Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Giải pháp đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ thông tin trong các cơ quan thông tin bộ ngành trong bối cảnh hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 93 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƢỢC VÀ CHÍNH SÁCH
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ



LÊ THỊ HOA






GIẢI PHÁP ĐA DẠNG HÓA
SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ THÔNG TIN
TRONG CÁC CƠ QUAN THÔNG TIN
BỘ/NGÀNH TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP






LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC







CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
MÃ SỐ: 60.34.70
KHÓA: 2007-2010







HÀ NỘI - 2010

2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu …………………………………………………… 1
2. Lịch sử nghiên cứu…………………………………………………… 3
3. Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………….5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu…………………………………… 5
5. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu………………………………………5
6. Phƣơng pháp nghiên cứu……………………………………………….6
7. Luận cứ………………………………………………………………… 7
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn…………………………… 7
9. Kết cấu của luận văn……………………………………………………7

CHƢƠNG 1. SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ THÔNG TIN TRONG HOẠT
ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THÔNG TIN BỘ/NGÀNH…………………………8
1.1. Một số khái niệm liên quan………………………………………… 8
1.1.1. Thông tin KH&CN……………………………………………….9
1.1.2. Người dùng tin và nhu cầu tin………………………………… 9
1.1.3. Sản phẩm và dịch vụ thông tin…………………………………14
1.2. Khái quát về mạng lƣới các tổ chức thông tin KH&CN
bộ/ngành…………………………………………………………… 19
1.2.1. Quá trình phát triển mạng lưới các tổ chức thông tin…………19
1.2.2. Hiện trạng các tổ chức thông tin KH&CN bộ/ngành…………19
1.3. Vai trò của SP&DVTT KH&CN……………………………………24
1.4. Yêu cầu đối với hệ thống SP&DVTT tại các bộ/ngành……………26
1.4.1. Yêu cầu đối với sản phẩm thông tin………………………… 26
1.4.2. Yêu cầu đối với DVTT 27
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CÁC SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ THÔNG TIN
TẠI CƠ QUAN CƠ QUAN BỘ/NGÀNH…………………………………….30
2.1. Đặc điểm về SP, DVTT các cơ quan thông tin bộ/ngành……… 30
2.2. Phân tích thực trạng SP, DVTT các cơ quan thông tin
bộ/ngành…………………………………………………………… 31
2.2.1. Về sản phẩm………………………………………………… 31
2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu …………………………………………………… 1
2. Lịch sử nghiên cứu…………………………………………………… 3
3. Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………….5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu…………………………………… 5
5. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu………………………………………5

6. Phƣơng pháp nghiên cứu……………………………………………….6
7. Luận cứ………………………………………………………………… 7
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn…………………………… 7
9. Kết cấu của luận văn……………………………………………………7
CHƢƠNG 1. SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ THÔNG TIN TRONG HOẠT
ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THÔNG TIN BỘ/NGÀNH…………………………8
1.1. Một số khái niệm liên quan………………………………………… 8
1.1.1. Thông tin KH&CN……………………………………………….9
1.1.2. Người dùng tin và nhu cầu tin………………………………… 9
1.1.3. Sản phẩm và dịch vụ thông tin…………………………………14
1.2. Khái quát về mạng lƣới các tổ chức thông tin KH&CN
bộ/ngành…………………………………………………………… 19
1.2.1. Quá trình phát triển mạng lưới các tổ chức thông tin…………19
1.2.2. Hiện trạng các tổ chức thông tin KH&CN bộ/ngành…………19
1.3. Vai trò của SP&DVTT KH&CN……………………………………24
1.4. Yêu cầu đối với hệ thống SP&DVTT tại các bộ/ngành……………26
1.4.1. Yêu cầu đối với sản phẩm thông tin………………………… 26
1.4.2. Yêu cầu đối với DVTT 27
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CÁC SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ THÔNG TIN
TẠI CƠ QUAN CƠ QUAN BỘ/NGÀNH…………………………………….30
2.1. Đặc điểm về SP, DVTT các cơ quan thông tin bộ/ngành……… 30
2.2. Phân tích thực trạng SP, DVTT các cơ quan thông tin
bộ/ngành…………………………………………………………… 31
2.2.1. Về sản phẩm………………………………………………… 31
3

2.2.1.1. Cơ sở dữ liệu……………………………………………… 31
2.2.1.2. Xuất bản phẩm thông tin………………………………… 38
2.2.1.3. Ấn phẩm thông tin-thư mục……………………………… 39
2.2.1.4. Trang tin điện tử………………………………………… 42

2.2.2. Dịch vụ thông tin……………………………………………… 44
2.2.2.1. Dịch vụ cung cấp tài liệu………………………………… 44
2.2.2.2. SDI- Phân phối thông tin có chọn lọc…………………… 48
2.2.2.3. RETRO- Tìm tin hồi cố- Dịch vụ tra cứu tin………………50
2.2.2.4. Tìm tin trực tuyến (on-line Searching)…………………….51
2.3. Đánh giá về chất lƣợng SP&DVTT tại các tổ chức thông tin
KH&CN bộ/ngành………………………………………………… 53
2.3.1. Tiềm lực thông tin………………………………………………53
2.3.2. Sản phẩm và dịch vụ thông tin…………………………………54
2.4. Đánh giá chung………………………………………………………56
2.4.1. Điểm mạnh…………………………………………………… 56
2.4.2. Hạn chế………………………………………………………….58
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐA DẠNG HÓA
SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ THÔNG TIN TẠI CÁC TỔ CHỨC THÔNG TIN
BỘ/NGÀNH……………………………………………………………………63
3.1. Phƣơng hƣớng đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ thông tin………63
3.1.1. Đối với các sản phẩm, dịch vụ thông tin phục vụ theo chức năng
do Nhà nước giao qua đặt hàng…………………………………… 63
3.1.2. Đối với các SP&DVTT có thu………………………………… 65
3.1.3. Hình thành chính sách cho việc phát triển hệ thống SP&DVTT
tại cơ quan thông tin bộ/ngành……………………………………68
3.2. Các giải pháp
3.2.1. Nhóm giải pháp về thông tin………………………………… 70
3.2.1.1. Tạo lập và phát triển hạ tầng thông tin ở qui mô quốc gia 70
3.2.1.2. Tạo lập tiểm lực thông tin KH&CN bộ/ngành…………… 71
3.2.1.3. Về tiểm lực thông tin……………………………………….73
3.2.2. Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách cho thông tin…………74
3.2.2.1. Nguyên tắc điều chỉnh tổng thể……………………………74
4


3.2.2.2. Nguyên tắc đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước………………….75
3.2.2.3. Đảm bảo kinh phí theo cơ chế mới của Nhà nước……… 76
3.2.3. Nhóm giải pháp tổ chức-kỹ thuật 79
3.2.3.1. Lựa chọn mô hình………………………………………….79
3.2.3.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ thông tin chuyên nghiệp……… 82
3.2.3.3. Đảm bảo về cơ sở vật chất kỹ thuật……………………….83
3.2.3.4. Tăng cường marketing…………………………………….84
3.3. Kiến nghị về chỉ đạo thực hiện…………………………………… 85
KẾT LUẬN…………………………………………………………………….87
TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
























