Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Phát triển đội ngũ công nhân tỉnh Nam Định trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (934.2 KB, 98 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





PHẠM HỒNG LUYÊN




PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN TỈNH
NAM ĐỊNH TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA





LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa Xã hội Khoa học

6 quyển – XB 16




HÀ NỘI – 2014




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





PHẠM HỒNG LUYÊN




PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN TỈNH
NAM ĐỊNH TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA



Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Chủ nghĩa Xã hội Khoa học
Mã số: 60 22 03 08
6 quyển – XB 16

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thanh Tuấn






HÀ NỘI – 2014


Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi được thực hiện
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thanh Tuấn.
Các số liệu, và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và
không trùng lặp với các đề tài khác.
Hà nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn
Phạm Hồng Luyên
















Danh Mục chữ viết tắt

CNH : Công nghiệp hóa

CNH, HDH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
KCN : Khu công nghiệp
GCCN : Giai cấp công nhân
NXB : Nhà xuất bản
LLSX : Lực lượng sản xuất
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn. 1
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận văn. 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 10
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 10
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 11
6. Đóng góp của luận văn 11
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 11
8. Kết cấu nội dung 12
B. NỘI DUNG 13
Chương 1: ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN TỈNH NAM ĐỊNH TRONG THỜI KỲ
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 13
1.1. Khái quát về giai cấp công nhân và công nghiệp hóa, hiện đại hóa 13
1.1.1 Quan niệm về giai cấp công nhân . 13
1.1.2. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa 21
1.2. Bối cảnh, đặc điểm và vai trò của đội ngũ công nhân tỉnh Nam Định
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 26
1.2.1. Bối cảnh và đặc điểm của đội ngũ công nhân tỉnh Nam Định thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 26

1.2.2. Vai trò của đội ngũ công nhân tỉnh Nam Định trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 35
Chương 2: THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÔNG
NHÂN TỈNH NAM ĐỊNH TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC 42
2.1 Thực trạng phát triển đội ngũ công nhân tỉnh Nam Định trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa 42
2.1.1. Thành tựu và nguyên nhân phát triển đội ngũ công nhân tỉnh Nam
Định trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 42


2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân trong phát triển đội ngũ công nhân tỉnh Nam
Định trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 52
2.2 Một số giải pháp nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ công nhân tỉnh Nam
Định trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa 63
2.2.1. Phát triển sản xuất theo hướng hiện đại nhằm tạo môi trường thuận
lợi cho sự phát triển và phát huy vai trò của đội ngũ công nhân 63
2.2.2. Tăng cường công tác giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ
học vấn, nghề nghiệp, tư tưởng, chính trị, đạo đức và xây dựng lối sống văn hóa cho
đội ngũ công nhân, và không ngừng trí thức hóa công nhân 64
2.2.3. Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng và năng lực hoạt động
của các tổ chức đoàn thể trong các cơ sở sản xuất công nghiệp 69
2.2.4. Thực hiện tốt một số chính sách xã hội liên quan trực tiếp tới đội ngũ
công nhân 73
C. KẾT LUẬN 87
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88


1
A. MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn.
Ngày nay, trong sự nghiệp đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Giai cấp công nhân là giai
cấp lãnh đạo, đồng thời là giai cấp tiền phong, đi đầu trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Vì vậy, vấn đề xây dựng
và phát huy vai trò tiên phong của GCCN không ngừng lớn mạnh về mọi mặt
là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của Đảng, Nhà nước, của GCCN và toàn
thể nhân dân. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) đã khẳng
định: “Xây dựng GCCN lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng; là giai cấp
lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng cộng sản Việt Nam,
giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH.” [18, tr80]
Nam Định là một tỉnh có vị trí địa lý, chính trị khá quan trọng, điều
kiện tự nhiên nhiều ưu đãi. Hiện nay tỉnh Nam Định đang không ngừng phát
huy nội lực, tập trung đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp; đồng thời có
những chính sách ưu đãi, khuyến khích hợp lý nên đã thu hút nhiều doanh
nghiệp trong và ngoài tỉnh đầu tư. Từ đó thúc đẩy hình thành cơ sở kinh tế -
xã hội của một tỉnh công nghiệp với nhiều khu công nghiệp và sự tăng lên rõ
rệt của đội ngũ công nhân.
Là một bộ phận của GCCN Việt Nam, trong những năm qua đội ngũ
công nhân tỉnh Nam Định đã có những bước phát triển đáng kể trong điều
kiện đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh cũng như trên
cả nước và có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh. Trên cơ sở phát huy truyền thống “thợ dệt thành Nam”, hiện nay, đội
ngũ công nhân tỉnh Nam Định đã và đang có những biến đổi về số lượng,
chất lượng và cơ cấu. Bên cạnh những mặt mạnh như: năng động, sáng tạo,
chịu khó học hỏi để nâng cao tay nghề, vươn lên chiếm lĩnh khoa học kỹ thuật
và công nghệ mới, đội ngũ này cũng bộc lộ một số hạn chế như: số lượng


