Yêu cầu khách quan và chủ trương của Đảng về phát triển Khoa học và Công nghệ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước từ năm 1996 đến năm
2005
1. Vai trò của Khoa học và Công nghệ đối với sự phát triển kinh tế- xã hội
1. Một số khái niệm cơ bản
Khoa học :
Khoa học (science) là một hệ thống tri thức bao gồm những quy luật về tự nhiên,
xã hội và tư duy được tích luỹ trong quá trình nhận thức trên cơ sở thực tiễn, được thể
hiện bằng những khái niệm, phán đoán, học thuyết. Theo đó bản chất của khoa học là
“hệ thống tri thức ” mang tính quy luật bao gồm cả hai chức năng nhận thức và cải tạo
thế giới. Có những cách hiểu không giống nhau về khoa học.
Theo hỏi và đáp những vấn đề then chốt của KH&CN (NXB Thanh niên Hà Nội
1997 ) “Khoa học là toàn bộ sự hiểu biết về bản chất và quy luật vận động của tự
nhiên, xã hội và tư duy” [10.8] nó tìm kiếm các quy luật vận động khách quan chi phối
đến các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy. Như vậy có thề hiểu khoa học dưới 3 góc
độ:
– “ Khoa học là hệ thống các tri thức bản chất và quy luật vận động của tự nhiên, xã
hội và tư duy.
– Khoa học là một hệ thống các thiết chế khoa học, mạng lưới các cơ quan nghiên cứu
khoa học và quản lý khoa học.
– Khoa học là một hoạt động xã hội đặc biệt sản xuất ra tri thức khoa học” [10.8]
Theo sổ tay sơ giải một số từ thông thường khoa học là toàn bộ những tri thức của
loài người về những quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy đã được tích luỹ trong quá trình
lịch sử và được thực tiễn kiểm nghiệm” [20.140,141]. Hình thức biểu hiện chủ yếu của
tri thức khoa học là lý luận có khoa học về những quy luật phát triển chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy (triết học Mác Lê-nin). Có khoa học nghiên cứu những quy luật
vận động và phát triển của một loại vật chất cụ thể hoặc của một bộ phận trong đời
sống xã hội. Khoa học được chia thành hai lĩnh vực cơ bản là khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội, mỗi lĩnh vực có thể chia thành nhiều bộ phận riêng biệt.
Theo “luật KH&CN” Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ
họp thứ 7 thông qua ngày 9 tháng 6 năm 2000 “Khoa học là hệ thống tri thức về các hiện
tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên và xã hội và tư duy” [19.680]
Với cách đặt vấn đề trên, có thể khái quát: Khoa học là hệ thống tri thức của loài người
về các quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy nhằm đạt tới những hiểu biết mới và vận dụng các
hiểu biết đó vào thực tiễn.
Khoa học được chia làm 3 loại: khoa học tự nhiên (KHTN); khoa học xã hội và nhân
văn (KHXH&NV) và khoa học kỹ thuật-công nghệ. KHTN là các ngành khoa học nghiên
cứu về các hiện tượng và quá trình tự nhiên bao gồm các ngành khoa học như: toán học, vật
lý học, hoá học, sinh học…KHXH &NV là các ngành khoa học nghiên cứu các hiện tượng và
quá trình xã hội như kinh tế học, tâm lý học, xã hội học, luật học, sử học…Khoa học kỹ thuật
-công nghệ gọi là khoa học công nghệ là các ngành khoa học nghiên cứu các quy trình vận
động, các kiến thức khoa học và kỹ thuật nhằm mục đích tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu xã
hội.
Công nghệ:
Thuật ngữ “công nghệ” (technologi) có xuất xứ từ 2 từ trong tiếng Hylạp cổ. “Techno”
có nghĩa là tài năng, nghệ thuật, kỹ thuật, sự khéo léo. “Logi” có nghĩa là lời lẽ, ngôn
từ, cách diễn đạt, học thuyết. Như vậy ngay từ nghĩa gốc “công nghệ” đã bao hàm
trong đó yếu tố khoa học và yếu tố kỹ thuật.