5

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO NGHIÊN CỨU
Trong thời đại hiện nay, thông tin KH&CN trở thành nguồn lực quan trọng
để phát triển KT-XH. Xây dựng một nền tảng thông tin KH&CN hiện đại phù hợp
với nhu cầu và đặc điểm phát triển KT-XH là nhiệm vụ chiến lƣợc quan trọng
trong sự nghiệp CNH&HĐH đất nƣớc và đƣa nƣớc ta sớm hội nhập với quốc tế.
Nhận thức vai trò to lớn của thông tin KH&CN, nhiều nƣớc đã coi việc phát
triển hoạt động thông tin KH&CN là đối tƣợng của chính sách quốc gia để phát
triển đất nƣớc.
Sau hai mƣơi năm thực hiện đƣờng lối đổi mới, nền kinh tế nƣớc ta đã ra
khỏi tình trạng khủng hoảng, đất nƣớc bƣớc vào thời kỳ phát triển trong bối cảnh
hội nhập. Cơ chế thị trƣờng và hoạt động đầu tƣ liên doanh với nƣớc ngoài đang
mở ra quá trình chuyển giao, tiếp thu công nghệ tiên tiến. Nhịp độ tăng trƣởng kinh
tế của nƣớc ta mấy năm gần đây ở mức cao mà nguyên nhân chủ yếu là do thay đổi
cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, mạnh dạn giao quyền tự chủ sản xuất kinh
doanh cho các đơn vị kinh tế cơ sở và tạo động lực trực tiếp cho ngƣời lao động.
Nhƣng nhìn chung, thực trạng năng suất lao động ở nƣớc ta còn quá thấp.
Chất lƣợng hàng hóa chƣa cao và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu.
Năng suất lao động trong công nghiệp mới chỉ đạt 30% mức trung bình của thế
giới. Quy mô công nghiệp nhỏ bé và năng lực hạn chế làm cho đa phần các doanh
nghiệp chƣa đủ sức tự đầu tƣ phát triển, trình độ công nghệ sản xuất yếu kém và
lạc hậu. Cuộc cách mạng thông tin trên thế giới đã đƣa đến xu thế phát triển mới,
xây dựng xã hội thông tin trên phạm vi qui mô toàn cầu đang tạo lợi thế và cơ hội
cho các nƣớc chậm phát triển nếu biết khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài

nguyên thông tin. Tuy vậy, cho dù công tác thông tin KH&CN ở nƣớc ta đƣợc
khới sự khá sớm (bắt đầu từ Hội nghị thông tin KH&CN lần thứ nhất vào năm
1971), tiềm lực thông tin KH&CN hiện có chủ yếu vẫn mới chỉ là ở dạng kiến thức
chung, nhiều thông tin cả trong và ngoài nƣớc phục vụ trực tiếp cho hệ thống đổi
mới chƣa đƣợc tổ chức và quản lý. Trong khi ở các nƣớc, thông tin là nguồn lực
quan trọng thì ở Việt Nam, thông tin chƣa đủ sức để tạo ra nguồn lực hoàn chỉnh
cho các ngành kinh tế. Với những thành tựu của công nghệ thông tin và truyền
6

thông (CNTT) đã giúp thế giới xích lại gần nhau hơn, con ngƣời ở mọi nơi, mọi
lúc có thể truy nhập và khai thác đƣợc nguồn di sản trí tuệ chung của loài ngƣời,
giúp cho mọi cá nhân và tổ chức có thể tìm đến nhau và trao đổi thông tin với nhau
một cách thuận tiện và nhanh chóng nhằm cùng hợp tác và phát triển.
Chính sự phát triển mạnh mẽ về khối lƣợng thông tin và nhu cầu giao lƣu,
hội nhập dẫn đến nhu cầu thông tin con ngƣời ngày càng phát triển hơn bao giờ
hết. Vậy, làm thế nào để đáp ứng tốt nhất, đầy đủ nhất các nhu cầu đó. Đây là bài
toán ngày càng đƣợc các cơ quan thông tin quan tâm và tìm cách tháo gỡ. Để làm
đƣợc điều đó, mỗi cơ quan thông tin cần phải tạo ra các công cụ hữu hiệu. Trƣớc
yêu cầu đó, sản phẩm và dịch vụ thông tin (SP&DVTT) ra đời và ngày càng khẳng
định vị trí của mình trong hoạt động của các cơ quan thông tin. Cơ quan thông tin
bộ/ngành giữ vai trò quan trọng trong toàn hệ thống thông tin quốc gia có nhiệm
vụ thu thập, lƣu trữ các loại nguồn thông tin; khai thác và tổ chức phục vụ công tác
quản lý và nghiên cứu khao học của các ngành; xuất bản các xuất bản phẩm (XBP)
thông tin; trao đổi hƣớng dẫn nghiệp vụ thông tin trong toàn ngành, góp phần tạo
ra nguồn lực thông tin và đáp ứng nhu cầu tin cho đông đảo ngƣời dùng tin.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của việc tạo lập nguồn lực thông tin và phổ
biến thông tin nói chung, cung cấp các SP&DVTT nói riêng, từ khi thành lập cho
đến nay, các cơ quan thông tin KH&CN bộ/ngành đã tạo lập đƣợc các SP&DVTT
trong lĩnh vực KH&CN. Các SP&DVTT của cơ quan thông tin bộ/ngành đã đóng
vai trò quan trọng trong quá trình quản lý, nghiên cứu và triển khai KH&CN cũng

nhƣ truyền bá những thành tự KH&CN, góp phần thông qua những quyết định
quan trọng trong nhiều lĩnh vực của đời sống KT-XH. Tuy nhiên các SP&DVTT
tại đây đến nay còn hạn chế, thiếu hệ thống, còn đơn điệu, chất lƣợng chƣa cao nên
còn ít tác dụng, thiếu nghiên cứu toàn diện về nhu cầu ngƣời dùng, chƣa đóng vai
trò làm nguồn lực cho thay đổi cơ cấu kinh tế, tăng nhanh năng suất lao động, rút
ngắn thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nƣớc, chƣa góp phần làm giảm
mối lo tụt hậu càng xa so với các nƣớc trong khu vực cả về kinh tế lẫn KH&CN.
Cơ chế quản lý tập trung còn để lại dấu ấn nặng nề, mạng lƣới các tổ chức thông
tin KH&CN chƣa có bƣớc đổi mới trong hoạt động, chƣa thể hiện đƣợc mối quan
hệ hợp tác và cạnh tranh giữa các cơ quan thông tin trong nƣớc từ đó chƣa tạo ra
đƣợc môi trƣờng thuận lợi cho các cơ quan thông tin KH&CN nâng cao chất lƣợng
7

và thay đổi các sản phẩm và dịch vụ. Vì vậy, việc nghiên cứu để có đƣợc các giải
pháp đa dạng hóa SP&DVTT trong các cơ quan thông tin bộ/ngành trong bối cảnh
hội nhập là vấn đề bức xúc, có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao hiệu quả của lĩnh
vực khoa học và công nghệ nói riêng và hoạt động KT-XH nói chung, góp phần
thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc và phát triển KT-XH quốc gia một cách
toàn diện.
Vì lẽ đó, chúng tôi chọn vấn đề “Giải pháp đa dạng hóa sản phẩm và dịch
vụ thông tin trong các cơ quan thông tin bộ/ngành trong bối cảnh hội nhập”
làm đề tài cho luận văn thạc sỹ chuyên ngành Chính sách KH&CN của mình.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
Vấn đề đổi mới hoạt động của các tổ chức thông tin KH&CN thông qua việc
đa dạng hóa SP&DVTT đã đƣợc nhiều nhà khoa học và cán bộ quản lý quan tâm
nghiên cứu. Tuy nhiên, nếu nhƣ trên thế giới có nhiều chƣơng trình nghiên cứu
tổng thể thành công, thì đến nay ở nƣớc ta, các công trình nghiên cứu (các đề tài
nghiên cứu, luận văn thạc sỹ khoa học và nhiều bài báo đăng trên tạp chí), dù đã cố
gắng khảo cứu vấn đề này theo các góc độ khác nhau, nhƣng phần chủ yếu mới đề
cập tới các khía cạnh mang tính nghiệp vụ, qui trình và kỹ thuật hoạt động thông

tin. Một số kết quả nghiên cứu đã tổng hợp đƣợc phần nào cơ sở lý luận, phƣơng
pháp luận, có những phân tích đánh giá những thành tựu đã đạt đƣợc, những tồn tại
và đề xuất những kiến nghị góp phần đổi mới cơ chế quản lý nhà nƣớc ở tầm vĩ mô
cũng nhƣ vi mô. Những đóng góp này rất đáng trân trọng, làm cơ sở cho luận cứ lý
thuyết để thực hiện khóa luận cao học này.
Về mặt lí luận, tuyển tập “Thông tin: từ lý luận tới thực tiễn” của PGS.TS.
Nguyễn Hữu Hùng đã đề cập đến các những cơ sở lý luận của thông tin và tổ chức
nguồn lực thông tin trong các tổ chức xã hội. Cuốn giáo trình: “Sản phẩm và dịch
vụ thông tin, thư viện” của ThS. Trần Mạnh Tuấn đã đề cập đến các khái niệm và
quy trình để tạo lập các dạng SP&DVTT cơ bản và một số bài viết của một số tác
giả khác đề cập đến các các khía cạnh khác nhau của SP&DVTT trên các tạp chí
chuyên ngành TT-TV nhƣ: Tạp chí Thông tin và Tƣ liệu, Tạp chí Thƣ viện Việt
Nam.
Về mặt thực tiễn xây dựng và phát triển các SP&DVTT tại một số cơ quan
đã đƣợc khảo sát trong các luận văn thạc sỹ, nhƣ của các tác giả: Trịnh Giáng
8

