1
ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC Xã HộI Và NHÂN VĂN
*
NGUYễN THị THUý HồNG
NHậN DIệN CáC RàO CảN PHáT TRIểN THị TRƯờNG
THÔNG TIN KHOA HọC Và CÔNG NGHệ VIệT NAM
LUậN VĂN THạC Sĩ
CHUYÊN NGàNH QUảN Lý KHOA HọC Và CÔNG NGHệ
Hà Nội - 01/2014
2
ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC Xã HộI Và NHÂN VĂN
NGUYễN THị THUý HồNG
NHậN DIệN CáC RàO CảN PHáT TRIểN THị TRƯờNG
THÔNG TIN KHOA HọC Và CÔNG NGHệ VIệT NAM
LUậN VĂN THạC Sĩ
CHUYÊN NGàNH QUảN Lý KHOA HọC Và CÔNG NGHệ
Mã số: 60 34 04 12
Ngời hớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Ngọc Dinh
Hà Nội - 01/2014
3
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới PGS.TS. Đặng Ngọc
Dinh đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo, các đồng nghiệp đang công tác tại Cục
Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia đã nhiệt tình giúp đỡ tôi thu thập tài liệu,
đây là những căn cứ quan trọng để tôi hoàn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các giảng viên Khoa Sau Đại học, Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn Hà Nội đã truyền đạt những kiến thức khoa học và kinh
nghiệm thực tiễn cho tôi trong quá trình học tập.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn sâu sắc những người thân trong gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp đã cổ vũ, động viên tôi vượt qua những khó khăn trong quá trình học
tập, nghiên cứu.
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, Tôi cũng gặp những khó khăn nhất định
về năng lực, sự hiểu biết của bản thân và thời gian nghiên cứu có hạn nên luận văn
không tránh khỏi những hạn chế và khiếm khuyết, tác giả trân trọng và mong nhận
được những góp ý của các nhà khoa học, các giảng viên và các đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2013
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thúy Hồng
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 8
1. Tên đề tài 8
2. Lý do nghiên cứu 8
3. Lịch sử nghiên cứu 10
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 11
5. Phạm vi nghiên cứu 12
6. Mẫu khảo sát 12
7. Câu hỏi nghiên cứu 12
8. Giả thuyết nghiên cứu 12
9. Phương pháp nghiên cứu 12
10. Kết cấu luận văn 13
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƢỜNG THÔNG TIN
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 14
1.1. Khái niệm về thông tin KH&CN và thị trƣờng thông tin KH&CN 14
1.1.1. Thông tin KH&CN và hoạt động thông tin KH&CN 14
1.1.2. Khái niệm về thị trường và thị trường công nghệ 16
1.1.3. Khái niệm về thị trường thông tin và thị trường thông tin KH&CN 22
1.2. Đặc điểm của thị trƣờng thông tin KH&CN 25
1.3. Vai trò của thông tin KH&CN và thị trƣờng thông tin KH&CN
trong phát triển KT-XH 26
1.3.1. Vai trò của thông tin KH&CN 26
1.3.2. Vai trò của thị trường thông tin KH&CN 30
1.4. Các bộ phận cấu thành thị trƣờng thông tin KH&CN 32
1.4.1. Hàng hóa thông tin KH&CN 32
1.4.2. Chủ thể tham gia thị trường thông tin KH&CN 34
1.4.3. Giá cả và giá trị của hàng hóa trong thị trường thông tin KH&CN 36
1.4.4. Luật lệ, thể chế và vai trò của Nhà nước trong thị trường thông tin
KH&CN 36
CHƢƠNG 2. HIỆN TRẠNG THỊ TRƢỜNG THÔNG TIN KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM 39
2.1. Khái quát thị trƣờng thông tin KH&CN thế giới 39
2.1.1. Hai giai đoạn phát triển của thị trường thông tin KH&CN 39
5
2.1.2. Thời cơ và thách thức bởi Internet 40
2.1.3. Quy mô thế giới của thị trường thông tin KH&CN 41
2.2. Hiện trạng thị trƣờng thông tin KH&CN Việt Nam 42
2.2.1. Quá trình phát triển hoạt động thông tin KH&CN Việt Nam 42
2.2.2. Cơ sở hình thành và phát triển thị trường thông tin KH&CN Việt
Nam 43
2.2.3. Thực trạng hoạt động của thị trường thông tin KH&CN Việt Nam . 45
2.2.4. Tổng quan doanh thu các tổ chức thông tin- thư viện Việt Nam 59
2.3. Kết quả khảo sát và nhận xét tổng quát về thị trƣờng thông tin
KH&CN Việt Nam 60
2.3.1. Kết quả khảo sát 60
2.3.2. Nhận xét khái quát về thị trường thông tin KH&CN Việt Nam 64
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ RÀO CẢN VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ
TRƢỜNG THÔNG TIN KH&CN VIỆT NAM 69
3.1. Vai trò thị trƣờng thông tin KH&CN trong nền kinh tế mới 69
3.1.1. Thông tin - Nguồn lực phát triển trong nền kinh tế tri thức 69
3.1.2. Thị trường công nghệ - Môi trường phát triển của thị trường thông
tin KH&CN 69
3.2. Một số rào cản phát triển thị trƣờng thông tin KH&CN Việt Nam 70
3.2.1. Rào cản về quản lý nhà nước và môi trường pháp lý 70
3.2.2. Rào cản về thị trường (cung, cầu, tài chính) 74
3.2.3. Rào cản về nhân lực thông tin KH&CN 75
3.2.4. Rào cản về kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin 77
3.2.5. Rào cản mang tính tâm lý 78
3.3. Một số giải pháp phát triển thị trƣờng thông tin KH&CN Việt Nam 79
3.3.1. Hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao năng lực quản lý 79
3.3.2. Tăng cường tiềm lực phục vụ thị trường thông tin KH&CN 80
KẾT LUẬN 87
KHUYẾN NGHỊ 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
6
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Thống kê tỷ lệ về nhu cầu các sản phẩm và dịch vụ thông tin KH&CN
tại các cơ quan thông tin-thư viện 61
Bảng 2: Mức độ đáp ứng nhu cầu về các sản phẩm và dịch vụ thông tin
KH&CN của người dùng tin 62
Bảng 3: Thống kê tỷ lệ về khả năng thanh toán phí sản phẩm và dịch vụ thông
tin KH&CN của người dùng tin tại cơ quan thông tin-thư viện 63
Bảng 4: Thống kê tỷ lệ đề xuất giải pháp phát triển hoạt động thông tin-thư viện
ở nước ta 63
7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
TỪ VIẾT TẮT
VIẾT ĐẦY ĐỦ
CNH-HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hoá
CNTT
Công nghệ thông tin
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
CSDL
Cơ sở dữ liệu
KHKT
Khoa học kỹ thuật
KH&CN
Khoa học và công nghệ
NDT
Người dùng tin
SPDV
Sản phẩm dịch vụ
TT-TV
Thông tin -Thư viện
8
MỞ ĐẦU
1. Tên đề tài
Nhận diện các rào cản phát triển thị trường thông tin khoa học và công
nghệ Việt Nam
2. Lý do nghiên cứu
Ngày nay, thông tin KH&CN ngày càng khẳng định vai trò to lớn trong phát
triển KH&CN cũng như phát triển KT-XH đối với mỗi quốc gia và mỗi vùng lãnh
thổ, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp góp phần xác lập vị trí cạnh tranh ở mọi
cấp độ và là nguồn lực quan trọng hàng đầu của tăng trưởng kinh tế và phát triển bền
vững. Thông tin vừa là tiềm năng, tài sản và cơ hội, vừa là thách thức đối với mỗi
quốc gia. Bởi lẽ quốc gia nào nắm được kịp thời nhiều thông tin có chất lượng cao, sẽ
có lợi thế trong quá trình phát triển và ngược lại.
