ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN HOÀNG HIẾU
XÂY DỰNG LỐI SỐNG VĂN HOÁ TRONG THANH
NIÊN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN HOÀNG HIẾU
XÂY DỰNG LỐI SỐNG VĂN HOÁ TRONG THANH
NIÊN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS Dương Văn Duyên
HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: LỐI SỐNG VĂN HÓA VÀ LỐI SỐNG THANH NIÊN
NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
1.1. Quan niệm về “ lối sống văn hoá” 8
1.1.1. Khái niệm “ lối sống”
1.1.2. Khái niệm “ lối sống văn hoá”
1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của lối sống văn hoá
1.2. Lối sống thanh niên ngoại thành Hà Nội 26
1.2.1. Một số nét khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ngoại thành Hà
Nội
1.2.2. Một số nét khái quát về thanh niên ngoại thành Hà Nội và đặc điểm lối
sống thanh niên ngoại thành Hà Nội
1.2.3. Sự cần thiết, nội dung và chủ thể xây dựng lối sống văn hoá trong thanh
niên
ngoại thành Hà Nội
Chương 2: XÂY DỰNG LỐI SỐNG VĂN HOÁ TRONG THANH NIÊN
NGOẠI THÀNH HÀ NỘI MỘT SỐ NĂM QUA. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2. 1. Thực trạng xây dựng lối sống văn hóa trong thanh niên ngoại thành 51
Hà Nội một số năm qua
2.1.1. Những thành tựu và nguyên nhân
2.1.2. Những hạn chế và nguyên nhân
2.2. Phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu về xây dựng lối sống văn hoá 76
trong thanh niên ngoại thành Hà Nội hiện nay
2.2.1. Phương hướng cơ bản
2.2.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả việc xây dựng lối sống
văn hoá trong thanh niên ngoại thành Hà Nội giai đoạn hiện nay
KẾT LUẬN 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “ Mọi hoạt
động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư
tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái
khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình,
cộng đồng và xã hội”[ 20, tr.114]. Điều đó cho thấy, trong những năm qua xây dựng con
người có lối sống văn hoá đang được sự quan tâm đặc biệt của toàn xã hội. Chiến lược
phát triển nguồn lực con người - với tư cách là nguồn lực để phát triển xã hội ngày càng
trở nên quan trọng trong toàn bộ đường lối cách mạng của Đảng và Nhà nước ta nhằm
xây dựng và phát triển con người Việt Nam toàn diện, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của sự
nghiệp đổi mới hiện nay.
Định hướng trên của Đảng có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với mọi hoạt
động văn hóa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, vấn đề xây dựng lối sống
văn hóa đang trở thành một nhiệm vụ cấp bách.
Lối sống là một vấn đề được cả xã hội quan tâm, bởi lẽ trong một xã hội có một
lối sống đẹp là điều hạnh phúc cho tất cả mọi người. Con người sống có lý tưởng, có
nghĩa có tình, biết quan tâm lẫn nhau, biết tôn trọng lẫn nhau sẽ là một hạnh phúc đối với
mỗi con người trong xã hội đó. Do đó, lối sống văn hóa là một đặc trưng quan trọng của
con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Xây dựng con người Việt Nam đặc biệt là
thanh niên Việt Nam không thể coi nhẹ việc xây dựng lối sống văn hóa.
Thanh niên là lực lượng đại diện cho tương lai của xã hội, một trong những nhân
tố quan trọng quyết định sự thành bại của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã dạy “Thanh niên là người chủ tương lai của đất nước. Thật vậy, nước nhà thịnh hay
suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên”[ 49, tr. 23]. Đảng ta cũng chỉ rõ: “Sự
nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng
đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con
đường xã hội chủ nghĩa hay không, phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào
2
việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên”[ 8, tr. 23]. Do đó, xây dựng lối sống văn
hóa trong thanh niên là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong xây dựng xã hội chủ
nghĩa, nhất là giai đoạn hiện nay. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã xác định: “ Đối với thế
hệ trẻ, chăm lo giáo dục bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp; giải quyết việc làm, phát triển tài
năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”[ 20, tr. 126].
Thành phố Hà Nội là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa của cả
nước, là nơi diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của đất nước. Những năm đổi mới vừa qua,
Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trong đó có thành tựu về công tác thanh
niên và xây dựng lối sống văn hóa trong thanh niên. Sau khi mở rộng địa giới hành
chính, Hà Nội có nhiều nguồn lực mới, tiếp tục ổn định và phát triển. Trong những thành
tựu chung đó có sự đóng góp không nhỏ của ngoại thành nói chung và khu vực ngoại
thành phía Tây Thành phố nói riêng. Khu vực này là khu vực trong những năm gần đây
đang là nơi có sự thay đổi nhanh về điều kiện kinh tế - xã hội; cùng với đó là sự thay đổi
trong lối sống của đa số nhân dân trong đó nhanh nhất và rõ nhất là sự thay đổi lối sống
của thanh niên.
Có thể nhận ra mặt tích cực của nền kinh tế thị trường, của sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, của giao lưu quốc tế, đang làm cho đời sống dân cư ngoại thành Hà Nội
trong đó có đời sống thanh niên đang thay đổi từng ngày; trong sự thay đổi đó phần lớn
thanh niên cơ bản vẫn giữ được đạo đức cách mạng, sống trong sạch, giản dị, lành mạnh,
biết vươn tới các giá trị chân, thiện, mỹ, sống có lý tưởng, có hoài bão, có niềm tin ở
tương lai tươi sáng của dân tộc. Họ dám đấu tranh để bảo vệ cái đúng, bảo vệ lẽ phải,
công bằng, lên án cái xấu, cái ác Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường, những
thách thức của hội nhập kinh tế thế giới, đặc biệt là những âm mưu thủ đoạn nham hiểm
của các thế lực thù địch đang tác động mạnh mẽ đến thanh niên, khiến cho không ít
thanh niên chạy theo lối sống thực dụng, sa ngã, hư hỏng, xa rời các giá trị đạo đức tốt
đẹp của dân tộc, phai nhạt tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có thái độ thờ ơ,
phai nhạt Đoàn, Đảng, bàng quang trước các sự kiện kinh tế, chính trị của đất nước, đang
là một thực trạng đáng báo động. Điều nguy hiểm hiện nay là đã xuất hiện một bộ phận
3
không nhỏ thanh niên tôn thờ chủ nghĩa cá nhân, sống ích kỷ, chạy theo lợi ích vật chất,
coi đồng tiền là trên hết. Cá biệt có một số thanh niên phạm vào các tệ nạn xã hội, vi
phạm pháp luật vv. Đây là những hạn chế trong lối sống của một bộ phận không nhỏ
thanh niên Hà Nội nói chung, thanh niên ngoại thành Hà Nội nói riêng, nó trái ngược
hẳn với tiêu chí của Người Hà Nội, của văn hóa Hà Nội văn minh, thanh lịch trong một
xã hội hiện đại của thủ đô ngàn năm văn hiến.
