năm tăng 10,34%. Đặc biệt, dạy nghề đã có
bước phát triển quan trọng, từng bước đáp ứng cho yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 15
và cơ cấu lao động theo hướng phục vụ phát triển công nghiệp hiện đại và hội nhập; quy
mô tuyển sinh tăng từ 88,3 ngàn người (năm 2001) lên 1.184 triệu người (năm 2005).
Trong 5 năm 2001- 2005, tuyển mới đào tạo nghề cho trên 5,3 triệu người, bình quân
mỗi năm tăng gần 9%, riêng dạy nghề dài hạn tăng 11%/năm. Kết quả là tỷ lệ lao động
qua đào tạo đến năm 2005 đạt 24,8% trong tổng lực lượng lao động, trong đó qua đào
tạo nghề đạt 15,2%. Tuy nhiên, nhìn tổng thể chất lượng lao động của Việt Nam còn
thấp so với yêu cầu của nền kinh tế và trong so sánh quốc tế, thể hiện trên các mặt sau:
Một là, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp, trong khi các nước công nghiệp mới
(NIC, NIE) có tỷ lệ rất cao, thường gấp 2,5 - 3 lần Việt Nam (60 - 70%). Như vậy, tỷ lệ
lao động qua đào tạo ở Việt Nam ( 24,8%) chưa đạt chỉ tiêu của một nước công nghiệp
ở trình độ thấp.
Hai là, chất lượng lao động thấp là hệ quả của chất lượng giáo dục đào tạo chưa
cao, đào tạo chưa gắn chặt với nhu cầu của sản xuất, của thị trường lao động. Theo đánh
giá của quốc tế (Báo cáo giám sát giáo dục toàn cầu 2005 của UNESCO ), chỉ số phát
triển giáo dục, đào tạo của Việt Nam đạt 0,914 điểm, xếp thứ 64/127 nước; chất lượng
phát triển giáo dục đào tạo đạt 89 điểm, thấp hơn Trung Quốc (98 điểm), Thái Lan (94
điểm), Hàn Quốc (99,4 điểm), chỉ cao hơn Philippines (79,3 điểm), Indonexia (89,2
điểm).
Ba là, khả năng cạnh tranh của lao động Việt Nam thấp đã hạn chế khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế Việt Nam . Theo tiêu chí đánh giá của tổ chức Diễn đàn Kinh tế
Thế giới (WEF), năm 2005 Việt Nam xếp thứ 81 trên 117 nước xếp hạng về tính cạnh
tranh của nền kinh tế , tụt 4 bậc so với năm 2004 (xếp thứ 77); chỉ số tổng hợp đánh giá
chất lượng lao động Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm trên thang 10 .
Bên cạnh đó, Việt Nam có chi phí nhân công thấp. Theo một khảo sát của Ngân
hàng Phát triển châu Á (ADB) đối với 23 nước trong khu vực không bao gồm Nhật Bản.
Việt Nam được xếp thứ hai trong những nước có chi phí sinh hoạt thấp nhất châu Á -
Thái Bình Dương, chỉ thua Lào. Đây là một lợi thế để các doanh nghiệp trong nước có
thể khai thác.
Tăng trưởng kinh tế
Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định nhiều năm liền. Ta có thể
thấy rõ điều này thông qua biểu đồ sau:
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 16
Biểu đồ 3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam qua các năm
Nguồn : Tổng cục thống kê
Tuy chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế nhưng năm 2010, tốc độ
tăng trưởng vẫn được ADB dự báo là 6,7%. Điều này càng khẳng định một điều rằng
kinh tế Việt Nam đang trên đà tăng trưởng ổn định, và điều này sẽ giúp nhiều doanh
nghiệp có thêm tự tin để triển khai các dự án đầu tư mới và mở rộng sản xuất trong năm
nay và các năm sắp tới.
Lạm phát
Nếu như năm 2008 là năm chứng kiến một tốc độ lạm phát cao kỷ lục trong vòng
hơn một thập kỷ qua thì năm 2009 lại chứng kiến một mức lạm phát ở mức dưới hai con
số. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước qua 10 tháng đầu năm chỉ tăng 4,49% so với
tháng 12/2008. Đây là mức tăng chỉ số giá tiêu dùng khá thấp so với những năm gần đây
và là mức tăng hợp lý, không gây ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất của người
dân. Nhiều loại hàng hoá có ảnh hưởng mạnh trong rổ hàng hoá để tính CPI tăng thấp.
