Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa với một chính sách phát triển công nghệ theo Cluster sản phẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 117 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ THẾ MINH



NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VỚI MỘT
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ THEO
CLUSTER SẢN PHẨM
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
MÃ SỐ 60. 34. 72



Người hướng dẫn khoa học: TS. MAI HÀ




Hà Nội – 2010
1

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
VIẾT TẮT 4


DANH MỤC BẢNG BIỂU 5
PHẦN MỞ ĐẦU 7
1 TÊN ĐỀ TÀI 8
2 LÝ DO NGHIÊN CỨU 8
3 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 10
4 MẪU KHẢO SÁT 11
5 PHẠM VI NGHIÊN CỨU 11
6 VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 12
7 GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU 12
8 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 12
9 CẤU TRÚC LUẬN VĂN 13
PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 14
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 15
1.1 DẪN NHẬP 15
1.2 CÁC KHÁI NIỆM SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI 15
1.3 MÔ HÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ 16
1.3.1 Mô hình đàn sếu bay 17
1.3.2 Mô hình “Cụm công nghiệp” 26
1.3.3 Mô hình “Cụm sản phẩm” 38
1.4 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 38
CHƢƠNG 2: KẾT QUẢ KHẢO CỨU VỀ CỤM CÔNG NGHIỆP VIỆT
NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 40
2.1 ĐẶT VẤN ĐỀ 40
2.2 VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KHU VỰC 40
2.3 PHÁT TRIỂN CÁC CỤM CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 59
2.4 CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CỤM CÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM 62
2.5 KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CCN 63
2.6 NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI 66
2.7 NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP CÔNG TY GIẤY BÃI BẰNG 72
2.8 CÁC XÍ NGHIỆP TRONG CCN BÃI BẰNG 75

2

2.8.1 Khái quát 75
2.8.2 Sơ lƣợc về quá trình hình thành các xí nghiệp Bãi Bằng: 75
2.8.3 Vai trò các xí nghiệp trong sự phát triển kinh tế-xã hội vùng 77
Những thuận lợi trong quá trình phát triển 78
2.8.4 Những khó khăn trong quá trình phát triển 79
2.9 PHÂN TÍCH CÁC DẠNG LIÊN KẾT TRONG CCN BÃI BẰNG 80
2.9.1 Khái quát 80
2.9.2 Mối liên kết về công nghệ 81
2.9.3 Mối liên kết về sản phẩm 81
2.10 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 82
CHƢƠNG 3: CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ THEO ĐỊNH
HƢỚNG CỤM SẢN PHẨM TRONG SẢN XUẤT KINH DOANH CHO
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 84
3.1 DẪN NHẬP 84
3.2 NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP VỀ CÔNG TY THÁI SƠN 85
3.2.1 Khái quát 85
3.2.2 Giới thiệu công ty Thái Sơn 85
3.2.3 Hạ tầng viễn thông, CNTT là gì? 86
3.2.4 Mối liên quan về mặt công dụng của hạ tầng viễn thông CNTT với các
đối tƣợng khách hàng 90
3.2.5 Các sản phẩm và lĩnh vực kinh doanh của công ty Thái Sơn 91
3.2.6 Phân tích hoạt đông kinh doanh qua các giai đoạn 92
3.2.6.1 Giai đoạn 1997- 2000 92
3.2.6.2 Giai đoạn 2001-2002 94
3.2.6.3 Giai đoạn 2003 – 2007 96
3.2.6.4 Giai đoạn 2008 – 2009 98
3.2.7 Phân tích hƣớng phát triển của cụm sản phẩm của công ty Thái Sơn 100
3.3 CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ ĐỊNH HƢỚNG CỤM SẢN

PHẨM 103
3.3.1 Sự cần thiết một chính sách phát triển công nghệ định hƣớng CSP 104
3.3.2 Chính sách phát triển công nghệ định hƣớng cụm sản phẩm công nghiệp 104
3.3.3 Chính sách phát triển công nghệ định hƣớng CSP của doanh nghiệp 107
3.4 NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA CHÍNH SÁCH 108
3.4.1 Môi trƣờng Kinh tế - Xã hội 108
3

3.4.2 Nhu cầu thị trƣờng 108
3.4.3 Đảm bảo công nghệ 109
3.4.4 Bảo vệ môi trƣờng 109
3.4.5 Phát triển bền vững 110
3.5 MỘT SỐ BIỆN PHÁP CỤ THỂ NHẰM PHÁT TRIỂN CCN 110
3.5.1 Chính sách quy hoạch CCN và liên kết trong CCN 111
3.5.2 Chính sách đầu tƣ phát triển CCN 111
3.5.3 Chính sách thúc đẩy hình thành sản phẩm chung của CCN 112
3.5.4 Chính sách khuyến khích phát triển liên kết công nghệ 113
3.5.5 Chính sách phát triển nguồn nhân lực 113
3.5.6 Công bố một đạo luật về Cụm công nghiệp và CSP 114
3.6 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 114
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 115
1 KẾT LUẬN 115
2 KHUYẾN NGHỊ 116
TÀI LIỆU THAM KHẢO 118

8

1 TÊN ĐỀ TÀI
“ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ
VÀ VỪA VỚI MỘT CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ THEO

CLUSTER SẢN PHẨM ”

2 LÝ DO NGHIÊN CỨU
Kinh tế Việt Nam đang trên đƣờng hội nhập vào hệ thống kinh tế thế giới trên
đƣờng hội nhập, Việt Nam buộc phải chấp nhận cạnh tranh, cả ở thị trƣờng trong
nƣớc, cả ở thị trƣờng quốc tế.
Sức mạnh cạnh tranh, tính linh hoạt của sản xuất, năng lực thích nghi để tồn tại
và phát triển của các doanh nghiệp đƣợc xem là cốt lõi trong phát triển của các quốc
gia.
Trong xu thế hội nhập, muốn tồn tại và phát triển thì phải vƣợt qua đƣợc sức
ép cạnh tranh, phải tạo ra những liên kết nhiều mặt trong kinh doanh, trong đó xu
thế nổi bật hiện nay là liên kết theo chùm (cụm) sản phẩm (CSP, tiếng Anh là
“cluster”) và chùm (cụm) công nghiệp (CCN).
Ở Việt Nam, đây là một chủ đề còn mới mẻ, chƣa đƣợc giới khoa học và giới
kinh doanh quan tâm nghiên cứu. Trong khi đó, nó lại rất cần thiết phục vụ cho các
nhà hoạch định chính sách và cho các doanh nghiệp hoạch định chiến lƣợc cạnh
tranh của mình trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay.
Trong quá trình tìm hiểu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các ngành và
các địa phƣơng, chúng ta cũng thƣờng nghe nói đến các “Cụm công nghiệp”
(CCN), chẳng hạn “CCN Thái Bình”, “CCN Thanh Hoá”, “CCN Hà Tây”, “CCN
Bắc Ninh”, v.v… , nhƣng hầu nhƣ nghe thấy ngƣời ta bàn về “Cụm sản phẩm”
Kinh tế thị trƣờng phát triển, thúc đẩy sự ra đời một loạt xí nghiệp nhỏ của các
thành phần kinh tế, xuất hiện diện mạo của một “Cụm công nghiệp” nhƣ đã mô tả
trong lý thuyết hiện đại về CCN (Industrial Cluster) đƣợc viết trong những nghiên
cứu hiện đại.
9

