Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Chính sách thu hút và sử dụng tài năng trẻ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 100 trang )
















































Đại học quốc gia hà nội
Trường đại học khoa học
xã hội và nhân văn
Bộ khoa học và công nghệ
Viện chiến lược và chính sách khoa học và
công nghệ








DƯƠNG TRỌNG CHÂU





CHÍNH SÁCH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG TÀI
NĂNG TRẺ TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Mã Số 60.34.70









Hà Nội, 2009
















Đại học quốc gia hà nội
Trường đại học khoa học
xã hội và nhân văn
Bộ khoa học và công nghệ
Viện chiến lược và chính sách khoa học và
công nghệ










CHÍNH SÁCH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG TÀI
NĂNG TRẺ TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Mã Số 60.34.70


Người thực hiện: Dương Trọng Châu
Người hướng dẫn khoa học: TS Trần Xuân Định







Hà Nội, 2009






Mục lục

Trang
Lời cảm ơn
1
danh mục các từ viết tắt
2
Phần I - Mở đầu

1-
Lý do chọn đề tài
3
2-
Mục tiêu nghiên cứu
4
3-
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4

3.1-
Đối tượng nghiên cứu
4

3.2-
Khách thể nghiên cứu
4

3.3-
Phạm vi nghiên cứu
5
4-
Mẫu khảo sát
5
5-
Vấn đề nghiên cứu
5
6-
Giả thuyết nghiên cứu
5

7-
Phương pháp chứng minh luận điểm
5
8-
Dự kiến luận cứ
6

8.1-
Luận cứ lý thuyết
6

8.2-
Luận cứ thực tiễn
6
9-
Kết cấu của luận văn
6
Phần II- Nội Dung nghiên cứu
Chương 1. Cơ sở lý luận về thu hút và sử dụng
tài năng trẻ
7
1.1-
Một số khái niệm
7

1.1.1-
Tài năng
7

1.1.2-

Nhân tài
7

1.1.3-
Tài năng trẻ
8
1.2-
Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về nhân tài
8

1.2.1-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tài
8

1.2.2-
Quan điểm của Đảng về trọng dụng và thu hút nhân tài
13
1.3-
Kinh nghiệm sử dụng, thu hút nhân tài trong lịch sử Việt Nam
15
1.4-
Kinh nghiệm sử dụng, thu hút nhân tài của một số nước trên
thế giới
23

1.4.1-
Kinh nghiệm của Mỹ
24



a)
Về thu hút nhân tài
24


b)
Về sử dụng nhân tài
25

1.4.2-
Kinh nghiệm của Nhật Bản
27


a)
Về thu hút nhân tài
27


b)
Về sử dụng nhân tài
28

1.4.3-
Kinh nghiệm của Trung Quốc
29


a)
Về thu hút nhân tài

30


b)
Về sử dụng nhân tài
32
1.5-
Vai trò của chính sách thu hút, sử dụng tài năng trẻ đối với
phát triển tài năng ở nước ta
34

Kết luận chương 1.
35
Chương 2. Thực trạng chính sách thu hút, sử dụng tài năng trẻ ở
nước ta
37
2.1-
Chính sách thu hút, sử dụng tài năng trẻ thể hiện qua các văn
bản quy phạm pháp luật
37

2.1.1-
Chính sách thu hút, sử dụng tài năng trẻ cấp Trung ương
37


a)
Chính sách thu hút, sử dụng tài năng trẻ thông qua hệ
thống cơ sở dữ liệu Luật Việt Nam.
37



b)
Khái quát một vài nhận xét về chính sách thu hút, sử
dụng tài năng cấp Trung ương.
50

2.1.2-
Chính sách thu hút, sử dụng tài năng trẻ ở cấp địa phương
54


a)
Khảo sát văn bản liên quan đến chính sách ở các địa
phương
54


b)
Số lượng văn bản được ban hành ở các địa phương
54


c)
Về thẩm quyền ban hành văn bản ở các địa phương
55


d)
Đối tượng và phạm vi áp dụng của chính sách

56


e)
Nội dung của các văn bản liên quan đến chính sách
thu hút và sử dụng tài năng
57
2.2-
Tình hình thực hiện chính sách thu hút, sử dụng tài năng trẻ ở
nước ta
67

2.2.1-
Khái niệm về chính sách tài năng trẻ
67

2.2.2-
Phân loại chính sách tài năng trẻ
67


a)
Phân theo thẩm quyền cơ quan ban hành chính sách
67


b)
Các chính sách đối với từng loại tài năng
68



c)
Phân loại chính sách theo các khâu
68


d)
Phân loại theo mức độ tác động của chính sách tài
năng trẻ
68
2.3-
Đánh giá khái quát về chính sách thu hút và sử dụng tài năng
trẻ hiện hành
69

Kết luận chương 2.
73
Chương 3. Giải pháp về chính sách thu hút và
sử dụng tài năng trẻ
74
3.1-
Đổi mới cơ chế chính sách thu hút, sử dụng tài năng trẻ
74

3.1.1-
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
74

3.1.2-
Tăng cường quản lý Nhà nước về nhân tài

74


a)
Xây dựng và thực hiện chiến lược nhân tài
75


b)
Đổi mới một số chính sách thu hút và sử dụng tài
năng trẻ
75
3.2-
Nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy về nhân tài, chính sách
nhân tài, phát triển tài năng trẻ
76
3.3-
Đổi mới mạnh mẽ hệ thống giáo dục đào tạo theo hướng tự
học, tự nghiên cứu, sáng tạo và khuyến khích phát triển tài
năng
79
3.4-
Đổi mới mạnh mẽ công tác quy hoạch và chính sách cán bộ,
gắn với quy hoạch về chính sách phát triển và trọng dụng tài
năng
80
3.5-
Tăng cường nhiều nguồn, đảm bảo điều kiện để thực hiện tốt
chính sách thu hút và sử dụng tài năng trẻ
81

3.6-
Đúc kết và phát huy các kinh nghiệm tốt ở trong nước, đồng
thời tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế để phát triển nhân
tài
82
3.7-
Kết hợp với Đoàn TNCS Hồ Chí Minh về việc tham gia nghiên
cứu, xây dựng, giám sát thực thi chính sách thu hút và sử
dụng tài năng trẻ.
83

Kết luận chương 3.
84
Phần iii - Kết luận và khuyến nghị
86

Kết luận
86

Khuyến nghị
89

Danh mục tài liệu tham khảo
91



1



Danh mục các từ viết tắt


KH&CN Khoa học và công nghệ
UBND ủy ban nhân dân
HĐND Hội đồng nhân dân
UBTV ủy ban thường vụ
KHXH Khoa học xã hội
CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
TNCS Thanh niên cộng sản
GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
TP Thành phố
WTO Tổ chức thương mại thế giới
XHCN Xã hội chủ nghĩa
CHXHCN Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
XH&NV Xã hội và nhân văn
NXB Nhà xuất bản
QĐND Quân đội nhân dân
TDTT Thể dục thể thao
UBTDTT Uỷ ban thể dục thể thao
PTTH Phổ thông trung học
HLV Huấn luyện viên
BCH Ban chấp hành