Theo tổ chức phát triển Công nghệ của Liên hợp quốc (UMDO): Công nghệ là việc áp
dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và xử lý
một cách hệ thống, có phương pháp.
Định nghĩa này nhấn mạnh tính khoa học là thuộc tính của công nghệ và khía cạnh hiệu
quả khi xem xét việc sử dụng công nghệ cho một mục đích nào đó, tuy nhiên, định
nghĩa này chỉ đề cập trên giác độ của một tổ chức phát triển công nghệ.
Theo “Luật KH&CN” Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khoá X kỳ
họp thứ 7 thông qua ngày 9 tháng 6 năm 2000” công nghệ là tập hợp các phương pháp,
quy trình, khả năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực
thành sản phẩm” [19.680]
Trong thực tế đặt ra cần phải có một định nghĩa thống nhất khái quát được bản chất và
nội dung của công nghệ:
- Một là: Công nghệ là sự ứng dụng các quy luật tự nhiên và các nguyên lý khoa học
đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của con người
- Hai là: Công nghệ là các phương tiện kỹ thuật, là sự thể hiện vật chất hoá các tri thức
ứng dụng khoa học.
- Ba là: Công nghệ là một tập hợp các cách thức, các phương pháp, quy trình có cơ sở
khoa học để tạo ra các sản phẩm. Công nghệ có nhiều yếu tố hợp thành, tựu trung là
yếu tố con người (tri thức, trình độ, tay nghề, kỹ năng thu thập và xử lý thông tin) và
các yếu tố cơ sở vật chất kỹ thuật (công cụ lao động và đối tượng lao động).
Với cách đặt vấn đề như vậy có thể định nghĩa: Công nghệ là quá trình vận dụng các
kiến thức khoa học và kỹ thuật nhằm biến đổi các nguồn nhân lực thành sản phẩm.
Theo đó công nghệ được thể hiện thành 4 phần cơ bản như sau:
- Phần trang thiết bị bao gồm máy móc, nhà xưởng…tức là “phần cứng” của công
nghệ.
- Phần con người bao gồm kỹ năng, tay nghề của đội ngũ nguồn nhân lực để vận hành,
điều khiển nà quản lý dây chuyền công nghệ.
- Phần thông tin bao gồm (dữ liệu, tư liệu, dữ kiện) như các lý thuyết, các khái niệm, bí
quyết kỹ thuật, các công thức, các quy trình, các phương pháp, các bản thiết kế.
- Phần quản lý tổ chức: bao gồm các hoạt động về phân phối nguồn lực tập trung, mạng
lưới sản xuất, tuyển dụng và khuyến khích nhân lực…
Các thành phần trên của công nghệ có vị trí khác nhau nhưng bổ sung cho nhau tạo nên
sự biến đổi của công nghệ, trong đó con người là yếu tố trung tâm.
Phát triển KH&CN
Hoạt động KH&CN theo định nghĩa của tổ chức khoa học, giáo dục và văn hoá
(unesco) của Liên hợp quốc là “toàn bộ các hoạt động có liên quan mật thiết đến sự ra
đời và phát triển, truyền bá và ứng dụng tri thức KH&CN” [21.34]
Hoạt động KH&CN được dựa vào các yếu tố mà trong các tài liệu quốc tế thường được
gọi tắt là 5M, đó là nhân lực (Men), máy móc thiết bị (Machine), vật liệu(Matevia),
tiền đầu tư (Money) và quản lý (Management).
Theo “luật KH&CN” Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khoá X, kỳ
họp thứ 7 thông qua ngày 9 tháng 6 năm 2000 cho rằng: “hoạt động KH&CN bao gồm
nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, dịch vụ KH&CN, hoạt động phát huy sáng
kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và các hoạt động khác nhằm phát triển
KH&CN” [19.680.681]
Theo đó, phát triển KH&CN là: sự biến đổi về số lượng và chất lượng hoạt động
KH&CN trên các mặt, để phát triển KT-XH, tăng chất lượng và khả năng cạnh tranh
của hàng hoá hằm mục đích phát triển tối ưu các nguồn lực.
