Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Nghiên cứu đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công nghiệp phục vụ cho các doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.08 KB, 108 trang )


1
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH 5
MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài 6
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 8
3. Mục tiêu nghiên cứu 9
4. Phạm vi nghiên cứu 9
5. Mẫu khảo sát 10
6. Câu hỏi nghiên cứu 10
7. Giả thuyết nghiên cứu 10
8. Phương pháp nghiên cứu 11
9. Kết cấu của Luận văn 11
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ THÔNG TIN
SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP PHỤC VỤ CHO CÁC DOANH NGHIỆP 13
1.1. Một số khái niệm cơ bản 13
1.1.1. Thông tin 13
1.1.2. Sản phẩm và dịch vụ thông tin 14
1.1.2.1. Sản phẩm thông tin 15
1.1.2.2. Dịch vụ thông tin 16
1.1.2.3. Tính khác biệt về sản phẩm thông tin và dịch vụ thông tin 17
1.1.2.4. Đặc tính giống nhau giữa sản phẩm và dịch vụ thông tin 17
1.1.2.5. Mối liên hệ giữa sản phẩm thông tin và dịch vụ thông tin 18
1.2. Thông tin sở hữu công nghiệp 18
1.2.1. Khái niệm về sở hữu công nghiệp 18
1.2.1.1. Khái niệm về sáng chế 19
1.2.1.2. Khái niệm về nhãn hiệu 20
1.2.1.3. Khái niệm về kiểu dáng công nghiệp 22
1.2.2. Khái niệm về thông tin sở hữu công nghiệp 24
1.2.2.1. Thông tin sáng chế 24


1.2.2.2. Thông tin nhãn hiệu 27
1.2.2.3. Thông tin kiểu dáng công nghiệp 28
1.3. Doanh nghiệp và vai trò của sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công
nghiệp đối với các doanh nghiệp 29
1.3.1. Khái niệm về doanh nghiệp và một số đặc điểm của doanh nghiệp 29
1.3.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp 29

2
1.3.1.2. Một số đặc điểm của doanh nghiệp 32
1.3.2. Vai trò của sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công nghiệp đối với các
doanh nghiệp 33
1.3.2.1. Vai trò của thông tin sáng chế đối với các doanh nghiệp 34
1.3.2.2. Vai trò của thông tin nhãn hiệu đối với doanh nghiệp 37
1.3.2.3. Vai trò của thông tin kiểu dáng công nghiệp đối với doanh nghiệp
39
* Kết luận Chương 1 41
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ THÔNG TIN SỞ
HỮU CÔNG NGHIỆP PHỤC VỤ CHO CÁC DOANH NGHIỆP 43
2.1. Khái quát về hệ thống cung cấp thông tin sở hữu công nghiệp 43
2.2. Tiêu chí khảo sát thực trạng về sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công
nghiệp phục vụ cho các doanh nghiệp 45
2.3. Kết quả khảo sát về nhu cầu sử dụng thông tin sở hữu công nghiệp của các
doanh nghiệp 47
2.3.1. Kết quả khảo sát về mục đích sử dụng thông tin sở hữu công nghiệp của
các doanh nghiệp 47
2.3.2. Kết quả khảo sát về thực tiễn sử dụng các sản phẩm và dịch vụ thông tin sở
hữu công nghiệp của các doanh nghiệp 48
2.4. Kết quả khảo sát về thực trạng sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công
nghiệp và đánh giá chất lượng của các doanh nghiệp đối với các sản phẩm và
dịch vụ này 52

2.4.1. Về sản phẩm thông tin sở hữu công nghiệp 52
2.4.1.1. Ấn phẩm thông tin 52
2.4.1.2. Cơ sở dữ liệu 56
2.4.1.3. Trang tin điện tử 58
2.4.1.4. Tài liệu dùng cho việc tra cứu thông tin 60
2.4.2. Về dịch vụ thông tin sở hữu công nghiệp 64
2.4.2.1. Dịch vụ cung cấp thông tin 64
2.4.2.2. Dịch vụ trao đổi thông tin 66
2.4.2.3. Dịch vụ tư vấn về sở hữu công nghiệp 66
2.4.2.4. Huấn luyện đào tạo nâng cao nhận thức và kỹ năng khai thác
thông tin sở hữu công nghiệp 67
2.5. Phân tích, đánh giá về chất lượng sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu
công nghiệp phục vụ cho các doanh nghiệp 68

3
2.5.1. Điểm mạnh 69
2.5.2. Điểm yếu 70
* Kết luận Chương 2 74
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐA DẠNG HOÁ SẢN PHẨM VÀ DICH
VỤ THÔNG TIN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP PHỤC VỤ CHO CÁC DOANH
NGHIỆP 75
3.1. Nâng cao chất lượng các sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công nghiệp
75
3.1.1. Về sản phẩm thông tin 75
3.1.1.1. Cơ sở dữ liệu 76
3.1.1.2. Tài liệu dùng cho viêc tra cứu 76
3.1.1.3. Ấn phẩm thông tin 76
3.1.1.4. Trang tin điện tử 77
3.1.2. Về dịch vụ thông tin 77
3.1.2.1. Dịch vụ đọc tại chỗ 78

3.1.2.2. Dịch vụ cung cấp bản sao 78
3.1.2.3. Dịch vụ tra cứu tin 78
3.1.2.4. Dịch vụ trao đổi thông tin 79
3.1.2.5. Dịch vụ đào tạo kỹ năng khai thác thông tin sở hữu công nghiệp . 79
3.2. Phát triển các sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công nghiệp theo mô
hình hiện đại hóa và đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp 80
3.2.1. Về sản phẩm thông tin 80
3.2.1.1. Ấn phẩm thông tin 80
3.2.1.2. Cơ sở dữ liệu điện tử 81
3.2.1.3. Trang tin điện tử 82
3.2.2. Về dịch vụ thông tin 82
3.2.2.1. Dịch vụ tra cứu trực tuyến 82
3.2.2.2. Dịch vụ phổ biến thông tin chọn lọc 82
3.2.2.3. Dịch vụ phân tích, tổng hợp, chuyển giao thông tin 83
3.2.2.4. Dịch vụ đào tạo 83
3.2.2.5. Dịch vụ tư vấn 83
3.2.2.6. Dịch vụ dịch thuật 84
3.3. Một số giải pháp hỗ trợ 84
3.3.1. Tạo lập và phát triển nguồn lực thông tin 84
3.3.1.1. Củng cố và khai thác nguồn lực thông tin hiện có 84