Sau khi cân nhắc qua thực tiễn hoạt động kinh doanh của bản thân tôi, đồng thời
tham khảo, phỏng vấn ý kiến của các công ty đối tác, tôi nhận ra một đặc điểm rất
quan trọng trong tƣ tƣởng kinh doanh hiện đại, là bên cạnh xu hƣớng phát triển các

“CCN”, ngƣời ta cũng đang có xu hƣớng chọn và phát triển các sản phẩm kinh
doanh theo cụm (Cluster of Products), vì vậy tôi quyết định chọn đề tài: “ NÂNG
CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
VỚI MỘT CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ THEO CLUSTER SẢN
PHẨM ”
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
Khái niệm “CCN” xuất hiện ở Việt Nam từ lâu. Trong quan niệm thông
thƣờng, thì CCN đƣợc hiểu là một Khu công nghiệp có quy mô nhỏ. Nhƣng khái
niệm CCN theo ý nghĩa hiện đại chỉ mới xuất hiện lần đầu trong nghiên cứu của
Porter M. E trong cuốn sách rất nổi tiếng “The Competitive Advantage of Nations”
xuất bản năm 1990 ở Mỹ.
Ở Việt Nam, khái niệm CCN đã đƣợc sử dụng trong nhiều đề án quy hoạch,
nhƣng thực sự chỉ mang ý nghĩa là những “Khu công nghiệp có quy mô nhỏ”. Ngay
tại thời điểm này, khi chúng ta vào mạng tra cụm từ “CCN”, thì chúng ta cũng sẽ
nhận đƣợc những thông tin chủ yếu theo ý nghĩa này.
Những nghiên cứu về CCN theo ý nghĩa của Porter thì chỉ mới bắt đầu ở Việt
Nam từ năm 1996 trong các hội thảo của Viện Chiến lƣợc và Chính sách Khoa học
và Công nghệ và Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trƣờng Thành phố Hải Phòng, và
đƣợc trình bày trong Khởi thảo về “Chiến lƣợc Khoa học và Công nghệ của Thành
phố Hải phòng” với sự đề xuất và tham gia của Martin Fransman Giáo sƣ Đại học
Edingburg, Vƣơng Quốc Anh; Jan Annerstedt, Giáo sƣ Đại học Lund, Thuỵ Điển;
Vũ Cao Đàm và Trần Ngọc Ca, tiếp đó là Nguyễn Văn An, nguyên Phó giám đốc
Sở KH&CN Hải Phòng, nay là Giám đốc Sở Bƣu chính Viễn thông Hải Phòng.
Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu đã có, tôi thực hiện một nghiên cứu ở
tầm vi mô, vận dụng mối liên hệ với khái niệm “CCN” (industrial cluster), tôi xem
xét “CSP” (cluster of products) trong một doanh nghiệp.
10

Chọn đề tài luận văn theo hƣớng này đối với tôi thực sự là một việc làm khó
khăn, và với tôi đó cũng chỉ là một cố gắng ban đầu, đầu tiên cảm thấy rất khó,

nhƣng tôi thấy nó cũng mang một số ý nghĩa rất quan trọng vả về lý luận lẫn thực
tế:
Ý nghĩa lý luận
Luận văn này là sự vận dụng những lý luận về “CCN” đã đƣợc các nhà nghiên
cứu nói trên đề xuất ở Việt Nam để hình thành một chính sách phát triển công nghệ
của công ty theo hƣớng hình thành một “CSP” trong chiến lƣợc kinh doanh nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh. Có thể nói, đây chỉ là một thử nghiệm nghiên cứu
đầu tiên trong khuôn khổ một luận văn tốt nghiệp, chuẩn bị tiền đề để tôi tiếp tục
phát triển các nghiên cứu vận dụng vào thực tế hoạt động kinh doanh của công ty.
Ý nghĩa thực tế
Với những cố gắng ban đầu, tôi hy vọng kết quả nghiên cứu của luận văn có
thể góp phần làm tài liệu tham khảo để các cơ quan có liên quan xem xét, bổ sung,
hoàn thiện các chính sách phát triển công nghệ nhằm tăng cƣờng hiệu quả sản xuất
kinh doanh của các công ty trên cơ sở một chính sách phát triển công nghệ đảm bảo
sản xuất và kinh doanh theo “Cụm sản phẩm” (CSP).
3 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Xuất phát từ tình hình thực tế về nhu cầu hình thành mối liên kết giữa các công
ty và các xí nghiệp mà tôi có may mắn đƣợc hợp tác kinh doanh, tôi đặt ra mục tiêu
nghiên cứu nhƣ sau:
1) Trên cơ sở khảo sát thực tế hình thành từ các xí nghiệp ở nhiều địa phƣơng
tại Việt Nam, vận dụng lý thuyết về CCN, phân tích các yếu tố hình thành
các CCN ở Việt Nam.
2) Phân tích nhu cầu đa dạng hóa sản phẩm của các doanh nghiệp trong khuôn
khổ các CSP, và vai trò quan trọng của chính sách phát triển công nghệ đảm
bảo phát triển sản phẩm theo hƣớng CSP.
11

3) Đề xuất các khuyến nghị chính sách tăng cƣờng vai trò của chính sách phát
triển công nghệ cho các doanh nghiệp phát triển CSP trong sản xuất kinh
doanh.