Phát triển KH&CN ở tầm vĩ mô là các hoạt động nhằm tạo ra tiềm lực KH&CN có số
lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH trong từng giai đoạn phát triển.
1.1.2. Yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Phát triển KH&CN là một xu thế khách quan, đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh
CNH,HĐH đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển KT-XH phấn đấu đưa
nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ: qua 10 năm đổi mới và phát triển KT-
XH, chúng ta đã cơ bản hoàn thành mục tiêu của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá
độ là tạo ra tiền đề KT-XH (phát triển nông nghiệp, tích luỹ vốn, phát triển nguồn nhân
lực…). Nướcta đã có đủ điều kiện để bước sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy
mạnh CNH,HĐH đất nước.
Trong thời kỳ mới, để thực hiện thắng lợi mục tiêu CNH,HĐH đất nước, yêu cầu khâch
quan đặt ra là chúng ta phải phát triển KH&CN, đẩy mạnh việc nghiên cứu và ứng
dụng các thành tựu của KH&CN vào sản xuất và đời sống. Chỉ có phát triển KH&CN
thì mới có thể xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ
cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất…ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào
năm 2020. Mục tiêu đó được thực hiện và hoàn thành theo đúng kế hoạch khi chúng ta
đẩy mạnh phát triển KH&CN, phát huy vai trò “động lực” của KH&CN trong phát
triển KT-XH, củng cố quốc phòng, an ninh. Trong điều kiện nước ta vừa bước ra khỏi
cuộc khủng hoảng KT-XH, sự phát triển còn chưa vững chắc. Phát triển KH&CN nhằm
“khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người
Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn lạc hậu bằng KH&CN” [6.107].
Đưa nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đồng
thời chủ động hội nhập, tranh thủ thời cơ, tiếp thụ KH&CN tiên tiến để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, đẩy mạnh
sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.
Vào cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, hầu như tất cả các nước đều có chiến
lược, chính sách nắm bắt thời cơ, tiếp thu và áp dụng nhanh những thành tựu
của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin để phát
triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ nền kinh tế công nghiệp lên kinh tế
dựa vào tri thức. Tri thức ngày càng trở thành yếu tố quyết định đối với tăng
trưởng kinh tế, tạo việc làm, nâng cao đời sống nhân dân. Ở nước ta, phát triển
tri thức là để đẩy nhanh và rút ngắn quá trình CNH,HĐH theo hướng đi, đường
lối đổi mới đã lựa chọn, nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Phát triển kinh tế tri thức là nắm bắt, vận dụng những
tri thức mới, những thành tựu mới nhất về KH&CN, về tổ chức quản lý sản
xuất, kinh doanh… Đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới trên cơ sở tạo dựng
kinh tế tri thức. Để thực hiện đẩy nhanh và rút ngắn quá trình CNH,HĐH đất
nước, chúng ta phải quan tâm và thúc đẩy KH&CN phát triển,phát huy vai trò
của KH&CN trong phát triển KT_XH, tạo sự bứt phá trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH,HĐH đất nước, thực hiện chính sách phát triển bằng và dựa vào con
người như Nghị quyết trung ương 2 khóa VIII đã chỉ ra. Do đó, phát triển
KH&CN không chỉ là đòi hỏi mà còn là nhu cầu khách quan, biện pháp hữu
hiệu để thực hiện thắng lợi mục tiêu CNH,HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong giai đoạn hiện nay, cuộc cách mạnh KH&CN đang phát triển nhanh và