Chỉ số CPI lương thực tăng nhẹ trong 6 tháng đầu năm (0,59%) nhưng lại có xu hướng
giảm trong những tháng cuối năm. Như vậy, nếu như lương thực, thực phẩm luôn là đầu
tàu kéo lạm phát đi lên trong những năm 2007 và 2008 thì ở năm 2009 nhân tố này
không còn đóng vai trò chính nữa.
Biểu đồ 4 : Diễn biến lạm phát hàng tháng năm 2009
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 17
Duy trì tốc độ tăng lạm phát và giá cả của năm 2009 ở mức một con số là một
điểm sáng nữa trên bức tranh kinh tế Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thế giới chưa
thoát khỏi suy thoái kinh tế.
Thành tựu kiềm chế lạm phát trong năm 2009 có tác động tích cực đến ổn định
kinh tế - xã hội cũng như tạo thuận lợi cho việc triển khai các chính sách kích thích kinh
tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng và đảm bảo an sinh xã hội. Mặc dù xu hướng tăng của giá
tiêu dùng chưa có biểu hiện rõ rệt, nhưng một số yếu tố chủ yếu có thể sẽ tác động làm
tăng nguy cơ tái lạm phát cao trở lại. Đó là tăng trưởng tín dụng đang ở mức cao do
thực hiện các chính sách tài chính, tiền tệ nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế; giá của các
mặt hàng nước ta nhập khẩu với khối lượng lớn trên thị trường thế giới bắt đầu có xu
hướng tăng cao do sự phục hồi của kinh tế toàn cầu, đặc biệt giá xăng dầu. Mặt khác,
những nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát cao ở Việt Nam năm 2008 vẫn còn. Đó là sự
thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt động của các doanh nghiệp nhà
nước (DNNN) và tập đoàn lớn. Do vậy, kích cầu đầu tư thông qua nới lỏng tín dụng cho
các DNNN và tập đoàn mà thiếu sự thẩm định và giám sát thận trọng chắc chắn sẽ kích
hoạt cho lạm phát trở lại.
Mức lãi suất
Lãi suất cho vay giảm, nhưng vẫn ở mức độ cao so với khu vực, và vẫn mắc so với
ROE. Mức lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp hiện nay không thuộc diện ưu tiên
là rất cao, từ 15~16%/năm. Và về cơ bản, các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tiếp cận
nguồn vốn của ngân hàng.
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 18
Để duy trì mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo vệ thành tựu đã đạt được trong kế
hoạch 5 năm 2005 ~2010 là Việt Nam vừa lên bậc các nước có thu nhập trung bình,
Chính phủ Việt Nam sẽ phải tiếp tục đẩy mạnh dòng tiền cung cấp vốn cho thị trường,
nhanh chóng tháo gỡ các rào cản thủ tục, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể tiếp
cận được các nguồn vốn, thực hiện mục tiêu lãi suất “vào 10 ra 12” của Thủ Tướng
trong giai đoạn tới.
Cho dù trong thời gian tới, chính phủ sẽ cố gắng thực hiện kéo giảm lãi suất cho
vay xuống, nhưng với mục tiêu này, lãi suất cho vay của Việt Nam vẫn còn rất cao so
với khu vực (Thái Lan khoảng 8,5%, Malaysia khoảng 6,3%, Trung quốc khoảng 8%),
và vẫn còn rất đắt đỏ so với chỉ số ROE trung bình ngành xây dựng (17%).
Hoạt động thương mại
Năm 2009, tình hình xuất nhập khẩu khẩu của Việt Nam gặp nhiều khó khăn do
khủng hoảng kinh tế toàn cầu dẫn đến sự đình trệ sản xuất và hạn chế tiêu dùng ở những
nước vốn là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ, Nhật Bản, EU...