4 MẪU KHẢO SÁT
Vì nghiên cứu này chọn mục tiêu nghiên cứu là CSP cho các doanh nghiệp
nhỏ và vừa, cho nên mẫu nghiên cứu mà tôi chọn chính là các doanh nghiệp mà
bản thân tôi có cơ hội hợp tác kinh doanh.
Tuy nhiên do thời gian hạn hẹp, cho nên, trong số các doanh nghiệp có khả
năng phát triển CSP, tôi chọn các doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó có doanh
nghiệp của tôi.
5 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Về phạm vi nghiên cứu, tôi xem xét hai khía cạnh:
1) Phạm vi nghiên cứu luận văn chỉ giới hạn ở một số biện pháp chính sách
phát triển công nghệ theo hƣớng các CSP. Trong các chính sách chủ yếu,
luận văn tập trung chú ý tới chính sách tạo ra sự liên kết về công nghệ và sản
phẩm giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa để các doanh nghiệp có điều kiện
phát triển CSP của mình trong quan hệ hợp tác theo CSP với các doanh
nghiệp khác.
2) Về mặt thời gian, quảng thời gian đƣợc xem xét là 10 năm, kể từ 2005 đến
2015. Đó là quãng thời gian hình thành và phát huy tác động của chính sách
phát triển công nghệ để các doanh nghiệp nhỏ và vừa có điều kiện hình
thành CSP.
3) Về mặt không gian, Luận văn tập trung khảo sát chủ yếu đến các doanh
nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn TP Hồ Chí Minh, vì đây là một địa bàn có
rất nhiều biểu hiện lành mạnh của một nền kinh tế thị trƣờng; Một mặt, một
địa bàn rất ấn tƣợng đối với Luận văn, đó là CCN Bãi Bằng, là nơi có rất
nhiều nét đặc sắc của một CCN theo đúng ý nghĩa rất hiện đại của mô hình
này.
12

6 VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Luận văn đặt ra một số vấn đề giải quyết sau đây:
1) Tập hợp các doanh nghiệp trên cùng lĩnh vực kinh doanh cần những điều

kiện nào để hình thành một chính sách phát triển công nghệ thúc đẩy quá
trình hình thành CSP?
2) Bản chất chính sách phát triển công nghệ cần bao gồm những nội dung cơ
bản nào để các doanh nghiệp có thể hợp tác với nhau trong khuôn khổ phát
triển một CSP trong sản xuất kinh doanh?
7 GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Sau khi đã quan sát một loạt công ty của các đối tác về chiến lƣợc kinh doanh
theo CSP, tôi đặt ra giả thuyết sau:
1) Tập hợp các xí nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn nhƣ Thành phố
Hồ Chí Minh đã hội đủ điều kiện hình thành một chính sách phát triển công
nghệ định hƣớng phát triển CSP.
2) Chính sách phát triển công nghệ định hƣớng CSP cần có những ƣu đãi, trƣớc
hết là ƣu đãi về thuế, về cơ chế về tài chính nhằm kích thích động cơ liên kết
để hình thành CSP nhằm cuối cùng giành ƣu thế trong cạnh tranh.
8 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu tình huống (Case study) trong quá trình thực
hiện đề tài của luận văn, bao gồm:
Nghiên cứu các tài liệu trong và ngoài nƣớc để làm rõ các nội dung về lý luận
và thực tiễn về CCN, từ đó vận dụng để phát triển CSP.
Nghiên cứu tài liệu thực tế tại một số doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Thành phố
Hồ Chí Minh.
Khảo sát thực tế về sự phát triển loại hình kinh doanh theo CSP ở Việt Nam,
và đặc biệt tại Thành phố Hồ Chí Minh trong 10 năm, từ 2005 đến 2015.
13

Phỏng vấn các giám đốc và các chuyên viên làm việc tại một số doanh nghiệp
nhỏ và vừa về nhu cầu và tính khả thi của một chính sách phát triển công nghệ định
hƣớng CSP.
9 CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Chƣơng 1, CƠ SỞ LÝ LUẬN

Chƣơng 2, KẾT QUẢ KHẢO CỨU VỀ CỤM CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
TRONG XU THẾ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Chƣơng 3, CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ THEO ĐỊNH HƢỚNG
CỤM SẢN PHẨM TRONG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

14

PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

15

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 DẪN NHẬP
Nhƣ đã trình bày ở phần trên, vấn đề mà luận văn cần giải quyết là làm rõ
những cơ sở lý luận để thực hiện một chính sách phát triển công nghệ nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập
Tƣ tƣởng cơ bản của luận văn xoay quanh việc đề xuất một chính sách phát
triển công nghệ phục vụ việc phát triển các “Cụm công nghiệp” và “Cụm sản
phẩm”, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, nhƣng lại thúc đẩy nền kinh tế trong
nƣớc hội nhập đƣợc vào hệ thống kinh tế thế giới.
Chính sách đó lấy cơ sở lý luận từ học thuyết về “Cụm công nghiệp” (CCN)
do Porter đề xƣớng và đƣợc rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới tán thƣởng.
Suy rộng ra từ ý tƣởng về “Cụm công nghiệp”, chúng ta có thể đi đến khái
niệm “Cụm quốc gia công nghiệp”, đã đƣợc Giáo sƣ Trần Văn Thọ tổng kết trong
một nghiên cứu của ông [1,12], có tên là mô hình “Đàn sếu bay”, trong đó, các quốc
gia với trình độ phát triển rất khác nhau, đã phối hợp với nhau theo mô hình “Đàn
sếu bay”, một hình ảnh sinh động của một thứ “Cụm quốc gia công nghiệp”
Vẫn trên lăng kính đó, chúng ta có thể thu nhỏ lại thành những “Cụm sản

phẩm” (CSP) trong một doanh nghiệp. Tƣơng tự mô hình “Cụm công nghiệp”, mô
hình cấu trúc doanh nghiệp theo “Cụm sản phẩm” là một giải pháp tối ƣu hóa sản
xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
Đó là tóm tắt toàn bộ ý tƣởng về mặt lý thuyết của luận văn này.
1.2 CÁC KHÁI NIỆM SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI
Cụm công nghiệp
Cụm công nghiệp (industrial cluster) là một tập hợp xí nghiệp nằm trong cùng
khu vực địa dƣ và sản xuất những sản phẩm có vai trò bổ trợ nhau.
Chẳng hạn, một trang trại mía có xí nghiệp sản xuất đƣờng, xí nghiệp chế biến
rỉ đƣờng làm thức ăn gia súc, xí nghiệp chế biến bã mía để sản xuất giấy.
Cụm sản phẩm
16