ngày càng tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của nền kinh tế thế
giới.Thành tựu khoa học tiên tiến, công nghệ hiện đại đã và đang giúp nhân
loại hiểu sâu sắc hơn về tự nhiên, về quy luật phát triển của xã hội và con
người. Sự phát triển nhanh chóng về tri thức khoa học là động lực thúc đẩy
nhân loại đạt được tiến bộ trong chinh phục thiên nhiên, quản lý hiệu quả các
quá trình xã hội và phát huy tốt hơn vai trò tích cực, sáng tạo của loài người,
đưa nhân loại đến một nền văn minh mới – văn minh trí tuệ. Đối với nước ta,
thực hiện CNH,HĐH từ xuất phát điểm thấp, nền nông-công nghiệp lạc hậu,
công nghiệp nhỏ bé, công nghệ lạc hậu. Bởi vậy, đòi hỏi chúng ta phảI đi
nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định, thực hiện “tranh thủ tối đa tối đa
công nghệ tiến bộ, từng bước đưa công nghệ nước ta đạt trình độ trung bình
của khu vực”[6.37.38]. Đi tắt, đón đầu, thay đổi những công nghệ lạc hậu bằng
những công nghệ hiện đại như: Công nghệ sinh hoc, công nghệ điện tử, viễn
thông, tin học, công nghệ vật liệu mới…lựa chon các lĩnh vực có nhiều khả
năng, thuận lợi nhất để tiếp thu và chuyển giao công nghệ, phát triển nhanh các
ngành công nghiệp hiện đại, làm cho CNH phải gắn liền với HĐH đất nước,
tránh nguy cơ ngày càng tụt hậu xa hơn về kinh tế và trình độ phát triển
KH&CN, đồng thời không để nước ta rơi vào bãi rác thải công nghệ của các
nước phát triển, góp phần bảo vệ môi trường. Để tận dụng những thuận lợi,
thời cơ của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại vào thực hiện đẩy mạnh
CNH,HĐH đòi hỏi chúng ta phải phát triển tiềm lực KH&CN đất nước, nâng
cao năng lực nội sinh, trình độ KH&CN, tạo điều kiện để tiếp thu và vận dụng
những thành tựu KH&CN hiện đại vào phát triển KT-XH, củng cố quốc
phòng, an ninh.
Cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại “toàn cầu hóa
kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham
gia”[8.13]. Xu hướng hiện thực đó là kết quả của phát triển lực lượng sản xuất,
sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại. Toàn cầu hóa mở
ra cơ hội giao lưu hợp tác toàn diện giữa các nước, đặc biệt là việc chuyển giao
và ứng dụng thành tựu KH&CN hiện đại vào sản xuất và đời sống. Đối với
nước ta, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới là thời cơ để chúng ta tham gia hội
nhập qua đó mà tận dụng thu hút các nguồn lực bên ngoài như nguồn vốn,
KH&CN, kinh nghiệm quản lý …đồng thời tạo điều kiện để phát huy và khai
thác các tiềm năng nội sinh. Cơ hội để nước ta đi tắt, đón đầu vào những
ngành, những lĩnh vực công nghệ hiện đại nhằm thực hiện thắng lợi
CNH,HĐH đất nước. Đồng thời, nâng cao tiềm lực KH&CN, chất lượng và sức
cạnh tranh của hàng hóa, hàm lượng tri thức trong sản phẩm từ đó nâng cao vị
thế đất nước trên thị trường quốc tế. Thực hiện đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước
trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải phát triển KH&CN
gắn KH&CN với phát triển đất nước, thực hiện CNH,HĐH bằng KH&CN,
nâng cao trình độ phát triển và chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại, xu thế quốc tế hóa
nền kinh tế thế giới đặt ra yêu cầu đối với nước ta là phải đẩy mạnh phát triển
KH&CN, tăng tiềm lực KH&CN và phát huy vai trò của KH&CNtrong phát
triển KT_XH. Trong thời gian qua hoạt động KH_CN đã đạt được những thành