Văn kiện Đại Hội đại biểu Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh của Thành phố
Hà Nội lần thứ XII viết: “ Một bộ phận thanh niên chưa chuyên tâm vào việc học tập,
rèn luyện, tự lực vươn lên và cống hiến cho đất nước, còn bị chi phối bởi cuộc sống
hưởng thụ, đua đòi, xa rời bản sắc văn hóa dân tộc, sa vào các loại tệ nạn xã hội, sống
buông thả, thiếu trách nhiệm với một số người và chính mình. Trong khi đó, thế lực thù
địch đang ra sức lôi kéo, tìm mọi cách để tha hóa thanh niên”[ 04; tr. 19 ].
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng hạn chế trên. Một trong những nguyên
nhân của những biểu hiện yếu kém trên là do chúng ta chưa thực sự quan tâm tương
xứng với công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ trước những biến đổi to lớn
của đất nước. Nội dung giáo dục đạo đức, lối sống mặc dù đã có nhiều cố gắng song còn
thiếu chiều sâu, chưa thiết thực. Hình thức giáo dục đạo đức, lối sống mặc dù đã có
nhiều đổi mới song còn sơ sài, chưa có sức hấp dẫn, lôi cuốn thanh niên. Sự phối kết hợp
giữa các cơ quan chức năng, giữa nhà trường, gia đình, xã hội còn nhiều hạn chế. Nói
cách khác thanh niên chưa được trang bị kỹ năng sống phù hợp với xã hội hiện đại; bản
thân thanh niên chưa thực sự nhận rõ tầm quan trọng của lối sống văn hóa, chưa thực sự
nỗ lực, tìm tòi tự hoàn thiện nhân cách của mình để thích ứng với sự thay đổi của môi
trường, hoàn cảnh sống.
Vậy, Làm thế nào để giáo dục thanh niên trở thành một thế hệ con người mới, làm
thế nào để tạo ra một thế hệ thanh niên thủ đô mới văn minh, thanh lịch, có tri thức, năng
động, sáng tạo, làm chủ khoa học và công nghệ mới, có sức khỏe, có lối sống đẹp(có văn
hóa, có nghĩa tình trong đời sống và giao tiếp hàng ngày), có lý tưởng cao đẹp, có ý thức
trách nhiệm, giàu lòng yêu nước luôn là một vấn đề cấp bách, đặc biệt là đối với thanh
niên ngoại thành Hà Nội.
4
Chính vì những lý do trên, tôi chọn vấn đề “ Xây dựng lối sống văn hóa trong
thanh niên ngoại thành Hà Nội hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu vấn đề xây dựng lối sống nói chung và xây dựng lối sống trong thanh
niên nói riêng đã thu hút được sự quan tâm của nhiều tác giả ở nước ta.
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuốn sách “ Đời sống mới” của Người dưới
bút hiệu Tân sinh được Ủy ban Trung ương vận động Đời sống mới xuất bản vào tháng 3
- 1947. Tiếp đó, dưới bút hiệu XYZ, Bác viết quyển “Sửa đổi lối làm việc”, nhà xuất bản
Sự thật in vào năm 1950. Cả hai quyển sách này mặc dù chưa nêu lên khái niệm lối sống
nhưng đều đề cập đến những tinh thần cơ bản của lối sống mới có văn hóa. Ở lời tựa
cuốn sách “ Đời sống mới”, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “ Trong lúc kháng chiến, chúng
ta đồng thời phải kiến quốc. Thực hành đời sống mới là một điều cần kíp cho công cuộc
cứu quốc và kiến quốc”[48, tr. 99].
Xây dựng lối sống mới là yêu cầu mà thực tiễn cuộc sống đặt ra, dù trong bất kỳ
hoàn cảnh nào của quá trình cách mạng nước ta, ngay cả trong chiến tranh. Tuy nhiên,
trong tình hình của các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, vấn đề
này chưa có điều kiện để đề cập nhiều trên bình diện lý luận.
Từ ngày thống nhất đất nước năm 1975, tiếp thu lý luận về xây dựng “ Lối sống
Xô Viết” của Liên Xô, vấn đề xây dựng lối sống được đặt ra tại Đại hội lần thứ IV
( 1976) và thứ V ( 1981).
Một số tác phẩm tiêu biểu viết về lối sống của Liên Xô đã được dịch sang tiếng
Việt như: N.I.Be-lô-va: “ Bàn về vấn đề khái niệm lối sống”, Viện Xã hội học thuộc Ủy
ban Khoa học xã hội xuất bản, Hà Nội, 1977; Nhiều tác giả: “ Lối sống xã hội chủ
nghĩa”, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1982; V.I. Đô-brư-ni-na: “ Lối sống Xô Viết, hôm
nay và ngày mai”, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva, 1984
Xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng, những công trình trên đây đã phân
tích bản chất, các giá trị và biện pháp để xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IV dùng khái niệm “ nếp sống mới
có văn hóa” và đề ra nhiệm vụ: “ vận động một cách kiên trì và sâu rộng để tạo nếp
sống mới có văn hóa trong xã hội: đưa cái đẹp vào đời sống hàng ngày, vào lao động sản
5
xuất”[12, tr.125]. Đến Đại hội Đảng lần thứ V, khái niệm “ lối sống mới”được sử dụng,
Văn kiện Đại hội viết: “ cuộc đấu tranh giữa hai con đường, giữa cái mới và cái cũ,
tiên tiến với lạc hậu, tiến bộ với phản động, trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng và lối sống
đang diễn ra hàng ngày rất phức tạp”[13, tr. 91 -92].
Đại hội Đảng lần thứ VI mở ra thời kỳ đổi mới. Trong điều kiện này, xây dựng
lối sống trở thành nhiệm vụ cấp bách, từ đó việc nghiên cứu lối sống được đặt ra khá
phong phú, đa dạng cả bề rộng lẫn chiều sâu. Dưới đây tôi xin nêu một số tác giả và
công trình tiêu biểu:
Trước hết là những công trình đã được in thành sách của các nhà Xuất bản:
PGS.TS Lê Như Hoa ( chủ biên): “Lối sống trong đời sống đô thị hiện nay”, Nhà xuất
bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1993; GS. Trần Văn Bính(chủ biên): Giáo trình lý luận
văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001; TS. Nguyễn Viết Chức(chủ biên): Đạo đức, lối sống và đời sống văn
hóa thủ đô trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Viện Văn
hóa và Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2001; Đoàn Văn Thái: Nhiệm vụ cơ
bản của thanh niên Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nhà xuất bản
Thanh niên, Hà Nội 2004; PGS.TS Phạm Hồng Tung( chủ biên): Thanh niên và lối sống
của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011; GS. Đỗ Huy: “Vấn đề xây dựng lối sống dân tộc hiện
đại ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 6, 1999; Phan Huy Kỳ: “Xây dựng lối
sống mới trong điều kiện hiện nay”, Nghiên cứu lý luận, số 7, 1999; Nguyễn Hữu Thức:
“Mấy suy nghĩ về xây dựng lối sống văn hóa cơ sở hiện nay”, Tạp chí Thông tin lý luận,
số 8, 1999; Nguyễn Chí Dũng: “ Xã hội hóa lối sống và xây dựng lối sống trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 5, 2000;
Cao Văn Định: “Giáo dục lối sống cho thanh niên đô thị hiện nay”, Tạp chí Sinh hoạt lý
luận, số 2, 2000; Ngoài ra, còn có một số đề tài khoa học, luận án Tiến sỹ, Thạc sỹ đề
cập đến vấn đề xây dựng lối sông. Ví dụ: Đặng Quang Thành: “ Xây dựng lối sống có
văn hóa của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”, 2005( luận án tiên sỹ); Vũ Thị Thu: “ Lối sống của thanh niên
nông thôn Hà Nội thời kỳ đổi mới”, 2010( luận văn thạc sỹ)…vv.