Cụm sản phẩm (cluster of products) là một tập hợp sản phẩm của một hoặc
một số xí nghiệp liên kết với nhau nhằm tận dụng năng lực các doanh nghiệp và
nâng cao hiệu quả của mỗi doanh nghiệp.
Chẳng hạn, xung quanh xí nghiệp giấy Bãi Bằng có xí nghiệp sản xuất và tái
chế bột giấy, có xí nghiệp sản xuất chất phụ gia, có xí nghiệp chế biến giấy phế thải
để sản xuất giấy vệ sinh, v.v…
Chính sách phát triển công nghệ
Chính sách phát triển công nghệ là những biện pháp nhằm ƣu tiên phát triển
một/hoặc một số công nghệ này, đồng thời hạn chế phát triển một/một số công nghệ
khác, cuối cùng định hƣớng vào mục tiêu sản xuất – kinh doanh.
Chẳng hạn, khi doanh nghiệp muốn thực hiện chính sách phát triển sản phẩm
theo cụm, thì doanh nghiệp ƣu đãi những hợp đồng nhập các công nghệ phù hợp với
chính sách phát triển những sản phẩm nằm trong danh mục CSP và hạn chế nhập
những công nghệ không nhằm phát triển các sản phẩm nằm trong danh mục CSP
của doanh nghiệp.
1.3 MÔ HÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ
Tƣ tƣởng hội nhập kinh tế trong luận văn là do thầy hƣớng dẫn của tôi, Tiến sỹ

Mai Hà, khởi xƣớng.
Theo gợi ý của Tiến sỹ Mai Hà, tôi hình dung, mô hình hội nhập kinh tế gồm 3
tầng: (1) Mô hình hội nhập quốc tế kiểu “Đàn sếu bay”; (2) Mô hình thích ứng của
mỗi quốc gia “CCN”; (3) Mô hình phát triển doanh nghiệp theo “CSP”, trong đó,
các mối liên hệ bên trong của quá trình hội nhập là sự tƣơng thích giữa mô hình
doanh nghiệp với hệ thống doanh nghiệp trong các “CCN”, với cấu trúc doanh
nghiệp theo “CSP”, phát triển có tƣơng tác trong mô hình “Đàn sếu bay” trong quá
trình phát triển hợp tác quốc tế (Hình 1.1):





17












Hình 1.1 Mô hình hội nhập kinh tế quốc tế

1.3.1 Mô hình đàn sếu bay
Mô hình đàn sếu bay đƣợc trình bày trong một khảo luận của Gs. Trần Văn

Thọ, giáo sƣ Đại học Waseda, Tokyo.
Ông cho rằng, có lẽ ít nhất trong 15 hoặc 20 năm sắp tới, công nghiệp hoá là
trọng điểm của chiến lƣợc phát triển kinh tế Việt Nam. Vậy công nghiệp hoá Việt
Nam sẽ tiến hành trong một bối cảnh quốc tế nhƣ thế nào?
Thƣơng trƣờng của Việt Nam đƣơng mở rộng ra khắp thế giới. Sau khi Việt
Nam gia nhập WTO, khuynh hƣớng này càng mạnh hơn. Tuy nhiên trong giai đoạn
trƣớc mắt, thách thức trực tiếp và cũng là cơ hội đối với công nghiệp Việt Nam là ở
vùng Đông Á. Tại đây, hai trào lƣu đang nổi cộm và sẽ tác động đến sự phát triển
của công nghiệp Việt Nam, đó là sự biến động trong làn sóng công nghiệp Đông Á
và khuynh hƣớng tự do mậu dịch trong vùng. Hiểu đúng tính chất và tác động của
hai trào lƣu này để định đƣợc phƣơng hƣớng chiến lƣợc cho công nghiệp hoá trong
Trong nƣớc: Cụm công nghiệp
Doanh nghiệp: Cụm sản phẩm
Quốc tế: Đàn sếu bay
18

giai đoạn tới là vấn đề tối quan trọng của kinh tế Việt Nam hiện nay. Đó cũng là
chủ đích của luận văn.
Trong một nghiên cứu của ông, ông đã phân tích sự biến động của làn sóng
công nghiệp Đông Á, đặc biệt xem sự phân công lao động giữa các nƣớc đã thay
đổi ra sao và vị trí của Việt Nam nằm ở đâu trong bản đồ công nghiệp hiện nay tại
vùng này. Tiếp đó, ông phân tích trào lƣu khu vực hoá, tự do hoá gần đây tại vùng
Đông Á, với chủ đích tìm xem công nghiệp hoá Việt Nam sẽ chịu tác động gì trong
khi tiến hành tự do mậu dịch với các nƣớc ASEAN trong khuôn khổ AFTA (Khu
mậu dịch tự do ASEAN) từ năm 2006 và với Trung Quốc trong khuôn khổ FTA
(Hiệp định thƣơng mại tự do) ASEAN-Trung Quốc từ năm 2015. Kết quả phân tích
ông cho thấy bối cảnh khu vực mà Việt Nam sẽ tiến hành công nghiệp hoá trong
giai đoạn tới. Trong bối cảnh đó, lợi thế so sánh của Việt Nam nằm ở đâu và đâu là
phƣơng hƣớng của chiến lƣợc công nghiệp hoá Việt Nam?
Mô hình đàn sếu bay trước thử thách mới

Trong mấy thập niên qua, phát triển công nghiệp lan tỏa nhanh tại vùng Đông
Á, bắt đầu từ Nhật sang Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong, Singapore (gọi chung là
nhóm NICs) sau đó đến 4 nƣớc ASEAN phát triển trƣớc (Malaixia, Thái Lan,
Philipin và Inđônêxia, dƣới đây gọi chung là ASEAN-4) rồi Trung Quốc, v.v. .
Hiện tƣợng này đƣợc diễn tả bằng mô hình đàn sếu bay (flying-geese
development pattern) với các nội dung có thể đƣợc tóm tắt nhƣ sau:
Do vùng Đông Á gồm nhiều nhóm nƣớc có các giai đoạn phát triển khác nhau,
một ngành công nghiệp (tạm gọi là ngành A) thƣờng đƣợc bắt đầu phát triển tại
Nhật, sau đó chuyển sang NICs rồi ASEAN-4, sau nữa là đến Trung Quốc và tiếp
theo có thể là Việt Nam và các nƣớc khác; các nƣớc đi trƣớc sau khi mất lợi thế so
sánh trong ngành A đã nỗ lực chuyển dịch cơ cấu công nghiệp lên những ngành có
giá trị gia tăng cao với trình độ công nghệ cao hơn (ngành B rồi C, D, v.v… khi B,
C, …cũng nhƣ A chuyển dần sang các nƣớc khác).
Đây là hiện tƣợng đuổi bắt (catch-up) nhiều tầng trong quá trình công nghiệp
hoá ở Đông Á, tạo nên tính năng động của vùng này. Yếu tố đƣa đến hiện tƣợng
này là nỗ lực tích luỹ tƣ bản, công nghệ tại các nƣớc đi sau và quá trình đó đƣợc
thúc đẩy bằng đầu tƣ trực tiếp (FDI) và các hình thái chuyển giao công nghệ khác từ
các nƣớc đi trƣớc.
19