2

thấp; cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp
chưa cao; kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế. Đa số công nhân của tỉnh xuất
thân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống, khả năng ứng
dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật hiện đại vào sản xuất còn hạn chế. Giác ngộ
giai cấp và bản lĩnh chính trị chưa đồng đều; sự hiểu biết về chính sách, pháp
luật còn nhiều hạn chế. Thực trạng đó đòi hỏi phải từng bước khắc phục nhằm
phát triển số lượng và nâng cao chất lượng của đội ngũ công nhân Nam Định
để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Chính vì những lý do đó, tác giả chọn vấn đề: “Phát triển đội ngũ công
nhân tỉnh Nam Định trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” làm đề tài cho luận văn thạc sỹ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận văn.
Trong thời gian gần đây, ở Việt Nam, giai cấp công nhân là vấn đề lý
luận ngày càng thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học
dưới nhiều góc độ khác nhau, đặc biệt là sự soi xét của lý luận vào thực tiễn
phát triển mới của giai cấp công nhân. Kết quả là sự ra đời của nhiều các công
trình khoa học đã trình bày một cách cơ bản, hệ thống quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về giai cấp công nhân,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực trạng của giai cấp công nhân Việt Nam
hoặc trên địa bàn một số tỉnh cụ thể trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; trên cơ sở đó đề xuất mục tiêu và những giải pháp chủ yếu
nhằm phát triển và phát huy vai trò của giai cấp công nhân trong sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hóa.
Thứ nhất, các công trình khoa học bàn chung về GCCN trong sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước
- Cao Văn Lượng (chủ biên), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát
triển giai cấp công nhân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001: Tác phẩm
khái quát một số vấn đề lý luận về GCCN, sự phát triển và biến đổi sâu sắc về



3
mọi mặt của GCCN dưới tác động của CNH, HĐH, của sự phát triển khoa
học kỹ thuật; thực trạng của công nhân lao động ở nước ta hiện nay cả về số
lượng, chất lượng, cơ cấu. Tác giả khẳng định khoa học kỹ thuật ngày càng
phát triển, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì trình độ trí thức của công
nhân sẽ ngày càng được nâng cao. Bộ phận này chính là lực lượng nòng cốt
của GCCN hiện nay. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra những chính sách và giải
pháp cơ bản xây dựng, củng cố và tăng cường vị trí của GCCN trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
- Dương Xuân Ngọc (chủ biên), “GCCN Việt Nam trong sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. Đây là một
công trình nghiên cứu khá toàn diện về GCCN Việt Nam. Từ lý luận đến thực
tiễn, tác giả đã đề cập đến GCCN, thực trạng và xu hướng biến đổi của GCCN
Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH. Từ đó đề ra phương hướng, mục tiêu,
giải pháp xây dựng GCCN Việt Nam.
- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế”, Nxb Lao động, Hà Nội, 2007.
Công trình này gồm các tham luận khoa học bàn về vị trí, vai trò của GCCN;
mối quan hệ giữa GCCN và tổ chức Công đoàn; vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với GCCN trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Các bài tham luận
đã đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để nâng cao
ý thức chính trị cho GCCN trong giai đoạn hiện nay.
- Đặng Ngọc Tùng, “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững
mạnh đáp ứng yêu cầu của sự phát triển đất nước”, Tạp Chí Cộng sản, số
784, tháng 2/2008. Bài viết đã chỉ ra rằng, GCCN nước ta hiện nay tuy có
bước phát triển về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng đội ngũ được nâng
lên (biểu hiện là xuất hiện bộ phận công nhân trí thức), nhưng nhìn chung
GCCN chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập



4
quốc tế. Do vậy, xây dựng GCCN Việt Nam lớn mạnh là một nhiệm vụ quan
trọng và cấp bách.
- Hoàng Chí Bảo, Nguyễn Viết Thông, Bùi Đình Bôn (chủ biên), “Một
số vấn đề lý luận về GCCN Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường, đẩy
mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế”, Nxb Lao động, Hà Nội, 2012. Cuốn
sách đề cập tới xu hướng phát triển của GCCN trong thời kỳ CNH, HĐH và
hội nhập quốc tế. Mối quan hệ giữa GCCN với các giai cấp, tầng lớp khác
trong xă hội, đặc biệt là trong liên minh GCCN với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức; Vai trò làm chủ của GCCN, quan hệ giữa người sử dụng lao
động và người lao động; Tổ chức và hoạt động của tổ chức Đảng, Công đoàn,
Đoàn Thanh niên trong các loại hình doanh nghiệp; những âm mưu thủ đoạn
“diễn biến hòa bình” và tuyên truyền phản động của các thế lực thù địch đối
với GCCN; cuối cùng là giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy, nâng cao chất
lượng nghiên cứu, phát triển lý luận về GCCN Việt Nam trong thời gian tới.
Thứ hai, các công trình khoa học bàn về phát huy vai trò của GCCN
trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước
- Viện Công nhân và Công đoàn, “Một số vấn đề cơ bản về xây dựng và
phát huy vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa”, Nxb Lao động, Hà Nội, 2004. Cuốn sách đã đề cập tới những vấn
đề cơ bản trong việc xây dựng GCCN trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
Đồng thời, tác giả cũng đưa ra được một số biện pháp để phát huy vai trò của
GCCN thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
- Dương Văn Sao“Xây dựng, phát huy vai trò GCCN, nhân tố quyết
định thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH” (2007), Tạp chí Lao động và
Công đoàn số 376, tháng 3 (kỳ 2) - 2007. Tác giả đã khẳng định GCCN là
nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, từ đó
đề xuất một số chủ trương, chính sách nhằm phát huy vai trò GCCN trong
giai đoạn hiện nay.



5
- Liễu Khả Bạch-Vương Mai- Diêm Xuân Chi, “Vị trí và vai trò của
giai cấp công nhân đương đại”, Nxb Công nhân Trung Quốc, Người dịch
Nguyễn Ngọc Lân, Hà Nội, 2008. Đây là một công trình nghiên cứu toàn diện
về GCCN trong giai đoạn hiện nay. Qua việc phân tích thực trạng, xu hướng
biến đổi của GCCN cùng với sự biến đổi và phát triển của điều kiện kinh tế-
xã hội, các tác giả đã đưa ra khái niệm khá rộng về GCCN bao gồm “quảng
đại người có thu nhập từ lương”, “hoạt động trong các ngành nghề”, từ “các
chuyên gia học giả thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội mũi
nhọn, các giáo sư uyên bác, các bác sỹ tài ba, và những người quản lý xã hội
các cấp… đều thuộc phạm trù giai cấp công nhân” [5, 34]. Bởi vậy, GCCN
hiện nay là “một cộng đồng lớn và phức tạp”, có sự phân hóa, phân tầng sâu
sắc. Từ khái niệm, các tác giả cũng chỉ ra một trong những đặc điểm lớn nhât
của GCCN hiện nay là được “trí thức hóa, trí tuệ hóa”. Đặt trong mối quan hệ
với sự phát triển của kinh tế tri thức, các tác giả khẳng định, trình độ tri thức,
công nghệ của công nhân ngày một tăng lên là một tất yếu. Do vậy, họ có vai
trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế tri thức và phát triển sản
xuất xã hội. Các tác giả khẳng định GCCN “không chỉ là người sáng tạo ra ra
của cải và giá trị xã hội chủ yếu mà còn chiến đấu hăng hái trong lĩnh vực
kinh tế tri thức”. Họ cũng “là người đại diện quan trọng cho lực lượng sản
xuất tiên tiến, trước sau như một, họ luôn là lực lượng cơ bản thúc đẩy sản
xuất phát triển” [5, 39].
Với vị trí và vai trò đó, các tác giả đã đề xuất những giải pháp cơ bản
để bảo vệ quyền lợi cơ bản, hợp pháp của công nhân, từ đó tạo điều kiện và
môi trường để họ tiếp tục phát huy vai trò to lớn của mình đối với sự phát
triển kinh tế- xã hội.
- “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011- 2020”, Báo
cáo tổng hợp đề tài cấp Nhà nước, mã số KX.04.15/06-10, Chủ nhiệm đề tài

Đặng Ngọc Tùng, Hà Nội, 2010. Đây là một đề tài nghiên cứu công phu, toàn


6
diện và có những kết luận mang tính khái quát cao về GCCN Việt Nam, nhất
là trong giai đoạn hiện nay. Đề tài đã tập trung phân tích, luận giải những vấn
đề cơ bản, cốt lõi của GCCN từ khái niệm, vị trí, vai trò, thực trạng và xu
hướng biến đổi của GCCN Việt Nam giai đoạn 2010- 2020. Đề tài cũng
khẳng định cùng với thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức
và hội nhập quốc tế, GCCN Việt Nam sẽ ngày càng trí thức hóa. Từ đó, đề tài
đã đề xuất những quan điểm, giải pháp toàn diện và có tính khả thi để Đảng
và Nhà nước xây dựng và phát huy vai trò của GCCN Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
- Nguyễn Mạnh Thắng, “Xây dựng, phát huy vai trò GCCN Việt Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” (2011), Tạp chí Cộng sản,
tháng 9/2011. Bài viết đã chỉ ra một số những đặc điểm cũng như hạn chế của
GCCN Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Từ đó, tác giả đã đưa ra một số giải
pháp cơ bản trước mắt để xây dựng, phát triển GCCN Việt Nam đáp ứng yêu
cầu CNH, HĐH đất nước.
Thứ ba, các công trình khoa học bàn về xu hướng biến đổi của GCCN
trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước
- Viện công nhân và công đoàn – Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam, “Xu hướng biến động giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm
đầu thế kỷ XXI”, Nxb Lao động, Hà Nội, 2001. Đây là kỷ yếu hội thảo khoa
học tập hợp các bài viết phân tích các điều kiện quy định và các yếu tố tác
động đến GCCN; từ đó dự báo những xu hướng biến động (hay biến đổi có
tính không thường xuyên) của GCCN Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI.
- Phan Thanh Khôi, “Trí thức hóa công nhân một số vấn đề lý luận và
thực tiễn; và Nội dung và chủ thể, quan điểm và giải pháp trí thức hóa công
nhân ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 323 + 324 +