Ở Việt Nam, trong những năm qua, thông tin KH&CN đã góp phần đáng kể vào
quá trình phát triển KT-XH, CNH-HĐH đất nước. Hiện nay, ở Việt Nam đã hình thành
Mạng lưới thông tin KH&CN Quốc gia từ Trung ương đến địa phương với hệ thống sản
phẩm và dịch vụ thông tin khá đa dạng từ truyền thống tới hiện đại. Trình độ công nghệ
của nhiều tổ chức thông tin KH&CN trong mạng lưới đã có sự phát triển mạnh mẽ.
Nhiều tổ chức thông tin KH&CN đã áp dụng CNTT và truyền thông tiên tiến với trang
thiết bị hiện đại, đặc biệt, một số tổ chức thông tin KH&CN đã đặt mua các CSDL trực
tuyến, tạp chí điện tử trực tuyến truy cập các CSDL toàn văn của nước ngoài. Có thể
khẳng định, ở nước ta đã bước đầu manh nha hình thành một thị trường thông tin
KH&CN, điển hình là việc đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ thông tin phục vụ lãnh
đạo, phục vụ nghiên cứu và phát triển, giáo dục và đào tạo, sản xuất kinh doanh, Mô
hình “Cung cấp thông tin phục vụ phát triển KT-XH nông thôn, miền núi” đã được triển
khai ở hàng trăm điểm xã/huyện, hình thành nhiều trang chủ (website) về nông nghiệp,
nông thôn. Chợ công nghệ và thiết bị (Techmart) đã được tổ chức nhiều năm, với nhiều
quy mô, cấp độ khác nhau, Có thể coi các hoạt động thông tin KH&CN nêu trên là
những dấu hiệu tích cực cho việc hình thành thị trường thông tin KH&CN.
Mặc dù đã có những bước phát triển cả về lượng và chất, nhưng thông tin
KH&CN nước ta trong những năm qua còn bộc lộ nhiều hạn chế, nhất là trong việc
chuẩn bị các điều kiện cơ bản cho việc hình thành và phát triển thị trường thông tin
9
KH&CN, một đòi hỏi khách quan và tất yếu đối với hoạt động thông tin KH&CN
trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị
trường. Các sản phẩm và dịch vụ thông tin, thành phần quan trọng nhất của thị
trường thông tin KH&CN tuy được đa dạng hóa nhưng chưa thực sự xuất phát từ nhu
cầu thông tin của xã hội. Hoạt động cơ bản của một thị trường là "mua" và "bán"
chưa hình thành rõ nét và mạnh mẽ. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế
nói trên, nhưng có thể kể ra một số nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Nguyên nhân khách quan
Sự gắn kết giữa KH&CN với hoạt động thực tiễn ở nước ta hiện nay chưa chặt
chẽ mà căn nguyên chủ yếu là hoạt động nghiên cứu và phát triển chưa thực sự gắn
kết với thực tiễn. Một phần không nhỏ các đề tài, dự án nghiên cứu và phát triển hàng
năm hoặc dài hạn chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu phát triển KT-XH, dẫn đến các
kết quả nghiên cứu không thể áp dụng vào thực tế cuộc sống.
Vai trò quan trọng và giá trị to lớn của thông tin KH&CN đối với sự phát triển
của đất nước, đặc biệt là thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH chưa được xã hội nhìn nhận,
đánh giá đúng. Các đề tài, dự án nghiên cứu và phát triển và trong hoạt động đổi mới,
chuyển giao công nghệ của phần lớn các doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn kinh
tế nhà nước chưa thực sự chú trọng đầu tư hàm lượng thông tin cũng là một trở lực
đáng kể của quá trình hình thành thị trường công nghệ.
Nguyên nhân chủ quan
Các tổ chức thông tin KH&CN chưa thật sự chủ động trong việc tạo lập thị
trường thông tin KH&CN mà phần nhiều còn "trông chờ" tác động từ phía Nhà nước.
Tâm lý e ngại khi rời "bầu sữa" bao cấp cũng như "cơ chế nhiệm kỳ" của lãnh đạo
các tổ chức thông tin KH&CN đã tạo nên sức ỳ, là lực cản khá lớn đối với quá trình
hình thành thị trường thông tin KH&CN;
Nguồn thông tin, cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ nhân lực của phần lớn các
tổ chức thông tin KH&CN chưa đủ mạnh để tạo ra những SPDV thông tin đáp ứng
yêu cầu của người dùng, nhất là thông tin tư vấn và chuyển giao công nghệ.
Việc chuyển đổi hoạt động sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ
chức thông tin KH&CN ở nước ta theo tinh thần Nghị định 115
1
là yêu cầu cấp bách.
1
Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Nghị định 115/2005/NĐ-CP về cơ chế tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của tố chức KH&CN công lập.
10
Quá trình chuyển đổi đặt ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với các tổ chức
thông tin KH&CN. Một trong những thách thức chủ yếu là tạo lập được thị trường
thông tin KH&CN để thực hiện giao dịch "bán, mua" các sản phẩm, dịch vụ thông tin
một cách thuận lợi, phù hợp với nền kinh tế thị trường.
Ở Việt Nam, từ cuối những năm 1990, các nội dung liên quan tới sự phát triển
hoạt động thông tin, thư viện theo hướng thị trường đã bước đầu được quan tâm,
được thể hiện qua các sự kiện, các chương trình nghiên cứu, đề án, dự án phát triển
trong lĩnh vực thông tin KH&CN và thị trường thông tin KH&CN. Trong nhiều năm
qua đã có nhiều tác giả nghiên cứu và công bố các công trình về hoạt động thông tin
KH&CN trong nước, nhưng chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu khái quát một số sản
phẩm và dịch vụ thông tin KH&CN của các cơ quan thông tin, thư viện hoặc nghiên
cứu về thị trường công nghệ mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ
thống và sâu sắc về thị trường thông tin KH&CN.