2
Phần I - mở đầu

1- Lý do chọn đề tài
Lịch sử dân tộc ta cũng như lịch sử nhân loại đã khẳng định một chân

lý “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh,
rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Vì vậy, các đấng
thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ
sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ với quốc gia trọng
đại như thế, cho nên quý chuộng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng”[1, tr 112].
Ngày nay, trong thế kỷ XXI thế giới còn nhiều biến động phức tạp khó lường,
nhiều cuộc cạnh tranh diễn ra quyết liệt về quân sự, kinh tế… nhưng sự cạnh
tranh về trí thức và nhân tài chắc chắn là quyết liệt nhất. Bởi vì, nhân tài là
nhân tố số một quyết định thắng lợi trong các cuộc cạnh tranh. Để Việt Nam
có thể cạnh tranh bình đẳng trên trường quốc tế và đẩy mạnh sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước ta cần nhanh chóng phát triển đội ngũ trí
thức và nhân tài, đặc biệt là việc thu hút và sử dụng tài năng trẻ đóng vai trò
trọng yếu trong chiến lược phát huy nhân tố con người. Nếu không làm được
điều đó, nước ta sẽ bị tụt hậu ngày một xa hơn so với các nước khác. Bài học
lịch sử của nước ta và kinh nghiệm trên thế giới về phát triển, thu hút và sử
dụng nhân tài đáng để chúng ta suy ngẫm. Trong kỷ nguyên mới, phát triển trí
thức, trọng dụng nhân tài là nhiệm vụ lịch sử, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đưa dân tộc Việt Nam bước nhanh tới đài vinh quang của thời đại, sánh vai
với các cường quốc năm châu.
Cốt lõi của việc phát huy nhân tố nguồn lực con người bằng cách thu
hút và sử dụng nhân tài là phát triển giáo dục, phát triển toàn diện con người.
Mục đích của giáo dục là tạo ra giá trị của con người mà trong đó giáo dục
nhân cách và giáo dục tri thức phải được hết sức coi trọng, là nhiệm vụ số
một, xuyên suốt cả quá trình giáo dục và rèn luyện con người theo những
chuẩn mực và định hướng giá trị xã hội mới. Nhiệm vụ của giáo dục là đưa
con người đạt đến những giá trị phù hợp đặc điểm văn hoá và những yêu cầu

3
mới đặt ra đối với con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
Hơn lúc nào hết, Đảng và Nhà nước cùng với nhân dân nhanh chóng chấn

hưng sự nghiệp giáo dục của nước nhà. Việt Nam tự hào với một nền văn hoá
lâu đời, người dân thông minh, cần cù, hiếu học và sáng tạo, chúng ta vẫn tự
hào là đất địa linh, nhân kiệt, lẽ nào chúng ta mãi chịu cảnh nghèo nàn và lạc
hậu. Để thoát khỏi tình trạng này chỉ có phát triển giáo dục, phát triển trí thức
và nhân tài, đặc biệt là tài năng trẻ, nhiệm vụ này phải trở thành chiến lược
quốc gia vừa cấp bách, vừa lâu dài.
Mỗi bước ngoặt của lịch sử, hay ở bất cứ hoàn cảnh nào, những người
lãnh đạo đất nước quy tụ được hiền tài giúp sức thì cho dù đất nước gặp muôn
vàn khó khăn cũng sẽ vượt qua để bước tới vinh quang của thời đại. Nhận
thức được những đòi hỏi của lịch sử, của thời đại mới, Đảng và Nhà nước ta
đã ban hành nhiều chính sách thu hút và sử dụng tài năng trẻ, tạo môi trường
và điều kiện để xuất hiện nhiều nhân tài làm giàu thêm “nguyên khí quốc
gia”, đây chính là mục tiêu và cũng là động lực thúc đẩy đất nước phát triển
mạnh, nhanh và bền vững. Vì vậy, nghiên cứu chính sách thu hút, sử dụng tài
năng trẻ trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước có ý nghĩa thiết thực góp phần
giúp Đảng và Chính phủ, các cấp chính quyền địa phương có thêm tư liệu,
căn cứ để góp phần hoạch định và thực hiện chính sách thu hút, sử dụng tài
năng trẻ, phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
2- Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu, hệ thống hoá các chính sách thu hút, sử dụng tài năng trẻ.
Phân tích, đánh giá hiệu quả thực hiện các chính sách thu hút, sử dụng tài
năng trẻ hiện nay.
3- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1- Đối tượng nghiên cứu :
Nghiên cứu về chính sách thu hút, sử dụng tài năng trẻ trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
3.2- Khách thể nghiên cứu :
Khách thể nghiên cứu là các cơ quan có nhiệm vụ hoạch định và thực

4

thi chính sách thu hút, sử dụng tài năng trẻ và các cơ quan, tổ chức, cá nhân
thụ hưởng chính sách.
3.3- Phạm vi nghiên cứu :
Luận văn tập trung nghiên cứu các chính sách nhằm thu hút và sử dụng
tài năng trẻ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
4- Mẫu khảo sát
- Chọn địa bàn khảo sát là Hà nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bình
Dương.
- Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động
Thương binh và xã hội, Bộ Văn hoá, thể thao và du lịch.
- Uỷ ban quốc gia về Thanh niên Việt nam, TW Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh, Trung tâm phát triển Khoa học công nghệ và tài năng trẻ, Học viện
thanh thiếu niên Việt Nam.
- Thời gian từ năm 2000 đến nay.
5- Vấn đề nghiên cứu
Những giải pháp chính sách nhằm thu hút, sử dụng tài năng trẻ trong
thời kỳ CNH, HĐH đất nước?
6- Giả thuyết nghiên cứu
- Các cơ quan trong bộ máy công quyền các cấp trong sự nghiệp CNH -
HĐH đất nước, tăng cường hội nhập kinh tế ngày càng bộc lộ sự bất hợp lý
trong chính sách thu hút, sử dụng nhân tài trẻ.
- Các tổ chức chính trị - xã hội đã có những giải pháp về thu hút, sử
dụng tài năng trẻ nhưng vẫn chưa đủ (người có tích cực có sáng tạo đổi mới
được sử dụng? ở đó bình đẳng để khuyến khích sáng tạo được trọng dụng? )
7- Phương pháp chứng minh luận điểm
- Hệ thống hoá, kế thừa các kết quả nghiên cứu đã công bố.
- Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, các giải pháp thực tiễn
thu hút, sử dụng tài năng trẻ (Hà nội, Trung ương, trong nước, ngoài nước).
- Trên cơ sở phân tích, tổng hợp để rút ra những vấn đề cơ bản mang
tính lý luận làm cơ sở cho hoạch định chính sách thu hút, sử dụng tài năng trẻ.