329, năm 2005. Tác giả chỉ ra và phân tích những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin, của tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước về


7
GCCN và khẳng định trong những năm qua cùng với sự nghiệp đổi mới,
CNH, HĐH đất nước, GCCN biến đổi không ngừng và ngày càng trí thức
hóa. Đây là một xu thế khách quan, tất yếu của quá trình phát triển GCCN
hiện nay. Từ đó, tác giả phân tích những nội dung cơ bản của quá trình trí
thức hóa công nhân và những giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh quá trình trí
thức hóa công nhân, góp phần để GCCN thể hiện vai trò lãnh đạo của mình
trong công cuộc xây dựng đất nước.
- Phạm Ngọc Dũng, “Trí thức hóa công nhân Việt Nam”, Tạp Chí Khoa
học xã hội, số 12 (năm 2006), tr.13-20. Tác giả khẳng định kinh tế tri thức
phát triển đến đâu thì lao động trí tuệ thay thế dần lao động cơ bắp đến đó, bởi
vậy, trí thức thức hóa đội ngũ công nhân là một xu thế mang tính tất yếu
khách quan. Tác giả đã chỉ ra và phân tích những đặc điểm cơ bản của công
nhân trí thức như có trình độ khoa học công nghệ cao; có khả năng thích ứng
nhanh với sự thay đổi nghề nghiệp; có khả năng sáng tạo tri thức mới… Trên
cơ sở đó tác giả chỉ ra ở Việt Nam đang hướng vào nền kinh tế tri thức và
được xác định trong đường lối của Đảng và Nhà nước với những mục tiêu và
chính sách cụ thể. Song tác giả cũng chỉ ra một vài tồn tại của Việt Nam trước
nền kinh tế tri thức, nguyên nhân cơ bản của những tồn tại đó và đưa ra một
số giải pháp cụ thể đẩy mạnh trí thức hóa công nhân ở Việt Nam.
- Nguyễn Thanh Tuấn, “Giai cấp công nhân và xu hướng biến đổi của
giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, Số
397+ 398 + 399, tháng 2-3/2008, tr.8; tr.5 . Tác giả đã phân tích vai trò to lớn
của GCCN Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tác giả khẳng định GCCN Việt Nam là lực lượng sản xuất chủ yếu,
hàng đầu tại tất cả các thành phần kinh tế và khu vực kinh tế, nhất là khu vực

công nghiệp và dịch vụ; là giai cấp góp phần rất quan trọng và không thể
thiếu vào quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN; là Lực lượng sản xuất trực tiếp và hàng đầu trong quá trình


8
đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội theo hướng CNH, HĐH gắn với phát
triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế; là cơ sở xã hội- giai cấp nòng cốt
của khối đại đoàn kết toàn dân và của hệ thống chính trị. Tác giả cũng đã
phân tích những tác động của kinh tế thị trường, của quá trình CNH, HĐH
gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế theo cả hai chiều hướng
tiến bộ và thoái bộ đến việc thực hiện vai trò của GCCN. Trên cơ sở đó tác
giả dự báo về xu hướng biến đổi của GCCN trong thời gian tới để từ đó có
những quan điểm và giải pháp thúc đẩy vai trò của GCCN theo chiều hướng
tiến bộ.
- Văn Tạo,“Đổi mới tư duy về giai cấp công nhân- kinh tế tri thức và
công nhân tri thức”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. Đây là một công
trình nghiên cứu khá sâu sắc về GCCN và đội ngũ công nhân tri thức. Tác giả
đã hệ thống hóa những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, của các chuyên gia đầu ngành về GCCN.
Tác giả chỉ ra rằng cùng với sự nghiệp đổi mới cần phải đổi mới tư duy về
GCCN, cần đặt vấn đề công nhân trong phạm trù dân tộc và nhìn nhận theo
quan điểm lịch sử; cần coi trọng vị trí và vai trò của GCCN với tư cách là Lực
lượng sản xuất của xã hội; cần khẳng định những yếu tố bất biến trong định
nghĩa về giai GCCN, đồng thời coi trọng tìm ra những yếu tố khả biến cần thay
đổi, bổ sung… từ đó tác giả đi tới một định nghĩa mới về GCCN Việt Nam.
Tác giả đã dành một phần rất quan trọng của cuốn sách để phân tích, làm
rõ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế tri thức và công nhân tri thức. Tác giả
chỉ ra rằng kinh tế tri thức đã bắt đầu hình thành ở Bắc Mỹ, Nhật Bản và một
số nước Tây Âu. Ở Việt Nam cũng đã xuất hiện một số yếu tố ban đầu của