Không ai phủ nhận vai trò, tầm quan trọng của thị trường thông tin KH&CN
đối với sự phát triển KH&CN cũng như phát triển KT-XH của đất nước nên rất cần
phải nghiên cứu cơ sở lý luận, hiện trạng và các rào cản phát triển thị trường thông
tin KH&CN để đề xuất các giải pháp thiết thực và khuyến nghị chính sách phát triển
bền vững thị trường thông tin KH&CN ở nước ta trong thời gian tới. Vì những lý do
trên, tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu “Nhận diện các rào cản phát triển thị
trường thông tin KH&CN Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ.
3. Lịch sử nghiên cứu
Hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu đề cập tới hoạt
động thông tin KH&CN, các công trình nghiên cứu đã khái quát các sản phẩm và
dịch vụ thông tin KH&CN của các cơ quan thông tin, thư viện và thị trường công
nghệ nói chúng như: Đề tài “Thông tin khoa học với sự phát triển kinh tế ở nước ta
hiện nay”
2
; Đề tài “Nghiên cứu xây dựng chính sách quốc gia phát triển công tác
thông tin KH&CN trong giai đoạn CNH, HĐH”
3
; Đề tài “Nghiên cứu luận cứ khoa
học cho các chính sách và giải pháp xây dựng, phát triển thị trường công nghệ ở Việt
2
Đặng Lễ Nghi (2007), Thông tin khoa học với sự phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay, Đề tài cấp Bộ, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chính Minh, Hà Nội.
3
Nguyễn Hữu Hùng (2000), Nghiên cứu xây dựng chính sách quốc gia phát triển công tác thông tin KH&CN
trong giai đoạn CNH-HĐH, Đề tài cấp Bộ, Trung tâm Thông tin Tư liệu KH&CN Quốc gia.
11
Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
4
; Đề tài “Những rào
cản trong việc phát triển các sản phẩm và dịch vụ thông tin khoa học tại Viện Thông
tin Khoa học Xã hội”
5
; Bài nghiên cứu “Hoạt động Thông tin KH&CN ở Việt Nam:
Hiện trạng và định hướng phát triển”
6
,…
Tuy nhiên, khi nghiên cứu kỹ các công trình này, tác giả nhận thấy những đề
tài, luận văn, bài báo nghiên cứu trên đây mới chỉ tập trung vào phân tích hiện trạng
triển khai, mở rộng và chính sách phát triển các sản phẩm và dịch vụ cũng như hoạt
động thông tin KH&CN nói chung, mà chưa có đề tài nghiên cứu cụ thể nào về nhận
diện các rào cản trong phát triển thị trường thông tin KH&CN. Vì vậy, việc lựa chọn
nghiên cứu đề tài này là hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay cũng như
ngành học và yêu cầu thực tiễn ở nước ta. Tác giả luận văn hy vọng rằng các kết quả
đạt được trong nghiên cứu này sẽ là những đóng góp thiết thực về mặt lý luận cũng
như thực tiễn nhằm nhận diện những rào cản trong việc phát triển thị trường thông tin
KH&CN ở Việt Nam.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, hiện trạng và rào cản phát triển thị
trường thông tin KH&CN, công trình sẽ từ đó đưa ra một số khuyến nghị chính sách
nhằm vượt qua rào cản để phát triển thị trường thông tin KH&CN Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Luận văn sẽ tìm hiểu và hệ thống hóa cơ sở lý luận về phát triển thị trường
thông tin KH&CN.
- Trên cơ sở tìm hiểu, phân tích thực tế, luận văn sẽ khái quát về hiện trạng
thị trường thông tin KH&CN ở nước ta. Thông qua việc phân tích thực trạng,
nguyên nhân, đề tài sẽ khái quát hóa các rào cản đối với việc phát triển thị trường
thông tin KH&CN.
4
Hồ Đức Việt, Nguyễn Minh Thuyết, Vũ Hy Chương, Trần Việt Hùng (2007), Nghiên cứu luận cứ khoa học
cho các chính sách và giải pháp xây dựng, phát triển thị trường KH&CN ở Việt Nam trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Ủy ban KHCNMT Quốc Hội, 176tr.
5
Nguyễn Minh Hồng (2008), Những rào cản trong việc phát triển các sản phẩm và dịch vụ thông tin khoa học
tại Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
6
Tạ Bá Hưng, Cao Minh Kiểm, Nguyễn Tiến Đức (2005), Hoạt động Thông tin KH&CN ở Việt Nam: Hiện
trạng và định hướng phát triển, Tạp chí Thông tin và Tư liệu, Số 4.
12
- Từ việc nghiên cứu lý luận và hiện trạng phát triển thị trường thông tin
KH&CN, luận văn sẽ đưa ra một số khuyến nghị chính sách nhằm vượt qua rào cản
để phát triển thị trường thông tin KH&CN Việt Nam.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong một số đơn vị thuộc mạng lưới
các tổ chức thông tin-thư viện KH&CN Bộ/ngành, một số viện nghiên cứu, trường
đại học và tổ chức thông tin của các doanh nghiệp ở Việt Nam.
Thời gian nghiên cứu: Khảo sát thị trường thông tin KH&CN trong thời gian 5
năm trở lại đây (từ 2007 đến 2012).
6. Mẫu khảo sát
Luận văn đã tiến hành điều tra, khảo sát, trao đổi đối với các nhóm đối tượng
dùng tin chính sau: Cán bộ lãnh đạo - quản lý, cán bộ nghiên cứu giảng dạy, nghiên
cứu sinh, sinh viên và cán bộ khu vực sản xuất kinh doanh.
7. Câu hỏi nghiên cứu
- Qúa trình phát triển thị trường thông tin KH&CN Việt Nam đang gặp những
rào cản gì?
- Giải pháp nào mang tính cơ bản để khắc phục những rào cản để thị trường
thông tin KH&CN Việt Nam phát triển hiệu quả?
8. Giả thuyết nghiên cứu
Những bất cập về chính sách và các cơ chế khuyến khích đã tạo ra những rào
cản phát triển thị trường thông tin KH&CN Việt Nam; Giải pháp khắc phục cần tập
trung chủ yếu vào hệ thống chính sách, cơ chế.
9. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu tài
liệu để tìm hiểu các nội dung liên quan đến cơ sở lý luận và thu thập, phân tích, xử lý,
tổng hợp thông tin, tài liệu.
- Phương pháp điều tra bảng hỏi: Đề tài sử dụng phương pháp này nhằm thu
thập thông tin từ các đối tượng cần khảo sát làm căn cứ để hình thành cơ sở dữ liệu
trong việc phân tích các nội dung trong luận văn.