Hƣơng “Nghiên cứu về sản phẩm và dịch vụ thông tin, thư viện tại Trung tâm
Thông tin- Thư viện và NCKH Văn phòng Quốc hội” (năm 2005), Phạm Thị Yên
“Nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống sản phẩm và dịch vụ thông tin- thư viện của
Trung tâm Thông tin-Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội” (năm 2005), Phùng Thị
Bình “Nghiên cứu và hoàn thiện sản phẩm và dịch vụ thông tin tại các thư viện
thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam” (năm 2007).
Các luận văn thạc sỹ về SP&DVTT từ trƣớc đến nay chủ yếu đề cập đến
các quy trình kỹ thuật và tổ chức hoạt động chung ở trên địa bàn của một cơ quan
cụ thể. Nhƣ vậy, cho tới nay, chƣa có một công trình nào khảo sát, nghiên cứu một
cách toàn diện về thực trạng các SP&DVTT tại các cơ quan thông tin bộ/ngành,
đặc biệt là các nghiên cứu trƣớc đều chƣa có câu trả lời về các nguyên nhân của
các điểm mạnh và điểm yếu cũng nhƣ chƣa đƣa ra đƣợc các giải pháp tổng thể khả
thi để phát triển SP&DVTT tại các cơ quan thông tin bộ/ngành.

3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Đánh giá thực trạng các SP&DVTT của các tổ chức thông tin KH&CN
các bộ/ngành ở Việt Nam trong thời gian qua nhằm rút ra bài học thực tiễn và lý
luận.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm đa dạng hóa SP&DVTT của các tổ
chức thông tin KH&CN các bộ/ngành cho phù hợp với yêu cầu của sự đổi mới về
quản lý trong bối cảnh nền kinh tế thị trƣờng và tích cực hội nhập quốc tế ở Việt
Nam hiện nay cũng nhƣ cho những năm tiếp theo.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là hệ thống các SP&DVTT KH&CN ở
các bộ/ngành và giải pháp để đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ của các tổ chức
thông tin KH&CN trong nền kinh tế thị trƣờng có sự quản lý của nhà nƣớc.
Khách thể nghiên cứu của luận văn là những tổ chức, đơn vị hoạt động trong
lĩnh vực thông tin KH&CN ở các cơ quan bộ/ngành.
Nội dung của luận văn đƣợc xây dựng trong khuôn khổ những quan điểm cơ
bản của Đảng và Nhà nƣớc về quản lý KH&CN, công tác phát triển các tổ chức
thông tin KH&CN hiện nay, dự báo xu hƣớng trong những năm tiếp theo.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn đƣợc giới hạn trong lĩnh vực thông tin
KH&CN các cơ quan bộ/ngành từ sau năm 2000.
9

5. CÂU HỎI VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng các sản phẩm và dịch vụ thông tin của các tổ chức thông tin
KH&CN trong các bộ/ngành ở nƣớc ta hiện nay ra sao?
- Tại sao chúng ta phải đa dạng hóa hệ thống SP&DVTT của các tổ chức
thông tin KH&CN trong nền kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta hiện nay?
- Muốn nâng cao chất lƣợng và đa dạng hóa hệ thống sản phẩm và dịch vụ
của các tổ chức thông tin KH&CN bộ/ngành thì cần phải làm những gì?
- Nhà nƣớc có vai trò nhƣ thế nào trong việc đa dạng hóa hệ thống sản phẩm

và dịch vụ của các tổ chức thông tin KH&CN các bộ/ngành?
Để trả lời cho những câu hỏi trên có một số giả thuyết cơ bản sau đây:
- Trong thời gian qua, các sản phẩm và dịch vụ của các tổ chức thông tin
KH&CN bộ/ngành ở nƣớc ta chậm thay đổi, chƣa đáp ứng với những thay đổi của
phát triển đất nƣớc trong bối cảnh nền kinh tế thị trƣờng và hội nhập quốc tế.
- Các yếu tố, điều kiện nhƣ vốn, nhân lực, thị trƣờng, hợp tác thông tin,… là
vô cùng cần thiết để đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ của các tổ chức thông
tin KH&CN các bộ/ngành.
- Với tƣ cách là ngƣời quản lý, Nhà nƣớc có vai trò to lớn trong việc đổi mới
và định hƣớng phát triển các sản phẩm và dịch vụ của các tổ chức thông tin
KH&CN nhƣ: tạo ra các cơ chế, chính sách, tạo lập thị trƣờng cho các tổ chức
thông tin KH&CN.
- Những xu hƣớng vận động của “Xã hội thông tin toàn cầu” cũng nhƣ trình
độ hoạt động thông tin KH&CN trên thế giới có tác động sâu sắc tới hệ thống sản
phẩm và dịch vụ của các tổ chức thông tin KH&CN nƣớc ta.
- Nhiều nƣớc trên thế giới đã rất thành công trong việc tạo ra bƣớc phát triển
mạnh các sản phẩm và dịch vụ của các tổ chức thông tin KH&CN và đƣa yếu tố
thông tin trở thành nguồn lực và yếu tố cấu thành trong hệ thống đổi mới quốc gia.
6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp:
- Nghiên cứu phân tích tài liệu: Phân tích hệ thống các quan điểm của Đảng
và Nhà nƣớc từ các Văn kiện của Đảng và các văn bản pháp quy của Chính phủ về
phát triển KH&CN nói chung và công tác thông tin KH&CN nói riêng;
10

- Điều tra khảo sát bằng phiếu hỏi: thiết kế phiếu điều tra và thực hiện điều
tra tại các cơ quan thông tin bộ/ngành;
- Quan sát, phỏng vấn và trao đổi trực tiếp với chuyên gia;
- Phân tích và tổng hợp.
7. LUẬN CỨ:

7.1. Luận cứ lý thuyết:
- Lý thuyết thông tin;
- Lý luận tổ chức thông tin KH&CN.
7.2. Luận cứ thực tiễn:
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về KH&CN và thông tin KH&CN;
- Các báo cáo về hiện trạng hoạt động thông tin KH&CN các bộ/ngành;
- Các đề án phát triển công tác phát triển thông tin KH&CN;
- Thông tin, số liệu thu đƣợc qua điều tra, khảo sát và phỏng vấn chuyên gia.
8. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN:
- Ý nghĩa lý luận:
Góp phần vào việc khẳng định vai trò, vị trí, ý nghĩa của SP&DVTT trong
hoạt động của các tổ chức KH&CN.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Góp phần phát triển các SP&DVTT tại các cơ quan thông tin KH&CN
bộ/ngành từ đó tiếp tục đẩy mạnh hoạt động thông tin trong hệ thống thông tin
quốc gia.
9. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và khuyến nghị, luận văn có các chƣơng
sau đây:
Chƣơng 1: Sản phẩm và dịch vụ thông tin trong hoạt động của cơ quan
thông tin bộ/ngành
Chƣơng 2: Thực trạng các sản phẩm và dịch vụ thông tin
Chƣơng 3: Những giải pháp hoàn thiện và phát triển hệ thống sản phẩm,
dịch vụ thông tin tại bộ/ngành.