kinh tế tri thức. Với tinh thần năng động, sáng tạo và nhạy bén với cái mới đã
Đảng và Nhà nước đã tiếp cận về mặt tư duy và dự kiến phương châm đi tắt,
đón đầu tiến vào kinh tế tri thức. Tác giả đã phân tích các đặc trưng cơ bản
của kinh tế tri thức. Từ đó, tác giả khẳng định cùng với sự ra đời và phát triển


9
của kinh tế tri thức, công nhân tri thức xuất hiện ngày càng đông đảo và là
nhân tố quyết định hướng đi của lịch sử xã hội cũng như hướng đấu tranh cho
tiến bộ xã hội. Công nhân tri thức không mất đi mà ngày càng phát triển cả về
số lượng và chất lượng, ngày càng thể hiện vai trò to lớn của mình cùng với
sự phát triển của kinh tế tri thức. Bởi vậy, công nhân tri thức - nhân tố mới
trong GCCN - không chỉ là sản phẩm mà còn là chủ thể của kinh tế tri thức.
Tác giả cũng đã chỉ ra và hệ thống hóa các quan điểm, chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về kinh tế tri thức và công
nhân tri thức. Chỉ ra vị trí, vai trò của GCCN Việt Nam trong nền kinh tế tri
thức và khẳng định GCCN Việt Nam sẽ tiến nhanh trong điều kiện kinh tế tri
thức. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất những giải pháp để xây dựng và phát triển
GCCN Việt Nam.
- Trần Thị Như Quỳnh, “Công nhân trí thức ở Thành phố Hồ Chí Minh
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Luận án tiến sĩ Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2011. Tác giả đã chỉ ra và
phân tích những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và của Đảng ta về GCCN và đội ngũ công nhân trí thức. Từ đó tác
giả đi đến khái niệm công nhân trí thức và phân tích những đặc điểm cơ bản
của đội ngũ công nhân trí thức hiện nay. Tác giả đã phân tích thực trạng và
những vấn đặt ra trên các khía cạnh: đặc điểm hình thành, vai trò và việc phát
huy vai trò của công nhân trí thức, nguyên nhân của những thành tựu và hạn
chế trong vệc phát huy vai trò của công nhân trí thức ở Thành phố Hồ Chí
Minh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất những

quan điểm và giải pháp để phát triển công nhân trí thức ở thành phố Hồ Chí
Minh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
Tất cả các công trình khoa học trên làm tiền đề để tác giả kế thừa. Tuy
nhiên, cho đến nay chưa có công trình khoa học nào đi sâu vào nghiên cứu về
việc phát triển đội ngũ công nhân ở Nam Định trong sự nghiệp đẩy mạnh


10
CNH, HĐH đất nước trên phương diện chính trị, xã hội để từ đó đưa ra những
giải pháp thích hợp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của GCCN trong việc thúc
đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội theo hướng đẩy mạnh CNH,HĐH trên địa bàn
tỉnh Nam Định.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1 Mục đích
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận - thực tiễn về giai cấp công nhân với sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, luận văn đánh giá thực trạng
và đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ công nhân
tỉnh Nam Định trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận - thực tiễn về giai cấp công nhân với sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Đánh giá thực trạng và đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm tiếp tục phát
triển đội ngũ công nhân tỉnh Nam Định trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
4.1 Cơ sở lý luận.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng về giai cấp công nhân,
về công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

4.2. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp luận: phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên các nguyên
lý, phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đồng thời tuân thủ các
nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét, đánh giá các vấn đề của
luận văn.


11
- Phương pháp chung: Vì phát triển đội ngũ công nhân trong giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nam Định là vấn đề xã hội phức
tạp nên tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu chung là: phương pháp lôgic
- lịch sử, phân tích tổng hợp, quy nạp và diễn dịch,
- Phương pháp cụ thể: Phương pháp thu thập và khảo cứu tài liệu, khảo sát
thực địa. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả chú ý sử dụng phương pháp
chuyên gia, như tranh thủ sự giúp đỡ của thầy hướng dẫn và trao đổi với
những người am hiểu về chủ đề nghiên cứu ở tỉnh Nam Định.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
5.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của luận văn là đội ngũ công nhân tỉnh Nam
Định với sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
5.2. Phạm vi nghiên cứu.
Dưới góc độ lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, luận văn tập trung nghiên cứu
làm rõ các vấn đề chính trị - xã hội trong quá trình phát triển đội ngũ công
nhân tỉnh Nam Định trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
từ giữa thập niên 1990 trở lại đây.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm cơ sở khoa học cho các cấp ủy Đảng, chính quyền
địa phương trong quá trình lãnh đạo, quản lý đội ngũ công nhân và phát huy
vai trò của nó trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Đồng thời, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên

cứu, giảng dạy những chuyên đề lý luận chính trị có liên quan tại trường
chính trị và các cơ sở đào tạo của tỉnh Nam Định.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu giảng dạy, học tập tại trường chính trị và các cơ sở đào tạo, các cơ quan,
tổ chức làm công tác tuyên giáo, công đoàn, dân vận trong tỉnh Nam Định. Nó


12
cũng là cơ sở góp phần đề ra chủ trương, giải pháp xây dựng đội ngũ công
nhân trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Nam Định
8. Kết cấu nội dung
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết
cấu gồm 2 chương 4 tiết.



13
B. NỘI DUNG
Chương 1: ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN TỈNH NAM ĐỊNH TRONG
THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Khái quát về giai cấp công nhân và công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1.1 Quan niệm về giai cấp công nhân .
Một là, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp công nhân
Khái niệm giai cấp công nhân:
Khái niệm giai cấp công nhân đã được đề cập và luận bàn ngay khi giai
cấp công nhân xuất hiện trên vũ đài chính trị. Tuy vậy, quan niệm về giai cấp
công nhân của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn hàm chứa tính khách quan và khoa
học hơn cả bởi dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận biện chứng
duy vật. Trong nhiều tác phẩm của mình, C.Mác (1818-1883) và Ph.Ăngghen

(1820-1895) đã xem xét khái niệm giai cấp công nhân trên tất cả các khía
cạnh, các dấu hiệu đặc trưng nhất và các thuộc tính bản chất của nó. Ngay từ
năm 1845, khi bắt tay vào nghiên cứu giai cấp công nhân, trong tác phẩm
“Gia đình thần thánh”, C.Mác đã đặt câu hỏi: “Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản
thực sự là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó giai cấp vô sản
buộc phải làm gì về mặt lịch sử” [30, tr.56].
Trong lời nói đầu tác phẩm: “Góp phần phê phán triết học pháp quyền
Hê ghen”(1844), C.Mác đã chỉ ra nguồn gốc kinh tế, xã hội và xu hướng phát
triển của giai cấp công nhân - trong tác phẩm C.Mác sử dụng thuật ngữ giai
cấp vô sản. Theo C.Mác: “Giai cấp vô sản Đức là con đẻ của nền đại công
nghiệp non trẻ đang hình thành ở Đức”. Quan điểm này không những chỉ rõ
giai cấp vô sản được hình thành từ chủ nghĩa tư bản công nghiệp mà còn đại
diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ đang trong giai đoạn hình thành và phát triển.
Trong tác phẩm: “Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh” (1844 - 1845),
Ph.Ăngghen khẳng định: “Giai cấp công nhân Anh là kết quả chủ yếu của
cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh. Lịch sử giai cấp công nhân Anh bắt đầu


14
từ nửa thứ hai của thế kỷ thứ XVIII. Công nghiệp nhỏ đã làm nảy sinh ra giai
cấp công nhân. Công nhân công nghiệp là hạt nhân của phong trào công
nhân” [1, tr.354].Ngoài ra, C.Mác và Ph.Ăngghen còn sử dụng một số thuật
ngữ khác ngoài “giai cấp vô sản”, “giai cấp công nhân” để biểu đạt khái niệm
“giai cấp công nhân”. Chẳng hạn như: “giai cấp vô sản công nghiệp”, “giai
cấp vô sản hiện đại”, “giai cấp công nhân đại cơ khí”…Bên cạnh đó, trong
một số điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, các ông còn sử dụng một số hình thức
diễn đạt khác như: “lao động làm thuê”, “giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ sống
dựa vào bán sức lao động của mình”, “giai cấp của những người hoàn toàn
không có của”, “giai cấp công nhân làm thuê thế kỷ XIX”… Có thể khẳng
định rằng, các thuật ngữ đã nêu chỉ là sự khác nhau về hình thức biểu đạt