13
10. Kết cấu luận văn
Mở đầu
Chương 1. Cơ sở lý luận về thị trường thông tin KH&CN
Chương 2. Hiện trạng thị trường thông tin KH&CN ở Việt Nam
Chương3. Nhận diện các rào cản phát triển thị trường thông tin KH&CN
Việt Nam
Kết luận
Khuyến nghị
14
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƢỜNG THÔNG TIN
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1. Khái niệm về thông tin KH&CN và thị trƣờng thông tin KH&CN
1.1.1. Thông tin KH&CN và hoạt động thông tin KH&CN
1.1.1.1. Một số khái niệm cơ bản trong lĩnh vực thông tin KH&CN
Lĩnh vực thông tin KH&CN có những thuật ngữ thường được sử dụng phổ
biến đó là:
Tài liệu là dạng vật chất ghi nhận những thông tin dưới dạng văn bản, âm
thanh, đồ hoạ, hình ảnh, phim, video nhằm mục đích bảo quản, phổ biến và sử dụng
7
.
Số hóa tài liệu là quá trình sử dụng các phương tiện kỹ thuật để chuyển tài liệu
từ sách, báo, tạp chí in, vật ghi âm, ghi hình sang tài liệu điện tử/tài liệu số để lưu
giữ, sử dụng bằng các phương tiện tin học
8
.
Tài liệu điện tử (tài liệu số) là tài liệu đã được số hóa để lưu giữ, sử dụng trên
mạng thông tin máy tính
9
.
Thông tin là dữ liệu, tin tức được xem xét trong quá trình tồn tại và vận động
trong không gian và thời gian
10
.
Nguồn tin khoa học và công nghệ bao gồm sách, báo, tạp chí, cơ sở dữ liệu,
tài liệu hội nghị, hội thảo khoa học, báo cáo kết quả thực hiện các nhiệm vụ khoa học
và công nghệ, tài liệu về sở hữu trí tuệ, tài liệu về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng,
luận văn, luận án sau đại học và các nguồn tin khác được tổ chức, cá nhân thu thập
11
.
Tổ chức dịch vụ thông tin khoa học và công nghệ là đơn vị sự nghiệp thực
hiện chức năng cung cấp dịch vụ thông tin khoa học và công nghệ do cơ quan nhà
nước hoặc tổ chức, cá nhân thành lập theo quy định của pháp luật
12
.
Thư viện là nơi thu thập, lưu giữ, xử lý, bảo quản tài liệu để đáp ứng nhu cầu
thông tin của người đọc
13
.
7
Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2004), Nghị định 159/2004/NĐ-CP ngày 31 tháng 08
năm 2004 về Hoạt động thông tin khoa học và công nghệ.
8
Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia (1998), Kỷ yếu Hội nghị ngành thông tin – tư liệu KH&CN, Đà Lạt.
9
Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia (1998), Kỷ yếu…, Tài liệu đã dẫn.
10
Hoạt động thông tin tư liệu (1995), NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, tr.5-37
11
Nghị định 159/2004/NĐ-CP…, Tài liệu đã dẫn.
12
Nghị định 159/2004/NĐ-CP…, Tài liệu đã dẫn.
13
Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2012), Dự thảo Luật Thư viện.
15
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao
gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp
và quyền đối với giống cây trồng
14
.
Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng
tạo ra hoặc sở hữu
15
.
Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương
mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền
chống cạnh tranh không lành mạnh
16
.
Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ là chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ hoặc tổ chức,
cá nhân được chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ
17
.
Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa
học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào
18
.
Sao chép là việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm,
ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường
xuyên hoặc tạm thời tác phẩm dưới hình thức điện tử
19
.
Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải
quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên
20
.
Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá
nhân khác nhau
21
.
Văn bằng bảo hộ là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho tổ
chức, cá nhân nhằm xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý; quyền đối với giống cây trồng
22
.
Thông tin KH&CN là các dữ liệu, số liệu, dữ kiện, tin tức, tri thức khoa học và
công nghệ (bao gồm khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ, khoa học xã hội và
14
Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Sở hữu trí tuệ-Luật số 50/2005/QH11.
15
Luật Sở hữu trí tuệ…, Tài liệu đã dẫn.
16
Luật Sở hữu trí tuệ…, Tài liệu đã dẫn.
17
Luật Sở hữu trí tuệ…, Tài liệu đã dẫn.
18
Luật Sở hữu trí tuệ…, Tài liệu đã dẫn.
19
Luật Sở hữu trí tuệ…, Tài liệu đã dẫn.
20
Luật Sở hữu trí tuệ…, Tài liệu đã dẫn.
21
Luật Sở hữu trí tuệ…, Tài liệu đã dẫn.
22
Luật Sở hữu trí tuệ…, Tài liệu đã dẫn.
16
nhân văn) được tạo lập, quản lý và sử dụng nhằm mục đích cung cấp dịch vụ công,
phục vụ quản lý nhà nước hoặc đáp ứng nhu cầu của tổ chức, cá nhân trong xã hội
23
.
Các dữ liệu, số liệu, dữ kiện, tin tức, tri thức KH&CN nói trên là kết quả của
hoạt động KH&CN, được hình thành trong các quá trình của hoạt động này. Theo cách
tiếp cận của thị trường, thông tin KH&CN cũng giống như một loại nguyên liệu hàng
hóa bất kỳ, có thể sử dụng ngay ở dạng nguyên liệu thô, hoặc có thể gia công dưới hình
thức các sản phẩm, dịch vụ để trao đổi trên thị trường.
1.1.1.2. Khái niệm về hoạt động và sản phẩm, dịch vụ thông tin KH&CN
Hoạt động thông tin KH&CN là hoạt động nghiệp vụ về tìm kiếm, thu thập, xử
lý, lưu trữ, phổ biến thông tin KH&CN; các hoạt động khác có liên quan trực tiếp và
phục vụ cho các hoạt động nghiệp vụ thông tin KH&CN
24
.
Hoạt động thông tin KH&CN, cũng giống như các hoạt động khác trong xã
hội, đều nhằm mục tiêu tạo ra một kết quả (sản phẩm) có ích cho xã hội. Xã hội sẽ
đào thải bất kỳ một hoạt động nào không tạo ra được sản phẩm có ích. Xem xét từ
khía cạnh thị trường, một sản phẩm có ích là sản phẩm được chấp nhận lưu thông
trong đời sống kinh tế-xã hội với những phương thức và giá trị sử dụng khác nhau.
Giá trị sử dụng và phương thức lưu thông trong đời sống kinh tế-xã hội của sản phẩm
thông tin KH&CN khác với các loại sản phẩm hàng hóa thông thường phục vụ đời
sống sinh hoạt hàng ngày của cộng đồng.
Sản phẩm thông tin KH&CN là kết quả của việc thu thập, chọn lọc và bao gói
lại thông tin KH&CN, hoặc với mục đích tạo thuận lợi cho việc trao đổi và sử dụng
thông tin KH&CN, hoặc theo yêu cầu của người sử dụng thông tin KH&CN.
Dịch vụ thông tin KH&CN được hiểu là kết quả của quá trình làm cho sản
phẩm thông tin KH&CN được tạo ra và lưu thông nhanh hơn trên thị trường thông tin
KH&CN, thông qua các hoạt động môi giới, chuyển giao, cung cấp thông tin, tư vấn
cho cả người mua lẫn người bán sản phẩm thông tin KH&CN.