CHƢƠNG I
SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ THÔNG TIN
11

TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THÔNG TIN BỘ/NGÀNH

1. 1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Thông tin KH&CN
Trong cuộc sống hàng ngày, ở đâu và lúc nào chúng ta cũng nghe nói đến hai
từ “thông tin”, chẳng hạn thông tin là nguồn lực của sự phát triển, thông tin hỗ trợ
việc hoạch định chính sách, thời đại ngày nay là thời đại của thông tin,
Vậy thông tin là gì? Có rất nhiều cách hiểu về thông tin. Ví dụ, trong Bách
khoa toàn thƣ của Liên Xô xuất bản lần thứ 3, tập 10 viết “Thông tin là tin tức
đƣợc truyền đi bởi con ngƣời bằng lời nói, chữ viết hoặc các phƣơng tiện khác”.
Theo từ điển Oxford của Anh, thông tin là “điều mà ngƣời ta đánh giá hoặc
nói đến là tri thức, tin tức”. Nhiều từ điển khác đồng nhất thông tin với kiến thức
“thông tin là điều mà ngƣời ta biết” hoặc “thông tin là sự chuyển giao tri thức làm
tăng thêm hiểu biết của con ngƣời”…
Thông tin theo gốc tiếng Latin “informatio” có hai nghĩa. Một là, nó chỉ một
hành động rất cụ thể tạo ra một hình dạng (forme). Hai là, tùy theo tình huống, nó
có nghĩa là truyền đạt một ý tƣởng, một khái niệm hay một biểu tƣợng. Tuy nhiên,
cùng với sự phát triển của xã hội, khái niệm thông tin cũng phát triển theo.
Trong lý thuyết thông tin của C.Shannon, thông tin là số đo độ bất định (càng
tăng hiểu biết về một sự vật, hiện tƣợng nào đó chúng ta càng làm giảm độ chƣa
biết hoặc độ không chắc chắn của nó).
Căn cứ vào đặc điểm, nội dung của tin tức, có thể chia thông tin thành các loại
thông tin kinh tế, thông tin quản lý, thông tin KH&CN, Mỗi loại thông tin đều
có đặc trƣng riêng, song nhìn chung chúng đều đóng vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển xã hội. Trong tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5453-1991 nêu: “Thông
tin là nội dung con ngƣời gán cho dữ liệu với các qui ƣớc (ký hiệu) đã biết, đƣợc
sử dụng trong việc trình bày chúng”.
Trong phạm vi luận văn này, khái niệm thông tin KH&CN đƣợc hiểu theo
định nghĩa tại Khoản 1, điều 2 Nghị định 159/2004/NĐ-CP ngày 31/8/2004 quy
định về hoạt động thông tin KH&CN, theo đó: “Thông tin KH&CN là các dữ liệu,
số liệu, dữ kiện, tri thức KH&CN (bao gồm khoa học tự nhiên, KH&CN, khoa học
xã hội và nhân văn) được tạo lập, quản lý và sử dụng nhằm mục đích cung cấp

12

dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước hoặc đáp ứng nhu cầu của tổ chức, cá
nhân trong xã hội”.
Nhƣ vậy, thông tin KH&CN không chỉ bó hẹp trong phạm vi thông tin về
khoa học tự nhiên, KH&CN mà còn bao gồm cả thông tin trong lĩnh vực khoa học
xã hội và nhân văn.
1.1.2. Người dùng tin và nhu cầu tin
Để có căn cứ cho việc tổ chức hoạt động thông tin nói chung và hƣớng tới
hoàn thiện SP&DVTT tại cơ quan thông tin bộ/ngành, cần phải nghiên cứu đặc
điểm ngƣời dùng tin và nhu cầu tin.
Đặc điểm định hƣớng nhu cầu thông tin KH&CN trong giai đoạn hội nhập
quốc tế đƣợc đặc trƣng bằng:
- Tính định hƣớng vĩ mô đƣợc xác định bằng các định hƣớng chiến lƣợc,
chính sách và kế hoạch dài hạn, trung hạn phát triển KT-XH nói chung và phát
triển KH&CN nói riêng. Điều này định hƣớng tới việc phát triển tiềm lực thông tin
KH&CN của đất nƣớc, với yêu cầu nội dung thông tin cơ bản cần thu thập, xử lý
và tổ chức đáp ứng phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nƣớc, tránh đƣợc sự dàn
trải, manh mún, lệch trọng tâm.
- Tính tổng hợp, đa ngành và liên ngành đƣợc quy định bởi nhu cầu gắn kết
ngày một tăng giữa KH&CN với kinh tế. Đặc điểm này đòi hỏi bên cạnh việc tăng
cƣờng năng lực tự đảm bảo thông tin của các cơ sở KH&CN (các viện, trƣờng, các
doanh nghiệp), phát triển CSDL phân tán, cần phải tập trung xây dựng một cách
tập trung các cơ quan thông tin có chức năng đáp ứng các nhu cầu tin liên ngành,
đa ngành và tổng hợp cho mọi đối tƣợng trong cả nƣớc. Trên thực tế, ngoài nhu
cầu thƣờng xuyên năm bắt kịp thời và đầy đủ thông tin chuyên ngành, một chuyên
gia ngành hẹp phải nắm bắt đƣợc những thông tin có tính tổng hợp và liên ngành
và phải tính tới các tác động về xã hội, văn hóa và phát triển bền vững.
- Sự bùng nổ về nhu cầu thông tin chỉ dẫn và định hƣớng. Khả năng truy
nhập tới các nguồn tin càng đƣợc mở rộng càng đòi hỏi phải có các công cụ và

biện pháp đáp ứng nhu cầu tin một cách hiệu quả nhất: nhanh, chính xác, tin cậy,
đầy đủ và kinh tế nhất.
- Xu thế toàn cầu hóa đòi hỏi nâng cao chất lƣợng đáp ứng nhu cầu tin. Để
sản phẩm, hàng hóa đứng vững đƣợc trên thị trƣờng đã toàn cầu hóa, thông tin đầu
13

vào cho các sản phẩm, hàng hóa đó cũng phải đƣợc đảm bảo ở trình độ quốc tế.
Việc sử dụng rộng rãi Internet sẽ thúc đẩy phát triển nhu cầu thông tin, tạo thêm
tiền đề hình thành thị trƣờng thông tin ở nƣớc ta và dẫn đến sự chấp nhận thông tin
nhƣ một loại hàng hóa thực sự.
Từ bối cảnh trên, ta xem đặc điểm của nhu cầu thông tin chung về KH&CN
ở các bộ/ngành. Từ đặc điểm nhu cầu tin trong xã hội, ngƣời ta chia ngƣời dùng tin
thành 5 nhóm cơ bản, với đặc điểm nhu cầu thông tin của từng nhóm nhƣ sau:
Nhóm 1. Người dùng tin là nhà lãnh đạo, quản lý
Lãnh đạo và quản lý là một dạng lao động đặc biệt của con ngƣời. Quản lý
là quá trình chuẩn bị và thông qua quyết định trong những tình huống xác định hay
giải quyết các vấn đề trên cơ sở thông tin thu nhận đƣợc. Hiệu quả của quá trình
quản lý tùy thuộc vào chất lƣợng của các quyết định. Quyết định có chất lƣợng là
quyết định có luận cứ khoa học, đáp ứng kịp thời và thể hiện đƣợc sự am hiểu,
thông thạo vấn đề đƣợc xác định bởi sự đầy đủ, tính chính xác và kịp thời của
thông tin, của số liệu và tƣ liệu có đƣợc. Nhƣ vậy, thông tin là yếu tố quan trọng
trong quá trình chuẩn bị quyết định và thông tin chính là đối tƣợng lao động của
ngƣời quản lý.
Ngƣời dùng tin nhóm này là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp hành chính
(lãnh đạo các Bộ/ngành, lãnh đạo các Vụ/Cục/ Ban…). Nội dung bao quát chủ đề
thông tin cho nhóm ngƣời dùng tin này có diện rộng, khái quát trên nhiều lĩnh vực,
các vấn đề có liên quan đến khoa học lãnh đạo, quản lý, các phƣơng hƣớng phát
triển của đất nƣớc. Quỹ thời gian của ngƣời dùng tin nhóm này rất ít, vì vậy, thông
tin dành cho họ cần phải nhanh, kịp thời và bảo đảm độ tin cậy, có độ khái quát và
cố kết cao. Nhƣ vậy, những ngƣời làm công tác cung cấp thông tin phục vụ lãnh