4
3.3.1.2. Tăng cường nguồn lực thông tin 85
3.3.2. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thông tin 87
3.3.3. Đào tạo người dùng thông tin 89
3.3.4. Đảm bảo cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị cho hoạt động thông tin 90
3.3.5. Tăng cường marketing thông tin 90
3.3.6. Hình thành mạng lưới thông tin sở hữu công nghiệp trong cả nước 91
3.3.7. Xây dựng thư viện điện tử 92
3.3.8. Cơ chế chính sách của nhà nước 93

* Kết luận chương 3 94
KẾT LUẬN 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO 98
PHỤ LỤC 102



5
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH

Biểu đồ 1.1: Cơ cấu số doanh nghiệp theo loại hình doanh nghiệp 31
Biểu đồ 2.1: Số lượng yêu cầu tra cứu thông tin sáng chế nộp trực tiếp tại Cục
Sở hữu trí tuệ 2006-2010 Error! Bookmark not defined.
Biểu đồ 2.2: Nhu cầu sử dụng thông tin sáng chế của các doanh nghiệp theo
số liệu có tại Cục Sở hữu trí tuệ năm 2010 Error! Bookmark not defined.
Biểu đồ 2.3: Đánh giá chung về chất lượng của các sản phẩm thông tin sở hữu
công nghiệp của các doanh nghiệp 63
Biểu đồ 2.4: Đánh giá chung của các doanh nghiệp về chất lượng của các dịch
vụ thông tin sở hữu công nghiệp 68


Hình 2.1: Minh họa CD-ROM công báo sở hữu công nghiệp 53
Hình 2.2 : Màn hình giao diện cơ sở dữ liệu sáng chế Việt Nam 57
Hình 2.3 : Màn hình giao diện cơ sở dữ liệu nhãn hiệu Việt nam 57
Hình 2.4 : Màn hình giao diện cơ sở dữ liệu kiểu dáng công nghiệp Việt Nam
58
Hình 2.5: Minh hoạ trang tin điện tử của Cục Sở hữu trí tuệ 60


Bảng 2.1: Tỷ lệ phản hồi phiếu điều tra 47

Bảng 2.2: Nhu cầu sử dụng và đánh giá chất lượng đối với các sản phẩm
thông tin sở hữu công nghiệp của các doanh nghiệp 62
Bảng 2.3: Nhu cầu sử dụng và đánh giá chất lượng dịch vụ cung cấp thông tin
sở hữu công nghiệp của các doanh nghiệp 67


6
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Sau hơn hai mươi năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước, đất nước ta đã thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng và bước vào thời kỳ
phát triển trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Cùng với xu thế
chung đó, trong những năm vừa qua các doanh nghiệp Việt Nam đã nhanh
chóng thích nghi và phát triển cả về số lượng và chất lượng, góp phần quan
trọng vào tăng trưởng kinh tế của đất nước. Song nhìn chung, thực trạng năng
suất lao động của các doanh nghiệp còn thấp, chất lượng hàng hoá và năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường còn yếu. Quy mô và năng lực
hạn chế làm cho các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn trong việc đầu tư
phát triển sản xuất, ít chú trọng đến đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm.
Không những thế, khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội hơn
song cũng phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, với những định chế thương
mại và pháp luật quốc tế, mà một trong số những vấn đề đó là quyền sở hữu
trí tuệ vẫn còn hết sức mới mẻ đối với nhiều doanh nghiệp. Nhận thức của
doanh nghiệp về sở hữu trí tuệ nói chung, sở hữu công nghiệp nói riêng cũng
như khía cạnh kinh tế của việc khai thác thông tin sở hữu công nghiệp còn
chưa cao. Nếu như các doanh nghiệp biết sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên
thông tin này như một công cụ hoạch định chiến lược nghiên cứu, kinh doanh
sẽ giúp cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế,

tránh những rủi ro không đáng có trong quá trình sản xuất, xuất nhập khẩu
hàng hóa và triển khai công nghệ.
Mặc dù hoạt động thông tin sở hữu công nghiệp ở nước ta được bắt đầu
khá sớm từ những năm 1980 của thế kỷ trước và ngay trong Nghị định số


7
103/2006/NĐ-CP đã quy định “Bộ Khoa hoc và Công nghệ có trách nhiệm tổ
chức xây dựng, quản lý các kho thông tin sở hữu công nghiệp, xây dựng các
công cụ phân loại, tra cứu, hướng dẫn cách tra cứu và sử dụng thông tin sở hữu
công nghiệp trong và ngoài nước; tổ chức việc cung ứng thông tin đầy đủ, kịp
thời, chính xác, bảo đảm khả năng tiếp cận các kho thông tin cho các đối tượng
có nhu cầu dùng tin phục vụ hoạt động xác lập và bảo vệ quyền sở hữu công
nghiệp, nghiên cứu, phát triển và kinh doanh” [2; điều 31] song hoạt động thông
tin sở hữu công nghiệp nhìn chung vẫn chưa được như mong muốn, thông tin sở
hữu công nghiệp chưa thực sự trở thành nguồn lực quan trọng nhằm làm tăng
năng lực, tăng hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Vậy làm thế nào để tăng cường hoạt động thông tin sở hữu công nghiệp
và để đáp ứng tốt nhất các nhu cầu thông tin đa dạng của các doanh nghiệp.
Đây là một vấn đề ngày càng được các cơ quan thông tin sở hữu công nghiệp
quan tâm và tìm cách giải quyết. Các cơ quan thông tin phải tìm mọi biện
pháp để tăng cường nguồn lực thông tin của mình cũng như đưa ra các công
cụ khả thi để làm sao nguồn tin đó đến được với người dùng tin một cách hữu
dụng nhất. Nhận thức được điều đó, các cơ quan thông tin, trong đó có Cục
Sở hữu trí tuệ và một số đơn vị thông tin khác trong hệ thống cung cấp thông
tin sở hữu công nghiệp đã tạo lập và cung cấp các sản phẩm và dịch vụ thông
tin sở hữu công nghiệp cho người dùng tin. Tuy nhiên, các sản phẩm và dịch
vụ thông tin này còn đơn điệu, chưa thực sự quan tâm và chưa có sự nghiên
cứu đầy đủ khách hàng mà cụ thể ở đây là các doanh nghiệp nên các sản
phẩm và dịch vụ hiện nay chưa đáp ứng và thoả mãn các nhu cầu của doanh