Cho đến đầu thập niên 1990, hầu hết các nhà nghiên cứu kinh tế đều cho rằng
việc áp dụng mô hình đàn sếu bay để giải thích sự lan toả của công nghiệp tại vùng
Đông Á là có cơ sở. Nhìn toàn cục, ta thấy có sự tiến triển nhanh trong việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của các nƣớc theo hƣớng công nghiệp hoá, các nƣớc đi sau đuổi
theo các nƣớc đi trƣớc, rút ngắn khoảng cách phát triển công nghiệp. Chẳng hạn
Hình 1.2 cho thấy hiện tƣợng đuổi bắt ấy về phƣơng diện xuất khẩu. Hiện nay tại
hầu hết các nƣớc Đông Á, 80% kim ngạch xuất khẩu là hàng công nghiệp (Các
nƣớc NICs, không vẽ trong hình, đã đạt mức gần 100% từ thập niên 1980). Ngay cả
tại Inđônêxia, một nƣớc trƣớc đây chuyên xuất khẩu dầu mỏ và khí đốt, tỉ trọng của
công nghiệp trong tổng xuất khẩu cũng đã đạt mức 60%.

Khảo sát sự phát triển của từng ngành công nghiệp ta cũng thấy có hiện tƣợng
đuổi bắt tƣơng tự. Chẳng hạn trƣờng hợp ngành dệt may, lợi thế so sánh chuyển từ
Nhật sang NICs vào đầu thập niên 1970, sang ASEAN-4 từ thập niên 1980 và từ
cuối thập niên đó chuyển sang Trung Quốc. Một thí dụ khác: Cho đến thập niên
1970 chỉ có Nhật sản xuất TV mầu nhƣng ngành này bắt đầu phát triển tại Hàn
Quốc và Đài Loan từ cuối thập niên 1970 rồi tại Malaixia và Thái Lan từ cuối thập
niên 1980, và Trung Quốc trở thành nƣớc sản xuất nhiều nhất thế giới từ nửa sau
thập niên 1990.
Do quá trình đuổi bắt này, lƣợng sản xuất tại Nhật giảm nhanh và phải nhập
khẩu nhiều từ các nƣớc Đông Á (Nhật sản xuất 15 triệu chiếc TV mầu năm 1990
nhƣng chỉ còn độ 3 triệu chiếc vào năm 2000, trong thời gian đó nhập khẩu tăng từ
1 đến 9 triệu chiếc).
Tuy nhiên từ cuối thập niên 1990, với sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc,
sự phát triển của công nghệ thông tin, sự rút ngắn nhanh chóng khoảng cách công
nghệ giữa các nƣớc, nhiều ngƣời đã đặt nghi vấn về tính thuyết phục của mô hình
đàn sếu bay.
Trong một công trình nghiên cứu của mình, GS Trần Văn Thọ đã nêu mấy
điểm xét ra quan trọng [1, 25]: Thứ nhất, với quy mô và tốc độ phát triển của Trung
Quốc, với vùng tây nam rộng lớn và chƣa phát triển của nƣớc này, làn sóng công
nghiệp có thể sẽ không lan toả tiếp xuống các nƣớc có trình độ phát triển thấp hơn
nhƣ Việt Nam mà lan rộng trong nội bộ Trung Quốc. Thứ hai, Trung Quốc xuất
khẩu hầu nhƣ tất cả mọi loại hàng công nghiệp, từ các ngành có hàm lƣợng lao
20

động cao đến các sản phẩm dùng nhiều tƣ bản và công nghệ cao, gây ra sự bất ổn
trong trật tự phân công lao động ở Đông Á; các nƣớc đi sau nhƣ Việt Nam khó chen
chân vào cơ cấu phân công mới này, các nƣớc ASEAN, NICs và cả nƣớc Nhật cũng
bị đứng trƣớc một thách thức lớn.

Tỷ lệ của công nghiệp trong tổng xuất khẩu

Hình 1.2: Công nghiệp hóa nhìn từ cơ cấu xuất khẩu
Nguồn: Tính từ thống kê mậu dịch của Liên Hiệp Quốc [2,132]

Khuynh hướng mới của làn sóng công nghiệp Đông Á
Bức tranh công nghiệp vùng này đƣơng nổi cộm mấy đặc tính sau:
Thứ nhất, vùng này đang ngày càng trở thành nhà máy sản xuất hàng công
nghiệp của thế giới, đặc biệt là các loại máy móc từ đồ điện gia dụng, xe hơi, xe
máy, máy chụp hình, v. . v. . đến các loại phần cứng của công nghệ thông tin nhƣ
máy tính cá nhân, điện thoại di động. Có thể nhiều ngƣời sẽ ngạc nhiên khi xem thị
phần của các nƣớc này trong tổng lƣợng sản xuất của thế giới. Hiện nay Đông Á sản
xuất khoảng 95% máy nghe nhạc DVD, 85% máy tính xách tay, gần 100% ổ đĩa
cứng máy tính, 70% máy cát xét (cassette), gần 80% máy phim đèn chiếu (VTR),
80% máy điều hoà không khí, 60% TV màu và 30% xe hơi của thế giới. Nói chung,
tại vùng này, công nghiệp hoá tiến nhanh và cơ cấu ngày càng hƣớng vào những
ngành có giá trị gia tăng cao.
21

Thứ hai, do tiền lƣơng và các phí tổn sản xuất giữa các nƣớc không đồng đều,
trong khi đó chu kỳ công nghệ của các ngành ngày càng rút ngắn, cơ sở sản xuất
chuyển dịch nhanh từ nƣớc này sang nƣớc khác. Khi công nghệ vừa đƣợc khám phá
và triển khai thì cơ sở sản xuất đƣợc đặt tại nƣớc có công nghệ hoặc những nơi
phong phú nguồn nhân lực có trình độ quản lý, trình độ kỹ thuật cao. Nhƣng khi
công nghệ đã đƣợc tiêu chuẩn hoá thì cơ sở sản xuất di chuyển đến những nơi mà
nhân công lao động thấp, tài nguyên, vật liệu trung gian huy động dễ dàng. Tại
Đông Á, ta đã thấy nhà máy trong nhiều ngành công nghiệp đã di chuyển từ Nhật
sang các nƣớc công nghiệp mới nhƣ Hàn Quốc, Đài Loan, rồi sau đó chuyển sang
ASEAN và Trung Quốc. Nhiều nƣớc giữ vị trí áp đảo trong một số ngành nào đó
nhƣng chỉ sau vài năm thị phần giảm nhanh vì các công ty đa quốc gia di chuyển
hoặc lập thêm các cơ sở sản xuất tại các nƣớc khác trong vùng. Chẳng hạn, năm
2000 Nhật chiếm 73% thị phần thế giới về máy chụp hình kỹ thuật số (digital