5

8- Dự kiến luận cứ :
8.1- Luận cứ lý thuyết
Các khái niệm tài năng và tài năng trẻ, nhân tài.
Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về nhân tài.
8.2- Luận cứ thực tế
Chính sách thu hút, sử dụng tài năng trẻ thể hiện qua các văn bản quy
phạm pháp luật của chính quyền Trung ương.
Chính sách thu hút, sử dụng tài năng trẻ tại các địa phương.
Tình hình thực hiện chính sách thu hút, sử dụng tài năng trẻ
Đánh giá khái quát về các chính sách thu hút, sử dụng tài năng trẻ hiện
hành.
9- Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm:
Phần I - Mở đầu
Phần II - Nội dung nghiên cứu
Nội dung của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về thu hút và sử dụng tài năng trẻ.
Chương 2. Thực trạng chính sách thu hút và sử dụng tài năng trẻ.
Chương 3. Giải pháp chính sách thu hút và sử dụng tài năng trẻ.
Phần III - Kết luận và khuyến nghị

6
Phần II - Nội dung nghiên cứu

Chương 1. Cơ sở lý luận về thu hút và sử dụng
tài năng trẻ
1.1- Một số khái niệm:

Chân lý “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” đã được nhân dân Việt Nam
truyền từ đời này qua đời khác, đã tạo nên một truyền thống anh hùng của dân
tộc. Nhưng trong xã hội Việt Nam hiện nay, không phải mọi người đều đã
hiểu rõ các khái niệm như thế nào là tài năng? tài năng trẻ? nhân tài? Muốn
hiểu được cần phải nghiên cứu, tìm hiểu sâu sắc những câu hỏi tưởng rằng dễ
mà khó nêu trên.
1.1.1- Tài năng:
Tài năng là năng lực vượt trội về một (hoặc một số) lĩnh vực chuyên
biệt của một cá nhân.
Người có năng khiếu nếu được đào tạo, bồi dưỡng một cách khoa học,
có hệ thống thì có thể trở thành người có tài năng. Người có tài năng thường
hoàn thành công việc hoặc một hoạt động trên một lĩnh vực nhất định với chất
lượng, hiệu quả cao, hoặc rất cao. Có một số tài năng nhỏ tuổi rất thông minh,
đĩnh ngộ, có tài ứng xử và đạt được kết quả vượt trội, được gọi là “Thần
đồng”. Ví dụ: Mozart, Lương Thế Vinh (khi nhỏ). Tuy nhiên, có nhiều người
có tài, hoặc rất có tài ví dụ: Hitler… nhưng không có đức, gây ra nhiều tai hoạ
cho cộng đồng, thì bị xã hội lên án đời này qua đời khác trong suốt quá trình
phát triển của lịch sử.
1.1.2- Nhân tài:
Khi nói nhân tài là nói tới nhân cách của người tài, bao gồm cả 2 mặt:
năng lực, phẩm chất; hoặc 2 mặt: đức, tài mà đức là gốc. Ngoài ra, phải kể tới
sự sáng tạo, cống hiến mà nhân tài mang lại cho xã hội. Chính vì vậy, ông cha
ta quan niệm: Hiền tài là người có đức, có tài, có cống hiến lớn với nước, với
dân. Ngày nay, khi nói tới cấu trúc nhân cách của nhân tài, người ta không chỉ
nói tới 2 thành tố: đức, tài mà còn đặc biệt quan tâm tới thành tố sáng tạo -

7
thành tố biểu thị năng lực rất đặc trưng của con người.
Như vậy: Nhân tài là người thông thái, giàu tính sáng tạo, có động cơ vì
lợi ích xã hội, cộng đồng, có năng lực chuyên biệt, và có một phẩm chất nổi

bật: giàu nghị lực, kiên trì tự học, tự đào tạo, biết phát hiện ra vấn đề mới,
đam mê, dũng cảm, tìm cách giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, từ đó có
cống hiến xuất sắc cho xã hội, được cộng đồng, xã hội thừa nhận, suy tôn.
1.1.3- Tài năng trẻ:
Tài năng trẻ là người bộc lộ tài năng trong giai đoạn tuổi trẻ. Tài năng
trẻ là những người trẻ tuổi có những sáng tạo lớn, đạt thành tích cao, có cống
hiến cho sự phát triển xã hội và được xã hội thừa nhận, tôn vinh, có cống hiến
xuất sắc cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và trưởng thành vượt bậc.
Tuổi của tài năng trẻ thường được tính dưới tuổi 35. Tuy nhiên, tuỳ
theo từng lĩnh vực bộc lộ tài năng khác nhau, mà tuổi được tính khác nhau.
Chẳng hạn, trong bóng đá 30 tuổi đã là “lão tướng”, nhưng trong lĩnh vực
khoa học xã hội và nhân văn tuổi 30 hãy còn rất trẻ. Một số chủ doanh
nghiệp, tuổi dưới 40 có thể vẫn đựơc xếp vào doanh nghiệp trẻ. Tuổi trẻ còn
chịu ảnh hưởng giới tính, các yếu tố chất lượng cuộc sống, sức khoẻ. Tuổi trẻ
và sự trưởng thành còn bị chi phối bởi yếu tố dân tộc, thời đại.
1.2- Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về nhân tài
Đảng ta đã nhiều lần khẳng định mục tiêu của hệ thống giáo dục ở nước
ta là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Ba mục tiêu này
có sự liên quan chặt chẽ với nhau. Dân trí cao là cái nền thuận lợi để đào tạo
nhân lực, tạo cơ hội và điều kiện tốt để xuất hiện nhiều nhân tài, xây dựng các
thế hệ con người Việt Nam hết lòng phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc.
Mục tiêu này được bắt nguồn từ truyền thống hiếu học của nhân dân ta, điều
này được kết tinh trong tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về
phát triển trí thức, phát triển nhân tài.
1.2.1- Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tài:
Chủ Tịch Hồ Chí Minh - Vị lãnh tụ thiên tài, anh hùng dân tộc, danh
nhân văn hoá kiệt xuất của thế giới, đó là danh hiệu cao quý nhất mà thế giới

8
đã dành cho Người, niềm tự hào cho dân tộc Việt Nam và cho mỗi chúng ta.