6
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, các bài viết nói trên đã đi sâu lý giải bản
chất của khái niệm “ lối sống”, chỉ ra những lĩnh vực biểu hiện của nó, những đặc điểm
của lối sống mới; lối sống của thanh niên, tình hình thanh niên và vai trò của thanh niên
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự cần thiết phải xây dựng lối sống mới
cho thanh niên hiện giai đoạn hiện nay
Tuy chưa bàn đến nội dung xây dựng lối sống văn hóa trong thanh niên ngoại
thành Hà Nội nhưng các công trình có liên quan ở trên đã có nhiều gợi ý cho đề tài và có
thể coi đó là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích. Tuy nhiên đề tài của Tôi là độc lập không
trùng tên với các công trình, đề tài trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích
Từ việc làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề lối sống, lối sống văn
hóa, đặc điểm kinh tế - xã hội ngoại thành Hà Nội, đặc điểm lối sống thanh niên ngoại
thành Hà Nội, thực trạng xây dựng lối sống văn hóa của thanh niên ngoại thành Hà Nội;
Luận văn đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả để xây dựng lối sống văn hóa trong
thanh niên ngoại thành Hà nội trước yêu cầu mới của Thủ đô.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ khái niệm và đặc điểm cơ bản của lối sống văn hóa, đặc điểm lối sống
thanh niên ngoại thành Hà Nội;
- Chỉ ra những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến lối sống của
thanh niên ngoại thành Hà Nội và thực trạng xây dựng lối sống văn hóa của thanh niên
ngoại thành Hà Nội những năm gần đây;
- Đề ra một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả việc xây dựng lối sống văn
hóa trong thanh niên ngoại thành Hà Nội trước những yêu cầu hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về lối sống văn hóa trong thanh niên ngoại thành Hà Nội
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về lối sống văn hóa trong thanh niên trên một số địa
bàn ngoại thành Hà Nội hiện nay( Thạch Thất, Quốc Oai, Thị xã Sơn Tây). Những địa
7
bàn này đang diễn ra quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá nhanh. Đề tài luận văn chỉ
nghiên cứu lối sống văn hoá của thanh niên ngoại thành khoảng từ năm 2000 tới nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những
quan điểm của Đảng ta về con người xã hội chủ nghĩa và xây dựng lối sống cho thanh
niên hiện nay.
5.2. Phương pháp luận
Đề tài sử dụng các phương pháp lô gic - lịch sử, phương pháp phân tích, tổng
hợp, phương pháp thống kê, khái quát hóa, điều tra xã hội học
6. Đóng góp của đề tài
- Khảo sát và phân tích một cách có hệ thống thực trạng xây dựng lối sống văn
hóa trong thanh niên ngoại thành Hà Nội những năm gần đây;
- Đề ra những giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả việc xây dựng lối sống văn hóa
trong thanh niên ngoại thành Hà Nội hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Đề tài khi hoàn thành sẽ góp phần làm sáng tỏ vấn đề lối sống, lối sống văn hóa
nói chung và lối sống văn hoá của thanh niên ngoại thành Hà Nội nói riêng cũng như
góp phần khái quát thực trạng xây dựng lối sống văn hóa của thanh niên ngoại thành Hà
Nội hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
và giảng dạy các môn học, chủ đề có liên quan đến thanh niên, lối sống, văn hóa xã hội
chủ nghĩa.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng có thể cung cấp các luận cứ khoa học cho
các cấp, các ngành trên địa bàn thành phố Hà Nội vận dụng vào thực tiễn để hoạch định
chiến lược bồi dưỡng phát triển thanh niên ngoại thành trong giai đoạn hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.
8
Chương 1
LỐI SỐNG VĂN HÓA VÀ LỐI SỐNG THANH NIÊN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
1.1. QUAN NIỆM VỀ “LỐI SỐNG VĂN HÓA”
1.1.1. Khái niệm “ lối sống”
Mỗi một xã hội, mỗi nhóm xã hội, mỗi con người đều tồn tại và phát triển trong
mối quan hệ với tự nhiên, với người này và người khác trong một cộng đồng lịch sử nhất
định. Do phải sống, tồn tại và phát triển, cùng với việc sản xuất ra của cải vật chất, con
người đã sản xuất ra của cải tinh thần, ra dân tộc, ra chế độ chính trị và những thiết chế
nền tảng của văn hoá như lao động, gia đình, tôn giáo, văn học nghệ thuật… để duy trì
sự ổn định và phát triển của mình. Trong quá trình ấy, mỗi cộng đồng xã hội đã tạo nên
cách sống, phương thức sống và các hình thức sống riêng biệt.
Lối sống đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học như: Xã hội học,
Chính trị học, Đạo đức học, Giáo dục học, Văn hóa học và được xem là một phạm trù
cơ bản của Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Triết học Mác - Lênin hiểu lối sống là những hoạt
động sống của con người trong những điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định. Trong tác
phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, để làm rõ mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh, điều
kiện sống của nó, C.Mác đã nêu khái niệm “phương thức sản xuất” và khái niệm
“phương thức sinh sống”: Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần
theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra đời sống thể xác của các cá nhân. Mà hơn thế, nó
là một phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định
của hoạt động sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định của họ[44, tr. 30].
Luận điểm trên đây thường được các nhà nghiên cứu mác xít dùng làm điểm xuất
phát để nghiên cứu khái niệm "lối sống". Vào các thập niên 60 - 80 của thế kỷ XX, giới
nghiên cứu Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đưa ra hơn 50 định nghĩa
tiêu biểu về “lối sống”.
Định nghĩa tiêu biểu và phổ biến nhất ở Liên Xô (cũ) gắn lối sống với hoạt động
của con người. Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học định nghĩa: "lối sống xã hội chủ
nghĩa là những hình thức hoạt động sống của con người vốn có của chủ nghĩa xã hội, được
9
qui định bởi điều kiện sống của họ trong phạm vi giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản"
[52, tr. 202]. Công trình “Lối sống xã hội chủ nghĩa” do G.E. Gle-dơ-man chủ biên định
nghĩa: "Lối sống là một tổng thể, một hệ thống những đặc điểm chủ yếu nói lên hoạt động
của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một
hình thái kinh tế - xã hội nhất định”[41, tr. 45].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, khi bàn
về khái niệm "lối sống" thường nhấn mạnh vào tính chất xã hội chủ nghĩa và xác định
các tiêu chí của nó từ sự đối lập với lối sống tư sản.