camera) nhƣng qua năm 2003 thị phần giảm còn 55%. Năm 2000, Đài Loan sản
xuất 55% máy tính cá nhân loại nhỏ nhƣng sang năm 2003 Trung Quốc trở thành
nƣớc sản xuất hàng đầu với thị phần là 35%. Trong thời gian đó, trong ngành VTR,
Trung Quốc phải nhƣờng vị trí hàng đầu thế giới cho Inđônêxia. Điểm này cho thấy
là mô hình đàn sếu bay cũng còn có thể áp dụng để khảo sát làn sóng công nghiệp
Đông Á, mặc dù quá trình đƣợc rút ngắn hơn so với trƣớc đây.
Thứ ba, sau vài thập niên phát triển, khoảng cách công nghệ giữa các nƣớc
trong vùng Đông Á đƣợc rút ngắn. Điều này phản ảnh trong hiện tƣợng các nƣớc
ASEAN và Trung Quốc, những nƣớc đi sau trong quá trình công nghiệp hoá, ngày
càng giành đƣợc sự phân công sản xuất hoặc thực thi những công đoạn có giá trị gia
tăng cao trong toàn bộ chuỗi giá trị (value chain) của từng ngành công nghiệp. Hình
1.3 biểu diễn chu trình sáng tạo giá trị gia tăng của một ngành công nghiệp. Đặc
biệt trong các ngành sản xuất máy móc nhƣ máy tính cá nhân, máy giặt, máy chụp
hình, v.v. . , trƣớc đây các nƣớc ASEAN và Trung Quốc chủ yếu phụ trách công
đoạn lắp ráp là công đoạn giá trị gia tăng thấp nhất nhƣng bây giờ họ đã leo lên các
tầng trên thƣợng nguồn, đặc biệt là giai đoạn sản xuất bộ phận, linh kiện.
Thứ tƣ, do khuynh hƣớng công nghiệp hoá lan rộng và đi vào chiều sâu nói
trên, mậu dịch tại Đông Á cũng có mấy chuyển dịch quan trọng:
22

(1) Nhƣ đã đề cập, và minh hoạ trong Hình 1.2, xuất khẩu của các nƣớc hiện
nay chủ yếu là hàng công nghiệp. Trong công nghiệp, các nƣớc Đông Á ngày càng
có lợi thế so sánh trong các ngành máy móc nhƣ đồ điện gia dụng và công nghệ
thông tin. Các loại máy móc này đã chiếm trên 60% trong tổng xuất khẩu của
Malaysia, 45% của Thái Lan, và 40% của Trung Quốc vào năm 2002. Con số tƣơng
ứng của Philipin là 75%, một con số đáng ngạc nhiên. Nhƣ sẽ thấy dƣới đây, thành
quả xuất khẩu của Philipin rất đáng để ý ở các mặt khác nữa.

Hình 1.3: Chuỗi giá trị trong một ngành công nghiệp
Nguồn: Tính từ thống kê mậu dịch của Liên Hiệp Quốc [2,135]


(2) Do các nƣớc đồng loạt tiến về thƣợng nguồn trên chuỗi giá trị (di chuyển
từ D lên C và B trong Hình 1.3), sự phân công trong nội bộ các ngành sản xuất máy
móc tiến hành nhanh. Các nƣớc Đông Á vừa xuất và nhập các linh kiện, bộ phận
liên quan đến các loại máy móc. Chẳng hạn, vào năm 2002, các bộ phận, linh kiện
điện tử và chất bán dẫn có kim ngạch xuất khẩu hàng đầu tại Hàn Quốc, Singapore,
hàng thứ hai tại Nhật Bản và hàng thứ 10 tại Trung Quốc nhƣng tại tất cả các nƣớc
này trên 70% kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này là hƣớng vào các nƣớc nội
vùng Đông Á. Phụ tùng thiết bị cho các loại máy móc dùng ở văn phòng có kim
ngạch xuất khẩu hàng thứ tƣ tại Nhật, thứ sáu tại Hàn Quốc, thứ ba tại Trung Quốc
và nhiều nƣớc ASEAN cũng có tỉ lệ xuất khẩu sang Đông Á rất cao. So sánh Bảng
1.4 và Bảng 1.5 ta thấy nhiều mặt hàng Trung Quốc và ASEAN xuất khẩu nhiều
23

nhất cũng là những mặt hàng họ nhập khẩu nhiều nhất, và những mặt hàng đó có
khuynh hƣớng xuất và nhập trong nội bộ vùng Đông Á. Ngƣợc lại, những mặt hàng
mà các nƣớc này chủ yếu là xuất chứ không nhập khẩu (chẳng hạn dụng cụ thể thao,
đồ chơi, giầy dép, các loại quần áo, thiết bị thu âm, đồ điện gia dụng, v.v…) thì tỉ
lệ buôn bán trong vùng thấp (vì chủ yếu xuất khẩu sang thị trƣờng Âu Mỹ).

Bảng 1.4: 20 Mặt hàng có kim ngạch xuất – nhập khẩu nhiều nhất của Trung Quốc
Nguồn: Tính từ thống kê mậu dịch của Liên Hiệp Quốc [2,141]

(3) Vị trí đột xuất của Trung Quốc trên bản đồ ngoại thƣơng Đông Á làm
nhiều ngƣời lo ngại nhƣng phân tích kỹ ta thấy các nƣớc khác vẫn có thể tìm ra lợi
thế so sánh mới để duy trì, phát triển một sự phân công lao động với nền kinh tế lớn
mạnh này. Trong một thời gian dài, kinh tế Trung Quốc phát triển với tốc độ cao
(trung bình 10%/năm, gần đây 7-8%/năm), chủ yếu là phát triển công nghiệp mà lại
ngày càng hƣớng ngoại (tỉ lệ của xuất khẩu trên GDP tăng từ 7% năm 1980 lên 15%
năm 1990 và lên tới gần 30% những năm gần đây). Hiện nay trên 90% kim ngạch

xuất khẩu của Trung Quốc là hàng công nghiệp (Hình 1.2), từ năm 2002 Trung
Quốc là nƣớc có thị phần lớn nhất trong tổng nhập khẩu của Nhật. Hiện nay Trung
Quốc là nƣớc xuất khẩu lớn thứ ba trên thế giới. Những sự kiện này dễ gây ấn
24

tƣợng Trung Quốc đã áp đảo các nƣớc khác, và sự thực Trung Quốc đã có gây khó
khăn cho một số nƣớc gần với Trung Quốc về trình độ phát triển, về cơ cấu kinh tế.