Tư tưởng và phong cách của Người đã trở thành nét đẹp văn hóa, “Văn hóa
của tương lai” và ngày càng được nhiều người, nhiều nước trên thế giới quan
tâm, tìm hiểu, nghiên cứu về tư tưởng vĩ đại của Người. ở bất cứ nơi đâu,
trong bất cứ hoàn cảnh nào, ở Người luôn toả sáng một tâm hồn lớn, một
nhân cách vĩ đại nhưng đầy ắp tính nhân văn. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề nhân tài luôn lắng đọng quan điểm “dân là gốc”, bởi mọi nhân tài đều
được sinh ra từ nhân dân và chính nhân dân là người tôn vinh và sử dụng
nhân tài, cũng chính nhân dân mới là nguồn cảm hứng sáng tạo cho mọi nhân
tài, mỗi phát minh, sáng kiến đều xuất phát từ nhu cầu của nhân dân, mỗi
thành quả sáng tạo của nhân tài đều nhằm mục đích phục vụ nhân dân và nhân
dân mới chính là người trọng tài đánh giá công minh, chính xác nhất.
Hồ Chí Minh đã sớm nhìn thấy mối quan hệ biện chứng và sức mạnh
vô địch của khối đại đoàn kết công - nông - trí thức, mối liên minh này chính
là sức mạnh nội sinh, là động lực quan trọng để đẩy mạnh sự nghiệp cách
mạng đến thắng lợi vinh quang. Chính vì hiểu rõ vai trò và tầm quan trọng
của đội ngũ trí thức và nhân tài Việt Nam trong liên minh công - nông - trí,
nên vấn đề này đã được Người quan tâm từ rất sớm ngay sau khi mới giành
được chính quyền. Người xem việc đào tạo nhân tài là một quá trình liên tục
được bắt nguồn từ truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo, truyền thống
quý trọng hiền tài của dân tộc ta, phương châm giáo dục truyền thống là “Tiên
học lễ, hậu học văn” và “cần khổ học”. Mục tiêu của giáo dục là học để làm
người, để trở thành tài, để trở thành người cán bộ ưu tú, nguyện suốt đời phấn
đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân. Sự nghiệp
giáo dục và đào tạo ngày hôm nay không chỉ là nâng cao dân trí mà nó phải
nhằm mục tiêu giải phóng con người, phát triển năng lực của mỗi con người,
nâng cao các tố chất của con người, không ngừng hoàn thiện nhân cách của
con người và cuối cùng nhằm mục đích xây dựng đất nước phồn vinh, nhân
dân được sống trong hoà bình, an ninh và hạnh phúc.
Lúc sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã khắc hoạ tiêu chuẩn của con


9
người như sau:
Có tư tưởng xã hội chủ nghĩa: có ý thức làm chủ, có tinh thần tập thể
XHCN, có tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Có tinh thần
tiến nhanh, tiến mạnh, tiễn vững chắc lên CNXH, có tinh thần dám nghĩ, dám
làm, vươn lên hàng đầu.
Có đạo đức và lối sống XHCN: Trung với nước, hiếu với dân, yêu
thương con người, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có tinh thần quốc tế
trong sáng, có lối sống lành mạnh, trong sạch.
Có tác phong XHCN: Lao động có kế hoạch, có biện pháp, có quyết
tâm, lao động có tổ chức, có kỷ luật, lao động có năng suất, có chất lượng,
hiệu quả, lao động quên mình, không sợ khó, không sợ khổ vì lợi ích của xã
hội, của tập thể và của bản thân mình.
Có năng lực để làm chủ bản thân, gia đình và công việc của mình đảm
nhiệm với tư cách là công dân tham gia làm chủ đất nước và xã hội, phải
không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, chuyên
môn và nghiệp vụ để làm chủ.
Với thanh niên phải giáo dục họ “luôn luôn nâng cao tình yêu Tổ quốc,
yêu CNXH, tăng cường tình cảm cách mạng đối với công nông, tuyệt đối
trung thành với sự nghiệp cách mạng, triệt để tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, sẵn sàng nhận bất cứ nhiệm vụ nào mà Đảng và nhân dân giao cho”.
Thường xuyên giáo dục cán bộ trẻ, tiếp tục bồi dưỡng chăm sóc giáo
dục họ để làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự đoàn thể, giai cấp và
nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt được mục đích thì phải cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư.
Người xác định “kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa
có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng
thì nhân tài càng ngày càng phát triển, càng thêm nhiều”[2, tr 316] Người
luôn mong mỏi những người tài năng ra giúp dân, giúp nước, Người nói: “…
Chúng tôi mong rằng đồng bào ta ai có tài năng và sáng kiến về những công

việc đó, lại sẵn lòng hăng hái giúp ích nước nhà thì xin gửi kế hoạch rõ ràng

10
cho Chính phủ. Chúng tôi sẽ nghiên cứu kế hoạch ấy một cách kỹ lưỡng có
thể thực hành được thì sẽ thực hành ngay”[2, tr 316].
Trong sâu thẳm tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng nhân tài là lòng thiết
tha, thực sự cầu hiền, mong muốn nhân tài ra giúp dân, giúp nước với cách
làm rất cụ thể và công khai. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác là
người thực sự quan tâm và tin tưởng đội ngũ trí thức không chỉ bằng lời nói
mà bằng việc làm rất cụ thể. Chính vì vậy, Bác đã tạo niềm tin, khơi dậy ý
thức làm chủ của đội ngũ trí thức. Bác cho rằng, để phát huy sự sáng tạo của
trí thức, cần phải đưa họ vào phong trào cách mạng, đi vào đời sống nhân dân,
coi đó là trường học lớn để học tập, rèn luyện và trưởng thành. Việc bố trí cán
bộ trí thức là một việc làm khoa học và hết sức quan trọng. Bác đặc biệt lưu ý
các tổ chức, các cấp lãnh đạo trong việc sử dụng và bố trí cán bộ phải hết sức
thận trọng. Bác nói: “ Xem người ấy xứng với việc gì. Nếu người có tài mà
dùng không đúng thì tài của họ cũng không được việc”[3, tr 511]. Người đòi
hỏi trí thức cách mạng phải là những người vừa có tài, vừa có đức. Cán bộ
lãnh đạo và người quản lý phải được đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên để
có tri thức sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, nhất là lĩnh vực mình đang phụ trách,
có như vậy mới có thể hoàn thành công việc ngày càng tốt và cống hiến ngày
càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân. Ngay sau khi nước nhà giành được
độc lập, đất nước gặp muôn vàn khó khăn, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã hết sức
chú ý đến việc dùng người tài để giúp dân, giúp nước.
Ngày 20/10/1946, trong bài “Tìm người tài đức” đăng trên báo Cứu
quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết : “Trong số 20 triệu đồng bào, chắc
không thiếu những người có tài, có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy
không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó
tôi xin thừa nhận”[2, tr 995]. Bác kêu gọi các địa phương phải tìm và giới
thiệu những người tài đức, những người “có thể làm được những việc ích

nước, lợi dân”, “những kẻ hiền năng” để Chính phủ tuyển lựa và trọng dụng.
Nhờ có tấm lòng thực sự trọng dụng nhân tài, Bác đã tập hợp nhiều người có
đức, có tài về với cách mạng, giúp dân, giúp nước. Bác cho rằng, trong quá