nghiệp dẫn tới sự suy giảm tiềm năng và mất tính cạnh tranh của thông tin sở
hữu công nghiệp so với các dạng thông tin khác. Đó cũng chính là nguyên
nhân làm cho các doanh nghiệp thờ ơ với nguồn thông tin quý giá này và dẫn


8
đến tình trạng như ông Phạm Phi Anh, phó cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ phát
biểu “kho thông tin sở hữu công nghiệp vẫn còn trùm chăn”.
Từ thực tế này cùng với suy nghĩ, trăn trở trong công tác hiện nay của
mình, chúng tôi mong muốn nghiên cứu để đưa ra các giải pháp nhằm đa
dạng hoá các sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công nghiệp, nhằm tăng
cường hiệu quả hoạt động thông tin nói chung và cũng để thông tin sở hữu
công nghiệp thực sự trở thành công cụ đắc lực hỗ trợ cho các doanh nghiệp,
đồng thời góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển.
Đó cũng chính là lý do để chúng tôi chọn vấn đề “Nghiên cứu đa dạng
hoá sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công nghiệp phục vụ cho các
doanh nghiệp” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách
Khoa học & Công nghệ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tại Việt Nam, vấn đề đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ thông tin thư
viện đã được nhiều nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu. Có thể kể đến Giáo
trình “Sản phẩm và dịch vụ thông tin thư viện” của Ths. Trần Mạnh Tuấn đã
đề cập đến khái niệm và quy trình để tạo lập các dạng sản phẩm và dịch vụ
thông tin cơ bản hay bài viết của PGS.TS Nguyễn Hữu Hùng “Một số vấn đề
về chính sách phát triển sản phẩm và dịch vụ thông tin tại Việt Nam” cũng có
đưa ra một số khái niệm về chính sách trong hoạt động thông tin và phát triển
sản phẩm và dịch vụ thông tin cũng như đề xuất nội dung của chính sách này.
Ngay trong một số luận văn như của tác giả Lê Thị Hoa “Giải pháp đa dạng
hoá sản phẩm và dịch vụ thông tin trong các cơ quan thông tin bộ/ngành
trong bối cảnh hội nhập” (năm 2010), Phùng Thị Bình “Nghiên cứu và hoàn

thiện sản phẩm và dịch vụ thông tin tại các thư viện thuộc Viện Khoa học xã
hội Việt Nam” (năm 2007) cũng chủ yếu nghiên cứu về các sản phẩm và dịch
vụ thông tin nói chung mà chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu về


9
thực trạng sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công nghiệp cũng như vai trò
của nó đối với các doanh nghiệp và chưa đưa ra được các giải pháp để phát
triển các sản phẩm và dịch vụ này phù hợp với nhu cầu thực tế của các doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay.
Còn trên thế giới, theo chúng tôi tìm hiểu cũng chỉ có những bài viết đề
cập đến hoạt động khai thác thông tin và lợi ích kinh tế của việc khai thác và
sử dụng thông tin này trong các doanh nghiệp mà chưa có bài viết nào bàn về
các giải pháp tăng cường năng lực khai thác và sử dụng thông tin sở hữu công
nghiệp của các doanh nghiệp. Có thể kể đến đến tác giả Hanna Timonen, Eila
Jarvenpaa của Trường đại học công nghệ Helsinki với công trình nghiên cứu
“Knowledge Acquisition Models of SMEs’ New Product Development Processes
and the Role of Patent Information” hay “Patent information to stimulate
innovation in small and medium sized companies” của học giả Koch.
Như vậy, có thể nói cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn
đề đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công nghiệp này và đặc
biệt là nhằm mục đích phục vụ cho các doanh nghiệp trong hoạt động nghiên
cứu, sản xuất và kinh doanh của mình.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định nhu cầu sử dụng thông tin sở hữu công nghiệp của các doanh nghiệp.
Đánh giá thực trạng các sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công
nghiệp của các cơ quan thông tin cung cấp cho các doanh nghiệp.
Đề xuất những giải pháp để đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ thông tin
sở hữu công nghiệp đáp ứng nhu cầu thông tin của các doanh nghiệp.
4. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu về nhu cầu sử dụng thông tin sở hữu công nghiệp của các
doanh nghiệp Việt Nam (số lượng 40 mẫu).


10
Thực trạng về các sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công nghiệp ở
Việt Nam trong 5 năm (nghiên cứu trường hợp Cục Sở hữu trí tuệ) (2006-2010).
5. Mẫu khảo sát
Các doanh nghiệp được chọn để khảo sát nằm trong số các doanh nghiệp Việt
Nam đã và đang sử dụng các sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công nghiệp hoặc
có đơn đăng ký sáng chế, nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp.
Cơ quan thông tin được chọn để khảo sát thực trạng về các sản phẩm và dịch
vụ thông tin sở hữu công nghiệp là Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam trong khoảng thời
gian từ 2006-2010 .
6. Câu hỏi nghiên cứu
Các doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu sử dụng thông tin sở hữu công
nghiệp nhằm mục đích gì?
Thực trạng về các sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công nghiệp
Việt Nam như thế nào?
Cần có những giải pháp nào để đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ thông
tin sở hữu công nghiệp?
7. Giả thuyết nghiên cứu
Các doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu sử dụng thông tin sở hữu công
nghiệp nhằm các mục đích sau: đổi mới công nghệ, đăng ký và xác lập quyền
sở hữu công nghiệp, tìm hiểu thị trường, đối tác kinh doanh, xác định tình
trạng pháp lý, khai thác tài sản trí tuệ,v.v
Các sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công nghiệp hiện nay còn
nghèo nàn về hình thức và nội dung, chất lượng chưa cao, chưa theo kịp sự
phát triển nhanh chóng của khoa hoc và công nghệ, cụ thể là công nghệ thông
tin và truyền thông, vẫn dừng ở mức thụ động, chưa linh hoạt đáp ứng được

nhu cầu thông tin ngày càng đa dạng của các doanh nghiệp.