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2009 ước đạt khoảng 56,5 tỷ USD, giảm 9,9% so
với năm 2008. Tình hình xuất khẩu như vậy không đến nỗi quá xấu nếu chúng ta nhìn
vào nguyên nhân của nó. Kim ngạch xuất khẩu giảm là do giá cả thế giới giảm (riêng
yếu tố giảm giá trong 9 tháng đầu năm làm kim ngạch xuất khẩu giảm trên 6 tỷ USD) -
một yếu tố ngoài tầm kiểm soát của chúng ta; trong khi đó khối lượng hàng hoá xuất
khẩu có sự tăng đáng kể giúp chúng ta giảm thiểu được đáng kể đến tốc độ tăng kim
ngạch xuất khẩu và xa hơn là giảm thiểu được tác động tiêu cực đến việc làm và thu
nhập của người lao động. Vấn đề tồn tại lớn nhất của xuất khẩu bộc lộ trong nhiều năm
qua là việc vẫn phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản.
Các mặt hàng công nghiệp chế biến vẫn mang tính chất gia công. Như vậy, xuất khẩu
chủ yếu vẫn dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa xây dựng được các ngành
công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất
khẩu. Trong thời gian tới, xuất khẩu của Việt Nam sẽ chịu thách thức lớn hơn, nhất là
trong bối cảnh tác động của khủng hoảng những rào cản thương mại mới ngày càng
nhiều với các hành vi bảo hộ thương mại tinh vi tại các thị trường lớn sẽ dành cho các
mặt hàng xuất khẩu, nhất là các mặt hàng chủ lực của Việt Nam như khoáng sản, nông,
lâm, hải sản.
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 19
Bảng 2: Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ 2006-2009
Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2009 ước đạt 67,5 tỷ USD, giảm 16,4% so với
năm 2008. Điều này phản ánh những khó khăn của sản xuất trong nước do suy giảm
kinh tế. Tuy nhiên, trong các tháng cuối năm, nhu cầu nhập khẩu có thể tăng lên khi các
biện pháp hỗ trợ sản xuất phát huy tác dụng. Mặc dù cả kim ngạch xuất khẩu và kim
ngạch nhập khẩu đều giảm sút, nhưng do tốc độ giảm kim ngạch xuất khẩu chậm hơn
tốc độ giảm kim ngạch nhập khẩu, nên nhập siêu năm 2009 giảm xuống chỉ còn khoảng
11 tỷ USD, chiếm 16,5% tổng kim ngạch xuất khẩu. Như vậy, so với những năm gần
đây cán cân thương mại đã có sự cải thiện đáng kể, thể hiện quyết tâm của chính phủ
trong việc kiềm chế nhập khẩu những mặt hàng không cần thiết. Song mức nhập siêu
vẫn còn cao thể hiện việc phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ và chuyển dịch cơ
cấu hàng xuất khẩu vẫn còn chậm.
1.1.1.2 Môi trường văn hoá xã hội (Sociocultrural)
Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chính sách giảm nghèo,
trong đó có chính sách hỗ trợ cho các hộ nghèo xây nhà ở, vay vốn sản xuất, kinh
doanh, cho vay học sinh, sinh viên, mua thẻ bảo hiểm y tế. Đồng thời, chính phủ cũng
triển khai công tác hỗ trợ các hộ nghèo, hộ bị ảnh hưởng thiên tai, bị thiệt hại về gia súc,
gia cầm, vật nuôi để ổn định sản xuất và đời sống. Ngoài ra, chính phủ cũng đã tích cực
triển khai thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ gắn với chương trình
xây dựng nông thôn mới; tổ chức, động viên các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân
hỗ trợ các huyện nghèo thực hiện chương trình này; ứng trước vốn cho các huyện; triển
khai các chính sách mới, trong đó có chính sách cấp gạo cho hộ nghèo ở biên giới, thực
hiện mức khoán mới về bảo vệ rừng, hỗ trợ học nghề, xuất khẩu lao động và tăng cường
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 20
cán bộ cho các huyện nghèo. Hoạt động chăm sóc người có công và các đối tượng chính
sách tiếp tục được duy trì và mở rộng.