11
trình điều hành công việc, nếu sử dụng đúng người, đúng chỗ, đúng lúc thì có
thể khai thác và phát huy hết tài năng của họ đóng góp nhiều nhất cho xã hội.
Người nói: phải vì việc mà chọn người, chứ không vì người mà đặt việc, nếu
người có tài mà không dùng đúng tài của họ cũng không được việc, ví như
thợ rèn bảo họ đi đóng tủ, thợ mộc bảo họ rèn dao, nếu họ gánh không được
chớ miễn cưỡng trao việc đó cho họ; tốt nhất là đổi việc khác cho họ. Ngược
lại, sẽ không tận dụng được triệt để tài năng mà đôi khi còn gây tác hại không
nhỏ cho cộng đồng và cả xã hội. Trong cách sử dụng nhân tài, Chủ Tịch Hồ
Chí Minh luôn thể hiện tấm lòng bao dung và có tính hiệu quả rất rõ, Bác nói:
“Việc dùng nhân tài, ta không nên căn cứ vào những điều kiện qúa khắt khe.
Miễn là không phản lại quyền lợi dân chúng, không là Việt gian, thân Pháp,
thân Nhật, có lòng trung thành với Tổ quốc là có thể dùng được. Tài to ta
dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt
ngay vào việc ấy. Biết dùng người như vậy, ta sẽ không lo gì thiếu cán bộ”[2,
tr 47].
Để có thể trọng dụng và đãi ngộ nhân tài đúng đắn, trước hết, xã hội và
Nhà nước cần đánh giá chính xác từng người tài, đánh giá cả mặt ưu, nhược
điểm và giới hạn phạm vi hoạt động. Chỉ có dựa trên cơ sở đánh giá thống
nhất xã hội và cá nhân nhân tài như vậy mới có thể đặt tài năng đúng vị trí mà
công việc và xã hội đang cần. Cũng cần lưu ý một vấn đề là có bằng cấp
không phải lúc nào, hoặt bất cứ ai cũng phản ánh đúng thực chất của tài năng,
và ngược lại, người tài năng không nhất thiết phải là người được giáo dục và
đào tạo một cách chính quy chuẩn mực, chu đáo và được đào tạo thường
xuyên.
Thực tế đã chứng minh, nhân tài chỉ có thể được khẳng định, được thừa

nhận thông qua hoạt động thực tiễn. Một người có năng lực, được đào tạo cơ
bản đến trình độ cao, nhưng không được đưa vào thực tiễn cuộc sống thì sẽ
không bộc lộ được tài năng và được công nhận. Việc chọn nhân tài là một
việc làm chiến lược, do đó, phải biết nhìn xa, trông rộng, biết chấp nhận, bỏ
qua cái không chính yếu, phải biết sử dụng và phát huy năng lực của nhân tài

12
đồng thời phải biết bảo vệ họ. Thực tế không ai là hoàn hảo cả, mọi người ai
cũng có ưu, khuyết điểm, chỉ có điều là ưu điểm nhiều, hay khuyết điểm
nhiều, nếu chúng ta biết tu dưỡng để phát huy ưu điểm và hạn chế khuyết
điểm để con người ngày càng hoàn thiện. Do đó, “Dụng nhân như dụng mộc”.
Bác nói: “Phải làm cho cán bộ có gan nói, có gan đề ra ý kiến, có gan phụ
trách, có gan làm. Không biến họ thành cái máy, chỉ biết ỉ lại trông chờ cấp
trên, nhát gan dễ bảo”[4, tr 224]. Nhân tài chỉ thực sự phát huy tối đa tác
dụng đối với xã hội nếu được tạo điều kiện để họ thực hiện tài năng, mà trước
hết là những người lãnh đạo phải biết cách trọng dụng họ, tạo cho họ có điều
kiện làm việc thuận lợi, bố trí công việc vị trí công tác hợp lý, sau đó là chế
độ đãi ngộ thoả đáng, đồng thời xã hội phải tôn vinh họ. Nếu không có môi
trường, không có điều kiện thuận lợi, tài năng có thể bị thui chột hoặc không
phát huy được tác dụng, hoặc dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám”, đây là
bài học thực tế từ xưa đến nay.
1.2.2- Quan điểm của Đảng về thu hút và trọng dụng nhân tài:
Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được
đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, xây dựng và chuẩn bị đội ngũ cho cán
bộ lãnh đạo, quản lý có tầm quan trọng đặc biệt. Theo tinh thần đó, vào những
năm 1960, Trung ương đã có chủ trương phát triển những tài năng trẻ, chuẩn
bị cho việc đào tạo và bồi dưỡng nhân tài phục vụ công cuộc kháng chiến,
kiến quốc. Trong phiên họp ngày 30/3/1961 của Uỷ Ban thường vụ Quốc hội
bàn về cải cách giáo dục, đồng chí Trường Chinh đã nêu rõ : “Vấn đề phát

triển năng khiếu của học sinh rất quan trọng. Học sinh cần phải học kiến thức
phổ thông toàn diện, nhưng đối với các em có năng khiếu cần phải có kế
hoạch hướng dẫn riêng ”.
Trong Nghị quyết số 142-NQ/TW của Bộ Chính trị Trung ương Đảng
khoá III ngày 28/6/1966 về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học kỹ thuật và
cán bộ quản lý cũng chỉ rõ : “Muốn học sinh giỏi vào các trường đại học,
phải có kế hoạch phát triển và bồi dưỡng học sinh giỏi ngay từ lớp 7, lớp

13
8…”.
Tới Nghị quyết của Bộ Chính trị số 14-NQ/TW (khoá IV) ngày
11/01/1979 về cải cách giáo dục lại nêu : “Trong hệ thống giáo dục phổ thông
cần mở những trường lớp phổ thông cho những học sinh có năng khiếu đặc
biệt”. Tiếp sau đó Nghị quyết 37-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá IV) ngày
20/4/1981 về “Chính sách khoa học và kỹ thuật” cũng chỉ ra : “Trên cơ sở
đảm bảo sự bình đẳng thực sự về quyền lợi học tập cho mọi người và phổ cập
giáo dục cho toàn dân, cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học, kỹ
thuật giỏi, những nhân tài của đất nước. Cần có biện pháp để sớm phát hiện
các mầm mống tài năng từ những trường phổ thông năng khiếu, có kế hoạch
đào tạo những học sinh xuất sắc nhanh chóng trở thành những cán bộ khoa
học và kỹ thuật giỏi và trẻ tuổi. Trong các trường đại học cần xây dựng một
số ngành trọng điểm có đủ năng lực đào tạo được các nhà khoa học và kỹ
thuật giỏi cho đất nước”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (15-18/12/1986). Báo cáo chính trị
của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đã nêu: “Nhân tài không
phải là sản phẩm tự phát mà phải được phát hiện và bồi dưỡng công phu.
Nhiều tài năng có thể mai một nếu không được phát hiện và sử dụng đúng lúc,
đúng chỗ”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (24-27/6/1991), Đảng ta đã thông
qua: “Cương lĩnh xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội” và “chiến

lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000…”.
Văn kiện này ghi rõ: “Giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài… bồi dưỡng nhiều người giỏi về khoa học
công nghệ, kinh doanh, về quản lý kinh tế, xã hội và nhiều công nhân lành
nghề…” đáp ứng yêu cầu của việc phát triển kinh tế - xã hội.
Những tư tưởng, quan điểm của Đảng kể trên đã được cụ thể hoá trong
các văn kiện của Nhà nước:
Trong Pháp lệnh ngày 14/11/1979 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và Hiến pháp năm 1992 của nước