tựu to lớn góp phần vào phát triển KT_XH, nâng cao tiềm lực KT_XH, thúc
đẩy việc ứng dụng các thành tựu KH&CN vào sản xuất và đời sống, đưa nước
ta ra khỏi khủng hoảng KT-XH, tạo ra tiền đề cần thiết cho đẩy mạnh CNH-
HĐH đất nước như: trình độ công nghệ thấp, chậm đổi mới; sản phẩm nghiên
cứu khoa học còn ít và tỷ lệ ứng dụng những thành tựu nghiên cứu vào sản
xuất còn thấp; nhiều vấn đề nảy sinh trong công cuộc đổi mới chưa được làm
sáng tỏ cả về lý luận và thực tiễn; thiếu những dự báo khoa học; việc tổng kết
thực tiễn còn chậm và bị coi nhẹ. Việc khai thác và sử dụng các nguồn lực còn
thiếu quy hoạch kế hoạch gây ảnh hưởng lớn đến tài nguyên, môi trường và
điều kiện phát triển đất nước. Đội ngũ cán bộ KH&CN tuy có tăng về số lượng
nhưng chất lượng, hiệu quả còn thấp, thiếu các chuyên gia đầu ngành, chuyên
gia công nghệ hiện đại; Cơ sở vật chất kỹ thuật bảo đảm cho nghiên cứu và ứng
dụng KH&CN còn nghèo nàn, thông tin thiếu hụt, sự phối kết hợp giữa các
ngành khoa học còn hạn chế. Hệ thống tổ chức các cơ quan nghiên cứu triển
khai tuy đã được sắp xếp một bước nhưng vẫn còn trùng lắp, chưa đồng bộ
thiếu sự kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, giảng dạy với thực tiễn sản xuất
kinh doanh. Việc ứng dụng thành tựu KH&CN vào sản xuất đời sống còn hạn
chế. Thực trạng nền KH&CN trên chỉ rõ “nền KH&CN nước ta phát triển
chậm, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có, chưa đáp ứng được nhu cầu phát
triển trong thời kỳ CNH,HĐH đất nước”[7.39]. Thực trạng phát triển KH&CN
trên đặt ra yêu cầu phải tăng cường phát triển KH&CN, khắc phục những hạn
chế, khuyết điểm còn tồn tại, nâng cao trình độ KH&CN của đất nước, phát
huy vai trò nền tảng “động lực” của KH&CN trong quá trình đẩy mạnh
CNH,HĐH đất nứơc.
Phát triển KH&CN không chỉ xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp đẩy
mạnh CNH,HĐH đất nước mà còn xuất phát từ vai trò to lớn, tính cách mạng
của KH&CN đối với sự phát triển KT-XH, củng cố quốc phòng, an ninh.
1.1.3. Vai trò của KH&CN đối với sự phát triển KT_XH
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã chứng minh: Sự phát triển của các
hình thái KT-XH là quá trình lịch sử tự nhiên. Trong hình thái KT-XH, quy luật
mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là nội dung của
phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất là cái mà nhờ đó chúng ta phân
biệt được sự khác nhau của các thời đại KT-XH. Các Mác đã viết: “những thời
đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ
chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào ”[4.269]. Trong
nội dung của lực lượng sản xuất, lao động của con người và tư liệu lao động
trước hết là công cụ lao động kết hợp với nhau tạo thành “lực lượng sản xuất
hàng đầu của nhân loại là công nhân, là người lao động” [3.42]. Lao động của
con người là sự kết hợp giữa lao động trí óc và lao động cơ bắp. Ngày nay, lao
động của con người ngày càng trở nên trí tuệ hơn, lao động trí tuệ, hay nói cách
khác là hàm lượng trí tuệ trong lao động. Chính sự phát triển của KH&CN đã
góp phần nâng cao chất lượng, trình độ nguồn lao động, là yếu tố quy định hàm
lượng trí tuệ ngày càng tăng trong sản phẩm. KH&CN đã làm cho con người
trở thành nguồn lực đặc biệt của nền sản xuất xã hội, động lực chủ yếu và trực
tiếp tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tính cách mạng của
KH&CN là cơ sở của sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trong thời
gian vừa qua.