Bảng 1.5: 20 Mặt hàng có kim ngạch xuất – nhập khẩu nhiều nhất của Asian
Nguồn: Tính từ thống kê mậu dịch của Liên Hiệp Quốc [2,176]

Tuy nhiên, kinh tế Trung Quốc phát triển cũng trở thành thị trƣờng rộng lớn,
mang lại cơ hội cho nhiều nƣớc ở Đông Á đẩy mạnh xuất khẩu. Nhập khẩu của
Trung Quốc đã tăng từ 110 tỉ năm 1995 lên tới 561 tỉ USD năm 2004. Và nhƣ Bảng
1.4 đã cho thấy, Trung Quốc vừa xuất và vừa nhập nhiều loại linh kiện hay sản
phẩm trung gian và những loại này chủ yếu xuất và nhập giữa Trung Quốc với các
nƣớc trong vùng Đông Á. Dĩ nhiên thị trƣờng Trung Quốc không phải mang lại cơ
hội đồng đều cho các nƣớc ở trong vùng mà cơ hội đó tuỳ thuộc vào năng lực cạnh
tranh của các nƣớc. Ta có thể dùng ma trận mậu dịch (trade matrix) để khảo sát vấn
đề này.
Bảng 1.6 là ma trận mậu dịch hàng công nghiệp giữa các nƣớc Đông Á (có
thêm “Thế giới” để chỉ tổng xuất khẩu của các nƣớc và thêm Mỹ là thị trƣờng quan
25

trọng của hầu hết các nƣớc Đông Á). Nhìn hàng ngang từ bên trái sang ta biết đƣợc
kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp của từng nƣớc Đông Á sang các nƣớc Đông
Á khác và sang Mỹ và thế giới. Hàng trên là kim ngạch xuất khẩu năm 1992, hàng
dƣới là năm 2002.
ĐVT: Triệu đô la Mỹ


Bảng 1.6: Ma trận giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu sản phẩm công nghiệp của 6
nƣớc ASEAN và 3 nƣớc Đông Bắc Á
Nguồn: Tính từ thống kê mậu dịch của Liên Hiệp Quốc [2,272]

Ma trận này giúp ta biết đƣợc nƣớc nào đã xuất khẩu hàng công nghiệp sang
Trung Quốc nhiều nhất và trong khoảng 10 năm qua nƣớc nào đã thành công trong
việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trƣờng lớn này. Bảng 1.6 cho thấy Nhật Bản là
nƣớc có thị phần lớn nhất (38 tỉ năm 2002), tiếp theo là Hàn Quốc, sau đó là Xin-
ga-po. Kết quả này không có gì đáng ngạc nhiên. Nhƣng đáng ngạc nhiên là tốc độ
thâm nhập của Hàn Quốc và nhiều nƣớc ASEAN vào thị trƣờng Trung Quốc từ
1992 đến 2002. Trong thời gian đó Hàn Quốc xuất khẩu hàng công nghiệp sang thế
giới tăng gấp đôi nhƣng sang Trung Quốc thì tăng gần 10 lần (hiện nay Hàn Quốc
26

chiếm gần 10%, ngang hàng với Mỹ, trong tổng nhập khẩu của Trung Quốc. Các
nƣớc ASEAN cũng chiếm độ 10%, Nhật gần 20%). Trong thời gian đó, Philipin
tăng 15 lần, Thái Lan 24 lần, Malaixia 14 lần (Việt Nam cũng tăng nhiều nhƣng
xuất phát từ một con số quá nhỏ, sẽ trở lại vấn đề này dƣới đây).
Nhƣ vậy, tuy một mặt đã trở thành nhà máy của thế giới và xuất khẩu nhiều
loại hàng công nghiệp, nhƣng mặt khác Trung Quốc cũng ngày càng trở thành thị
trƣờng tiêu thụ hàng công nghiệp của các nƣớc khác ở Đông Á. Nhiều nghiên cứu
gần đây cũng cho thấy tuy đã bắt đầu tiến lên thƣợng nguồn trên chuỗi giá trị (Hình
1.2), Trung Quốc vẫn phải tuỳ thuộc vào nhập khẩu nhiều bộ phận, linh kiện và các
sản phẩm trung gian khác, nhất là những mặt hàng có hàm lƣợng công nghệ cao.
Phân tích ở đây cho thấy sự xuất hiện mạnh mẽ của Trung Quốc chƣa cản trở sự
tiến hành phân công lao động tại vùng Đông Á.
1.3.2 Mô hình “Cụm công nghiệp”
Bƣớc đột phá của cách tiếp cận này là khái niệm CCN (industrial cluster) của
Michael E. Porter trong quyển “Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia” (The

Competitive Advantage of Nations) năm 1990, theo đó, một CCN (industrial cluster)
đƣợc định nghĩa nhƣ sau “sự tập trung về mặt địa lý của các công ty, các nhà cung
cấp chuyên dụng, các nhà cung cấp dịch vụ, các công ty trong các ngành công
nghiệp liên quan, và các cơ quan liên quan trong một lĩnh vực cụ thể vừa cạnh
tranh vừa hợp tác được liên kết lại với nhau” [9,365].
Theo cách nhìn của Porter, một phần quan trọng của thƣơng mại quốc tế bắt
nguồn từ sự kết tụ cục bộ của các công ty trong một lĩnh vực cụ thể; một cụm (a
cluster) đƣợc định nghĩa khác với sự kết tụ của “Hình thoi cạnh tranh” (the
“Competitive Diamond”) , gồm 4 đỉnh các nhân tố đƣợc ông xác định là tạo ra lợi
thế cạnh tranh cho các công ty cũng nhƣ là các yếu tố quyết định của lợi thế cạnh
tranh quốc gia: (a) Các yếu tố hoàn cảnh (vị trí của quốc gia trong các yếu tố sản
xuất); (b) điều kiện nhu cầu (nhu cầu tự nhiên của thị trƣờng trong nƣớc); (c) các
ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan (sự hiện diện hay vắng mặt của chúng
trong vùng lãnh thổ); (d) Chiến lƣợc, cấu trúc và sự cạnh tranh của công ty (Các
điều kiện trong nƣớc chi phối cách thức hình thành, tổ chức và quản lý các công
ty)
1
.
27