14
CHXHCN Việt Nam đều nhấn mạnh đến việc đào tạo, bồi dưỡng năng khiếu,
tài năng. Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ra nhiều Nghị quyết, chỉ
thị… để thực hiện hoá chủ trương này.
Nghị định số 293-CP ngày 04/7/1981 của Hội đồng Chính phủ về công
tác giáo dục trong những năm trước mắt, đã nhấn mạnh việc phát hiện, bồi
dưỡng, đào tạo tài năng. Bộ Giáo dục ngay từ năm học 1962 - 1963 đã có
quyết định tổ chức các kỳ thi quốc gia chọn học sinh giỏi văn, toán cấp 2,3 và
từng bước đề nghị Chính phủ ra các quyết định mở các lớp năng khiếu toán
(QĐ-198/CP ngày 04/9/1965) và năng khiếu ngoại ngữ (QĐ-198/CP ngày
20/6/1969)…
Trong những năm gần đây, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Giáo dục - Đào
tạo có những chủ trương, biện pháp để phát triển hệ thống trường chuyên, lớp
chọn, trường phổ thông dân tộc nội trú ở bậc học phổ thông, và đã chú trọng
xây dựng 3 trung tâm chất lượng quốc gia bậc học phổ thông ở TP Hà Nội,
Huế, TP Hồ Chí Minh và xây dựng các trường Đại học Quốc gia và một số
trường, khoa trọng điểm ở bậc đại học.
1.3- Kinh nghiệm thu hút, sử dụng nhân tài trong lịch sử Việt Nam
Nhân tài và cách nhận biết nhân tài đã có từ xa xưa, cách đây khoảng
2500 năm, trong “Kinh thi” của Trung Quốc đã có những bài thơ nói về dáng

vẻ, cử chỉ và ngôn ngữ của những người có tài năng xuất chúng, nhưng vào
thời đó việc nhận biết nhân tài còn sơ lược. Về sau, do đúc rút kinh nghiệm,
việc phát hiện nhân tài càng chặt chẽ và có những tiêu chí chính xác hơn nhờ
vào việc thi cử, xem xét các tố chất, đặc điểm, tính cách của con người một
cách khoa học hơn.
Do ảnh hưởng của thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc, các triều đại phong
kiến ở nước ta cũng phỏng theo phương pháp phát hiện và tuyển chọn nhân
tài của các triều đại phong kiến phương Bắc. ảnh hưởng rõ nét lúc bấy giờ là
tư tưởng Nho giáo, đó là khi tiến cử nhân tài thì “bên trong tiến cử không kể
người thân, bên ngoài tiến cử không kể người thù oán, khảo xét căn cứ vào
công sức, năng lực, cứ có tài năng, đức độ là tiến cử, không trông ngóng báo

15
đáp của người được tiến cử”. Việc tiến cử được tiến hành rất cẩn thận “mang
điều nhân để hành động, lấy điều nghĩa để quyết đoán, nghe có người giỏi
phải nói cho nhau biết, thấy có người tốt phải giới thiệu cho nhau. Dốc sức ra
hành động mà không mệt mỏi, ở nơi ẩn khuất mà không suy nghĩ và hành
động sai lệch. Gột sửa thân để thấm nhuần đạo đức, lời nói chân thực thẳng
thắn thì phục tùng người nghe theo, tĩnh tại mà ngay thẳng, không phải đứng
ở chỗ thấp mà cho cái không phải cao mà cao. Thương dân khép mình vào
khuôn phép. Xả thân vì nước, biết đại thể mà nhìn xa trông rộng, không tư
tình trong việc dùng người, bồi dưỡng nhân tài đêm ngày giữ phép công,
không xâm phạm vào của công. Tuy ở hoàn cảnh nguy khốn nhưng vẫn nhất
quán đến cùng với chí, không những thế lại còn không quên nỗi thống khổ
của trăm họ, ngày đêm giữ phép công không sợ sức mạnh ngăn trở, chí công
vô tư. Không vì đời bình yên ổn mà khinh suất, không vì thời loạn mà bị ngăn
trở”[5, tr 63].
Tư tưởng của Nho giáo rất đề cao tinh thần đại đoàn kết “Tứ hải giai
huynh đệ” hoặc “thiên hạ nhất gia”, tư tưởng đó được Chủ Tịch Hồ Chí Minh
phát triển thành “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - thành công, thành công,

đại thành công”. Từ hàng nghìn năm trước đây, trong tư tưởng của một số nhà
triết học cổ Trung Quốc đã thể hiện tư tưởng trọng dân, Mạnh Tử nói: “Dân
vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi kính” (Dân là quan trọng, rồi đến đất nước, Vua
chỉ là thường). Trong tư tưởng Nho giáo cũng đã thể hiện tư tưởng gần dân và
vì dân, đặc biệt là tư tưởng lấy dân làm gốc là một tư tưởng rất tiến bộ mà cho
đến ngày nay tư tưởng này vẫn còn nguyên giá trị, đó là : “Dân là gốc của
nước, gốc vững thì nước mới yên”[4, tr 184].
Trọng dụng hiền tài cũng được đề cao trong tư tưởng nho giáo “tôn
trọng sử dụng người có tài, để họ ở vị trí xứng đáng thì người tài trong thiên
hạ sẽ vui lòng phục vụ triều đình”. Những tư tưởng tích cực của nho giáo
được nêu trên đây cũng rất đáng để chúng ta lấy đó làm bài học tham khảo.
Tuy chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng nho giáo, nhưng ông cha ta
một mặt tiếp thu có chọn lọc những điểm tích cực, mặt khác vẫn giữ được bản