đạo phải hiểu biết rộng, nắm vững các nguồn tin và thành thạo trong việc ra cứu
tìm tin. Phƣơng pháp phục vụ cho ngƣời dùng tin ở đây thƣờng là cung cấp đến
từng cá nhân các thƣ mục tổng hợp và ấn phẩm thông tin chọn lọc, các bản tin
nhanh đƣợc xử lý tổng hợp.
Nhóm 2. Người dùng tin là các nhà doanh nghiệp
- Đối tƣợng: cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, tác nghiệp của các doanh
nghiệp; cán bộ phát triển công nghệ, lập dự án công nghệ công nghiệp, các nhà tƣ
vấn, môi giới công nghệ… Thông tin cần phục vụ:
14

+ Thông tin về hành lang pháp lý;
+ Thông tin thị trƣờng (trong nƣớc và thế giới);
+ Thông tin về công nghệ, thiết bị, sản phẩm mới;
+ Thông tin về doanh nghiệp, đối tác;
+ Kinh nghiệm quản lý, chuyển giao công nghệ…
Nhóm 3. Người dùng tin là cán bộ KH&CN
Gồm những cán bộ nghiên cứu, những ngƣời tham gia thực hiện các đề
tài/đề án nghiên cứu ở các cấp. Đây là các cán bộ khoa học và chuyên môn có học
vấn cao, quan tâm đến những tài liệu chuyên sâu thực sự có giá trị khoa học. Ngoài
những thông tin mới, cập nhật, họ cần cả những tài liệu hồi cố. Mức độ hồi cố xa
hay gần tùy thuộc vào lĩnh vực ngành khoa học mà họ nghiên cứu.
Ngƣời dùng tin nhóm này nắm vững các nguồn tài liệu của ngành mình, biết
cách sử dụng và khai thác tài liệu tại các cơ quan thông tin, thông thạo trong việc
sử dụng cách tra cứu tìm tài liệu trực tuyến qua các CSDL, các nguồn tin điện tử
trên máy tính. Thời gian họ dành cho việc nghiên cứu tài liệu khá nhiều (các
nghiên cứu cho thấy họ có thể dành từ 20 đến 50% quỹ thời gian nghiên cứu đề tìm
tin trong các cơ quan thông tin), do vậy nhu cầu tin của họ là nhu cầu tin tƣ liệu,
cần đƣợc cung cấp tài liệu gốc. Vì có kinh nghiệm trong việc sử dụng thông tin nên
ngƣời dùng tin nhóm này biết cách trình bày chính xác các nhu cầu và yêu cầu về
tài liệu của mình.

Nhóm 4: Người dùng tin là các học viên tại các cơ sở đào tạo (học viện,
trường đại học, cao đẳng, …)
Đây cũng là lƣợng ngƣời dùng tin đông đảo cần thông tin và tƣ liệu phục vụ
cho việc học tập và làm luận văn tốt nghiệp. Thông tin mà họ cần thƣờng là những
kiến thức khái quát về các ngành khoa học, cả những tài liệu mới và tài liệu hồi cố.
Do chƣa thật quen với việc sử dụng các nên họ thƣờng bỡ ngỡ trong việc tìm kiếm
và khai thác thông tin. Vì vậy, cán bộ thông tin cần chú ý hƣớng dẫn họ về các loại
nguồn lực thông tin, phƣơng pháp sử dụng các tƣ liệu tra cứu và phƣơng pháp tìm
tin trên máy…
Nhóm 5. Người dùng tin đại chúng
Đối tƣợng ngƣời dùng tin này là bộ phận trong cộng đồng dân cƣ cần thông
tin về:
15

Nhà nghiên cứu
Cán bộ chuyên môn
Cán bộ lãnh đạo quản lý
Mức độ xử lý thông tin
Chiều sâu thông tin
- Thông tin về luật pháp, chế độ, chính sách (các văn bản QPPL, chính sách
của Đảng, Nhà nƣớc, );
- Thông tin ở mức độ chung, phổ thông về các lĩnh vực KT-XH, y tế, giáo
dục, văn hóa …
Những đánh giá về ngƣời dùng tin đƣợc thể hiện ở nội dung của thông tin
đƣợc cung cấp, vốn thƣờng thay đổi theo bản chất công việc và nhiệm vụ mà ngƣời
dùng tin phải hoàn thành. Thông thƣờng các nhà lãnh đạo, quản lý cần những
thông tin xác thực, tổng hợp, cô đọng và đã đƣợc phân tích một cách có hệ thống,
các thông tin chiến lƣợc có tính dự báo để giúp họ đƣa ra đƣợc những quyết định
đúng đắn. Các cán bộ nghiên cứu cần những thông tin chi tiết về những chuyên
ngành hẹp, những vấn đề còn đang đặt ra, những thông tin định hƣớng nghiên cứu

trong khoa học. Còn các cán bộ chuyên môn quan tâm đến các thông tin dữ kiện,
các số liệu và phƣơng pháp cụ thể liên quan đến các ngành mà họ quan tâm (Hình
1, Bảng 1).

Hình 1: Sơ đồ mô tả mối quan hệ giữa chiều sâu thông tin,
mức độ xử lý thông tin và các nhóm người dùng tin












Bảng 1: Sự khác nhau trong SP&DV TT- cho người dùng tin

Cán bộ quản lý
Cán bộ nghiên cứu
Sản phẩm TT-TV
- Tổng quan
- Thông tin thƣ mục
16

- Thông tin dữ kiện
Dịch vụ TT-TV
- Tƣ vấn

- Hỏi - đáp
- Truyền dữ liệu
- Tìm tin
- Cung cấp tài liệu gốc
- Dịch tài liệu

Việc nắm bắt đƣợc định hƣớng nhu cầu thông tin KH&CN tổng thể, cũng
nhƣ biết đƣợc đặc điểm nhu cầu tin cụ thể của từng loại ngƣời dùng tin (trong bối
cảnh, môi trƣờng nhất định) luôn có ý nghĩa quan trọng đối với tổ chức thông tin
KH&CN, nhất là trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trƣờng. Bởi vì, từ đó tổ
chức thông tin KH&CN có thể có chiến lƣợc, kế hoạch xây dựng tiềm lực và nhất
là tổ chức phát triển SP&DVTT của mình một cách phù hợp, hiệu quả, đặc biệt là
những sản phẩm đặc thù có thể đứng vững và cạnh tranh trên thị trƣờng thông tin
KH&CN, mang lại lợi ích kinh tế và thƣơng hiệu, uy tín cho đơn vị.
1.1.3. Sản phẩm và dịch vụ thông tin
SP&DVTT đƣợc hình thành do nhu cầu trao đổi thông tin trong xã hội.
Cùng với các tổ chức thông tin, SP&DVTT có quá trình phát triển lâu dài. Khởi
đầu chúng chỉ là những loại hình đơn giản nhƣng cùng với sự thay đổi của thời
gian và sự phát triển của xã hội, SP&DVTT ngày càng đƣợc phát triển ở mức độ
cao hơn theo hƣớng để ngày càng thoả mãn đầy đủ hơn yêu cầu của ngƣời dùng
tin. Nhƣng phải đến thập kỷ 90 của thế kỷ 20, sự phát triển có tính đột phá của các
lĩnh vực nhƣ: kĩ thuật số, kĩ thuật vi xử lí, công nghệ truyền thông đa phƣơng tiện
đã mở rộng khả năng vô tận trong việc đáp ứng các nhu cầu trao đổi thông tin cũng
nhƣ việc tạo ra các SP&DVTT mới.
SP&DVTT- một mặt là kết quả của quá trình xử lý trí tuệ các mảng khối
thông tin và kiến thức có ở trong các nguồn tin, mặt khác lại tạo điều kiện cho việc
sử dụng tiếp theo khi chế tạo một loại hàng hoá (vật chất) cụ thể hoặc sự khởi động
một quá trình làm việc cụ thể khác. SP&DVTT đƣợc con ngƣời tạo nên và luôn
đƣợc định hƣớng để thoả mãn nhu cầu tin và các nhu cầu tinh thần, trí tuệ của con
ngƣời.

