Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

“Xây dựng đời sống văn hóa ở xã Mỹ Hiệp, huyện Chợ Mới hiện nay. Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.04 KB, 30 trang )


1
PHẦN MỞ ĐẦU
Khi nói tới văn hóa là nói tới việc phát huy các năng lực, tính chất nhằm hoàn
thiện con người, hoàn thiện xã hội. Cơ sở của mọi hoạt động văn hóa là khát vọng
hướng tới tính chân, thiện, mĩ, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người
ngày càng hạnh phúc hơn, tốt đẹp hơn.
Trong hệ thống quan điểm chỉ đạo xây dựng, phát triển đất nước của Đảng và
Nhà nước ta, văn hóa nói chung, văn hóa cơ sở nói riêng giữ một vai trò và vị trí quan
trọng. Mục tiêu phát triển văn hóa đã được xác định trong Nghị quyết các kỳ Đại hội
Đảng Cộng sản Việt Nam . Văn hóa gắn với mục tiêu nhân văn, xây dựng cuộc sống
tươi đẹp, “xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Văn hóa có vai trò “là nền tảng
tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”.
Trong Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần 5 khóa VIII chỉ rõ:
“Nhiệm vụ của công tác văn hóa cơ sở là tạo ra các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản,
xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, lâm trường, nông trường, trường học,
đơn vị bộ đội,…); Các vùng dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi,…) có đời sống văn
hóa lành mạnh, đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các
tầng lớp nhân dân”; “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc”.
Đối với đơn vị cơ sở, đây là nơi có khả năng lưu giữ và phát huy văn hóa
truyền thống, giữ gìn tốt bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, đây cũng là địa bàn dân
cư trực tiếp với các âm mưu phá hoại về tư tưởng, chính trị thông qua các hoạt động
tuyên truyền phản văn hóa; là tác nhân dẫn đến với các tệ nạn xã hội. Sự phát triển
kinh tế thị trường ảnh hưởng không nhỏ đến các tổ chức hoạt động văn hóa cơ sở. Bởi
vì mặt trái của kinh tế thị trường là đề cao giá trị vật chất, dễ làm lệch lạc nhận thức
của quần chúng trong việc gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc.

2
Đời sống kinh tế phát triển, đời sống tinh thần được nâng cao phát triển đa
dạng, công nghệ bùng nổ đã và đang tác động mạnh mẽ đến diện mạo đời sống văn


hóa cơ sở. Mở cửa giao lưu và hội nhập quốc tế trên phương diện văn hóa, bên cạnh
những tiếp thu tích cực, chúng ta không tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của lối
sống và quan niệm đạo đức đan xen vào cách cảm, cách nghĩ của con người Việt
Nam. Chính sách mở cửa của Nhà nước ta đã tạo ra sự tiếp xúc rộng rãi chưa từng có
của dân tộc với nước ngoài. Lợi dụng chính sách này, kẻ thù cũng sử dụng những vũ
khí văn hóa để tấn công phá hoại công cuộc đổi mới của chúng ta.
Vì vậy, việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một mục tiêu chiến lược, là
yêu cầu cực kỳ bức xúc trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Xác định được điều này,
cả hệ thống chính trị của địa phương đã hưởng ứng tích cực cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, nhằm xây dựng một nền tảng xã
hội vững chắc, làm chỗ dựa cho chính quyền, làm cơ sở động lực phát triển xã hội
một cách bền vững và toàn diện. Trong thời gian qua thực hiện, xây dựng đời sống
văn hóa ở xã Mỹ Hiệp có những thế mạnh và mặt tích cực cần tiếp tục duy trì phát
huy hơn nữa. Tuy nhiên còn có những hạn chế, tồn tại,…cần tìm ra nguyên nhân cũng
như giải pháp để củng cố và nâng cao chất lượng trong công tác xây dựng đời sống
văn hóa của địa phương. Từ những vấn đề nêu trên với những kiến thức đã học mà
bản thân chọn đề tài “Xây dựng đời sống văn hóa ở xã Mỹ Hiệp, huyện Chợ Mới hiện
nay. Thực trạng và giải pháp” góp phần xác lập của nhiều luồn văn hóa, đặt ra sự lựa
chọn nhằm tăng thêm sức đề kháng của bản lĩnh truyền thống văn hóa Việt Nam. Đó
là: “Hòa nhập không hòa tan”.