1.1.2. Khái niệm về thị trường và thị trường công nghệ
1.1.2.1. Các cách tiếp cận khái niệm thị trường
Thuật ngữ "thị trường" được sử dụng cho nhiều lĩnh vực hoạt động KT-XH,
trong đó có hoạt động KH&CN và hoạt động thông tin KH&CN. Cách tiếp cận khái
23
Nghị định 159/2004/NĐ-CP…, Tài liệu đã dẫn
24
Nghị định 159/2004/NĐ-CP…, Tài liệu đã dẫn
17
niệm "thị trường" cũng rất đa dạng, tùy thuộc vào đặc điểm nội dung và kết quả hoạt
động của mỗi lĩnh vực. Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả trình bày bốn cách tiếp
cận tương đối phổ biến đối với khái niệm "thị trường".
Cách tiếp cận thứ nhất: Thị trường là chợ. Theo nghĩa hẹp thị trường là nơi
người mua, người bán gặp nhau để mua, bán hàng hoá, dịch vụ - thị trường là chợ
25
.
Thị trường xuất hiện từ khi có sản xuất hàng hoá và được hình thành trong quá trình
lưu thông. Người có hàng hoá, dịch vụ đem ra trao đổi gọi là người bán; người có
nhu cầu và có khả năng thanh toán gọi là người mua. Trong quá trình trao đổi, mua
bán, giữa người bán và người mua hình thành những mối quan hệ. Vì thế thị trường
theo nghĩa hẹp là nơi người mua, người bán gặp nhau, hình thành giá cả và trao đổi
hàng hoá, dịch vụ.
Tài liệu nghiên cứu của Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN đã nêu ra
một số định nghĩa về thị trường như sau: "Thị trường tức là chợ", nghĩa là nơi diễn ra
hoạt động mua, bán các hàng hóa hay dịch vụ, vì hàng hóa bao gồm hàng hóa hữu
hình (nhìn thấy, sờ được) và hàng hóa vô hình (các dịch vụ)
26
.
Theo cách tiếp cận này thì phát triển thị trường thông tin KH&CN tức là tổ
chức được nhiều địa điểm, nơi người có thông tin (người bán) và người cần thông tin
(người mua) gặp nhau để trực tiếp bán mua các sản phẩm và dịch vụ thông tin được
bày bán sẵn, hoặc tìm hiểu, đàm phán mua bán các sản phẩm và dịch vụ thông tin
chưa được bày bán.
Cách tiếp cận thứ hai: Thị trường là tập hợp người mua. Chúng ta thường
được nghe những nội dung trao đổi như: “sản phẩm này liệu có tiêu thụ được hay
không?”, nghĩa là liệu có người mua nó hay không; hay “thị trường Việt Nam với
trên 80 triệu dân”, hàm ý số lượng người mua tiềm năng của một sản phẩm nào đó.
Theo cách tiếp cận này thì phát triển thị trường thông tin KH&CN tức là làm cho nhu
cầu đối với hàng hóa về thông tin KH&CN tăng lên, số người mua nhiều hơn, lượng
mua lớn hơn. Tổ chức, cá nhân có sản phẩm và dịch vụ thông tin một khi đã tìm được
người mua là đã tìm được thị trường cho sản phẩm của mình.
25
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Quản lý kinh tế (Hệ cử nhân chính trị), NXB
Lý luận chính trị, 320tr, tr.59.
26
Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN (2003), Công nghệ và phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam,
NXB Khoa học và Kỹ thuật, 159tr, tr.7.
18
Cách tiếp cận thứ ba: Thị trường là tập hợp người mua và người bán: Giáo
trình Kinh tế vi mô dùng cho các trường cao đẳng và đại học ngành kinh tế đã giới
thiệu một số định nghĩa về thị trường như sau
27
:
(1) "Thị trường là sự biểu thị ngắn gọn quá trình mà nhờ đó các quyết định của
các hộ gia đình về việc tiêu dùng các hàng hoá khác nhau, các quyết định của các
doanh nghiệp về sản xuất cái gì và như thế nào, các quyết định công nhân về làm việc
bao nhiêu lâu được điều hoà bởi sự điều chỉnh giá cả"; (định nghĩa này tập trung vào
vấn đề sản xuất vi mô).
(2) "Thị trường là tập hợp các dàn xếp mà thông qua đó người bán và người
mua tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hoá và dịch vụ".
(3) "Thị trường là một khuôn khổ vô hình, trong đó người này tiếp xúc với
người kia để trao đổi thứ gì đó khan hiếm và trong đó họ cùng xác định giá và số
lượng trao đổi".
Trong Giáo trình Kinh tế học
28
, thị trường được định nghĩa là "sự dàn xếp
giữa người bán và người mua trong trao đổi hàng hoá và dịch vụ". Bên mua và bên
bán có thể tiến hành các thỏa thuận về mua bán hàng hóa với nhau qua điện thoại, fax
hay thư điện tử mà không cần gặp nhau tại một địa điểm cụ thể. Bên mua hàng hoá
và dịch vụ có thể cũng không trao đổi trực tiếp với bên bán hàng hoá, dịch vụ mà qua
một bên trung gian. Các hàng hóa có thể được vận chuyển từ nơi này đến nơi khác
mà không cần phải đi qua một cái chợ cụ thể. Các thỏa thuận về hàng hóa, dịch vụ,
các luồng vận động của tiền tệ có thể độc lập với các luồng vận động của hàng hóa và
dịch vụ trên những thị trường. Như thế, nói đến thị trường, cần chú ý đến khía cạnh
kinh tế mà nó thể hiện, chứ không đề cập đến một nơi cụ thể nào.
Nếu xét trên quy mô toàn xã hội, "Thị trường là mạng lưới những người mua,
người bán gặp nhau, nơi cung-cầu gặp gỡ và cân bằng, hoặc nói cách khác thị
trường là tổng hoà các quan hệ mua-bán, cung cầu trên bình diện xã hội"
29
.
Cách tiếp cận thứ tư: Thị trường là một cơ chế đối thoại. Một cơ chế phân bố
nguồn lực, quy định sản xuất và phân phối sản phẩm, dịch vụ thông qua hệ thống giá
27
Bộ Giáo dục và đào tạo (2001), Kinh tế học vi mô, Giáo trình dùng trong các trường đại học, cao đẳng khối
kinh tế, NXB Giáo dục, 319tr, tr.161.
28
Begg David, S. Fisher, R. Dornbusch (2007), Kinh tế học, Biên dịch Nhóm giảng viên Khoa Kinh tế học,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, NXB Thống kê, 702tr.