Ở Việt Nam, khái niệm "lối sống" được xem xét với một góc nhìn tổng hợp, trong
đó có nói đến mối quan hệ giữa mặt chủ quan và khách quan, giữa hoạt động sống và
điều kiện sống của con người, giữa hoạt động sản xuất và những hoạt động phi sản xuất.
Nhấn mạnh vào hoạt động sống của con người, nhóm tác giả giáo trình “Lý luận
văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam” định nghĩa: “Lối sống là
một phạm trù xã hội khái quát toàn bộ hoạt động sống của các dân tộc, các giai cấp, các
nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế- xã hội nhất
định, và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong lao động và hưởng thụ; trong
quan hệ giữa người với người; trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa”[07, tr. 190].
Xem lối sống như những quan hệ xã hội, tác giả Lê Như Hoa cho rằng: “Lối sống là
tổng thể các quan hệ xã hội của con người với những hình thức và đặc trưng tiêu biểu
cho mỗi dân tộc, quốc gia, vùng địa lý, nhóm xã hội trong những điều kiện lịch sử, kinh
tế, xã hội và văn hóa cụ thể”[34, tr. 10].
Nhìn chung, các khái niệm về lối sống đều có chung những điểm sau: một là,
xem lối sống là một dạng hoạt động sống của con người; hai là, hoạt động sống này
phụ thuộc chặt chẽ vào phương thức sản xuất và điều kiện sống của con người; ba là,
nó thể hiện đặc trưng riêng của từng cộng đồng người.
Về thực chất, lối sống là hoạt động của con người, là cách thức con người ứng xử
với tự nhiên - xã hội để bảo tồn và phát triển đời sống của mình. Vì vậy, khái niệm “lối
sống” bao hàm cả hai mặt khách quan lẫn chủ quan. Mặt khách quan là điều kiện sống
của con người, trong đó bao hàm những đặc điểm của một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định mà cốt lõi là phương thức sản xuất. Mặt chủ quan chính là ý thức của con người
10
trong sự lựa chọn cho mình một lối sống, dựa trên cơ sở của một lẽ sống, một thái độ
sống cụ thể, những mục tiêu mà con người đặt ra. Vì vậy, tác giả Lê Như Hoa cho rằng:
“Thuật ngữ lối sống có sự kết hợp biện chứng giữa yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần,
gắn với phương thức sản xuất của xã hội, với chế độ chính trị xã hội, với hình thái kinh
tế - xã hội”[35, tr. 17].
Lối sống là do phương thức sản xuất quyết định. Tuy nhiên, trong cùng một
phương thức sản xuất, các giai cấp khác nhau có lối sống khác nhau. Theo “Từ điển Chủ
nghĩa cộng sản khoa học”, nguyên nhân của sự khác biệt ấy (thậm chí đối lập) là ở cơ sở
kinh tế. “Lối sống xã hội chủ nghĩa đối lập trực tiếp với lối sống tư sản, điều đó là do có sự
khác nhau căn bản về cơ sở kinh tế”[52, tr. 202].
Ngoài phương thức sản xuất ra, điều kiện sinh hoạt cũng có ảnh hưởng không nhỏ
đến lối sống. Theo các tác giả của công trình "Lối sống xã hội chủ nghĩa", trên cơ sở tồn
tại của các điều kiện vật chất nhất định mà con người nảy sinh nhu cầu và những hứng
thú khách quan. Trong những mức độ khác nhau, chúng được phản ánh vào ý thức như
là những động cơ tinh thần của hành động. Khi hành động theo những động cơ này, con
người thỏa mãn nhu cầu của mình, đồng thời thay đổi cả điều kiện sống và chính bản thân.
Mặt khách quan của lối sống còn thể hiện ở những chuẩn giá trị xã hội. Chuẩn giá
trị xã hội là các giá trị cốt lõi được lựa chọn, đánh giá, xác định và cấu trúc theo những
thang bậc nhất định như những chuẩn mực chung cho đại đa số thành viên xã hội.
Chuẩn giá trị xã hội là nguyên tắc của khuôn mẫu ứng xử. Theo các tác giả của “Một số
vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội”, các chuẩn giá trị xã hội được hình
thành, xác định trong quá trình cá nhân hoặc cộng đồng gia nhập vào các quan hệ xã hội
với tư cách chủ thể của các quan hệ xã hội đó. Do đó, “các chuẩn giá trị xã hội luôn luôn
đóng vai trò chuẩn mực, thái độ bên trong của đạo đức và lối sống ở mỗi cá nhân và
cộng đồng cũng như đóng vai trò bản lề, nhất là trong quá trình chuyển hóa của bảng giá
trị xã hội ở những giai đoạn biến đổi (hoặc biến động), trên những lĩnh vực cơ bản của
xã hội hay của toàn xã hội”[61, tr. 63].
Mặt chủ quan của lối sống, như đã nói, là ý thức của con người trong việc lựa chọn
cho mình một lối sống, dựa trên cơ sở của một lẽ sống, một thái độ sống cụ thể, những
mục tiêu mà con người đặt ra. Mặt chủ quan này phụ thuộc rất nhiều vào nền văn hóa, vào
11
thế giới quan, lý tưởng sống mà cá nhân hấp thu được Nó làm cho lối sống trở thành tự
giác, vươn đến các giá trị, làm nên ý nghĩa của lối sống.
Chính mặt chủ quan này góp phần làm cho lối sống của các cá nhân, các tầng lớp,
các giai cấp có sự khác nhau dẫu trong cùng một phương thức sản xuất và cùng những
điều kiện sống.
Vậy, lối sống biểu hiện trong những lĩnh vực nào?
Nếu quan niệm lối sống như một hệ thống các đặc điểm cơ bản về hoạt động
sống của con người thì rõ ràng, lao động phải là lĩnh vực đầu tiên của lối sống. Trong bất
kì xã hội nào, những hình thức hoạt động sống chủ yếu của con người đều là hoạt động
lao động, lao động như là phương thức sinh sống. Tính chất và trình độ của lao động qui
định mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội. Vì vậy, lối sống biểu hiện trước
hết trong lĩnh vực lao động, con người sử dụng thời gian lao động của mình như thế nào,
thái độ lao động ra sao?
Bên cạnh lao động, lối sống còn được biểu hiện ra trong những lĩnh vực hoạt
động khác của con người: sinh hoạt hàng ngày, hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động
giáo dục, hoạt động trong lĩnh vực văn hóa tinh thần, trong sử dụng thời gian rỗi, những
quan hệ qua lại giữa người với người tiêu biểu cho một xã hội nhất định, những tập quán
và những quy tắc xử thế đã ăn sâu vào đời sống hàng ngày vv.