Thông qua “Hình thoi cạnh tranh”, Porter giải thích các tác động của việc gom
cụm, một hệ thống tự thực thi, khiến các công ty đi tìm các nguồn gốc của lợi thế
cạnh tranh của họ trong sự tác động lẫn nhau của họ với hệ thống cục bộ của các nhà
cung cấp phụ, các khách hàng, các đối thủ cạnh tranh và những ngƣời đƣơng nhiệm
mà họ hoạt động. Porter cho rằng vai trò của khu vực công cộng là cải tiến các tình
hình tài chính đụng độ nhau về khả năng cạnh tranh. Các tình hình tài chính đó luôn
không đơn giản là các nhân tố chi phí liên quan hay các tài nguyên thiên nhiên có
giá trị, ông nói rằng, đúng hơn là các công ty vƣơn lên các mức cao hơn của biểu
hiện cạnh tranh khi các cơ sở kinh tế (chẳng hạn nhƣ: thị trƣờng lao động chung, tri
thức, tài chính, hạ tầng vật lý, chất lƣợng cuộc sống, các quy tắc) đƣợc hình thành

theo cụm các nhu cầu. Khái niệm cụm đầu tiên của Porter [9, 287], một mặt, tập
trung vào các CCN quốc gia, nghĩa là các công ty và các ngành công nghiệp liên kết
với nhau theo các mối quan hệ theo chiều dọc (Ngƣời mua – ngƣời cung cấp) và
chiều ngang ( các đối thủ, các khách hàng phổ thông, và các tổ chức khác v.v…).
Mặt khác, ông cũng nhấn mạnh rằng, sự tập trung về mặt địa lý của các đối thủ cạnh
tranh, các khách hàng và các nhà cung cấp trong một vùng sẽ đẩy mạnh sự đổi mới
và tính cạnh tranh trong một cụm thậm chí còn nhiều hơn. [9, 517].
Từ khái niệm của Porter về CCN (1990) một cách tiếp cận khác và hữu ích hơn
đã ra đời, khái niệm về cụm khu vực cũng đƣợc sinh ra từ những ý tƣởng đầu tiên về
các cụm của Porter (1990), nhƣng nổi bật hơn trong vai trò của khía cạnh không
gian và ranh giới của các cụm.
Sự gần gũi về mặt địa lý
Sự tập trung về mặt địa lý đã đƣợc hình thành nên ý tƣởng cụm ngay từ đầu.
Mặc dù cách tiếp cận về cụm khu vực đã cố gắng nhấn mạnh nhiều hơn tầm quan
trọng của tập trung về mặt vật lý. Enright nhấn mạnh vai trò của khía cạnh không
gian bằng định nghĩa : “Một cụm khu vực là một CCN mà các công ty thành viên ở
gần nhau” [9, 191], và sau đó ông đã định nghĩa: “Các cụm là các nhóm các công ty
trong cùng các ngành công nghiệp có liên quan mà biểu hiện của chúng là sự phụ
thuộc lẫn nhau”
2
. Theo đó, Enright không chỉ thừa nhận sự tồn tại của CCN trong
một vùng mà ông còn nhấn mạnh vai trò của không gian vùng cho động lực cạnh
tranh cơ sở bởi sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các công ty. Một định nghĩa khác là các
CCN khu vực là các CCN được tập trung về mặt địa lý, thông thường trong vòng
28

một vùng chỉ định là khu vực thủ đô, kho thị trường lao động và các nhóm chức
năng kinh tế khác [6, 215].
Cũng vào thời điểm đó, năm 1998, Porter cũng sử dụng một ý nghĩa rộng hơn
mà trong đó ông cũng bao gồm các tổ chức, cơ quan chính thức nhƣ một phần của

các CCN khu vực. Trong nhận thức của Porter, các cụm đƣợc hình thành bởi các
công ty có liên kết với nhau về những mặt nào đó và đó chính là sự gần gũi về mặt
địa lý theo định nghĩa :“ Các cụm là một nhóm gần gũi với nhau về mặt địa lý của
các công ty có mối liên hệ lẫn nhau và các cơ quan liên hợp trong một lĩnh vực cụ
thể được liên kết với nhau bởi những điểm tương đồng và bổ sung lẫn nhau. Các
cụm bao gồm một dãy các ngành công nghiệp được liên kết lại và các thực thể khác
quan trọng cho việc cạnh tranh…bao gồm các cơ quan chính quyền hay cơ quan
khác như các trường đại học, các cơ quan tiêu chuẩn, các nhóm chuyên gia cố vấn,
các nhà cung cấp đào tạo nghề và các hiệp hội thương mại” [9, 78]. Hơn nữa, theo
cơ cấu của Porter (2000), phạm vi không gian có thể đi từ một vùng, một bang, hay
thậm chí là một thành phố đơn lẻ nối liền hay lân cận với các quốc gia: “Phạm vi địa
lý của một cụm liên quan với khoảng cách dựa trên những phát sinh về thông tin,
giao dịch, động cơ và các ảnh hưởng khác”. [9. 352].
Xem xét đến phạm vi mà tất cả các ngành công nghiệp cơ bản phụ thuộc lẫn
nhau, tuy nhiên, sẽ không có gì ngạc nhiên khi các phạm vi của bất kỳ các cụm đƣợc
đƣa ra đều nằm trong tầm mắt của ngƣời xem nhƣ Porter đã viết: “Vẽ ranh giới của
cụm thường là một vấn đề về cấp độ và liên quan đến một quy trình sáng tạo thông
qua sự hiểu biết về các mối liên kết và sự hỗ trợ trên toàn ngành công nghiệp và tổ
chức, đó là điều quan trọng nhất cho việc cạnh tranh trong một lĩnh vực cụ thể. ”
Tƣơng tự, ranh giới của cụm “hiếm khi phù hợp với các hệ thống phân loại theo tiêu
chuẩn công nghiệp, mà không nắm bắt những tác nhân (actors) quan trọng trong
cuộc cạnh tranh và mối liên kết trên toàn ngành công nghiệp” [9, 232]. Kết quả là,
các phần của một cụm sẽ thƣờng đặt trong các ngành công nghiệp truyền thống hay
các hạng mục dịch vụ khác nhau; các cụm quan trọng có thể bị lu mờ hay thậm chí
không đƣợc nhận ra. Cách tiếp cận này dƣờng nhƣ có ít lời giải thích có hệ thống về
chính xác những gì tạo ra không gian ràng buộc của các hoạt động kinh tế bên trong
các cụm bên cạnh tầm quan trọng của sự gần gũi về không gian
3
.

×