11
Để đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công nghiệp cần
có những giải pháp:
+ Nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ thông tin hiện có;
+ Phát triển các loại sản phẩm và dịch vụ thông tin mới như các đĩa
quang tra cứu thông tin sở hữu công nghiệp, đĩa quang toàn văn, dịch vụ tra
cứu trực tuyến, dịch vụ tư vấn, dịch vụ marketing, đào tạo trực tuyến,v.v một
cách linh hoạt phù hợp với nhu cầu thực tế và đáp ứng hữu hiệu nhất nhu cầu
của doanh nghiệp;
+ Ngoài ra cần có một số giải pháp hỗ trợ như tạo lập và phát triển
nguồn tin, nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, cơ chế chính sách,v.v
8. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu: phân tích, thống kê, tổng
hợp các tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu như các văn bản pháp luật, tài
liệu về sở hữu công nghiệp, vai trò của thông tin sở hữu công nghiệp đối với
các doanh nghiệp, về công tác thông tin thư viện, chính sách định hướng nâng
cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Phương pháp nghiên cứu thực tế: Nghiên cứu thực trạng về các sản
phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công nghiệp (Nghiên cứu trường hợp Cục
Sở hữu trí tuệ).
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Thiết kế phiếu điều tra và thực
hiện điều tra tại một số doanh nghiệp. Dung lượng mẫu: 40 doanh nghiệp.
9. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục các bảng, biểu đồ, hình,
tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm có 3 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công

nghiệp phục vụ cho các doanh nghiệp


12
Chương 2: Thực trạng về sản phẩm và dịch vụ thông tin sở hữu công
nghiệp phục vụ cho các doanh nghiệp
Chương 3: Một số giải pháp đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ thông
tin sở hữu công nghiệp phục vụ cho các doanh nghiệp



13
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ
THÔNG TIN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP PHỤC VỤ CHO
CÁC DOANH NGHIỆP

1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Thông tin
Chúng ta đang sống trong một thời đại thông tin, tri thức trở thành một
tài sản có giá trị nhất của nhân loại, mà ở đó “thông tin được sử dụng như một
nguồn lực kinh tế, các tổ chức sử dụng nhiều thông tin hơn để làm tăng năng
lực của họ, khuyến khích việc đổi mới và làm tăng hiệu quả và khả năng cạnh
tranh của họ, thường là thông qua những cải tiến về chất lượng hàng hoá và
dịch vụ do họ tạo ra. Đây cũng là xu hướng phát triển đối với các tổ chức sử
dụng hàm lượng thông tin cao nhằm làm tăng giá trị sản phẩm và do đó mang
lại lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế đất nước” [34; pg.9]. Thông tin là một nhân
tố không thể thiếu được để thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Có người nói
rằng thông tin là nhu cầu cần thiết của con người chỉ sau không khí, nước,
thức ăn và chỗ ở.
Vậy thông tin là gì? Thông tin theo gốc tiếng Latinh “informatio” có

hai nghĩa:
Một là, nó chỉ một hành động rất cụ thể tạo ra một hình dạng (forme).
Hai là, tuỳ theo tình huống, có nghĩa là truyền đạt một ý tưởng, một
khái niệm hay một biểu tượng. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội,
khái niệm thông tin cũng phát triển theo.
Theo nghĩa chung nhất thì thông tin được hiểu là những tri thức dùng
để định hướng, tác động tích cực và để điều khiển nhằm duy trì tính đặc thù
về chất, hoàn thiện và phát triển hệ thống. Trong tiêu chuẩn Việt Nam TCVN
5453-1991 có đưa ra định nghĩa về thông tin: “Thông tin là nội dung con


14
người gán cho dữ liệu với các quy ước (ký hiệu) đã biết, được sử dụng trong
việc trình bày chúng”.
Thông tin là một loại hàng hoá đặc biệt và quan trọng, giá trị của thông
tin chỉ có khi nó được khai thác và sử dụng.
Chất lượng của thông tin được thể hiện ở nội dung, thời gian và hình
thức của thông tin. Nội dung thông tin phải chính xác, phù hợp với nhu cầu
của người dùng tin và phải đồng bộ có nghĩa là thông tin phải đầy đủ các vấn
đề mà người dùng tin muốn biết. Về thời gian của thông tin bao gồm hai yếu
tố là kịp thời, đúng lúc người dùng tin cần và mang tính thời sự, tức là thông
tin phải được cập nhật kịp thời, nếu không thông tin sẽ trở nên lạc hâu và
không còn giá trị sử dụng. Tiếp theo, về mặt hình thức của thông tin yêu cầu
phải đáp ứng tính chi tiết và tính hấp dẫn. Tính chi tiết yêu cầu thông tin đưa
ra phải cụ thể tới mức thích hợp. Hình thức trình bày phải hấp dẫn để tạo
thêm giá trị cho thông tin.
Song giá trị của thông tin không nằm ở bản thân nó mà phải do kết quả
của quá trình lao động khoa học, quá trình xử lý để thông tin trở thành các sản
phẩm có chất lượng đáp ứng nhu cầu sử dụng của con người.
Căn cứ vào đặc điểm nội dung của tin tức, thông tin có thể chia thành

nhiều loại: thông tin kinh tế, thông tin quản lý, thông tin khoa học và công
nghệ, thông tin sở hữu công nghiệp,v.v Trong phạm vi của luận văn, khái
niệm thông tin sở hữu công nghiệp được hiểu không chỉ là thông tin về công
nghệ mà còn bao gồm cả thông tin về pháp lý và thông tin thương mại.
1.1.2. Sản phẩm và dịch vụ thông tin
Sản phẩm và dịch vụ thông tin là kết quả của quá trình xử lý thông tin có
trong nguồn tin để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ thông tin có giá trị sử dụng.
Sản phẩm và dịch vụ thông tin đều là những khía cạnh quan trọng đánh
giá chất lượng thông tin, xác định giá trị của thông tin và năng lực của nhà