Tính chất của những lĩnh vực này, từ hoạt động lao động đến hoạt động chính trị -
xã hội, quan hệ qua lại giữa người với người trong các chế độ xã hội là khác nhau. Điều
này góp phần làm nên sự khác nhau căn bản giữa các lối sống, trong khi không loại trừ
một vài nét chung, chẳng hạn trong các hình thức tổ chức hoạt động lao động, trong các
kiểu nhà ở, trong các phương tiện thông tin liên lạc
Như vậy, để có thể đi đến một định nghĩa về lối sống, cần phải chú ý mấy vấn đề
sau: 1- Lối sống là một phương thức sinh sống nhất định của con người mà mặt cơ bản của
nó là phương thức sản xuất; 2- Phương thức sinh sống ấy là kết quả của sự tác động tích
cực của con người vào điều kiện sống trong mối quan hệ biện chứng giữa con người và
hoàn cảnh; 3- Lối sống là một thực thể xã hội với hệ thống những chuẩn mực xã hội của
một cộng đồng nhất định mà cá nhân phải tuân theo.
12
Nếu hiểu lối sống là cách thức con người bảo tồn và phát triển đời sống trong
những điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định thì có thể thấy thực chất của lối sống là
kiểu quan hệ với nhiều cấp độ: quan hệ với tự nhiên và xã hội; quan hệ gia đình, làng xã
và Tổ quốc Tính chất của mỗi loại quan hệ trong những điều kiện sống nhất định sẽ
làm nên đặc trưng của từng lối sống: chinh phục hay lệ thuộc, bóc lột hay bình đẳng,
đóng góp hay phụ thuộc, ăn bám Chính những nét đặc trưng này sẽ hình thành hệ
thống chuẩn mực xã hội để lối sống vận hành theo, tạo nên sự khác biệt của lối sống của
từng cộng đồng và cá nhân.
Từ những phân tích trên, có thể đi đến một định nghĩa như sau: Lối sống là tổng
hòa những dạng hoạt động sống ổn định của cộng đồng (dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội )
và các cá nhân, được vận hành theo những chuẩn giá trị xã hội nào đó trong sự thống
nhất với các điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Để hiểu rõ hơn khái niệm lối sống, có thể tìm hiểu thêm mối quan hệ giữa lối
sống với các khái niệm có liên quan như: lẽ sống, nếp sống, mức sống, phong cách sống.
“Lẽ sống” hay còn gọi là đạo lý sống, là biểu hiện quan trọng nhất của lối sống.
Đây chính là tư tưởng giải thích cho mục đích của lối sống. Lẽ sống được xem là mặt ý
thức của lối sống, phản ánh nhận thức của con người về chính bản thân trong các mối
quan hệ xã hội. Lẽ sống là mặt tự giác của lối sống, đóng vai trò dẫn dắt, định hướng,
nhằm làm cho lối sống ổn định theo từng cá nhân, nhóm hay giai cấp, dân tộc.
“Mức sống” là một thuật ngữ kinh tế - xã hội để đánh giá mặt vật chất của lối
sống dựa trên chỉ số về sự đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của cộng đồng.
Thông thường, mức sống phản ánh trình độ của nền sản xuất vật chất trong những điều
kiện lịch sử nhất định. Những chỉ báo của mức sống là hệ quả của sự phát triển của công
cụ lao động, của năng suất sản xuất. Xây dựng lối sống văn hóa không thể không chú ý
đến việc nâng cao mức sống cho cộng đồng. Không thể có một lối sống văn minh, lịch
sự nếu nhà ở quá chật chội, điện thiếu, nước thiếu, con người chen chúc nhau đi lại trên
những đường phố chật hẹp và dơ bẩn Tuy nhiên, cũng không nên coi mức sống là mặt
quyết định đối với lối sống. Sống đẹp, cơ bản không phải là sống đầy đủ mà là sống có ý
nghĩa dưới sự dẫn dắt của những lẽ sống cao đẹp.
13
“Nếp sống” là mặt ổn định của lối sống. Đó là những hoạt động sống đã trở thành
thói quen, thành phong tục, tập quán, thành quy ước của cộng đồng. Nếp sống cho thấy
khả năng thích nghi và sức sáng tạo của con người trong những điều kiện sống cụ thể.
Nếp sống làm nên sự đa dạng của lối sống, giúp duy trì những kinh nghiệm sống mà loài
người đã nhận thức được. Theo tác giả Vũ Khiêu, nếp sống là “toàn bộ những thói quen
được hình thành trong cuộc sống hàng ngày, những thói quen đã trở thành nếp trong sản
xuất, chiến đấu, trong quan hệ xã hội và trong sinh hoạt riêng tư của mỗi con người.
Những thói quen ấy còn được gọi là tập quán”[40, tr. 135].
“Phong cách sống” là hình thức biểu hiện của lối sống thông qua hoạt động và
những quan hệ xã hội làm nên nét riêng biệt trong lối sống của các cá nhân và các nhóm
xã hội.
Như vậy, có thể thấy lối sống như một phạm trù trung tâm mà sự biểu hiện của
nó trên các mặt cụ thể đã làm thành các phạm trù khác. Mặt ý thức của lối sống là lẽ
sống, mặt ổn định của lối sống làm thành nếp sống, mặt trình độ của lối sống làm nên
mức sống, chất lượng sống, mặt riêng biệt của lối sống làm thành phong cách sống
Từ góc nhìn này, xây dựng lối sống hiện nay để tác động đến các mặt khác nhau của
lối sống đạt đến những giá trị tốt đẹp, tạo nên hạnh phúc và khả năng phát triển của
cá nhân và cộng đồng. Cũng từ đây cho thấy, xây dựng lối sống hiện nay thì phải xây
dựng nhiều yếu tố, nhiều mặt tạo nên tác động tổng hợp hình thành lối sống theo
những chuẩn mực đã định.
1.1.2. Khái niệm “ lối sống văn hoá”
Giới nghiên cứu Xô Viết trước đây sử dụng tính từ “ xã hội chủ nghĩa” để định
tính cho lối sống mới, và để phân biệt chủ yếu với lối sống tư sản. Nước ta đang trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chưa có đầy đủ những cơ sở của lối sống xã hội chủ
nghĩa nên một thời, các nhà khoa học sử dụng khái niệm “ lối sống mới” hay “ lối sống
lành mạnh”. Khái niệm “ lối sống văn hoá” được sử dụng chính thức trong Văn kiện Đại
hội IX [20, tr. 38]; xây dựng lối sống văn hoá được đề cập đến như một nhiệm vụ của
mọi hoạt động văn hoá hiện nay.
Để xác định khái niệm lối sống văn hoá cần làm rõ mối quan hệ giữa văn hoá và
lối sống.
14
Về phương diện nào đó, hai khái niệm này có điểm tương đồng. Nhà nghiên cứu
Hoa Kỳ C.W.Wissler quan niệm: “ Lối sống mà một công xã hay bộ lạc tuân thủ, gọi là
văn hoá” trích theo[06, tr 9]. Chủ tịch Hồ Chí Minh xem văn hoá là “ sự tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng với những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[ 49, tr.431].