29
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2004) , Tài liệu đã dẫn
19
cạnh tranh. Theo cách tiếp cận này thị trường được coi là cơ chế đối thoại, ngược lại
với cơ chế điều tiết bằng mệnh lệnh, hay kế hoạch hóa tập trung. Lý thuyết kinh tế
tân cổ điển chứng minh rằng nếu các điều kiện cho canh tranh hoàn hảo được thỏa
mãn, từng thị trường riêng lẻ sẽ đạt trạng thái cân bằng Pareto, tức là trạng thái tối ưu
về kinh tế. Một khi các thị trường riêng lẻ đạt được cân bằng Pareto thì nền kinh tế
cũng sẽ đạt tới trạng thái cân bằng tương tự. Nếu các điều kiện cho cạnh tranh hoàn
hảo bị vi phạm thì tùy theo điều kiện nào bị vi phạm, thị trường sẽ có những biến thể
tương ứng. Sự vi phạm các điều kiện cạnh tranh hoàn hảo thường ảnh hưởng tới
những thuộc tính tích cực của thị trường hoàn hảo. Khái niệm thị trường theo nghĩa
này có thể được coi là đồng nghĩa với thuật ngữ cơ chế thị trường. Theo cách tiếp cận
này thì phát triển thị trường thông tin KH&CN tức là xác lập và tăng cường cơ chế
cạnh tranh lành mạnh về chất lượng và giá cả của các sản phẩm và dịch vụ thông tin
trên cơ sở phân bố nguồn lực, quy định sản xuất và phân phối SPDV thông tin hợp lý
và khoa học.
Cách tiếp cận thứ năm: Thị trường là một thể chế kinh tế (economic
institution) để thực hiện các giao dịch kinh tế. Đây là cách tiếp cận của kinh tế học về
chi phí giao dịch (transactions cost economics), hay đôi khi còn gọi là kinh tế học thể
chế mới (new institutional economics). Theo đó, thị trường và doanh nghiệp được coi
là các thể chế thay thế nhau để thực hiện trong nội bộ doanh nghiệp (tự sản xuất sản
phẩm hàng hóa) hoặc thực hiện thông qua thị trường (thuê sản xuất hoặc mua sản
phẩm hàng hóa làm sẵn). Theo cách tiếp cận này thì phát triển thị trường thông tin
KH&CN tức là hoàn thiện và phát triển thể chế kinh tế để thực hiện các giao dịch
kinh tế liên quan đến tạo lập, mua bán, trao đổi thông tin KH&CN. Các tổ chức, cá
nhân hoạt động thông tin KH&CN, ngoài việc tự tạo lập các sản phẩm và dịch vụ
thông tin, có thể thuê hoặc mua các sản phẩm và dịch vụ thông tin do các tổ chức, cá
nhân khác tạo lập để trao đổi, mua bán trên thị trường.
1.1.2.2. Thị trường KH&CN, thị trường công nghệ
- Thị trường KH&CN
Hiện nay có ba luồng ý kiến khác nhau về thị trường KH&CN.
Luồng ý kiến thứ nhất cho rằng chỉ có thị trường công nghệ, mà không có thị
trường KH&CN.
20
Luồng ý kiến thứ hai coi thị trường KH&CN là thị trường tri thức lớn nhất,
mang tính toàn cầu và đã xuất hiện từ lâu.
Luồng ý kiến thứ ba cho rằng không nên tách bạch hai loại thị trường nói trên,
mà nên hiểu thị trường KH&CN là một thuật ngữ chung để chỉ các giao dịch mua
bán, trao đổi một loại hàng hóa đặc biệt là sản phẩm, dịch vụ KH&CN. Mỗi ý kiến
trên đều có căn cứ, lập luận riêng của mình.
Các tác giả đại diện cho loại ý kiến thứ nhất cho rằng không có thị trường
KH&CN mà chỉ có thị trường công nghệ bởi các lý do sau:
Với bản chất tri thức, khoa học có thuộc tính của một hàng hóa công, lý do cơ
bản khiến thị trường KH&CN không tồn tại là việc không có cơ chế xác định quyền
sở hữu đối với khoa học.
Thị trường KH&CN không được nhắc tới trong các tài liệu của nước ngoài.
Các tác giả đại diện cho loại ý kiến thứ hai cho rằng thị trường KH&CN có
tính toàn cầu trước khi có toàn cầu hóa. Bởi vì các sản phẩm khoa học đều có giá trị
sử dụng nên trong cơ chế thị trường chúng đều trở thành hàng hóa. Thị trường
KH&CN bao gồm nhiều thành phần khác nhau: Thị trường hàng hóa thuộc phạm trù
hàng hóa công do Nhà nước đầu tư mua các hàng hóa khoa học này để làm hàng hóa
công; thị trường hàng hóa khoa học trực tiếp đi sâu vào sản xuất như phần mềm máy
tính, máy điện toán các loại; thị trường các CSDL khoa học bao gồm hàng ngàn dữ
liệu khoa học về vũ trụ, trái đất, xã hội, con người; thị trường dịch vụ khoa học; thị
trường thiết bị khoa học,
Các tác giả đại diện cho ý kiến thứ ba coi thị trường KH&CN là loại thị trường
để chỉ các giao dịch, mua bán hàng hóa, đặc biệt là sản phẩm và dịch vụ KH&CN
30
.
Cũng có quan điểm công nhận có thị trường KH&CN với cơ sở như sau: Thị
trường KH&CN (còn gọi là thị trường sản phẩm, dịch vụ KH&CN) được cấu thành
bởi hai cụm từ: Thị trường (sản phẩm hoặc dịch vụ) và KH&CN. Tuy nhiên, đến nay,
trên thế giới chưa có một định nghĩa thống nhất về thị trường KH&CN. Trong các tài
liệu được công bố của phần lớn các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển
có nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường thì thuật ngữ này lại gần như không hề
được đề cập. Trong khi đó, một số nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung
30
Begg David, S. Fisher, R. Dornbusch (2007)…, Tài liệu đã dẫn.
21
sang cơ chế thị trường như Nga và Việt Nam lại đề cập vấn đề này khá rõ trong các tài
liệu tra cứu và tài liệu tham khảo. Tuy nhiên, những nội hàm của thị trường KH&CN
được các nước đề cập lại chủ yếu liên quan tới các hoạt động nghiên cứu và phát triển
công nghệ
31
.
- Thị trường công nghệ
Từ các phân tích trên, các tác giả đã đề xuất một định nghĩa mang tính tác
nghiệp đối với thị trường công nghệ. Theo đó thị trường công nghệ được hiểu là
những thể chế đảm bảo cho việc mua bán công nghệ được thực hiện thuận lợi trên cơ
sở lợi ích của các bên tham gia
32
.
Định nghĩa trên đây bao hàm phần lớn các nghĩa khác nhau của thị trường như
đã trình bày trong phần trên. Trong một số nghiên cứu về thị trường người ta còn nói
tới việc xây dựng các thể chế hỗ trợ thị trường, theo nghĩa xây dựng các quy tắc, cơ
chế thi hành và tổ chức để thị trường hay đúng hơn là cơ chế thị trường có thể phát
huy được những ưu điểm của nó.