Năm 2009 tổng số chi cho an sinh xã hội ước khoảng 22.470 tỷ đồng, tăng 62% so
với năm 2008, trong đó chi điều chỉnh tiền lương, trợ cấp, phụ cấp khoảng 36.700 tỷ
đồng; trợ cấp cứu đói giáp hạt và khắc phục thiên tai 41.580 tấn gạo (riêng số gạo cứu
trợ đợt đầu khắc phục hậu quả bão số 9 là 10.300 tấn). Tổng dư nợ của 18 chương trình
cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách do Ngân hàng Chính sách xã hội thực
hiện ước đến cuối năm đạt 76 nghìn tỷ đồng, tăng 45,3% so với năm 2008. Các doanh
nghiệp đã hỗ trợ 62 huyện nghèo trên 1.600 tỷ đồng. Kết quả các nỗ lực chung đó đã
góp phần ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa, các đối tượng chính sách, góp phần xóa đói, giảm nghèo, giải quyết
việc làm và giữ vững ổn định chính trị, xã hội.đặc biệt là đối với người nghèo. Tỷ lệ hộ
nghèo đến cuối năm 2009 giảm còn khoảng 11%. Tuy nhiên, tình hình suy giảm kinh tế
đã ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng giải quyết việc làm cho người lao động. Dự kiến
đến cuối năm 2009, có khoảng 1,51 triệu lượt lao động được giải quyết việc làm, đạt
88,5% kế hoạch năm và bằng 93,2% so với thực hiện năm 2008. Số lao động đi làm việc
ở nước ngoài năm 2009 ước đạt 7 vạn người, giảm đáng kể so với con số 8,5 vạn người
của năm 2008
1.1.1.3 Môi trường công nghệ (Technological)
Đầu tư phát triển khoa học và công nghệ sẽ là chiến lược trọng tâm cho cả quốc
gia và doanh nghiệp trong giai đoạn 2010- 2015. Công nghệ ngành xây dựng không có
đột biến trong giai đoạn này.
Trong các yếu tố cần thiết để phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia như vốn,
nguồn nhân lực, hệ thống quản lý …thì khoa học và công nghệ được xem như là yếu tố
quan trọng nhất, tạo giá trị gia tăng cao cho các sản phẩm lao động, tạo động lực cho sự
phát triển bền vững và lâu dài. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (KH&CN) hiện
đại với những bước tiến khổng lồ: “Một ngày bằng hai mươi năm” đang tác động toàn
diện đến mọi nền kinh tế, mọi chế độ xã hội trên phạm vi toàn cầu. Cuộc đua tranh giữa
các quốc gia trên mặt trận kinh tế đang diễn ra rất quyết liệt. Một xã hội thông tin, một
nền kinh tế tri thức đã bắt đầu hình thành. Đó là một nền kinh tế mà sản xuất, dịch vụ
dựa chủ yếu vào tri thức và công nghệ, khi mà ngành công nghệ thông tin chiếm tới 2/3
của GDP.
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 21
Thế giới đã tổng kết và đi đến kết luận: “Đầu tư cho khoa học là đầu tư thông
minh”. Các nước phát triển đầu tư cho KH&CN vào khoảng từ 2 - 2,5% (cao nhất là 4-
5%) GDP. Nghị quyết của Bộ chính trị về chính sách KH&CN đã chỉ ra rất đúng đắn
rằng: “...trong điều kiện kinh tế càng khó khăn, trình độ sản xuất càng thấp kém, thì
càng phải chú trọng đầu tư cho các hoạt động khoa học kỹ thuật cho công tác đào tạo
cán bộ khoa học và kỹ thuật, công nhân kỹ thuật” và “cần nâng cao tỷ lệ đầu tư tài chính
cho hoạt động nghiên cứu và triển khai...”. Gần đây, Nhà nước đã quan tâm tăng mức
đầu tư cho khoa học, nhưng vẫn còn xa so với yêu cầu phát triển để theo kịp các nước
trong khu vực. Chi phí bình quân cho một cán bộ KH&CN/năm: Việt Nam < 1000 USD,
Nhật 194.000 USD, Thái Lan 18.000 USD. (Nguồn: Vai trò của Khoa học -công nghệ
trong phát triển kinh tế- Tạp chí - Bộ KH&CN)
Công nghệ trong ngành xây dựng ở Việt Nam sẽ không có nhiều thay đổi đột biến.
Hầu hết các công nghệ xây dựng mới trên thế giới đều đã có mặt tại Việt Nam. Ngành
sản xuất vật liệu xây dựng sẽ chịu sự quản lý chặt chẽ hơn do chính sách phát triển bền
vững, bảo vệ môi trường của Việt Nam. Nhưng công nghệ trong ngành này cũng không
có những phát triển đột biến.