Lối sống là biểu hiện sinh động của một nền văn hoá. Lối sống của một dân tộc
hình thành trong những điều kiện sống nhất định, bao gồm các điều kiện địa lý tự nhiên,
truyền thống văn hoá, chuẩn giá trị xã hội ….Sự khác biệt của điều kiện sống đã làm nên
những đặc trưng của từng lối sống, tạo nên những sắc thái văn hoá khác nhau. Theo tác
giả cuốn Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội, lối sống có hai mặt:
vật chất và tinh thần. Mặt vật chất biểu hiện ở quan hệ lao động, trình độ và thời gian lao
động, các phương thức thoả mãn nhu cầu vật chất, các cách thức quản lý phúc lợi vật
chất. Mặt tinh thần của lối sống dựa trên các hoạt động sản xuất vật chất của các cá nhân
và nhóm xã hội, bao gồm các kiểu nhất định của hoạt động sáng tạo, lưu thông, trao đổi
và giữ gìn các giá trị tinh thần như: các định hướng và thước đo giá trị, các quan hệ đạo
đức và thẩm mỹ. Mặt tinh thần của lối sống là những tiềm năng tinh thần của xã hội quy
định các hoạt động sống của con người trong các điều kiện và môi trường xã hội cụ thể.
Lối sống bao hàm cả đặc trưng nội dung lẫn hình thức. Những đặc trưng này
chính là các giá trị văn hoá của lối sống. Lối sống cố kết gia đình – làng xã - Tổ quốc, lối
sống tôn trọng tình làng nghĩa xóm, lối sống nhân ái thuỷ chung….đã làm nên những nét
bản sắc của văn hoá Việt Nam.
Văn hoá cá nhân biểu hiện ra trong lối sống. Khả năng văn hoá của cá nhân biểu
hiện ngay trong giao tiếp, trong hành vi ứng xử, trong các quan hệ xã hội. Một lối sống
lành mạnh, hài hoà trong các quan hệ là dấu hiệu của một trình độ văn hoá cao. Sự lành
mạnh của lối sống cộng đồng cũng là dấu hiệu của một đời sống văn hoá tốt đẹp, nó thể
hiện khả năng bảo tồn và phát triển các giá trị văn hoá dân tộc ngay trong đời sống trước
sự tấn công hàng ngày, hàng giờ của những tác nhân ngoại lai.
Khái niệm lối sống sẽ không được tiếp cận triệt để và hệ thống nếu không chú ý
đến ý nghĩa biểu tượng từ cách hành động xã hội, quá trình xã hội, quan hệ xã hội, khuôn
mẫu ứng xử. Vì vậy, có quan điểm cho rằng, lối sống xã hội nói chung đều mang tính
15
chất văn hoá, khái niệm lối sống theo đúng nghĩa và đầy đủ của nó là lối sống văn hoá.
Thật ra, quan điểm này là quá rộng, bởi vì trong thực tế không phải lối sống nào cũng
vươn lên được tầm văn hoá.
Tóm lại, lối sống là một trong những lĩnh vực then chốt của văn hoá, nó góp phần
làm nên bản sắc văn hóa dân tộc. Lối sống mang những giá trị bền vững được hình thành
từ những điều kiện sống cụ thể. Mỗi một chế độ xã hội thường có một lối sống với
những đặc điểm riêng. Xây dựng các giá trị riêng biệt của lối sống xã hội là nhằm hình
thành những hình mẫu nhân cách đáp ứng yêu cầu của thể chế chính trị. Do đó, khi chế
độ xã hội chủ nghĩa được thiết lập, yêu cầu xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa cũng
hình thành.
Theo chúng tôi, khái niệm “ lối sống văn hoá” ra đời là để nhấn mạnh đến yêu cầu
về phẩm chất văn hoá của việc xây dựng lối sống của cộng đồng, đặc biệt là của thế hệ
trẻ. Đó còn là kết quả nhận thức về thực trạng suy thoái trong lối sống, thực trạng của lối
sống thiếu văn hoá của một bộ phận dân cư hiện nay. Phần nào, nó cũng nhấn mạnh đến
vai trò chủ động của chủ thể trong việc tự giác xây dựng cho mình lối sống tốt đẹp phù
hợp với yêu cầu của xã hội.
Như vậy, lối sống như một phần của văn hoá nhưng trên thực tế lối sống văn hoá
đối lập với lối sống thiếu văn hoá, kém văn hoá hay vô văn hoá. “ Văn hoá” ở đây được
hiểu là giá trị, là sự hài hoà trong ứng xử để đạt đến các chuẩn mực xã hội, đạo đức của
cộng đồng. Trong điều kiện hiện nay, khi văn hoá được nhận thức như là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội,
khi Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc thì văn hoá là giá trị mà lối sống phải đạt được.
Trong thực tế, văn hoá đã trở thành nội dung, tính chất của nhiều hoạt động, nhiều
lĩnh vực xã hội như đời sống văn hoá, khu phố văn hoá, làng văn hoá, ứng xử văn hoá,
giao tiếp văn hoá …Văn hoá ở đây là thước do của sự hài hoá, của chuẩn mực.
Có thể hiểu, lối sống văn hoá mà chúng ta đang xây dựng là lối sống Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được hình thành trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước như một yêu cầu về nhân cách của con người phát triển toàn diện
trong chiến lược phát huy nguồn lực con người để xây dựng đất nước hiện nay.
16
1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của lối sống văn hoá
Xây dựng lối sống văn hoá là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp xây dựng
nền văn hoá ở nước ta hiện nay. Kết quả của sự nghiệp xây dựng nền văn hoá được biểu
hiện ra ngay trong lối sống cộng đồng. Có thể nói, xây dựng lối sống văn hoá chính là
xây dựng một lối sống Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Lối sống tiên tiến trước hết phải là lối sống tiến bộ, thể hiện tinh thần yêu nước và
hướng tới cộng đồng. Khái niệm lối sống tiên tiến ở đây bao gồm hai nội dung. Một là, lối
sống lành mạnh, văn minh, lịch sự, chứa đựng các giá trị tốt đẹp mà con người đã đạt
được. Hai là, lối sống được dẫn dắt bởi một lẽ sống cao quý mà trên tất cả là lòng yêu
nước, được biểu hiện thành thái độ sống hướng tới cộng đồng, có ý thức công dân, nghiêm
chỉnh chấp hành kỷ cương phép nước, có ý thức phấn đấu đưa đất nước vươn lên thoát
khỏi nghèo nàn lạc hậu.
Ở nước ta hiện nay, lẽ sống dẫn dắt một lối sống tiên tiến phải được xây dựng trên
cơ sở thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Tư tưởng, đạo đức
Hồ Chí Minh trang bị cho lẽ sống tình yêu đối với các giá trị dân tộc, sự giản dị của lối
sống, thái độ tận tụy đối với công việc, tinh thần hi sinh, tinh thần học tập nâng cao hiểu
biết và năng lực phục vụ nhân dân, đạo đức cách mạng trong sáng, cần kiệm liêm chính,
chí công vô tư, Thế giới quan Mác - Lênin trang bị cho lẽ sống mục đích cao cả hướng
tới sự nghiệp giải phóng con người.
Như vậy, tính chất tiên tiến của lối sống chứa đựng cả những giá trị tốt đẹp thuộc
về dân tộc cũng như những giá trị nhân loại, nó thể hiện sự tiến bộ của lối sống dân tộc
trong quá trình hội nhập và vươn lên. Tiên tiến là chiếc cầu nối giữa dân tộc và quốc tế.