Trong thực tế quản lý và điều hành nền kinh tế, chúng ta thường bắt gặp thuật
ngữ “thị trường công nghệ” nhiều hơn so với thuật ngữ “thị trường KH&CN”. Thị
trường công nghệ, với nội hàm chủ yếu là hoạt động mua bán, chuyển giao có trả tiền
những sản phẩm công nghệ cụ thể, đã được “vật chất hóa” dưới dạng “bản quyền,
patent, giấy chứng nhận kiểu dáng công nghiệp, bí quyết, thương hiệu,… và những
dịch vụ liên quan tới việc mua bán, chuyển giao ấy”. Trong thực tế, quá trình mua
bán, chuyển giao công nghệ có thể diễn ra như một bộ phận không tách rời trong các
giao dịch mua bán hàng hóa hữu hình là máy móc, thiết bị,… đã sẵn sàng cho việc sử
dụng, vận hành như là một yếu tố “đầu vào” của quá trình sản xuất. Nghĩa là, trong
các trường hợp này thì các sản phẩm công nghệ cùng tham gia vào thị trường hàng
hóa thông thường. Còn đối với thuật ngữ "thị trường KH&CN", sở dĩ ít người đề cập
có thể là vì trên thực tế, hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ khó
có thể tách rời nhau mà ngược lại, chúng gắn kết mật thiết với nhau trong quá trình
hoạt động KH&CN. Những cơ sở khoa học và nguyên lý được tìm ra trong hoạt động
nghiên cứu khoa học cơ bản lại là đầu vào của hoạt động nghiên cứu ứng dụng và
31
Begg David, S. Fisher, R. Dornbusch (2007)…, Tài liệu đã dẫn.
32
Begg David, S. Fisher, R. Dornbusch (2007)…, Tài liệu đã dẫn.
22
phát triển công nghệ. Trong nhiều trường hợp, kết quả của hoạt động khoa học chỉ
được xã hội công nhận khi được tiếp tục chuyển thành sản phẩm công nghệ.
1.1.3. Khái niệm về thị trường thông tin và thị trường thông tin KH&CN
1.1.3.1. Khái niệm về thị trường thông tin
Một số tác giả nghiên cứu thị trường thông tin từ quan điểm kỹ thuật cho rằng
“Thị trường thông tin là thị trường trong đó tài nguyên được trao đổi giữa những
người tìm tin và nhà xuất bản, có thể thông qua môi giới”
33
. Tài nguyên trong định
nghĩa này được hiểu là thực thể trên Web, nói cách khác là tài nguyên số và tạo ra
phía “cung” thông tin (information supply). Theo quan điểm này, cung thông tin là
những dạng tài nguyên khác nhau bao gồm từ tệp tin HTML
34
đến các CSDL trực
tuyến, kể cả tài nguyên con người (tri thức tiềm ẩn trong con người thông qua giao
tiếp trực tuyến với họ). Những người cần thông tin và thực hiện hoạt động tra cứu để
đáp ứng nhu cầu tin của mình là cầu thông tin (information demand). Có một thành
phần thứ ba ở giữa cung và cầu là môi giới cũng như trung gian qua đó tài nguyên
được chuyển đến người sử dụng trước khi thông tin được tiêu thụ. Định nghĩa theo
quan điểm đã nêu trên
35
về thị trường thông tin chỉ đề cập đến khía cạnh kỹ thuật mà
chưa đề cập đến khía cạnh kinh tế học.
Như vậy, có thể thấy, ngày nay trong thời đại kỹ thuật số, khi nói đến thị
trường thông tin, người ta không đề cập đến thương mại xuất bản phẩm, mặc dù nó
được coi là chứa thông tin. Từ những xem xét ở trên có thể đi đến khái niệm thị
trường thông tin là thể chế bảo đảm cho các việc mua, bán, trao đổi hàng hoá và
dịch vụ thông tin số. Như vậy, thị trường thông tin theo nghĩa chung nhất có thể
được hiểu là tập hợp các dàn xếp giữa bên bán và bên mua trong trao đổi hàng hoá
và dịch vụ thông tin số/thông tin điện tử. Ngày nay, khi đề cập đến thị trường thông
tin, người ta quan niệm nó sẽ không bao gồm thị trường xuất bản phẩm truyền
thống (thông tin dạng in trên giấy hoặc vật mang không phải dạng số/điện tử).
1.1.3.2. Khái niệm về thị trường thông tin KH&CN
Cũng giống như các khái niệm "thị trường công nghệ" hay "thị trường
KH&CN", khái niệm "thị trường thông tin KH&CN" đang còn rất mới mẻ và chắc
33
Bommel P. van, B. van Gils, H.A. Proper, M. van Vliet, Th.P. van der Weide (2007), Valua and the
information market Data & Knowledge Engineering, Vol.61, p.153-175.
34
HTML (viết tắt của HyperText Markup Language, hay là "Ngôn ngữ Đánh dấu Siêu văn bản") là một ngôn
ngữ đánh dấu được thiết kế ra để tạo nên các trang web
35
Bommel P. van, B. van Gils, H.A. Proper, M. van Vliet, Th.P. van der Weide (2007)…, Tài liệu đã dẫn
23
chắn có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, dù tiếp cận từ góc độ nào thì khái
niệm "thị trường thông tin KH&CN" cũng phải bao gồm nội hàm của một thị trường
thông thường. Điểm khác biệt duy nhất là trong thị trường này là: Thông tin KH&CN
- hàng hóa để trao đổi, bán, mua được coi là loại hàng hóa đặc biệt.
Một số tác giả
36
khi đề cập đến thị trường thông tin KH&CN đã sử dụng khái
niệm "thị trường dịch vụ và sản phẩm thông tin", theo đó thị trường dịch vụ và sản
phẩm thông tin là "tập hợp các quan hệ kinh tế, pháp lý và tổ chức về mua bán các sản
phẩm và dịch vụ thông tin giữa người mua và người bán và được đặc trưng bởi loại
dịch vụ và sản phẩm nhất định, bởi các điều kiện và cơ chế cung cấp cũng như giá cả
của chúng". Theo các tác giả này, thị trường thông tin chính là thị trường thông tin
điện tử và truyền thông bao gồm cả thị trường dịch vụ và sản phẩm thông tin, và có các
thành phần: Thông tin, giao dịch điện tử và truyền thông điện tử toàn cầu.
Còn theo một tác giả khác: “Thị trường thông tin KH&CN là nơi diễn ra các
mối quan hệ trao đổi sản phẩm thông tin KH&CN giữa người sản xuất và người tiêu
dùng thông tin thông qua vật trung gian là đồng tiền (thể hiện dưới dạng giá cả)”.