16
sắc văn hoá để tạo nên nét mới trong văn hoá của mình. Vì thế, ngay trong
việc phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng và sử dụng hiền tài, ông cha ta vẫn giữ
những nét đặc trưng riêng của dân tộc Việt Nam. Điều này được thể hiện rất
rõ ở triều đại nhà Lý. Năm 1010 vua Lý Thái Tổ dời đố từ Hoa Lư ra thành
Đại La, lập nên kinh đô Thăng long, đến năm 1075 mở khoa thi đầu tiên chọn
nhân tài và năm 1076 vua Lý Nhân Tông đã cho lập Quốc Tử Giám làm nơi
học tập cho các quan viên văn chức. Sự ra đời của trường Đại học này đã mở
ra một trang mới cho nền giáo dục của nước nhà. Kể từ khoa thi đầu tiên đến
những năm đầu của thế kỷ XIX tại Quốc Tử Giám, sử sách còn ghi lại được
188 khoa thi Nho học và tuyển chọn 2.898 vị khoa bảng, trong đó có 47 vị đỗ
trạng nguyên (có tài liệu nói là 56 trạng nguyên), 48 vị đỗ bảng nhãn và 75 vị
đỗ thám khoa, 2396 vị tiến sĩ (trong đó có hàng trăm vị đỗ hoàng giáp), 266 vị
đỗ phó bảng và 66 vị tiến sĩ chưa có thư tịch. Đó là những trí thức bậc cao của
các triều đại phong kiến, tên tuổi của họ gắn liền với lịch sử, với sự phát triển
đất nước, nhiều người đã có những cống hiến to lớn cho dân tộc. Để ca ngợi

trí thức và nhân tài của Việt Nam, Phan Huy Chú đã viết: “Nước Việt ta
phong khí đã mở mang, khí tinh hoa đều hợp lại. Trong khoảng khắc đó, vua
hiền chúa sáng kế tiếp nổi lên, danh khanh, lương tá thường xuyên xuất hiện
ra. Các danh tài tuấn kiệt đời đời có, hoặc có người được ghi công vào đỉnh
vạc, hoặc có người ghi công vào lưới búa cờ mao, có người nổi tiếng ở làng
văn, có người tỏ khí tiết trong lúc cùng, đều là những người tài năng đáng
chép, có công danh nghiệp vọng đáng khen và trên dưới một nghìn năm xuất
hiện lũ lượt”[6, tr 153]. Để tôn vinh và lưu truyền danh thơm của các nhà
khoa bảng cho con cháu đời sau học tâp, năm 1484, người xưa đã khắc tên
các vị tiến sĩ, hoặc khắc những áng thơ văn ca ngợi các nhân tài trên những
tấm bia đá để lưu truyền đến đời sau.
Khi nghiên cứu các văn bia, các bậc tiền nhân đã ghi lại những tư tưởng
của các bậc thánh đế, minh vương về trọng dụng và tôn vinh nhân tài. Trong
“chiếu khuyến dụ hào kiệt” của Lê Thái Tổ (năm 1427) có viết: “…Ta tuy
làm chủ tướng nhưng một thì già yếu bất tài, hai thì học ít biết nông, ba thì

17
nhiệm vụ nặng nề khó gánh vác nổi. Vì thế ta muốn mình tỏ lòng thành thực
khuyên các bậc hào kiệt đều nên cùng nhau gắng sức, cứu đỡ muôn dân, đừng
có kín tiếng dấu tài, khiến thiên hạ phải hãm trong lầm than mãi mãi”. Năm
1429, trong “chiếu cầu hiền” của Ông đã ghi “Đất nước thịnh vượng tất ở việc
cử hiền. Người làm vua thiên hạ phải lo công việc đó trước tiên”.
Trong việc tuyển chọn hiền tài, ngay từ xa xưa ông cha ta đã rất quan
tâm và tổ chức tuyển chọn qua thi cử và tiến cử, thông qua nhiều hình thức
linh hoạt khác nhau. Thời vua Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết “Chiếu cầu hiền tài”.
Chiếu hạ lệnh cho các quan từ tam phẩm trở lên đều phải tiến cử một người,
ai tiến cử đúng hiền tài thì được thưởng, người nào có tài mà bị khuất, mà
không ai tiến cử thì được tự tiến cử. Hiền tài được tiến cử và hiền tài tự tiến
cử đều được vua trọng dụng.
Trong văn bia khoa thi năm 1613 có đoạn viết “Đất nước có nền thịnh

trị tất sinh ra bậc toàn tài, bậc toàn tài có thể giữ nền thịnh trị”, hay trong văn
bia khoa thi năm 1715 cũng có ghi “Vận hội nước nhà được thịnh vượng, cơ
đồ được vững vàng vì có hiền tài đông đúc như cây trong rừng”. Thời Tây
Sơn, vua Quang Trung đã ban “Chiếu học”, trong chiếu khẳng định “Dựng
nước lấy việc học làm đầu, trị nước chọn nhân tài làm gốc”.
Năm Cảnh Hưng thứ 24 (1763) nhà vua đích thân viết “Chiếu hiền tài”,
chiếu viết “Nhà nước làm chính trị phải dùng người hiền tài, triều đình dùng
người phải xét lời bàn của nhiều người. Ta lưu tâm việc trị nước, độc ý việc
cầu tài”. Trong cuốn “Đại Nam thực lục” có viết, năm 1827 vua Minh Mạng
ban chiếu có ghi “Đạo trị nước phải lấy việc gây dựng nhân tài làm việc ưu
tiên mà phương pháp gây dựng thì trước hết phải nuôi dưỡng người tài”.
Trong các triều đại phong kiến tiêu chuẩn lựa chọn hiền tài được quy
định rõ ràng, phải tuyệt đối trung thành với vua, phải là người trong sạch,
chính trực, ngay thẳng, không xu nịnh. Triều đình phong kiến đã áp dụng chế
độ thưởng phạt nghiêm minh: đối với người đỗ cao, làm việc giỏi được cân
nhắc, lên chức lên lương, cấp bổng lộc, được ban chức tước cho bố mẹ, vợ
con. Ngược lại là những hình thức xử phạt: hạ lương, giáng chức, tống giam,

18
tịch thu tài sản, cách tuột hết các chức, tước bổng lộc cho lưu đày… các điều
luật cũng hết sức cụ thể, tiêu biểu là Bộ Luật Hồng Đức. Từ cách thưởng, phạt
như vậy chính là những hình thức giáo dục quan lại không ngừng tu dưỡng và
rèn luyện vươn lên. Trong việc sử dụng hiền tài, ông cha ta không chỉ chú
trọng vào bằng cấp mà quan trọng hơn là năng lực thực tế thông qua kết quả
hoàn thành công việc. Bên cạnh việc phát hiện và sử dụng hiền tài, cha ông ta
cũng rất chú trọng đến việc tôn vinh bậc hiền tài, những người có đức, có tài,
có công lớn với quê hương, đất nước. Những người này đều được đích thân
nhà vua trọng thưởng tùy theo công trạng và khi chết đều được nhân dân thờ
cúng, suy tôn là thần, là thánh.
Để tìm được hiền tài đích thực thì ngoài việc thi cử phải nghiêm túc