Lối sống đậm đà bản sắc dân tộc là một yêu cầu của quá trình hội nhập và phát
triển. Nhìn từ góc độ lịch sử, lối sống là những gì chủ yếu thuộc về dân tộc chứ không
phải thuộc về quốc tế. Lĩnh vực lối sống là một trong những lĩnh vực quan trọng biểu
hiện bản sắc dân tộc. Bản sắc dân tộc trong lối sống Việt Nam là những giá trị vốn có
trong quá trình cộng đồng các dân tộc Việt Nam gìn giữ và xây dựng đất nước của mình,
được thể hiện thông qua các lĩnh vực sản xuất và chiến đấu, lao động và học tập, giao
tiếp và ứng xử nghĩa là ngay trong đời sống vật chất và tinh thần của người Việt Nam.
17
Trong sản xuất, tức trong quan hệ ứng xử với tự nhiên, người Việt vốn cần cù,
nhẫn nại nhưng cũng rất thông minh, sáng tạo và mạnh mẽ. Trong đời sống tình cảm, tức
trong quan hệ xã hội, người Việt có lối sống trọng nghĩa tình, đoàn kết, nhân ái, thương
yêu đùm bọc lẫn nhau, thương người như thể thương thân, coi trọng tình làng nghĩa xóm,
“chín bỏ làm mười” Trong chiến đấu, luôn luôn phải đương đầu với những thế lực
quân sự hùng mạnh, người Việt vô cùng kiên cường, bất khuất nhưng cũng khoan dung,
đại độ, yêu chuộng sự hòa hiếu. “Không có gì qúi hơn độc lập tự do” là chân lý lớn nhất
trong mối quan hệ ứng xử này của người Việt.
Bản sắc dân tộc là yếu tố cốt lõi giúp cho lối sống giữ vững những giá trị truyền
thống không lai căng, không mất gốc. Tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc thống nhất
hữu cơ trong giá trị của lối sống, tính chất này làm điều kiện cho tính chất kia. Không
thể có lối sống tiên tiến mà lại xa rời các giá trị tổ tiên, sùng ngoại. Tương tự, không thể
đậm đà bản sắc dân tộc mà lại không tiến bộ và yêu nước.
Xây dựng lối sống văn hoá thực chất là đề cao một bộ phận quan trọng của việc
xây dựng con người - chủ thể thực hiện lối sống ấy. Xây dựng lối sống Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kì đổi mới của đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa thực chất là xây dựng con người có văn hóa, con người công dân với những
đức tính tốt đẹp của dân tộc để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Vì vậy, tính chất
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của lối sống văn hóa phải hướng đến việc hình thành
những phẩm chất của con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
Con người mới Việt Nam cần có những phẩm chất gì? Ở đây cũng cần nhắc lại
những luận điểm của Bác Hồ về tính chất “mới” khi Người bàn về “Đời sống mới”:
Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới.
Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ ( ).
Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý ( ).
Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm ( ).
Cái gì mới mà hay thì ta phải làm ( ).
Làm thế nào cho đời sống của dân ta vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được
vui mạnh hơn. Đó là mục đích của đời sống mới[ 47, tr. 94-95].
18
Theo quan điểm của Bác Hồ, hạnh phúc của nhân dân là tiêu chí để đánh giá “mới”,
“tốt”, “hay”. Vì vậy, những phẩm chất của con người mới cũng phải dựa vào yêu cầu
của sự phát triển kinh tế - xã hội, của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (1991) chỉ
rõ con người mới Việt Nam: “Đó là con người có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm
công dân; có tri thức, sức khỏe và lao động giỏi; sống có văn hóa và tình nghĩa; giàu lòng
yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính”[14, tr. 15].
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (1997) cũng xác định
mục tiêu và nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là:
“ Xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước; giữ gìn và phát huy các
giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát
huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát
huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có
tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ
chức và kỷ luật; có sức khỏe, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội
vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ”[18, tr. 28-29].
Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (1998)
cũng xác định con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới cần có những đức
tính sau:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân
dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa,
tôn trọng kỷ cương phép nước, qui ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi
trường sinh thái.
19
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất
cao, vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm
mỹ và thể lực [19, tr. 58-59].
Có sự kế thừa để tạo nên tính thống nhất trong quan niệm về những phẩm chất
của con người mới Việt Nam giữa các văn kiện trên đây. Có thể khái quát lại các phẩm
chất của con người mới Việt Nam cần vươn tới là: lòng yêu nước, tự cường dân tộc, ý
thức cộng đồng; tinh thần yêu lao động; lối sống có văn hóa gắn với các giá trị đạo đức
và ý thức công dân; không ngừng học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt; và ý thức bảo
vệ, cải thiện môi trường tự nhiên. Những phẩm chất này gắn bó chặt chẽ với nhau, trong
đó, yêu nước được đặt lên hàng đầu. Nếu yêu nước là phẩm chất cốt lõi nhất trong giá trị
nhân cách thì lối sống văn hóa lại là phẩm chất bao trùm chứa đựng những đức tính còn
lại.
Như vậy, có thể nhận thấy những đặc điểm của lối sống văn hoá chính là những
giá trị tốt đẹp của con người Việt Nam biểu hiện trong các quan hệ ứng xử hàng ngày,
vốn được hình thành từ trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, có sự vận động
và biến đổi để đáp ứng những yêu cầu cụ thể của thời đại. Chúng được xác lập trong mối
quan hệ với những giá trị văn hóa có tính phổ quát của nhân loại, với yêu cầu phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, với mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Những đặc điểm cơ bản của lối sống thời
kỳ đổi mới là: Tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; tình yêu lao động, lao động
sáng tạo; sống có đạo đức trong sáng, nghĩa tình, trung thực, tiết kiệm; có tinh thần tập
thể, ý thức kỷ luật; không ngừng học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt; có ý thức bảo
vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Dưới đây, chúng tôi sẽ phân tích những đặc điểm cơ bản này.
1.3.1. Có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội
Yêu nước trước hết là tình cảm yêu thương, gắn bó với đất nước, luôn hướng mọi
suy nghĩ và hành động của mình vào việc phục vụ cho lợi ích của Tổ quốc. Đối với
người Việt Nam, yêu nước đã vượt quá khuôn khổ của tình cảm để trở thành tư tưởng,
trở thành một thứ chủ nghĩa. “Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch
20
sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Ở đây, bản chất Việt Nam biểu lộ rõ ràng đầy đủ, tập
trung nhất, hơn bất cứ chỗ nào khác.
Tình cảm yêu nước của người Việt Nam có nguồn gốc sâu xa từ trong lịch sử. Tổ
tiên người Việt dựng nước từ rất sớm và quá trình tiếp sau đó là một chuỗi dài những
cuộc khởi nghĩa và đấu tranh chống ách đô hộ, chống sự xâm lăng của những nước mạnh
hơn gấp nhiều lần. Trong nhận thức và tình cảm của người Việt, Tổ quốc là trên hết. Yêu
nước, họ sẵn sàng hi sinh thân mình cho đất nước.