Sản phẩm (SP) là khái niệm cơ bản đƣợc sử dụng trƣớc tiên và chủ yếu
trong lĩnh vực kinh tế học và hoạt động thực tiễn của nền sản xuất. Theo “Từ điển
Bách khoa Việt Nam”, SP là kết quả của các hoạt động hoặc các quá trình, SP có
17

thể là vật chất (ví dụ, các bộ phận lắp ghép hoặc vật liệu đã chế biến), hoặc phi vật
chất (ví dụ, thông tin, khái niệm hoặc tổ hợp của chúng), SP có thể đƣợc làm ra có
chủ định (vd. để dành cho khách hàng), hoặc không đƣợc chủ định (vd. chất ô
nhiễm hoặc kết quả không mong muốn). SP là thứ có khả năng thỏa mãn nhu cầu
mong muốn của khách hàng, cống hiến những lợi ích cho họ và có thể đƣa ra chào
bán trên thị trƣờng với khả năng thu hút sự chú ý mua sắm và tiêu dùng.
SPTT- có những điểm khác biệt với những sản phẩm thông thƣờng và cũng
đƣợc hiểu nhƣ một loại hàng hóa đặc biệt. Giá cả của SPTT = giá của vật mang tin
+ giá trị của thông tin. SPTT đƣợc hình hành nhằm thoả mãn những nhu cầu thông
tin bao gồm: nhu cầu tra cứu thông tin và nhu cầu về chính bản thân thông tin. Nhƣ
vậy, SPTT phải phụ thuộc chặt chẽ vào nhu cầu của ngƣời dùng tin cũng nhƣ sự
biến đổi của nhu cầu tin của họ.
Quá trình lao động để tạo ra SPTT chính là quá trình xử lý thông tin bao
gồm: Biên mục, phân loại, định từ khoá, tóm tắt, chú giải, biên soạn tổng luận cũng
nhƣ các quá trình phân tích, tổng hợp thông tin. Ngƣời thực hiện quá trình xử lý
thông tin có thể là các chuyên gia làm việc tại một cơ quan, tổ chức có chức năng
cung cấp thông tin. Mức độ thoả mãn nhu cầu ở những SP khác nhau cũng rất khác
nhau. Ví dụ: các SP thông tin - thƣ mục (TT-TM) có khả năng thoả mãn những
nhu cầu tra cứu thông tin về tài liệu. Còn các SPTT dạng dữ kiện, toàn văn, tổng
thuật có khả năng thoả mãn nhu cầu về chính bản thân thông tin.
Nhƣ vậy, ta có thể hiểu SPTT là kết quả hữu hình của hoạt động xử lý thông
tin (bao gồm biên mục, phân loại, định từ khoá, tóm tắt, chú giải, biên soạn tổng
luận, ) do một cá nhân hay tập thể nào đó thực hiện nhằm thoả mãn nhu cầu tin
của ngƣời dùng tin khi sử dụng các cơ quan thông tin.
Một thực tế khách quan hiện nay các cơ quan thông tin đang phải đƣơng đầu

với điều kiện phục vụ ngƣời dùng tin ngày càng khắt khe hơn vì các tác động sau:
- Sự phát triển nhanh chóng của tiến bộ KH&CN làm nảy sinh những nhu
cầu mới;
- Sự đòi hỏi và lựa chọn ngày càng khắt khe của ngƣời dùng tin với các loại
sản phẩm thông tin đƣợc chuyển tải qua các phƣơng thức khác nhau;
- Khả năng thay thế nhau của các loại sản phẩm.
18

Một cơ quan thông tin cần phải đáp ứng nhu cầu thông tin của cộng đồng xã
hội thông qua sản phẩm của nó.

Một số đặc trưng của SPTT
- Chu kỳ sống: Mỗi loại sản phẩm thông tin có một chu kỳ sống. Chúng tăng
trƣởng, suy giảm, và cuối cùng đƣợc thay thế.
- Những sản phẩm mới là cần thiết cho sự tăng trƣởng: Trong xu thế đổi mới
toàn diện tất cả các mặt của đợt sống ngày nay, sự đổi mới đã trở thành nhƣ một
triết lý. Thực tế đã chỉ ra rằng những cơ quan thông tin- phát triển hiện nay là
những cơ quan có chiến lƣợc định trƣớc cho mình những sản phẩm mới.
- Sự lựa chọn sử dụng thông tin giá trị gia tăng: Trong những năm gần đây,
ngƣời dùng tin có quyền lựa chọn sản phẩm thông tin từ các nguồn thông tin khác
nhau một cách rộng rãi hơn. Đặc biệt, trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của các
phƣơng tiện truyền thông và Internet. ngƣời dùng tin có thể tìm kiếm thông tin mọi
lúc, mọi nơi không bị hạn chế không gian và thời gian.
- Những xem xét về môi trƣờng tài nguyên: Thực tế ngày nay khối lƣợng
thông tin gia tăng nhanh chóng dẫn tới việc khó khăn cho việc xử lý thông tin và
sử dụng tài liệu. Một cơ quan thông tin dù có tiềm lực lớn đến đâu cũng khó có thể
thu thập đƣợc đầy đủ các ấn phẩm xuất bản. Điều này bắt buộc các cơ quan phải có
chính sách phát triển các SPTT phù hợp và sử dụng nguồn nhân lực có trình độ cao
để tổ chức phát triển các sản phẩm, đồng thời cần phải chia sẻ nguồn lực thông tin
với các cơ quan thông tin khác.

Trong những điều kiện đó, các cơ quan thông tin phải không ngừng đổi mới
và tự hoàn thiện mình trên tất cả phƣơng diện: các nguồn lực thông tin, đa dạng
hóa các sản phẩm thông tin, phƣơng thức phục vụ, sự ứng xử nhanh nhạy với
những biến động của môi trƣờng thông tin.
Cũng giống nhƣ thuật ngữ sản phẩm, dịch vụ (DV) là một thuật ngữ đƣợc sử
dụng trƣớc tiên và chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế học và hoạt động của nhiều lĩnh
vực xã hội. Theo “Từ điển Bách khoa Việt Nam”, “DV là những hoạt động phục
vụ nhằm thoả mãn những nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt”. Sự phát triển
DV hợp lý, có chất lƣợng cao là một biểu hiện của nền kinh tế phát triển và một xã
hội văn minh. Do ý nghĩa KT-XH to lớn nên hoạt động DV trở thành lĩnh vực kinh
19

tế quan trọng, có vị trí to lớn trong cơ cấu kinh tế của các quốc gia có tốc độ phát
triển cao.
Dịch vụ thông tin (DVTT) ra đời cùng với sự hình thành của các cơ quan
thông tin và cùng với sự phát triển của hoạt động thông tin. Nhu cầu thông tin và
nhu cầu trao đổi thông tin thuộc nhóm nhu cầu tinh thần và ngƣời dùng tin sử dụng
DVTT do cơ quan thông tin cung cấp để thỏa mãn nhu cầu của họ. Từ điển giải
nghĩa Thƣ viện học và Thông tin học Anh-Việt “DVTT là một từ dùng để chỉ tất cả
các hoạt động cũng nhƣ chƣơng trình đƣợc cơ quan thông tin cung cấp để đáp ứng
nhu cầu về thông tin của cộng đồng ngƣời dùng tin” [9, tr.119].
Từ những phân tích có thể hiểu DVTT là tổ hợp của một số hình thức hoạt
động thông tin của các cơ quan thông tin nhằm thoả mãn nhu cầu thông tin và trao
đổi thông tin của ngƣời dùng tin. Theo nghĩa đó, có nhiều loại dịch vụ thông tin:
DV cung cấp tài liệu, DV trao đổi thông tin, DV phổ biến thông tin, DV tra cứu
tin,
Cơ quan thông tin là tổ chức dịch vụ KH&CN hoạt động phi lợi nhuận nên
dịch vụ thông tin không đặt trọng tâm vào mục tiêu thu nhiều lợi nhuận. Mục tiêu
quan trọng nhất của DVTT là giúp các cơ quan thông tin nâng cao khả năng đáp
ứng nhu cầu khai thác thông tin và giúp ngƣời dùng tin tiếp cận, sử dụng có hiệu