15
cung cấp thông tin. Sản phẩm và dịch vụ thông tin là do con người tạo ra
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của người dùng thông tin.
1.1.2.1. Sản phẩm thông tin
Sản phẩm thông tin có thể được hiểu như một loại hàng hoá đặc biệt và
được hình thành nhằm thoả mãn nhu cầu tìm kiếm thông tin của người tìm tin
và của chính thông tin. Sản phẩm thông tin có thể nói phụ thuộc vào nhu cầu
của người dùng tin. Vậy chính xác sản phẩm thông tin là gì? Ta có thể hiểu
một cách đơn giản “sản phẩm thông tin là bất kỳ một phân đoạn tri thức nào
có thể được ghi lại trong một số hình thức như dạng chữ viết, dạng âm thanh
hoặc dạng hình ảnh và do vậy có thể chuyển từ dạng này sang dạng khác”
[33;pg.1]. “Sản phẩm do cơ quan thông tin thư viện tạo ra không mang tính
tự thân, tức là sự phát triển của hệ thống sản phẩm này là nhằm đáp ứng nhu
cầu nghiên cứu và phát triển của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia”
[25;tr.3].
Các sản phẩm thông tin thông thường:
Sách in hoặc sách điện tử;
Tờ rơi và các báo cáo chuyên ngành;
Sách học và sách bài tập;

Băng cát-xét tiếng, CD hoặc các file tiếng;
Băng hình và DVD;
Trang web.
Một số đặc tính của sản phẩm thông tin
- Tính hữu hình: Sản phẩm thông tin tồn tại dưới dạng vật phẩm cụ thể,
có thể sản xuất được, lưu trữ được hay có thể mua, bán được và có thể nhận
diện được bằng giác quan
1
.


1
Theo [29;pg.185]


16
- Tính không thể tách rời: Sản phẩm thông tin là sự kết hợp của hai
thành phần không thể tách rời là nội dung thông tin và hình thức thể hiện.
- Tính đổi mới: Sản phẩm thông tin là một dạng hàng hoá đặc biệt cho nên
cũng phải luôn đổi mới để đáp ứng nhu cầu luôn thay đổi của người dùng thông tin.
1.1.2.2. Dịch vụ thông tin
Dịch vụ thông tin được xem như là hoạt động xảy ra tiếp theo sau khi
thông tin đã được lưu trữ như một sản phẩm cuối trong cơ sở dữ liệu bao gồm:
việc chọn lọc, xử lý, lưu trữ và phổ biến thông tin ở tất cả các dạng có thể như
bằng lời nói, chữ viết, âm thanh, hình ảnh,v.v và bản chất của dịch vụ thông tin
là cung cấp, là phổ biến thông tin
2
. “Dịch vụ thông tin tạo nên sự gắn bó hữu
cơ giữa chuyên gia thông tin với người cung cấp, thực hiện dịch vụ với người
dùng tin, và được ra đời đáp ứng nhu cầu người dùng tin” [6;tr.41].

Đặc tính của dịch vụ thông tin
Theo Nguyễn Vĩnh Hà, dịch vụ thông tin có một số đặc tính sau:
- Tính vô hình: Khác với sản phẩm, dịch vụ không tồn tại dưới dạng vật
phẩm cụ thể, không nhìn thấy được, nắm bắt được hay nhận diện được bằng
các giác quan. Chính vì vậy mà khi muốn marketing cho các dịch vụ, cần phải
tạo cho người dùng tin biết tiềm năng của nó bằng cách cung cấp cho họ một
cảm giác hữu hình về các dịch vụ đó.
- Tính không đồng nhất: Dịch vụ gắn chặt với người cung cấp dịch vụ.
Chất lượng của dịch vụ phụ thuộc chặt chẽ vào cá nhân thực hiện dịch vụ
(trình độ, kỹ năng,v.v ) và hơn thế nữa đối với cùng một cá nhân, chất lượng
dịch vụ nhiều khi cũng thay đổi theo thời gian.
- Tính không thể tách rời: Thông thường để thực hiện một dịch vụ,
người cung cấp dịch vụ thường phải tiến hành một số bước hoặc thao tác đi
liền với nhau, không thể tách rời nhau để thu được kết quả mà người mua


2
Theo [6;tr.41]


17
dịch vụ mong muốn. Ví dụ, trong dịch vụ tra cứu thông tin, nguời cung cấp
thông tin cần phải thực hiện một số bước sau:
Bước 1: Phân tích nhu cầu tra cứu tin.
Bước 2: Xác định nguồn tin.
Bước 3: Tiến hành tra cứu thông tin.
Bước 4: Trả kết quả tra cứu
3
.
Các hoạt động dịch vụ thông tin :