Gắn bó với số phận dân tộc, yêu nước trở thành tiêu chuẩn xác định tốt, xấu; đúng,
sai. Nghĩa là nó trở thành một dạng triết lý xã hội và nhân sinh của nhân dân Việt Nam,
chi phối cách đánh giá con người, sự việc, những vấn đề lịch sử Từ đây, yêu nước còn
qui định cách ứng xử của con người trong các quan hệ xã hội.
Ngày nay, yêu nước chính là động cơ tinh thần to lớn đối với công cuộc xây dựng
đất nước giàu mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó cũng có nghĩa là yêu
nước phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội. Yêu nước làm nên tinh thần tự cường dân
tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ý chí phấn đấu đưa đất nước thoát
khỏi nghèo nàn lạc hậu, nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật Tình cảm yêu
nước là nền tảng của ý thức công dân, của tình yêu lao động, của ý thức tập thể. Đỉnh
cao của ý thức yêu nước hiện nay là đoàn kết phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.
Trong điều kiện đất nước ta còn nghèo, đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, thì yêu nước, cống hiến hết mình cho đất nước, là lương tâm, là trách nhiệm của
mỗi con người Việt Nam hiện nay để nước ta có thể sánh vai được với bạn bè quốc tế.
1.3.2. Có tình yêu lao động và lao động sáng tạo
Lao động đã sáng tạo ra con người. Trong tác phẩm “Vai trò của lao động trong
quá trình vượn biến thành người”, Ph.Ăngghen viết: “Lao động là điều kiện cơ bản đầu
tiên của toàn bộ đời sống của con người, hơn nữa là đến một mức mà trên một ý nghĩa
nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã tạo ra chính bản thân con người”[44, tr. 491].
Nhờ lao động mà con người mới có thể gây ra những biến đổi trong giới tự nhiên, thống
21
trị giới tự nhiên. Đây là “chỗ khác nhau chủ yếu, cuối cùng giữa con người với các loài
vật khác”[ 44, tr. 504].
Lao động là hoạt động nền tảng để con người bồi dưỡng tính người và bản chất
người. Con người biểu hiện và khẳng định mình trong lao động. Không có lao động thì
không có sản xuất, nghĩa là không có tồn tại và phát triển.
Dân tộc Việt Nam vốn yêu lao động, cần cù, chăm chỉ, sáng tạo trong lao động. Đức
tính này đã giúp người Việt có thể tồn tại ở một mảnh đất mà thiên nhiên vô cùng khắc
nghiệt. Lao động cần cù đã hình thành nên nền văn minh nông nghiệp lúa nước với các giá
trị đặc sắc. Những danh nhân văn hóa của dân tộc, từ Nguyễn Trãi đến Hồ Chí Minh,
đều lấy cần - kiệm làm đầu và đều nêu gương cần - kiệm. Đây thực sự là nguồn sức
mạnh vĩ đại giúp dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển, không chỉ trong thời bình mà
ngay cả lúc chiến tranh khốc liệt nhất.
Ngày nay, tình yêu lao động của con người mới phải được thể hiện ở sự chăm chỉ,
hăng say lao động, lao động với tinh thần trách nhiệm, có kỷ luật, có kĩ thuật, sáng tạo và
không ngừng nâng cao năng suất, vì lợi ích không chỉ của bản thân mà còn của toàn xã
hội.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần đến khả năng lao động chuyên môn
hóa cao, sáng tạo, không ngừng nâng cao năng suất. Kinh tế tri thức đòi hỏi chất lượng lao
động gắn với hàm lượng khoa học - công nghệ cao, nghĩa là mỗi cá nhân phải không
ngừng vươn lên để có thể đóng góp nhiều nhất cho xã hội. Do đó, lao động trở thành
thước đo giá trị con người và qui định vị trí của con người trong xã hội. Tình yêu lao
động trở thành biểu hiện cụ thể của tình yêu Tổ quốc, của ý chí vươn lên đưa đất nước
thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu.
1.3.3. Có đạo đức trong sáng và tình nghĩa, trung thực và tiết kiệm
Đạo đức chính là phép ứng xử có nhân phẩm giữa người này và người khác. Xã
hội phương Đông từ ngàn đời nay đã là một xã hội đức trị thông qua những giá trị đạo
đức xoay quanh các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ. Những giá trị tích cực của
nó mà nền tảng là đạo đức Nho giáo đã hình thành nên những truyền thống tốt đẹp
trong quan hệ giữa người và người.
22
Quan điểm mác-xít coi “đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, một
chế định xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội”[54, tr. 156]. Chức năng cơ bản của đạo đức là “bảo đảm năng lực hoạt
động có tính chất lịch sử của xã hội, phối hợp lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, điều chỉnh
về mặt xã hội những hành vi của cá nhân”[52, tr.123]. Nói cách khác, đạo đức là phương
thức xác lập mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân.
Nói đến đạo đức là nói đến quan hệ giữa tốt và xấu, thiện và ác. C.Mác cho rằng,
đạo đức là lực lượng bản chất của con người phát triển theo hướng càng ngày càng đạt
đến giá trị đích thực của cái thiện. Cơ chế vận hành của đạo đức trong đời sống rất phức
tạp, bao gồm ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và đánh giá đạo đức. Ý thức đạo đức bao
gồm những chuẩn mực, lý tưởng, niềm tin đạo đức tác động đến tư tưởng, tình cảm và
hành vi của con người. “Chúng đóng vai trò định hướng tinh thần trong cuộc sống cá
nhân và cộng đồng”[61 tr. 46]. Đạo đức hình thành các chuẩn mực xã hội để con người
tuân thủ và sống với nhau một cách nhân ái, chan hòa.
Đạo đức gắn liền với lối sống và nhìn chung được thể hiện trong lối sống. Lối
sống có đạo đức trong sáng là lối sống tuân thủ theo các qui tắc và chuẩn mực đạo đức
của xã hội, trong đó, chủ thể của lối sống ấy tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với
lợi ích của mình và sự tiến bộ xã hội trong mối quan hệ người và người.
Lối sống văn hóa phải bao hàm các giá trị đạo đức mới thể hiện trong các mối quan
hệ ứng xử của con người. Đó là sự phát huy những giá trị đạo đức truyền thống cùng với
những yêu cầu mới đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội. Tiêu biểu cho nền đạo đức mới
chính là đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh với những phẩm chất cơ bản: trung với nước,
hiếu với dân; hết mực yêu thương con người, quên mình cho sự nghiệp chung của dân tộc,
cho hạnh phúc của nhân dân; cần kiệm liệm chính, chí công vô tư; có tinh thần quốc tế vô sản
trong sáng.
Đạo đức là cốt lõi của nhân cách. Xây dựng lối sống văn hóa cũng là xây dựng văn
hóa đạo đức, hình thành nhân cách con người. Theo Hồ Chí Minh, cấu trúc của nhân cách
bao gồm đức và tài, trong đó đức là nền tảng. Rèn luyện đạo đức để sống và làm việc là
một trong những nội dung quan trọng của Tư tưởng Hồ Chí Minh.