Trước hết, CácMác đã làm nổi bật vai trò của KH&CN trong sự phân tích về sự
khác biệt chủ yếu giữa công cụ lao động (dụng cụ) và máy móc. CácMác đã
chỉ ra rằng: “Tất cả các máy móc đã phát triển gồm ba bộ phận khác nhau một
cách căn bản động cơ, cơ cấu truyền lực và cuối cùng là máy công cụ hay máy
công tác” [4.538]. Sau đó, CácMác đã phân tích chi tiết chức năng từng bộ
phận của máy móc đã tạo ra năng suất cao hơn người lao động thủ công. Tuy
nhiên, lao động của con người ở giai đoạn đó (thế kỷ XIX) vẫn còn phải gắn
chặt vơí máy móc hoặc dây chuyền máy móc. Trong cuộc cách mạng KH&CN
hiện đại, các máy móc xuất hiện một khâu thứ tư là điều khiển tự động (mà
thời Các Mác chưa có) làm cho lao động của con người không nhất thiết phải
gắn chặt với máy móc hay dây chuyền máy móc của quả trình sản xuất.
Các Mác đã phát hiện ra một quy luật quan trọng là “dùng máy móc để sản
xuất ra máy móc”. Do đó, trình độ tinh vi và phức tạp cũng như độ chính xác
và chất lượng nói chung của máy móc hay hệ thống máy móc ngày càng phải
được nâng cao để có thể tạo ra được các máy móc có tính năng, tác dụng còn
cao hơn nữa, thậm chí có thể mới hẳn về chất. Ví dụ: Máy móc chế tạo cơ khí
sản xuất ra máy phát điện, các máy cơ điện chế tạo ra các linh kiện bán dẫn (vi
mạch điện tử) và do đó chế tạo ra máy điện toán…Chính trong quá trình nay,
mối quan hệ giữa KH&CN đã được hóa thân vào các thế hệ máy móc. Ví dụ:
Nhờ các kiến thức khoa học về chất bán dẫn do đó hình thành nên công nghiệp
điện tử. Ngành công nghiệp điên tử ngược trở lại cung cấp máy tính điện tử –
là công cụ hết sức quan trọng để khoa học tiếp tục nghiên cứu và phát hiện ra
các quy luật mới về cấu trúc của vật chất.
Chính sự phát minh ra quy luật nói trên mà CácMác đã nêu lên tính cách mạng
của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở của KH&CN. CácMác khẳng định:
“Công nghiệp hiện đại không bao giờ xét về cả hình thức hiệu quả của quá
trình sản xuất là hình thức cuối cùng, vì vậy cơ sở vật chất kỹ thuật của nó có
tính cách mạng” [4.629]. Sự phát triển của KH&CN là yếu tố quyết định tính
năng động của lực lượng sản xuất, là động lực thúc đẩy KT_XH phát triển.
Nhận định về quan hệ giữa khoa học và kỹ thuật và vai trò của nó trong sản
xuất, Ănghen đã chỉ rõ: Nếu kỹ thuật phụ thuộc một phần lớn vào tình trạng
của khoa học, thì khoa học lại còn phụ thuộc nhiều hơn nữa vào tình trạng và
những đòi hỏi của kỹ thuật. Khi xã hội có nhu cầu về kỹ thuật thì nhu cầu này
thúc đẩy khoa học tiến lên. Qua đây ta thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa
KH&CN đối với sự phát triển KT_XH. Khoa học, kỹ thuật và công nghệ phát
triển là động lực, cơ sở để phát triển KT_XH, ngược lại, KT_XH phát triển đặt
ra yêu cầu, đòi hỏi KH&CN phải đáp ứng sự phát triển đó.
Những luận điểm trên đã nổi bật mối quan hệ và vai trò to lớn của khoa học,
kỹ thuật và công nghệ với nền sản xiất đại công nghiệp. khẳng định vai trò to
lớn có ý nghĩa quyết định của KH&CN trong sự phát triển KT_XH, KH&CN
đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của nền KT_XH.