trong những văn cảnh cụ thể của một khái niệm: “Giai cấp công nhân” với sự
thống nhất về bản chất: lực lượng lao động trong nền sản xuất công nghiệp
hiện đại.C.Mác, Ph.Ăngghen phân biệt giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử
thế giới và bản chất cách mạng với bộ phận công nhân đã bị tha hóa, đánh mất
mình bằng những thuật ngữ đối ngược nhau: giữa một bên là “giai cấp vô sản
cách mạng” với một bên là “tầng lớp vô sản lưu manh” mất gốc, những phần
tử cặn bã của xã hội; đồng thời để phân biệt giai cấp công nhân cách mạng
với bộ phận công nhân đã khuất phục, trở thành công cụ từ bên trong, mưu
toan kìm hãm và khuôn cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trong trật tự
của “chủ nghĩa tư bản” vì mục tiêu kinh tế và lợi ích tầm thường do hệ tư
tưởng tư sản và tiểu tư sản thao túng, các ông đã sử dụng thuật ngữ: “công
nhân quý tộc”.
Như vậy, tầng lớp vô sản lưu manh và "công nhân quý tộc" không còn
là bộ phận của giai cấp công nhân nữa mà đã trở thành một bộ phận của giai
cấp tư sản hoặc đã là tầng lớp cặn bã của xã hội. Tuy có khác nhau trong cách
gọi, cách diễn đạt, do khác nhau nhưng những thuật ngữ không giống nhau
nêu trên về khái niệm giai cấp công nhân đều được các nhà kinh điển mác xít


15
sử dụng như một khái niệm đồng nhất dựa trên hai tiêu chí cơ bản để phân
định giai cấp công nhân với các giai tầng xã hội khác là:
Vị trí của giai cấp công nhân trong lực lượng sản xuất:
Giai cấp công nhân là những người (tập đoàn người) lao động trực tiếp
hay gián tiếp vận hành công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng
hiện đại và xã hội hóa, quốc tế hóa cao. Đây cũng là tiêu chí cơ bản để phân
biệt người công nhân hiện đại với người thợ thủ công thời trung cổ hay người
thợ trong công trường thủ công. Trong công trường thủ công và trong nghề
thủ công, người công nhân sử dụng công cụ của mình, còn trong công xưởng
thì người công nhân phải phục tùng máy móc. Điều đó cho thấy, hai ông luôn

nói đến giai cấp công nhân với tư cách là tập đoàn người bao gồm những
người công nhân công xưởng, là sản phẩm của nền đại công nghiệp và phát
triển cùng với sự phát triển của đại công nghiệp. Chúng ta có thể thấy rõ điều
này trong những luận điểm sau đây của C.Mác. Ph.Ăngghen: “Các giai cấp
khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn
giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” [31, tr.610];
Công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc
vậy…Công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại
Như vậy, giai cấp công nhân ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và
phát triển của đại công nghiệp. Chính vì thế, giai cấp công nhân là hiện thân
của lực lượng sản xuất hiện đại, đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến và
mang trong mình những đặc trưng riêng mà không một giai - tầng nào có
được, đó là: tính tiên tiến, hiện đại, tinh thần khoa học và cách mạng triệt để;
ý thức tổ chức kỷ luật; tình đoàn kết giai cấp.
Vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa:
Vào thế kỷ XIX ở xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những
người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư
bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư. Đối diện với nhà tư bản, công


16
nhân là những người lao động tự do, những người bán sức lao động của mình
để kiếm sống. C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt nhấn mạnh tiêu chí này vì
chính điều này khiến cho người công nhân trở thành giai cấp đối kháng với
giai cấp tư sản.
Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp
công nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được
việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư
bản - cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để
kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hoá, tức là một món hàng đem bán như

bất cứ một món hàng nào khác; vì thế, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của
cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường [31, tr.605].Vì tiêu chí thứ hai
này nói lên một trong những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa, nên C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công
nhân là giai cấp vô sản.
Từ hai tiêu chí trên, trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa
cộng sản” (1847), Ph.Ăngghen đã đưa ra định nghĩa về giai cấp công nhân:
Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán
sức lao động của mình chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ số tư
bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết toàn bộ sự
sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình
cải biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến động của cuộc
cạnh tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, giai cấp vô sản hay giai cấp
của những người vô sản là giai cấp lao động trong thế kỷ XIX… Giai cấp vô
sản do cuộc cách mạng công nghiệp sản sinh ra [2, tr.456 - 457]. Như vậy,
mặc dù C.Mác và Ph.Ăngghen chưa nêu lên thành một định nghĩa hoàn chỉnh
về giai cấp công nhân, nhưng qua một số tác phẩm, với các cách tiếp cận khác
nhau, các ông đều đưa ra một cách khái quát nhất những đặc trưng cơ bản,