Khái niệm này cho thấy thị trường thông tin KH&CN ra đời, tồn tại và phát triển là
kết quả tất yếu của sự phân công lao động xã hội nói chung và trong lĩnh vực thông
tin KH&CN nói riêng; là kết quả của sự phát triển và năng suất lao động ngày càng
cao của hoạt động thông tin KH&CN; là hợp phần rất quan trọng của nền sản xuất
hàng hóa thông tin và là bộ phận quan trọng của thị trường chung. Có thể hiểu chính
xác hơn: Thị trường thông tin KH&CN chỉ hình thành khi sản phẩm thông tin
KH&CN trở thành hàng hóa.
Nơi (địa điểm) diễn ra các mối quan hệ trao đổi có thể hữu hình hoặc vô hình.
Việc mua bán các sản phẩm thông tin chỉ là biểu hiện cụ thể của sự trao đổi trên một
địa điểm, một nơi cụ thể.
Đồng tiền (được thể hiện dưới dạng giá cả của các sản phẩm) là công cụ - vật
trung gian của sự trao đổi các sản phẩm thông tin giữa người sản xuất và người tiêu
dùng trên thị trường thông tin.
Nhiều tác giả khác quan niệm “Thị trường thông tin KH&CN là môi trường
diễn ra các giao dịch mua bán hàng hóa (sản phẩm và dịch vụ) thông tin KH&CN
36
Rodionov I., Lê Trọng Hiển (2008), Thị trường dịch vụ và sản phẩm thông tin dưới góc độ tổ chức hoạt
động thông tin, Tạp chí Thông tin và Tư liệu, Số 4, tr1-9.
24
trong đó có các thể chế để đảm bảo lợi ích hài hòa giữa các bên tham gia”. Trong
khái niệm này, thị trường thông tin KH&CN gồm có các yếu tố cơ bản: Các chủ thể
tham gia thị trường (Cung-Cầu-Trung gian); hàng hóa thông tin KH&CN và các thể
chế của thị trường thông tin KH&CN.
Từ những lý giải như trên về thị trường thông tin, khái niệm thông tin
KH&CN, có thể khái quát như sau: Thị trường thông tin KH&CN là một bộ phận của
thị trường thông tin, là thể chế bảo đảm cho các việc mua, bán, trao đổi hàng hoá và
dịch vụ thông tin KH&CN số. Theo nghĩa chung nhất có thể hiểu thị trường thông tin
KH&CN là tập hợp các dàn xếp giữa bên bán và bên mua trong trao đổi hàng hoá và
dịch vụ thông tin KH&CN số/điện tử. Ở các nước phát triển, ngày nay người ta quan
niệm thị trường thông tin KH&CN không bao gồm thị trường xuất bản phẩm truyền
thống (sản xuất ra hàng hoá thông tin trên giấy hoặc vật mang không phải dạng
số/điện tử).
Thông tin KH&CN nói chung tồn tại ở dạng các bài báo KH&CN trong các
tạp chí và sách KH&CN, các báo cáo hội nghị, hội thảo khoa học, các báo cáo kết
quả nhiệm vụ KH&CN, luận án/luận văn, tài liệu sáng chế, tài liệu tiêu chuẩn, quy
chuẩn, Thông tin KH&CN cũng bao gồm (và không chỉ giới hạn trong đó) tập hợp
dữ liệu thô từ các cuộc điều tra, khảo sát, các chương trình máy tính (phần mềm).
Những loại hình nội dung đó có thể ở dạng in (trong sách, báo, tạp chí,…) dạng
số/điện tử trên các vật mang khác như CD, DVD, trên mạng, Thông tin KH&CN
còn được lưu giữ trong các CSDL thư mục về tài liệu KH&CN, toàn văn về KH&CN
hoặc CSDL dữ kiện/số liệu KH&CN.
Theo một số tác giả
37
thị trường thông tin KH&CN là bộ phận thông tin
chuyên môn trong thị trường thông tin và bao gồm:
Thông tin chuyên ngành (thông tin và dữ liệu chuyên cho luật sư, bác sĩ,
dược sĩ,…);
Thông tin KH&CN (thông tin tư liệu, thư mục, tóm tắt, tra cứu và các dữ
liệu trong lĩnh vực các khoa học cơ bản và ứng dụng, khoa học tự nhiên, khoa học
kỹ thuật, khoa học xã hội, các ngành nghề sản xuất và các lĩnh vực hoạt động của
con người);
37
Rodionov I., Lê Trọng Hiển (2008)…, Tài liệu đã dẫn.
25
Dịch vụ của các tổ chức hỗ trợ cho việc tiếp cận đến nguồn thông tin cấp một (kể
cả dưới dạng sao chụp tài liệu) thông qua thư viện, các bộ phận chuyên trách, khả năng
có được và nhận được tài liệu gốc theo dịch vụ mượn giữa các thư viện.
1.2. Đặc điểm của thị trƣờng thông tin KH&CN
Thị trường thông tin KH&CN là nơi diễn ra sự trao đổi, mua bán, lưu thông
các sản phẩm thông tin KH&CN. Loại thị trường đặc biệt này cũng phải tuân thủ và
chịu sự chi phối của những quy luật kinh tế thị trường thông thường, đó là: qui luật
cung-cầu; qui luật giá trị và qui luật cạnh tranh. Tuy nhiên, nó cũng có một số đặc
điểm khác với thị trường thông thường:
- Thị trường thông tin thực hiện chuyển quyền sở hữu và quyền sử dụng sản
phẩm thông tin
Trên thị trường thông tin, các sản phẩm hàng hoá thông tin có thể mua bán
trao đổi theo hai phương thức:
Trao đổi quyền sở hữu sản phẩm hàng hoá: Quyền sở hữu bao gồm quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt của chủ sở hữu theo quy định của
pháp luật. Chủ sở hữu có đủ ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền
định đoạt tài sản. Trên thị trường thông tin KH&CN, bên cung có thể trao cho người
mua toàn bộ quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt sản phẩm của mình mà chỉ giữ
lại quyền tác giả.
Trao đổi quyền sử dụng sản phẩm hàng hoá: Quyền sử dụng là quyền của chủ
sở hữu khai thác lợi ích, công dụng và chỉ là một trong ba quyền của chủ sở hữu.
Trên thị trường thông tin KH&CN, người bán có thể giữ lại quyền định đoạt sản
phẩm hàng hoá mà chỉ đồng ý cho người mua sử dụng sản phẩm của mình ở những
mức độ khác nhau.
- Trên thị trường thông tin, Nhà nước vừa là người làm chức năng công quản,
vừa là đại diện cho xã hội thực hiện chức năng người tiêu dùng xã hội
Do sản phẩm hàng hoá thông tin có giá trị sử dụng xã hội nên Nhà nước phải
thay mặt xã hội trả một khoản tiền cho người bán hàng với tư cách là người đại diện
cho người tiêu dùng xã hội. Đây là một đặc điểm rất cơ bản của thị trường thông tin
KH&CN khác với các thị trường thông thường khác, làm cho việc trao đổi, mua bán,
lưu thông sản phẩm hàng hoá thông tin trở nên vô cùng phức tạp và rất nhạy cảm liên