Cho mượn tài liệu;
Dịch vụ tài liệu tham khảo;
Dịch vụ dịch thuật;
Dịch vụ Internet;
Phổ biến thông tin;
Dịch vụ trao đổi thông tin;
Dịch vụ tra cứu tin;
Đào tạo.
1.1.2.3. Tính khác biệt về sản phẩm thông tin và dịch vụ thông tin
Sản phẩm thông tin và dịch vụ thông tin được cung cấp và chuẩn bị
trong hoạt động thông tin và được đưa vào sử dụng nhằm tăng giá trị của
thông tin song chúng cũng có sự khác biệt cơ bản. Chất lượng của sản phẩm
thông tin mang nét đặc trưng của sản phẩm và được nhận diện một cách hữu
hình về nội dung của sản phẩm bao gồm tính chính xác, đầy đủ, hoàn thiện và
không sai sót. Chất lượng của dịch vụ thông tin bao gồm các khía cạnh liên
quan đến quá trình phân phối dịch vụ cũng như tính vô hình của việc xử lý, an
ninh thông tin và làm tăng giá trị của thông tin đối với người dùng tin.
1.1.2.4. Đặc tính giống nhau giữa sản phẩm và dịch vụ thông tin


3
Theo [7;tr.2]


18
Chu kỳ sống của sản phẩm/dịch vụ thông tin. Cả sản phẩm và dịch vụ
thông tin đều cùng có đặc tính này và là một khái niệm hết sức quan trọng khi
nghiên cứu về sản phẩm và dịch vụ thông tin. “Các sản phẩm và dịch vụ
thông tin đều trải qua 4 thời kỳ: Thời kỳ hình thành, thời kỳ tăng trưởng, thời
kỳ sung mãn, thời kỳ suy thoái” [13;tr.23].

1.1.2.5. Mối liên hệ giữa sản phẩm thông tin và dịch vụ thông tin
Sản phẩm thông tin và dịch vụ thông tin có mối quan hệ hữu cơ hỗ trợ
nhau nhằm một mục đích khai thác tối đa và có hiệu quả nguồn thông tin. Sản
phẩm thông tin là cơ sở để phát triển dịch vụ thông tin. Các cơ quan thông tin
muốn phát triển dịch vụ thông tin thì phải dựa vào sản phẩm thông tin của
mình như hệ thống các ấn phẩm, các cơ sở dữ liệu, trang tin điện tử. Nhưng
để đưa được các sản phẩm thông tin đến được người sử dụng thì phải có một
hệ thống dịch vụ thông tin hoàn hảo như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ
tư vấn thông tin, dịch vụ marketing thông tin,v.v Không những thế, dịch vụ
thông tin còn là kênh phản hồi ý kiến của người tìm tin đối với chất lượng và
hình thức của sản phẩm thông tin để cơ quan thông tin có cơ sở đánh giá
nhằm hoàn thiện hệ thống sản phẩm và dịch vụ thông tin của mình nhằm đáp
ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của người dùng tin.
Sản phẩm và dịch vụ thông tin là kết quả hoạt động và xử lý thông tin tác
động vào các nguồn tin đề biến đổi chúng trở thành các dạng sản phẩm và dịch vụ
thông tin (cơ sở dữ liệu, ấn phẩm thông tin, bảng tra cứu, danh mục, tổng luận, tìm
tin, đánh giá thông tin,v.v ). Có thể nói rằng sản phẩm và dịch vụ thông tin là
phương thức để tạo lập hàng hoá và tài nguyên thông tin trong xã hội.
1.2. Thông tin sở hữu công nghiệp
1.2.1. Khái niệm về sở hữu công nghiệp
Sở hữu công nghiệp là khái niệm chỉ lĩnh vực pháp lý bảo hộ quyền sở
hữu đối với các thành quả nghiên cứu triển khai của con người mà có thể


19
được áp dụng trong công nghiệp. Theo ông Shahid Alikhan “Sở hữu công
nghiệp liên quan đến những sáng tạo ra đời từ những sáng chế, tức là những
giải pháp cho những vấn đề kỹ thuật hoặc liên quan đến những kiểu dáng
công nghiệp, tức là những sáng tạo mang tính thẩm mỹ và định hình dáng bên
ngoài của những sản phẩm công nghiệp. Nó cũng liên quan đến nhãn hiệu

hàng hoá và nhãn hiệu dịch vụ, tên và chỉ dẫn thương mại, chỉ dẫn địa lý (chỉ
dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ hàng hoá ) cũng như liên quan đến bảo hộ
chống cạnh tranh không lành mạnh” [1;tr.10].
Như vậy, các đối tượng chính được bảo hộ sở hữu công nghiệp là sáng
chế, nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp.
1.2.1.1. Khái niệm về sáng chế
Sáng chế được hiểu theo quy định của pháp luật là giải pháp kỹ thuật mới
so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có trình độ sáng tạo, có khả áp dụng công
nghiệp. Đối tượng của sáng chế có thể là cơ cấu, chất và phương pháp. “Sáng
chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết
một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên”[15;điều 4].
Một giải pháp được công nhận là mới so với trình độ kỹ thuật trên thế
giới nếu trước ngày nộp đơn hợp lệ hoặc trước ngày ưu tiên của đơn sáng chế,
giải pháp đó chưa được bộc lộ công khai ở bất kỳ đâu, dưới bất kỳ hình thức
nào. Ngoài ra, giải pháp này không được trùng với giải pháp đã được nộp đơn
đăng ký sáng chế có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn hợp lệ sớm hơn.
“Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền sáng chế”
[15; điều 58]. Hiệu lực của Bằng độc quyền sáng chế có trong một thời hạn
nhất định không quá 20 năm kể từ ngày nộp đơn hợp lệ và chỉ có hiệu lực
trong lãnh thổ một nước hoặc một số nước nhất định.
“Tại một số ít quốc gia, sáng chế cũng có thể được bảo hộ thông qua
việc đăng ký dưới tên gọi là “mẫu hữu ích” [21;tr.170], hoặc giải pháp hữu