1.2.3 Thị trường chứng khoán Việt Nam
Mặc dù thị trường chứng khoán dường như đã trải qua hầu hết các khó khăn trong
năm 2008 và đã đạt đến điểm đáy quanh mốc 300 điểm, các khó khăn, thử thách về vĩ
mô vẫn là những yếu tố ảnh hưởng đến sự bền vững của thị trường, ít nhất là đến giữa
năm 2009. Năm 2009, kinh tế các nước và Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn. Mặc dù
nhiều Quốc gia vẫn chưa ra khủng hoảng, nhưng ở Việt Nam đà suy giảm đã được ngăn
chặn và bắt đầu có sự phát triển. Có 18/25 chỉ tiêu đặt ra cho năm 2009 đạt và vượt.
GDP của 11 tháng trên 5%, tăng trưởng tín dụng 36%, lạm phát vẫn trong giới hạn kiểm
soát, bội chi ngân sách khoảng 6,9%, an sinh xã hội được đảm bảo. Thị trường chứng
khoán Việt Nam mặc dù trồi sụt thất thường, nhưng vẫn có tốc độ tăng trưởng rất ấn
tượng. Có thể điểm qua diễn biến của TTCK 11 tháng của năm thông qua bảng số liệu
sau:
Bảng 3 : Các chỉ tiêu của Thị trường chứng khoán hai năm 2008 và 2009
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 22
Các chỉ tiêu thị trường 31/12/2008 30/11/2009
1. Giá trị vốn hóa thị trường (tỷ đồng) 225.934 669.000
2. Mức độ vốn hóa/GDP năm 2008(%) 18% 55%
3. Số lượng cổ phiếu niêm yết 338 385
4. Số lượng công ty chứng khoán 102 105
5. Số lượng công ty quản lý quỹ 43 47
6. Số lượng công ty đại chúng đã đăng ký 1.090 1.016
7 Số tài khoản mở tại CTCK 550.000 730.000
8. Hệ số P/E 9-10 15.8
Chỉ số Vn-Index từ 235,5 điểm (tháng 2/2009) lên 570 điểm vào tháng 8, rồi bật lên trên
633,21 điểm vào phiên 23/10 và nhanh chóng đảo chiều xuống 537,59 điểm vào phiên
ngày 11/11, và dưới ngưỡng 500 điểm vào phiên ngày 2/12. Số tài khoản lưu ký của nhà
đầu tư là 730.000, trong đó tài khoản của nhà đầu tư trong nước là 670.000, còn lại là tài
khoản của nhà đầu tư nước ngoài; giá trị giao dịch bình quân thị trường đạt 2.146 tỷ
đồng/ phiên, cá biệt có phiên đạt 5000 tỷ đồng, giá trị vốn hóa thị trường là 669.000 tỷ
đồng, tương đương với 55% GDP năm 2008, so với thời điểm đầu năm tăng gần 3 lần.
Các dòng vốn vào - ra thị trường có nhiều biến động. Do sự phục hồi kinh tế của các
Quốc gia những tháng đầu năm chậm, vì thế các nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK chủ
yếu bán ròng tập trung vào trái phiếu Chính phủ và các loại cổ phiếu có tính thanh
khoản cao. Khi nền kinh tế Việt Nam có tín hiệu khởi sắc, dòng vốn vào lại tăng lên
(tháng 5: 54 triệu USD, tháng 7: 56 triệu USD). Xét về tốc độ tăng trưởng, TTCK Việt
Nam được coi là có tốc độ tăng trưởng rất cao, tới 60 – 70%, nhưng xem xét một cách
toàn diện thì TTCK rất bất ổn. Thị trường cổ phiếu lên xuống thất thường, thị trường
trái phiếu (TTTP) Chính phủ vẫn chưa phát triển, năm 2009 khối lượng trái phiếu Chính
phủ đã được phát hành là 20.000 tỷ đồng, đạt 14% kế hoạch của năm
(4)
. Sự biến động
của TTCK cũng như thị trường vàng, thị trường ngoại tệ ở Việt Nam chẳng theo một
quy luật nào đã cho thấy những bất ổn của thị trường phát sinh từ chính những yếu tố
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 23
nội tại của thị trường như thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận của TTCK (thị
trường sơ cấp, sở giao dịch, thị trường UpCoM, TTTP chuyên biệt), giữa TTCK với thị
trường ngoại hối, thị trường tín dụng và thị trường vàng. Thị trường tài chính bị phân
khúc, chưa có sự minh bạch trong quản trị điều hành và trách nhiệm giải trình của các
cơ quan quản lý, giám sát ở tầm vĩ mô, cũng như các thông tin thị trường chưa được cập
nhật một cách chuẩn xác đến các nhà đầu tư, trong khi yếu tố tâm lý luôn bị chi phối
nặng nề bởi các tin đồn; trên thị trường vẫn có khoảng trống pháp lý cho những nhà
kinh doanh, đầu cơ có điều kiện thôn tính, lũng đoạn thị trường.