quả thông tin vào các hoạt động của mình.
Một số đặc tính của DVTT
- Tính vô hình: Khác với sản phẩm, DVTT không tồn tại dƣới dạng vật
phẩm cụ thể, không nhìn thấy đƣợc, nắm bắt đƣợc hay nhận diện đƣợc bằng giác
quan. Chính vì vậy mà khi muốn marketing cho các dịch vụ thông tin, cần phải tạo
cho NDT biết tiềm năng của nó bằng cách cung cấp cho họ một cản giác hữu hình
về các dịch vụ đó.
- Tính không đồng nhất: DVTT gắn chặt với cá nhân/tập thể cung cấp dịch
vụ. Chất lƣợng của dịch vụ phụ thuộc chặt chẽ vào các cá nhân/tập thể thực hiện
dịch vụ (trình độ, kỹ năng,…) và hơn thế nữa đối với cùng một cá nhân, chất lƣợng
dịch vụ nhiều khi cũng thay đổi theo thời gian.
- Tính không thể tách rời: Thông thƣờng để thực hiện một dịch vụ, ngƣời
cung cấp dịch vụ thƣờng phải tiến hành một số bƣớc hoặc thao tác đi liền với nhau,
không thể tách rời nhau để thu đƣợc kết quả mà ngƣời mua dịch vụ mong muốn.
20

Ví dụ, trong dịch vụ tìm kiếm thông tin, để có thể ngƣời cung cấp thông tin cần
phải thực hiện một số bƣớc sau đây:
+ Phân tích nhu cầu;
+ Xác định nguồn;
+ Thực hiện quá trình tìm tin;
+ Gửi kết quả tìm.
Mối quan hệ giữa sản phẩm và dịch vụ thông tin
SPTT và DVTT có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau cùng phát
triển. SPTT là một trong những tiền đề để cơ quan thông tin triển khai và phát triển
các dịch vụ thông tin khác nhau. SPTT chính là một trong những nguồn khai thác
thông tin quan trọng và tin cậy nhất của cơ quan thông tin bởi vì sản phẩm là kết
quả của quá trình xử lý thông tin do các cán bộ thông tin thực hiện. Các sản phẩm
có giá trị cao nhƣ bài tóm tắt, chú giải, tổng luận, các CSDL chứa các thông tin tƣ
vấn, đánh giá. Chất lƣợng và sự đa dạng của SPTT có ảnh hƣởng lớn đến chất

lƣợng và sự đa dạng của DVTT.
Các cơ quan thông tin muốn triển khai các dịch vụ cung cấp thông tin phải
dựa trên các SPTT nhƣ: hệ thống mục lục, thƣ mục, các CSDL, các ấn phẩm thông
tin, các trang tin điện tử… của chính mình hoặc của các cơ quan thông tin khác.
Tổ chức tốt các DVTT sẽ đƣa các sản phẩm thông tin đến với ngƣời dùng
một cách nhanh chóng và thuận tiện. Từ đó, mức độ khai thác SPTT của ngƣời
dùng tin sẽ nhiều hơn, góp phần phát huy hiệu quả và nâng cao giá trị của SPTT.
Thông qua việc thực hiện các nhóm dịch vụ nhƣ nhóm dịch vụ cấp thông tin,
nhóm dịch vụ hỗ trợ trao đổi thông tin và nhóm dịch vụ tƣ vấn thông tin, các cơ
quan thông tin có thể giới thiệu đến đông đảo ngƣời dùng tin những SPTT mà
mình đã xây dựng đƣợc.
DVTT còn là kênh nhận thông tin phản hồi từ phía ngƣời dùng tin, giúp cho
cơ quan thông tin có cơ sở đánh giá, điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống sản phẩm,
dịch vụ thông tin của mình để đáp ứng tốt hơn nhu cầu tin ngày càng đa dạng và
phức tạp của ngƣời dùng tin.
Mối quan hệ giữa sản phẩm và dịch vụ thông tin chặt chẽ và có tính tƣơng
tác cao nhƣ vậy nên việc đảm bảo sự phát triển cân đối, đồng bộ hệ thống sản
phẩm, dịch vụ của các cơ quan thông tin là hết sức cần thiết.
21

1.2. Khái quát về mạng lƣới các tổ chức thông tin KH&CN bộ/ngành
1.2.1. Quá trình phát triển mạng lưới các tổ chức thông tin
Hoạt động thông tin KH&CN ở nƣớc ta đã trải qua một quá trình gần 50
năm và có thể phân chia khái quát quá trình đó thành 3 giai đoạn:
- Giai đoạn mở đầu (1959-1972): giai đoạn khôi phục và phát triển các thƣ
viện KHKT, đồng thời bƣớc đầu thành lập một số phòng, ban thông tin KHKT ở
một số bộ, ngành chủ chốt. Trong giai đoạn này, các cơ quan thông tin KHKT có
nhiệm vụ chủ yếu là phục vụ thông tin cho cơ quan chủ quản và đến giữa những
năm 60 đã bắt đầu hình thành mạng lƣới các cơ quan thông tin KHKT, đồng thời
Uỷ ban Khoa học Nhà nƣớc đƣợc giao chức năng quản lý hoạt động này trong

phạm vi toàn quốc.
- Giai đoạn hình thành và phát triển Hệ thống thông tin Quốc gia (1972-
1986): Đây là thời kỳ các tổ chức thông tin KHKT phát triển nhanh. Hệ thống
thông tin KHKT quốc gia 4 cấp đƣợc hình thành với các cơ quan thông tin
KH&CN ở Trung ƣơng, Bộ/ngành, địa phƣơng và cơ sở. Có thể nói, đây là thời kỳ
các cơ quan thông tin KHKT phát triển mạnh về số lƣợng và hoạt động theo cơ chế
quản lý tập trung, bao cấp khá chặt chẽ về tất cả các mặt: kế hoạch, nghiệp vụ, đào
tạo cán bộ, hợp tác quốc tế Tuy nhiên, tiềm lực tƣ liệu, cán bộ và cả trang thiết bị
của các cơ quan thông tin đều còn rất nghèo nàn. Sản phẩm và dịch vụ của các cơ
quan thông tin chủ yếu là các ấn phẩm thông tin và phục vụ thƣ viện theo phƣơng
pháp truyền thống.
- Giai đoạn tăng cƣờng thông tin KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH và HĐH
đất nƣớc: Từ năm 1986, đất nƣớc ta bắt đầu công cuộc đổi mới theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong giai đoạn này, Hệ thống
thông tin KH&CN Quốc gia vẫn phát triển. Tuy nhiên, đã bắt đầu việc phân cấp
trong kế hoạch hóa và đảm bảo tài chính. Việc xây dựng và triển khai kế hoạch
hoạt thông tin KH&CN của Bộ ngành và địa phƣơng cũng nhƣ đầu tƣ phát triển
cho các tổ chức thông tin KH&CN chủ yếu do chính Bộ, ngành, địa phƣơng chủ
quản quyết định.
Cơ chế quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động thông tin KH&CN cũng bắt đầu
có những thay đổi: chuyển dần từ việc quản lý theo kế hoạch, phân bổ dàn đều
22

trƣớc đây sang quản lý, đầu tƣ theo trọng điểm, theo dự án, nhiệm vụ, theo các
mạng trao đổi, theo năng lực của tổ chức thông tin KH&CN
Sau khi có có Nghị quyết TW 2 Khóa 8 chuyên về KH&CN, các cơ quan
thông tin KH&CN các ngành, các cấp khẩn trƣơng đổi mới để đáp ứng yêu cầu của
quá trình CNH và HĐH đất nƣớc. Đặc điểm của hoạt động thông tin KH&CN
trong giai đoạn hiện tại là tăng cƣờng kết hợp ngày càng chặt chẽ:
- Giữa hoạt động thông tin KH&CN với hoạt động thƣ viện và hƣớng tới