20
ích. Những tiêu chuẩn bảo hộ đối với mẫu hữu ích so với sáng chế dễ dàng
hơn, thời hạn bảo hộ đối với mẫu hữu ích cũng ngắn hơn.
1.2.1.2. Khái niệm về nhãn hiệu
Nhãn hiệu đã có từ thời cổ xưa nhưng chỉ thực sự có một vai trò quan
trọng bắt đầu từ thời kỳ công nghiệp hoá và trong thế giới hiện đại của thương

mại quốc tế và nền kinh tế thị trường. Công nghiệp hoá và nền kinh tế thị
trường đã sản xuất nhiều loại hàng hoá và cung cấp dịch vụ cùng chủng loại,
chúng chỉ khác nhau về chất lượng, giá cả và do vậy để người tiêu dùng có
thể phân biệt được thì người sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ phải đặt
tên cho chúng. “Phương tiện để đặt tên hàng hoá, dịch vụ trên thị trường
chính là nhãn hiệu” [21;tr.66].
“Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ
chức, cá nhân khác nhau” [15;điều 4]. Như vậy, nhãn hiệu là dấu hiệu hay tên
gọi có tính phân biệt hoặc nhận dạng nguồn gốc sản phẩm hoặc dịch vụ giúp
người tiêu dùng phân biệt hàng hoá và dịch vụ cùng loại có các nguồn gốc
khác nhau. Dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc từ
ngữ kết hợp với hình ảnh được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
Một nhãn hiệu mang lại cho chủ sở hữu của nó sự bảo hộ thông qua việc
ngăn ngừa sự nhầm lẫn về nguồn gốc trong quá trình phân phối sản phẩm, dịch
vụ hoặc thông qua việc cấp li-xăng cho người khác sử dụng nhãn hiệu đó.
Thời hạn bảo hộ của nhãn hiệu là không xác định, hiệu lực của nhãn
hiệu có thể được giữ mãi mãi thông qua việc đăng ký, duy trì gia hạn và sử
dụng liên tục trong thương mại.
Các chức năng chính của nhãn hiệu là:
Giúp khách hàng nhận ra sản phẩm (dù là hàng hoá hoặc dịch vụ) của một
công ty cụ thể nhằm phân biệt chúng với các sản phẩm trùng hoặc tương tự do
các đối thủ cạnh tranh cung cấp. Khách hàng hài lòng với với một sản phẩm cụ


21
thể rất có khả năng lại mua hoặc sử dụng sản phẩm đó trong tương lai. Do vậy,
họ cần phân biệt được một cách dễ dàng giữa các sản phẩm trùng hoặc tương tự.
Giúp cho doanh nghiệp phân biệt sản phẩm của họ với sản phẩm của
đối thủ cạnh tranh. Do vậy, nhãn hiệu có một vai trò then chốt trong chiến
lược quảng cáo và tiếp thị của công ty nhằm xây dựng hình ảnh và uy tín về

các sản phẩm của công ty trong mắt người tiêu dùng.
Tạo động lực cho các công ty đầu tư vào việc duy trì hoặc nâng cao chất
lượng sản phẩm nhằm bảo đảm rằng sản phẩm mang nhãn hiệu có uy tín tốt.
Các loại nhãn hiệu có trên thị trường:
Nhãn hiệu hàng hoá là dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hoá cùng
loại của các doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác.
Nhãn hiệu dịch vụ là dấu hiệu dùng để phân biệt dịch vụ của doanh
nghiệp này với doanh nghiệp khác.
“Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ
của các thành viên của tổ chức, là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá,
dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó”
[15;điều 4]. “Nhãn hiệu tập thể là một phương thức có hiệu quả để cùng tiếp
thị các sản phẩm của một nhóm doanh nghiệp mà nếu thực hiện riêng lẻ sẽ
gặp khó khăn hơn để các nhãn hiệu riêng lẻ của họ được người tiêu dùng
thừa nhận hoặc/và được những người bán lẻ phân phối” [22;tr.38].
“Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu cho phép tổ chức,
cá nhân khác sử dụng trên hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để
chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liêu, cách thức sản xuất
hàng hoá, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn
hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu.” [15;điều 4].
“Nhãn hiệu chứng nhận thường được tìm thấy trên các sản phẩm hoặc bao bì


22
sản phẩm và chúng có thể xuất hiện trên một chứng chỉ được cấp bới cơ quan
chứng nhận sản phẩm” [22;tr.151].
“Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng
rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam” [15;điều 4]. Sự bảo hộ của nhãn hiệu nổi
tiếng là rất mạnh, thậm chí được bảo hộ kể cả khi không đăng ký ở một quốc
gia nhất định. Mục đích chính của việc bảo hộ mạnh này nhằm ngăn chặn các

công ty, doanh nghiệp lợi dụng uy tín và sự nổi tiếng của nhãn hiệu để gây ra
sự mất uy tín và sự tín nhiệm của người tiêu dùng đối với nhãn hiệu đó.
“Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký,
trùng hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm và dịch vụ cùng loại hoặc
tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau” [15;điều 4].
Như vậy, có thể nói nhãn hiệu là chức năng của công cụ marketing,
truyền đạt đến người tiêu dùng uy tín của sản phẩm, dịch vụ mang nhãn hiệu.
Do đó, nhãn hiệu chủ yếu liên quan đến thương mại, đến chiến lược kinh
doanh và là tài sản vô giá của một doanh nghiệp.
1.2.1.3. Khái niệm về kiểu dáng công nghiệp
Trong cuộc sống hằng ngày kiểu dáng công nghiệp được hiểu là hình
dáng bên ngoài của sản phẩm. “Theo nghĩa rộng, kiểu dáng công nghiệp đề
cập đến những hoạt động sáng tạo nhằm tạo ra một hình dáng trang trí bên
ngoài cho những hàng hoá được sản xuất hàng loạt” mà “mặt hàng đó phải
hấp dẫn người tiêu dùng về thị giác và phải thể hiện một cách hiệu quả chức
năng kỹ thuật đã định trước” [21;tr.111] còn theo Luật sở hữu trí tuệ Việt
Nam thì “kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được
thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố
này” [15;điều 4].


23
Sản phẩm mang kiểu dáng công nghiệp được hiểu là đồ vật, dụng cụ,
thiết bị, phương tiện,v.v thuộc mọi lĩnh vực, có kết cấu và chức năng nhất
định, được sản xuất và lưu thông độc lập.
Kiểu dáng công nghiệp có vai trò quan trọng đối với “nhiều loại sản
phẩm được sản xuất hàng loạt như các sản phẩm thủ công riêng lẻ: từ các
dụng cụ kỹ thuật và y tế đến đồng hồ, đồ trang sức và các sản phẩm xa xỉ
khác; từ các đồ dùng gia dụng, đồ chơi, đồ gỗ và thiết bị điện đến xe hơi và
các tác phẩm kiến trúc” [22;tr.49].