Vì vậy, các tiêu chí quan trọng trong quyết định đầu tư cho thời gian tới sẽ là bảo
toàn vốn và giảm thiểu tối đa sự biến động của danh mục đầu tư. Quan điểm đầu tư của
nhóm chúng tôi như sau :
Thứ nhất, dựa trên phân bổ giữa các nhóm tài sản khác nhau, giảm đầu tư vào cổ
phiếu, nâng cao tỷ trọng đối với tiền mặt và trái phiếu (đối với nhà đầu tư thận trọng).
Tuy nhiên, đối với nhà đầu tư chấp nhận mức độ rủi ro cao hơn và có chiến lược đầu tư
dài hạn, cổ phiếu nên chiếm tỷ trọng lớn hơn trong danh mục do khả năng sinh lời dài
hạn của chúng.
Thứ hai, dựa trên phân bổ theo loại cổ phiếu, nên tập trung chú trọng hơn vào các
cổ phiếu vốn hóa lớn và tăng trưởng do đây là các cổ phiếu đã bị giảm giá mạnh trong
giai đoạn thị trường sụt giảm và nhiều khả năng sẽ tăng nhanh hơn các nhóm cổ phiếu
khác khi thị trường phục hồi.
Thứ ba, dựa theo ngành, đầu tư vào lĩnh vực mang tính chất phòng vệ và ổn định
như dược, thực phẩm, công nghệ viễn thông, điện.
Ngoài ra, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn non trẻ và chưa hiệu quả nên
vẫn còn nhiều hiện tượng các cổ phiếu bị định giá quá thấp hay quá cao so với tiềm
năng sinh lợi của chúng. Chiến lược tìm kiếm các cổ phiếu bị định giá thấp để đầu tư,
không hạn chế ngành nghề hay chủng loại, vẫn là một chiến lược đầu tư mang tính hiệu
quả cao.
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 24
Chương 2: PHÂN TÍCH NGÀNH
2.1 Nhận xét chung
Với kết quả phân tích vĩ mô cho thấy, trong những năm tới các ngành có triển
vọng tốt là các ngành xuất khẩu ( thủy sản, cao su tự nhiên, khai khoáng, than, đồ gỗ,
may mặc…). Nguyên nhân là do sự phục hồi của nền kinh tế thế giới, nhu cầu tiêu thụ
ngày càng tăng, các thị trường xuất khẩu lớn như: Nga, Mỹ, EU đang mở rộng cửa trở
lại, đây sẽ là ưu thế cho các doanh nghiệp xuất khẩu (thủy sản, đồ gỗ...) trong thời gian
tới. Ngoài ra việc giảm giá VNĐ sẽ đem lại doanh thu, lợi nhuận gia tăng cho các công
ty xuất khẩu. Bên cạnh đó, các công ty thủy sản, cao su tự nhiên…còn nhận được hỗ trợ
từ gói kích cầu thứ hai dành cho khu vực nông thôn, bao gồm cả hỗ trợ vay trung dài
hạn lãi suất 2/năm.
Trong báo cáo về triển vọng và cơ hội của thị trường chứng khoán Việt Nam 6
tháng cuối năm, bộ phân phân tích của Công ty chứng khoán Bảo Việt (BVSC) nhận
định, cổ phiếu bất động sản, tài chính, vật liệu cơ bản và hàng tiêu dùng đều có triển
vọng tốt và phục hồi nhanh khi nền kinh tế có chuyển biến tích cực. Nhưng trong nhóm
này, cổ phiếu bất động sản và vật liệu cơ bản như xi măng, sắt thép và bê tông đang
được đánh giá cao hơn.