Kế thừa và phát triển các quan điểm trên của Mác - Ănghen, Lênin đã chỉ rõ
vai trò của khoa học kỹ thuật đối với sự phát triển KT_XH nói chung và sự
nghiệp xây dựng CNXH nói riêng.
Trước hết, Lênin khẳng định sự cần thiết phải phát triển khoa học kỹ thuật ở
nước Nga. Sau thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười đã làm cho nước Nga
thay đổi về chất trên lĩnh vực chính trị, chuyển từ nhà nước của giai cấp bóc lột
sang nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; Tuy nhiên trên
lĩnh vực KT_XH, văn hóa nước Nga vẫn là nước trong tình trạng lạc hậu, kém
phát triển, trong đó có trình độ khoa học, kỹ thuật. Trước tình hình đó, Lênin
đã thấy rõ vai trò to lớn của khoa học kỹ thuật đối với sự phát triển của đất
nước, sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước Nga Xô viết.
Lênin đã chỉ rõ: Phát triển khoa học kỹ thuật là cơ sở quan trọng nhất để xây
dựng và củng cố nhất để xây dựng và củng cố chế độ KT_XH của các nước
XHCN. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất và cuộc nội chiến 3 năm (1918-1921)
đã làm cho nền kinh tế nước Nga bị tàn phá nghiêm trọng. Trước tình hình đó,
Lênin cho rằng: Chỉ có phát triển khoa học- kỹ thuật mới có thể khôi phục nền
kinh tế nước Nga một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Người nhấn mạnh
“Phải khôi phục công, nông nghiệp trên cơ sở những thành tựu khoa học, kỹ
thuật hiện đại mới nhất” chấn hưng nền kinh tế cả nước, phải đứng vững trên
cơ sở khoa học, kỹ thuật hiện đại, tiến hành cải tạo khôi phục cả công nghiệp
và nông nghiệp [24.233]. Qua đây, người khẳng định vai trò to lớn của khoa
học kỹ thuật, là “vũ khí” quan trọng để khôi phục kinh tế, xây dựng CNXH.
Người còn khẳng định rằng: Phát triển khoa học kỹ thuật là biện pháp quan
trọng số một để nước Nga đuổi kịp và vượt các nước TBCN chỉ khi nào CNXH
có năng suất lao động cao hơn năng suất của CNTB thì mới có thể thắng được
CNTB. Để bảo vệ chính quyền Xô Viết - Nhà nước XHCN đầu tiên trên thế
giới và phát triển lực lượng sản xuất XHCN nhằm chiến thắng CNTB, đòi hỏi
nước Nga phải thực lực, nhất là thực lực về kinh tế. Lênin chỉ rõ: Muốn làm
được điều đó, trước hết phải ra sức phát triển phát triển khoa học kỹ thuật, phải
thực hiện điện khí hóa và sau đó phải nâng cao năng suất lao động. Với tầm
nhìn chiến lược, V.I.Lênin cho rằng, năng suất lao động, suy cho cùng là điều
quan trọng nhất, chủ yếu nhất để chế độ XHCN mới giành thắng lợi. CNTB
cuối cùng có thể bị đánh bại và nhất định bị đánh bại, nếu CNXH có thể sáng
tạo ra năng suất lao động mới cao hơn năng suất lao động của CNTB.
Cùng với việc khẳng định vai trò quan trọng có ý nghĩa quyết định của khoa
học kỹ thuật trong xây dựng CNXH, V.I Lênin còn chỉ rõ biện pháp chủ yếu để
phát triển khoa học kỹ thuật trong điều kiện của CNXH đó là: Thứ nhất, phải
tiến hành điện khí hóa toàn quốc; Thứ 2, phải sử dụng đội ngũ chuyên gia tư
sản và đào tạo đội ngũ chuyên gia công nông; Thứ ba, học tập, tiếp thu, kế thừa
những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến của các nước TBCN.