(một yếu tố quan trọng bậc nhất) cũng cần phải phối hợp với nhiều phương
pháp khác nhau thì mới có thể suy xét đến cùng và không chọn nhầm hoặc bỏ
sót hiền tài. Để ghi nhận lòng trung thành và đạo đức của quan lại, trước khi
nhận chức các quan phải tuyên thệ trước trời đất và nhà vua. Hình thức này
được tổ chức vào đời nhà Lý - Trần khoảng tháng 3 - 4 âm lịch, những hội thề
Đồng Cổ tại phường Yên Thái (Ba Đình ngày nay), các quan trong triều cũng
cắt máu, ăn thề “làm tôi tận trung, làm quan trong sạch, ai trái lời thề thần linh
giết chết”. Đối với triều đình cũng ban hành các quy định không cho phép các
quan được tổ chức sinh hoạt lãng phí, phải hết lòng vì công việc chung. Ví dụ
vua Lê Thái Tổ đã ban chiếu: “Tuyên các quan không được lễ nghi khánh hạ,
cấm tham lam hay lười biếng, coi công việc quốc gia là công việc mình, lấy
điều lo của dân là điều lo thiết kỷ, khiến xã tắc yên như Thái sơn, cơ đồ vững
như bàn thạch”. Ngày nay, nhân dân ta cũng mong muốn cán bộ trước khi
nhận chức hãy noi gương các bậc tiền nhân, hãy tuyên thệ trước trời đất và
nhân dân để tỏ lòng trung thành với Tổ quốc và hết lòng phục vụ nhân dân,
tận tâm với công việc và không tham nhũng.
Các triều đại phong kiến sau này tiến hành công việc phát hiện, đào tạo
và bồi dưỡng nhân tài được tiến hành ngày càng chính quy và khoa học, đó là
việc đào tạo nhân tài qua các trường từ thấp lên cao, nhưng vẫn chịu ảnh

19
hưởng bởi tư tưởng Nho giáo. Điểm cốt lõi của việc phát hiện nhân tài là qua
thi cử để kén chọn hiền tài, trong giáo dục lấy đào tạo và bồi dưỡng hiền tài là
mục tiêu, học giỏi tất sẽ được trọng dụng “Học nhi ưu tắc sĩ”, tức là đề cao
việc học trước, tuyển dụng sau và trước tiên là coi trọng “Vi chính dĩ đức”
(lấy đức để thi hành chính sự) nghĩa là làm việc chính sự lấy đức để thi hành.
Người cầm quyền dù ở cấp nào, nếu không liêm chính thì không gây được uy
tín trong nhân dân và công việc, vì vậy, sự nghiệp của họ trước sau cũng bị
thất bại. Ngày xưa phân biệt giữa quân tử và tiểu nhân thông qua nhân cách
của con người, người quân tử lấy lợi ích của đất nước, của nhân dân là trên

hết; kẻ tiểu nhân chỉ lo vun vén cho cá nhân. Nhân cách tốt ắt sẽ làm được
việc lớn, nhân cách xấu chỉ làm điều có hại. Việc giáo dục dẫn dắt học sinh
nắm vững tri thức, hình thành các quan niệm và đòi hỏi người có học phải
hoàn toàn chủ động, tìm tòi trong quá trình dạy và học, tư tưởng này phù hợp
với tư tưởng giáo dục hiện đại ngày nay là biến quá trình đào tạo thành quá
trình tự đào tạo.
Đầu tiên, mục đích giáo dục ở các triều đại phong kiến là quan tâm đến
đào tạo con em hoàng tộc, chọn các vị quan tài giỏi nhất trong triều phong
làm thái phó (một chức quan cao nhất trong hoàng đại thần làm nhiệm vụ dạy
dỗ trong cung). Nội dung đào tạo ở thời kỳ này nặng về khoa học xã hội -
nhân văn, chỉ chú ý đến kỹ năng cai trị, binh pháp, văn học nghệ thuật, lễ,
nhạc, đạo làm vua, làm tướng mà nhẹ về đào tạo khoa học tự nhiên và khoa
học kỹ thuật. Thi cử thì qúa nặng nề về phạm trường quy (Phạm huý) khiến
nhiều người thực tài có khi không đỗ đạt. Đối tượng đào tạo thường là con
nhà quý tộc hoặc giàu có, miệt thị con nhà nghèo, con hàng cháu mỏ (tầng lớp
hạ lưu); nặng tư tưởng trọng nam, khinh nữ.
Chính vì những hạn chế về việc đào tạo mà các triều đại phong kiến
không có những nhà khoa học công nghệ giỏi, làm kìm hãm sự phát triển của
đất nước. Sau này việc đào tạo đã được mở rộng cho phép các con em nông
dân thực sự tài năng cũng được vào học. Tới thời nhà Nguyễn, nhà vua cấp
lương bổng cho các giám sinh để họ theo học ở kinh đô.

20
Việc tuyển chọn hiền tài các triều đại về sau càng được tiến hành
thường xuyên hơn để lựa chọn nhiều nhân tài (Triều Lý cứ 12 đến 20 năm tổ
chức một khoa thi, đến triều Lê trở về sau thì 3 năm tổ chức một khoa thi).
Việc tổ chức thi ở các triều đại phong kiến được tổ chức ở ba cấp trình độ
khác nhau; thi Hương - tổ chức ở cấp tỉnh để chọn cử nhân; thi Hội - do Bộ lễ
của triều đình tổ chức để chọn tiến sĩ; thi Đình - được triều đình tổ chức do
đích thân vua chủ trì để chọn trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa (tam khôi).

Sau khi đã tuyển chọn được hiền tài, triều đình quy định về các chức sắc, vị
trí trong xã hội phù hợp với học vấn và tài năng của từng người. Nguyên tắc
đó là: Người có học vị cao được làm việc ở triều đình. Người thi đỗ với học vị
thấp hơn thì làm quan ở phủ, ở huyện và ai đỗ cao hơn thì được bổ nhiệm
trước.
Chế độ đãi ngộ đối với hiền tài cũng hết sức chu đáo. Sau khi công bố
danh sách thi đậu, những người đỗ đạt từ bậc tiến sĩ trở lên đều được nhà vua
đãi yến tại cung đình, được ban mũ áo, tước hiệu kèm theo bổng lộc, được
rước vinh quy về làng và được bổ nhiệm ngay vào chức vụ xứng đáng. Những
người đỗ đạt đều được hưởng lương bổng, đỗ cao thì được hưởng bổng lộc
cao. Trong quá trình sử dụng nhân tài, triều đình thường xuyên tổ chức các
đợt “khảo hạch” để bồi dưỡng và kiểm tra kiến thức của các quan lại, trên cơ
sở đó mà có chế độ đãi ngộ phù hợp, có chính sách ban phát bổng lộc tuỳ theo
phẩm cấp và công trạng; sử dụng chế độ thưởng phạt nghiêm minh để phát
huy tài năng và ngăn chặn những việc làm sai trái.
Đúc rút kinh nghiệm thực tế mà người xưa đã nói rằng: “Biết người là
đạo của đế vương, biết việc là đạo của bề tôi”, Việc chỉ đạo chiến lược, quản
lý con người và điều phối các công việc là việc của người đứng đầu một quốc
gia, một tổ chức, còn việc làm cụ thể là của người dưới quyền, có như vậy
mới phát huy được năng lực của từng cá nhân trong tập thể và tạo được sức
mạnh cộng đồng để thực hiện một công việc to lớn và phức tạp mà mỗi một
người không thể thực hiện được. Một trong những nhiệm vụ của người lãnh
đạo là cần quan tâm vào việc tìm kiếm nhân tài, bồi dưỡng để kế nhiệm mình.

×