xây dựng các thƣ viện điện tử;
- Giữa thông tin KH&CN với thông tin kinh tế, thông tin thị trƣờng, thông
tin công nghệ, thông tin thống kê;
- Giữa hoạt động thông tin KH&CN với thông tin đại chúng;
- Giữa hoạt động thông tin KH&CN với tin học và viễn thông.
Những nội dung cơ bản mà các tổ chức thông tin KH&CN các ngành, các
cấp đều tập trung triển khai gần đây là:
- Kiện toàn bộ máy, tổ chức lại dây chuyền công nghệ theo hƣớng gọn nhẹ
và hiệu quả;
- Tạo lập tiềm lực thông tin, nhất là nguồn tin nội sinh; Tăng cƣờng nguồn
tin điện tử, tận dụng khai thác Internet và các nguồn tin online và trên CD/ROM;
Tận dụng các khả năng chia sẻ, hỗ trợ nguồn tin trong và ngoài nƣớc;
- Cải tiến sản phẩm theo hƣớng hiện đại: lấy công cụ mạng và các CSDL
làm xƣơng sống cho mọi hoạt động;
- Tham gia tích cực tạo lập thị trƣờng công nghệ, cung cấp thông tin
KH&CN cho doanh nghiệp ;
- Áp dụng những hình thức phục vụ mới: Kho mở (với cổng từ, mã vạch),
đa phƣơng tiện, truy cập trực tuyến;
- Đẩy mạnh việc xây dựng thƣ viện điện tử, các website về KH&CN;
- Nâng cao hiệu quả đầu tƣ của Nhà nƣớc đối với hoạt động thông tin
KH&CN, nâng cao chất lƣợng các dịch vụ, sản phẩm thông tin, khả năng đáp ứng
nhu cầu tin theo hƣớng tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức thông tin
KH&CN.
1.2.2. Hiện trạng các tổ chức thông tin KH&CN bộ/ngành
23

Trong hệ thống thông tin KH&CN quốc gia các cơ quan thông tin khối
bộ/ngành giữ vị trí quan trọng. Tổ chức cơ quan thông tin bộ/ngành ở nƣớc ta đƣợc
hình thành mạnh mẽ từ đầu những năm 70 của thế kỷ XX. Qua nhiều thay đổi về tổ
chức, hiện nay khối cơ quan thông tin Trung ƣơng bộ, ngành gồm 44 đơn vị (xem

Danh sách các tổ chức thông tin KHCN Bộ, ngành trong Phụ lục 1), trong đó:
- Tại Bộ KH&CN có 3 đơn vị thông tin, đó là: Cục Thông tin KH&CN Quốc
gia là cơ quan đứng đầu mạng lƣới thông tin KH&CN; 2 trung tâm thông tin thuộc
Tổng cục TC- ĐL- CL và Cục Sở hữu Trí tuệ.
- Tại các bộ, ngành có 41 đơn vị thông tin KH&CN gồm các loại hình, tên
gọi khác nhau nhƣ sau, đó là:
+ Viện thông tin: 03 đơn vị;
+ Trung tâm thông tin trực thuộc Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ: 29 đơn vị;
+ Trung tâm thông tin thuộc Viện nghiên cứu đầu ngành: 9 đơn vị;
Hình thức tổ chức các cơ quan thông tin bộ/ngành rất đa dạng. Kết quả điều
tra cho thấy hình thức tổ chức phổ biến nhất của các cơ quan thông tin bộ/ngành
hiện nay trong mạng lƣới đƣợc chấp nhận dƣới ba loại mô hình sau:
- M1: Thông tin +Tƣ liệu + Thống kê ngành;
- M2: Thông tin- thƣ viện - CNTT;
- M3: Thông tin- Thƣ viện- Lƣu trữ- Xuất bản.
Theo mô hình M1: Thông tin + Tƣ liệu + Thống kê ngành đƣợc phổ biến
vào cuối những năm 90 (ví dụ: Trung tâm Tin học- Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn, Trung tâm Thông tin- Bộ Lao động-Thƣơng binh Xã hội, Cục thông tin
KH&CN Quốc gia- Bộ Khoa học và Công nghệ thời gian trƣớc đây). Số cơ quan
theo M1 có 12 (chiếm 27,3%). Mô hình ít đƣợc vận dụng hơn cả là M2: Thông tin-
thƣ viện- CNTT có 7 cơ quan (chiếm 15,9%). Mô hình phổ biến hơn cả là tổ chức
kết hợp thông tin- thƣ viện- lƣu trữ- xuất bản, có 25 cơ quan (chiếm 56,8%).
Tuy nhiên, mạng lƣới các cơ quan thông tin chủ yếu mới đƣợc triển khai tới
cấp các ngành Trung ƣơng, mới đƣợc hoạt động trong khuôn khổ “cục bộ”, mối
liên hệ tƣơng tác ở mức còn quá yếu, đa phần mới dừng lại ở ngƣỡng trao đổi
thông tin đơn sơ, mà chủ yếu là dƣới dạng trao đổi sao lại của nhau trong các bản
tin.
24


Tiềm lực cán bộ của cơ quan thông tin đƣợc đánh giá bằng các chỉ tiêu số
lƣợng, chất lƣợng và cơ cấu của đội ngũ cán bộ. Số lƣợng cán bộ thông tin ở các
nhóm cơ quan bộ/ngành rất khác nhau; số cán bộ trung bình ở cơ quan thông tin
nhóm bộ/ngành là 32 (cơ quan đông nhất: 130 ngƣời, thấp nhất là 8 ngƣời). Sự
phân bố cán bộ trong các nhóm cơ quan thông tin trên đây phản ánh mức độ phân
chia lao động trong mạng lƣới các cơ quan thông tin hiên nay. Thực hiện nhiệm vụ
sản xuất thông tin cần nhiều cán bộ hơn so với việc thực hiện phục vụ thông tin.
Chức năng chính của các cơ quan thông tin bộ/ngành sản xuất ra thông tin về các
lĩnh vực ngành hoặc lĩnh vực tổng hợp đƣợc bao quát. Đa phần các cơ quan thông
tin bộ/ngành ở tại các viện đầu ngành hiện nay thực hiện chức năng phổ biến phục
vụ thông tin.
Chất lƣợng của đội ngũ cán bộ cơ quan thông tin đƣợc xác định bằng trình
độ chuyên môn và nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác. Phần lớn số nhân lực trong
các cơ quan thông tin hiện nay có trình độ đại học và trên đại học (84,8%). Trong
thời gian qua, ở các quy mô và trình độ khác nhau, 78% tổng số cán bộ đã qua các
lớp đào tạo nghiệp vụ về thông tin và CNTT.
Cán bộ trong các cơ quan thông tin bộ/ngành phần lớn ở độ tuổi dƣới 45
(74%), một bộ phận đáng kể đã qua thực tế công tác trên 10 năm (56,6%).
Cán bộ thông tin có khả năng ngoại ngữ khá. Hầu hết các ngoại ngữ cơ bản
(Anh, Pháp, Nga) ở các cơ quan thông tin đều có thể sử dụng đƣợc. Một số cán bộ
thông tin có thể sử dụng dƣợc các ngoại ngữ khác nhƣ: Đức, Trung Quốc, Nhật,
Tây Ban Nha.
Cơ cấu ngành nghề của cán bộ thông tin cũng đa dạng. Trong số cán bộ có
trình độ đại học, số đƣợc đào tạo trong lĩnh vực các khoa học tự nhiên, khoa học
chính xác và KHCN chiếm 35,5% tiếp theo các khoa học xã hội và nhân văn:
31,2%, ngoại ngữ: 18,7%, khoa học thông tin hoặc thƣ viện: 14,6%.
Qua đánh giá chung, dựa trên các mặt: tổ chức, biên chế, kinh phí, tiềm lực
thông tin, tin học hóa và nhất là kết quả hoạt động, trong Đề án nghiên cứu cấp Bộ
“Chuyển đổi các tổ chức thông tin KH&CN công lập theo Nghị định 115” đã xếp
hạng các cơ quan thông tin bộ/ngành thành 3 loại sau:

+ Loại 1. Các đơn vị tƣơng đối mạnh (18 đơn vị);
+ Loại 2. Các đơn vị loại khá (11 đơn vị);

×