17
những thuộc tính bản chất của giai cấp công nhân. Nhờ đó, chúng ta có thể dễ
dàng nhận diện được giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Trên cơ sở kế thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen V.I.Lênin
(1870-1924) bổ sung thêm những thuộc tính mới của giai cấp công nhân.
Theo V.I.Lênin, sự phân chia giai cấp trong xã hội phải dựa vào địa vị và sự
khác nhau của các tập đoàn người trong quan hệ đối với chế độ sở hữu tư liệu
sản xuất, trong quan hệ đối với quản lý sản xuất và trong quan hệ đối với sản phẩm.
Trong tác phẩm: “Sáng kiến vĩ đại”, V.I.Lênin đã đưa ra một định
nghĩa nổi tiếng về giai cấp, làm tiêu chuẩn để phân chia cơ cấu giai cấp - xã

hội, để trên cơ sở đó có sự nhận thức đúng về giai cấp công nhân:
Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác
nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch
sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được
pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò
của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức
hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai
cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động
của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế
độ kinh tế xã hội nhất định [29, tr.17 - 18].Trên cơ sở quan niệm mới về giai
cấp như vậy, trong nhiều tác phẩm của mình như: “Sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản ở Nga”, “Nhà nước và cách mạng”, “Kinh tế chính trị trong thời
đại chuyên chính vô sản”…V.I.Lênin đã chỉ ra: sau khi cách mạng vô sản
thành công, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền. Địa vị kinh
tế - xã hội của giai cấp công nhân đã hoàn toàn thay đổi, từ thân phận nô lệ
làm thuê trở thành giai cấp thống trị về chính trị, thông qua đảng tiên phong
của mình lãnh đạo toàn xã hội cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Giai
cấp công nhân không còn theo đúng nghĩa đen của nó. Theo V.I.Lênin, giai
cấp công nhân là giai cấp thống trị về chính trị, giai cấp lãnh đạo toàn xã hội


18
trong cuộc đấu tranh lật đổ ách tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra xã hội mới,
trong toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp. Xu hướng
phát triển của giai cấp công nhân là đi đến chỗ tự thủ tiêu mình với tính cách
là giai cấp vô sản. Theo V.I.Lênin, công nhân là những người lao động
chuyên nghiệp, làm việc trong nền đại công nghiệp.
Những quan điểm về giai cấp công nhân của C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I. Lênin nêu ở trên đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là cơ sở thế giới
quan và phương pháp luận khoa học quan trọng để nghiên cứu giai cấp công

nhân hiện đại trong điều kiện hiện nay.
Hai là, quan điểm của Hồ chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về giai cấp
công nhân Việt Nam
Quán triệt sâu sắc học thuyết Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể ở nước
ta chủ tịch Hồ Chí Minh tuy không đưa ra định nghĩa cụ thể về giai cấp công
nhân, song trong những bài viết, nhiều cuộc nói chuyện quan trọng, Người đã
chỉ ra những ai là công nhân, lực lượng nòng cốt trong giai cấp công nhân.
Ở Việt Nam, cùng với con đường ra đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch
Hồ Chí Minh vĩ đại đã tiếp cận, tiếp thu và vận dụng sáng tạo lý luận về giai
cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó từ chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn
cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến muốn vươn tới độc lập, tự do và
phát triển đất nước.
Theo Người, tất cả những người không có tư liệu sản xuất, phải bán sức
lao động mà sống là công nhân mà chủ chốt của giai cấp ấy là những công
nhân ở các xí nghiệp như: nhà máy, hầm mỏ, xe lửa… Nhưng chỉ công nhân
công nghệ là hoàn toàn đại biểu cho cái đặc tính của giai cấp công nhân. Giai
cấp công nhân Việt Nam cũng mang những thuộc tính và đặc điểm cơ bản của
giai cấp công nhân thế giới bên cạnh những đặc điểm riêng biệt.
Ngày nay, trong thời kỳ đổi mới đất nước, công nhân được Đảng Cộng
sản Việt Nam xác định công nhân không chỉ là những người lao động sản


19
xuất và dịch vụ công nghiệp thuộc doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã, mà
còn bao gồm những công nhân thuộc khu vực tư nhân, cá thể, hợp tác liên
doanh với nước ngoài.
Có thể khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về giai cấp công nhân Việt Nam ở một số khía cạnh sau:
- Là lực lượng lao động đã và đang trực tiếp vận hành những phương
tiện sản xuất hiện đại của xã hội, đại diện cho phương thức sản xuất mới. Họ

hoạt động lao động sản xuất chủ yếu trong các ngành công nghiệp và dịch vụ
công nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Là lực lượng nòng cốt, liên minh chặt chẽ với nông dân và trí thức
nguồn động lực chủ yếu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Đang phát triển mạnh mẽ theo hướng trí thức hóa, tiếp thu thêm đông
đảo những người thuộc tầng lớp trí thức vào hàng ngũ của mình trong điều
kiện khoa học và công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin về giai cấp công nhân, mới đây Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6
(khoá X) "Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" đã khẳng định: “Giai cấp
công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm
những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các
loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh
doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp” [17, tr.43].
Quan niệm trên của Đảng, về cơ bản, là phù hợp với lý luận về giai cấp
công nhân của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời phản ánh thực tiễn giai cấp
công nhân nước ta trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức, tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; là cơ sở cho tiếp tục thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân

×