Triển vọng lợi nhuận ngành ngân hàng, chứng khoán sẽ không được tích cực và
bất ngờ như thời gian vừa qua. Bởi thu nhập từ hoàn nhập dự phòng các khoản đầu tư
tài chính sẽ giảm do chứng khoán đang vào giai đoạn ổn định. Bên canh đó, Ngân hàng
Nhà nước khống chế tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
chỉ tăng khoảng 25% trong 2010, thấp hơn nhiều so với mức 37,73% năm 2009. Độ trễ
của chính sách hạn chế tăng trưởng tín dụng này sẽ là nguyên nhân khiến lợi nhuận
ngành ngân hàng không thể tăng cao trong thời gian tới. Cơ hội đầu tư từ việc lướt sóng
ở nhóm này sẽ ít, trừ khi thị trường có những biến động đột biến, tích cực.
Bất động sản vẫn hứa hẹn là ngành hấp dẫn, do doanh nghiệp điều tiết lợi nhuận
giữa các quý sao cho thuận lợi. Riêng những ngành có tính ổn định cao như dược,
điện... sẽ được chú ý hơn, khi thị trường khó có khả năng tăng trưởng mạnh.
Năm 2010, chính phủ ưu tiên cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng mạnh nên ngành
xây dựng cũng được xem là ngành có triển vọng tốt.
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2
Bài tập lớn: Quản trị danh mục đầu tư 25
Theo dự báo, cổ phiếu của các nhóm ngành như: vật liệu xây dựng – xây dựng cơ
bản; thực phẩm – đồ uống; sách – thiết bị giáo dục; và bất động sản là có khả năng giúp
NĐT sinh lời trong những tháng cuối năm.
Đối với cổ phiếu ngành vật liệu xây dựng và xây dựng cơ bản, theo phân tích, lĩnh
vực xây dựng là một trong những lĩnh vực đóng góp chủ đạo vào tốc độ tăng trưởng
GDP và thường được đầu tư mạnh vào 2 quý cuối năm. Đặc biệt, các công trình xây
dựng cơ sở hạ tầng sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới nhằm kiện
toàn hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng, góp phần vào công cuộc phát triển đất nước.
Nhờ vậy, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nguyên vật liệu xây dựng và xây
dựng sẽ có điều kiện để tăng trưởng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Trong bối cảnh nền kinh tế phục hồi hiện nay, chiến lược đầu tư trung và dài hạn
là thích hợp cho các nhà đầu tư. Để có được điều này đòi hỏi có tính ổn định của mỗi
loại cổ phiếu. Với quan điểm đầu tư của mình, chúng tôi quyết định chọn hai ngành vật
liệu và xây dựng và ngành Mía đường – những ngành có mức độ ổn định và đà tăng
trưởng tốt trong thời gian gần đây bất chấp những tác động của cuộc khủng hoảng kinh
tế thế giới.
2.2 Ngành mía đường
2.2.1 Giới thiệu chung và lý do lựa chọn
Sau khi Chương trình mía đường ra đời vào năm 1995 với mục tiêu sản xuất 1
triệu tấn đường thay thế nhập khẩu. , ngành mía đường của Việt Nam tuy còn non trẻ
nhưng đã đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, và quan trọng hơn là
góp phần lớn về mặt xã hội, giải quyết việc làm ổn định cho hàng triệu người nông dân
trồng mía và hàng vạn công dân ổn định làm viêc trong các nhà máy, có đời sống vật
chất tinh thần ngày một cải thiện, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế tạo nên các vùng
sản xuất hàng hoá lớn, bộ mặt nông thôn các vùng trồng mía được đổi mới…
Trong quá trình phát triển công nghiệp mía đường, nhiều nhà máy đã gắn kết
nguyên tắc tổ chức hợp tác ổn định bền vững với sản xuất nông nghiệp nông thôn và
nông dân. Ví dụ như nhà máy đường Lam Sơn – Thanh Hoá đã liên kết hợp tác với gần
35,000 hộ nông dân trồng mía trong vùng, tổ chức thành công “hiệp hội mía đường Lam
Sơn”, đại diện cho người nông dân, người trồng mía và nhà máy để điều phối bảo vệ lợi
ích của người nông dân, gắn bó trách nhiệm giữa nhà máy sản xuất công nghiệp với
GVHD: Ths.Đặng Hữu Mẫn NSVTH: Nhóm – 34K07.2