Các quan điểm về vai trò của khoa học, kỹ thuật mà Lênin chỉ ra có ý nghĩa
quan trọng đối với các nước đi lên xây dựng CNXH từ một xuất phát điểm
thấp. Đây là cơ sở, căn cứ quan trọng để Đảng ta xác định chiến lược phát triển
KH&CN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. Thực hiện thắng lợi
mục tiêu xây dựng CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.
Kế thừa, tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ
thể của nước ta, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Khoa học, kỹ thuật có vai trò
to lớn đối với sự phát triển KT_XH. Xuất phát từ chủ nghĩa Mác-Lênin và từ
kinh nghiệm thực tiễn hoạt động phong phú của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhận thức một cách sâu sắc ý nghĩa, vai trò to lớn của khoa học kỹ thuật đối
với sự phát triển của đất nước. Người coi: “ Thời đại của chúng ta bây giờ là
thời đại vệ tinh nhân tạo, nghĩa là thời đại của khoa học phát triển mạnh, thời
đại XHCN” [11.174]. Chính vì thế, Người khẳng định một cách dứt khoát rằng,
cách mạng XHCN phải gắn với sự phát triển của khoa học và kỹ thuật với sự
phát triển văn hóa của nhân dân; đồng thời tin tưởng rằng; CNXH cộng với
khoa học chắc chắn mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho loài người nói
chung và nhân dân Việt Nam nói riêng.
Đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí
Minh, khoa học, kỹ thuật và sự phát triển của nó lại càng chứa đựng ý nghĩa
quan trọng đặc biệt. Chúng ta đi lên CNXH từ một nền xuất phát điểm thấp
kém, nhất là về phương diện KT-XH, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế
còn nghèo nàn nông nghiệp sản xuất nhỏ là phổ biến, kỹ thuật vô cùng lạc hậu,
công nghiệp còn nhỏ bé và lẻ tẻ. Mặt khác đối với chúng ta xây dựng CNXH là
một nhiệm vụ hoàn toàn mới mẻ, chưa từng có trong tiền lệ lịch sử phát triển
của dân tộc. Do đó, khi đi lên xây dựng CNXH, chúng ta phải biết kế thừa và
vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của các nước XHCN đi trước, vận dụng các
thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất và đời
sống; chỉ có dựa vào phát triển của một nền khoa học tiên tiến, bao gồm khoa
học xã hội, KHTN, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Chúng ta mới đủ sức
nghiên cứu, giải quyết một cách đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề lý luận và
thực tiễn cấp bách mà sự nghiệp xây dựng CNXH đặt ra. Trong thực tế, ngay từ
khi miền Bắc triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, cùng với Ban
chấp hành trung ương Đảng(BCHTW), Người đã chỉ đạo tiến hành cuộc cách
mạng khoa học và kỹ thuật, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, coi
cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt.
Nói về mối quan hệ biện chứng giữa khoa học, kỹ thuật với sản xuất và đời
sống xã hội, trong bài phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của
Hội nghị phổ biến khoa học kỹ thuật Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Khoa học phải xuất phát từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ
sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không
ngừng cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm cho CNXH thắng lợi”[12.78]
Việc áp dụng rộng rãi những thành tựu của khoa học, kỹ thuật vào thực tiễn sản
xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân nhằm đưa nước ta trở thành một nước
văn minh, hiện đại là một công việc rất quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên, theo
Hồ Chí Minh, công việc ấy không thể tiến hành một cách tùy tiện, thiếu sự
kiểm tra, giám sát; Bên cạnh đó, Người đặc biệt quan tâm đến việc tập hợp tri
thức, trọng dụng nhân tài, chăm lo xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa
học kỹ thuật. Tư tưởng của Người về vai trò của khoa học kỹ thuật có ý nghĩa
quan trọng, làm nền tảng để chúng ta xác định chiến lược khoa học công nghệ
trong thời kỳ mới.
Hơn nữa thế kỷ qua, nền khoa học, kỹ thuật và công nghệ nước ta đã có những
bước chuyển biến tích cực trên mọi phương diện, và do đó có nhiều đóng góp