Kiểu dáng công nghiệp chỉ được bảo hộ nếu đáp ứng đầy đủ các điều
kiện sau:
- Có tính mới trên phạm vi thế giới, nghĩa là chưa từng được bộc lộ công
khai ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, dưới hình thức công bố hoặc sử dụng trước
ngày nộp đơn.
- Có tính sáng tạo, nghĩa là kiểu dáng đó không thể được tạo ra một
cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình trong lĩnh vực tương ứng.
- Có khả năng áp dụng công nghiệp được hiểu là có khả năng dùng làm
mẫu để chế tạo lặp đi lặp lại hàng loạt sản phẩm có kiểu dáng giống hệt bằng
phương pháp công nghiệp hoặc thủ công nghiệp.
Ở hầu hết các nước, kiểu dáng công nghiệp phải đăng ký để được bảo
hộ và khi đó chủ sở hữu được cấp Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp.
“Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài
đến hết năm năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn hai lần liên tiếp, mỗi lần
năm năm” [15;điều 93].
Các chức năng của kiểu dáng công nghiệp
Tạo ra sự hấp dẫn hoặc cuốn hút hữu hình đối với khách hàng và đó là
yếu tố chính để người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm này thay vì sản phẩm khác
nhất là các sản phẩm cùng chủng loại, cùng chức năng kỹ thuật được bày bán


24
hàng loạt trên thị trường. Sự thành công của một sản phẩm ngoài việc phụ
thuộc vào hàm lượng chất xám của sản phẩm, uy tín của nhãn hiệu còn phụ
thuộc vào kiểu dáng công nghiệp của sản phẩm đó.
Là tài sản của doanh nghiệp, cái mà có thể làm tăng giá trị thương mại
của công ty và sản phẩm của họ.
Là nhân tố chính trong chiến lược tiếp thị hình ảnh thương hiệu của
công ty.
Tạo nguồn thu nhập cho công ty thông qua việc thu phí chuyển giao

quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp cho người khác hoặc chuyển nhượng
quyền sở hữu kiểu dáng công nghiệp
4
.
1.2.2. Khái niệm về thông tin sở hữu công nghiệp
Thông tin sở hữu công nghiệp là các thông tin kỹ thuật, thông tin pháp
lý và thông tin thương mại do các Cơ quan Sở hữu công nghiệp quốc gia và
các Tổ chức Sở hữu công nghiệp quốc tế công bố theo định kỳ về các đối
tượng sở hữu công nghiệp đã được nộp đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ
hoặc các đối tương sở hữu công nghiệp đã được cấp Văn bằng bảo hộ. Đó
cũng chính là đặc điểm đặc biệt của thông tin sở hữu công nghiệp so với các
loại thông tin khác.
Các loại thông tin sở hữu công nghiệp chủ yếu:
- Thông tin sáng chế và giải pháp hữu ích (gọi chung là thông tin sáng chế)
- Thông tin nhãn hiệu
- Thông tin kiểu dáng công nghiệp
1.2.2.1. Thông tin sáng chế
Thông tin sáng chế là nguồn thông tin khoa học công nghệ, thông tin
thương mại và thông tin pháp lý chứa đựng trong các tư liệu sáng chế hoặc
thu được từ việc phân tích các số liệu thống kê về sáng chế được cơ quan sáng


4
Theo [22;tr.50]


25
chế công bố theo định kỳ. “Một tài liệu sáng chế có chứa bản mô tả đầy đủ về
cách thức hoạt động của sáng chế được bảo hộ và yêu cầu bảo hộ để xác định
phạm vi bảo hộ của sáng chế. Tài liệu sáng chế cũng bao gồm các thông tin

về tác giả và thời điểm được bảo hộ của sáng chế và cung cấp chỉ dẫn đến
các tài liệu tham khảo có liên quan” [22;tr.27].
Tài liệu sáng chế có cấu trúc tương đối giống nhau trên toàn thế giới và
nhìn chung được bố trí như sau:
Trang thứ nhất bao gồm các thông tin thư mục như thông tin về ngày
nộp đơn, ngày ưu tiên, ngày công bố và ngày cấp bằng (nếu sáng chế được
bảo hộ); tiếp đó là các thông tin về số đơn, số đơn ưu tiên, số công bố, số
bằng , thông tin về tác giả sáng chế, người nộp đơn, và đại diện sở hữu công
nghiệp nếu có. Một phần nữa trong trang đầu tiên là các thông tin về nội dung
như ký hiệu phân loại sáng chế quốc tế, tóm tắt sáng chế và hình vẽ.
Bản mô tả sáng chế: mô tả chi tiết về sáng chế đến mức người có trình
độ trung bình trong cùng lĩnh vực có thể thực hiện được sáng chế theo bản mô
tả, hình vẽ.
Yêu cầu bảo hộ, đây được coi là nội dung quan trọng nhất của sáng chế
nhằm xác định phạm vi bảo hộ. Yêu cầu sáng chế bao gồm các điểm yêu cầu
bảo hộ và thường được đánh số trong đó điểm yêu cầu bảo hộ số 1 thường là
điểm yêu cầu bảo hộ rộng nhất và sau đó là các điểm yêu cầu bảo hộ phụ thuộc.
Hình vẽ nếu cần thiết để minh hoạ các chi tiết kỹ thuật của sáng chế.
Báo cáo tra cứu bao gồm các tài liệu sáng chế, sách báo, v.v có liên
quan đến sáng chế đang được thẩm định nội dung. Đây có thể nói là thông tin
rất cần thiết cho người sử dụng
5
.
Không có một số liệu thống kê chính xác về tổng số tư liệu sáng chế đã
được công bố từ trước đến nay, nhưng theo Cơ quan Sáng chế châu Âu ước


5
Theo [22;tr.29]

×