3
Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA
VỀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở CƠ SỞ
1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

Văn hóa là sản phẩm của lịch sử loài người, là kết quả thực tiển hoạt động của
con người tạo ra, nhằm vào sự phát triển con người vươn tới tầm cao hơn. Quản lý về
văn hóa để định hướng tồn tại và phát triển, đó là nguồn gốc và động lực giúp cho con
người có sự sáng tạo. Qua đó, cho thấy văn hóa rất phong phú và đa dạng: ở đâu có
hoạt động của con người là ở đó có văn hóa, ngoài ra cũng có văn hóa quản lý, văn
hóa chính trị, văn hóa kinh doanh,… Văn hóa tích cực xây dựng cải tạo cuộc sống
mới của con người, là động lực phát triển kinh tế và đồng thời phát triển xã hội. Văn
hóa không phải đứng ngoài hay trong mà là yếu tố thẩm thấu vào quá trình đó.
Theo cựu Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor: “Văn hóa phản ánh và
thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và
cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua
hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ thống các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và
lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình”
- Khái niệm đơn vị cơ sở
Đơn vị cơ sở là hình thái tổ chức cơ bản của xã hội. Đó là những cộng đồng dân
cư liên kết với nhau trong các sinh hoạt vật chất diễn ra trong đời sống hàng ngày.
Theo tinh thần văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V thì đơn vị cơ sở là làng,
xã, phường, ấp, nhà máy, công trường, nông trường, đơn vị lực lượng vũ trang, công
an nhân dân, cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng và những cộng đồng xã hội
tương đương. Như vậy, có thể khái quát là mỗi cộng đồng dân cư có địa bàn sinh sống
cố định và tổ chức hành chính ổn định được coi là một đơn vị văn hóa cơ sở, xây

4
dựng đời sống văn hóa cơ sở là xây dựng văn hóa ngay trong đời sống hằng ngày của
nhân dân.
- Khái niệm đời sống văn hóa cơ sở
Đời sống văn hóa cơ sở là một tổng thể những yếu tố văn hóa vật thể, phi vật
thể và nhân cách văn hóa bao quanh con người, gây ra sự tác động lẫn nhau giữa các
cá nhân trên một phạm vi không gian nào đó, trực tiếp hình thành nếp sống, lối sống
của nhóm người nào đó. Đời sống văn hóa diễn ra thường xuyên, liên tục ngày càng

phát triển có 3 yếu tố: Các sản phẩm văn hóa của cộng đồng (vật thể, phi vật thể, quá
khứ và hiện tại); các hoạt động văn hóa của con người; con người văn hóa – chủ thể
văn hóa.
Như vậy, có thể khái quát văn hóa sẽ góp phần định hướng cho con người hành
động theo cái đúng, cái tốt, cái đẹp sẽ là nền tảng góp phần thúc đẩy xã hội theo
hướng văn minh.
- Vai trò, vị trí và tầm quan trọng trong việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ
sở:
+ Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, thực chất là xây dựng mối quan hệ giữa
người với người, giữa người với xã hội, có nghĩa có tình, có thủy chung tạo ra môi
trường sống hoàn toàn trong sáng và lành mạnh.
+ Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở coi như bước đi ban đầu của sự nghiệp
xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện, không trừ một ai…Mỗi người sẽ tự điều chỉnh mình theo cuộc sống
mới, là yếu tố quyết định cho sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
+ Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở nhằm tạo ra môi trường văn hóa mới,
tăng cường ổn định chính trị trật tự an toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn

5
hóa cho nhân dân, đồng thời nhằm bảo tồn và phát huy tính đa dạng, phong phú và
bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, khắc phục sự chênh lệch
về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền trong cả nước.
1.2 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
Văn hóa là thuật ngữ nhiều nghĩa phức tạp, đa dạng và phong phú được xem từ
nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau của đời sống xã hội. Thấu hiểu sâu sắc chủ nghĩa
Mác – Lênin, tinh hoa văn hóa thế giới và các giá trị văn hóa dân tộc. Hồ Chí Minh đã
nhận rõ vị trí đặc biệt quan trọng và ý nghĩa to lớn của văn hóa. Từ năm 1943, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,

pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa”.
Tháng 03/1947 Người viết “Đời sống mới” hướng dẫn việc xây dựng đời sống
mới trong các tầng lớp nhân dân, trong toàn xã hội. Khái niệm đời sống mới được
Người nêu ra bao gồm cả đạo đức mới, lối sống mới và nếp nghĩ mới. Ba nội dung ấy
có quan hệ biện chứng gắn bó mật thiết với nhau, trong đó đạo đức có vai trò chủ yếu,
đạo đức gắn liền với nếp sống và lối sống. Chính vì vậy việc xây dựng đạo đức mới
phải tiến hành đồng thời với việc xây dựng lối sống mới và nếp sống mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy chúng ta, chẳng những phải kế thừa mà còn phát
triển những thuần phong mỹ tục, đồng thời phải biết cải tạo những phong tục tập quán
cũ lạc hậu, bổ sung những cái mới tiến bộ. Bác dạy: “Đời sống mới không phải cái gì
cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ đi, cái gì cũ
mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý, cái gì cũ mà tốt thì
phải phát triển thêm, cái gì mới mà hay thì ta phải làm”.

6
Ngay từ 1946 Người đã nêu rõ tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ở Hà Nội rằng:
“Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa
phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa phải làm thế nào
cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng.
Văn hóa phải làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam từ già đến trẻ, cả đàn ông đến
đàn bà, ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hạnh phúc của mình nên được
hưởng…”.
1.3 QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ VĂN HÓA
- Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần IX nêu: Đảng xây dựng nền văn hóa
Việt Nam là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, thể
chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng

nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình cộng động xã hội. Văn
hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền
thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý thức tự lực tự cường xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng nhanh mức đầu tư của Nhà nước và của xã hội cho sự
nghiệp phát triển văn hóa, xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa. Tạo điều kiện để nhân dân
nâng cao trình độ thẩm mỹ và thưởng thức nghệ thuật, trở thành những chủ thể sáng
tạo của văn hóa, đồng thời hưởng thụ ngày càng nhiều những thành quả văn hóa.
Nâng cao chất lượng hệ thống bảo tàng bảo tồn lịch sử, bảo tàng cách mạng; đẩy
mạnh xây dựng thư viện, nhà văn hóa, nhà thông tin, câu lạc bộ sức khỏe, sân bãi thể
dục thể thao, khu vui chơi giải trí…bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc,
các giá trị dân tộc nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết thuần phong mỹ tục của các dân tộc;
tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh; khai thác các kho tàng văn
hóa cổ truyền. Tiếp thu tinh hoa và góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa của

7
nhân loại. Đấu tranh chống sự xâm nhập của văn hóa độc hại, đồi trụy “chống đi đôi
với xây”.
- Để tiếp tục cụ thể hóa việc thực hiện xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, hội nghị lần thứ V Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa VIII đã đưa ra Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đảng và Nhà nước ta đã nhận định văn
hóa vừ là động lực, vừa là mục tiêu của phát triển kinh tế xã hội. Văn hóa là yếu tố
góp phần hình thành tâm hồn, khí phách, bản lĩnh dan tộc. Nền văn hóa Việt nam cần
được giữ gìn bản sắc dân tộc và tiếp tục phát huy, tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân
loại.
- Hội nghị Trung ương 10 khóa IX đã tiến thêm một bước khi kết luận: sự gắn
kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then
chốt với không ngừng nâng cao văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội, tạo nên sự
phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự
phát triển toàn diện và bền vững của đất nước.

Chú trọng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhất là cộng đồng dân cư, xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tốt đẹp, phong phú. Phát huy tinh thần tự
nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân trong đới sống văn hóa; đẩy
mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Thường xuyên
nâng cao trình độ phổ cập văn hóa đáp ứng nhu cầu văn hóa ngày càng cao và đa dạng
của các tầng lớp nhân dân đối với nhiệm vụ bồi dưỡng các tài năng văn hóa, khuyến
khích văn nghệ sĩ sáng tạo được nhiều công trình văn hóa – nghệ thuật tiêu biểu có
giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, tương xứng với sự nghiệp cách mạng của dân
tộc và công cuộc đổi mới.
Như vậy, những quan điểm về văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam là cơ sở
để tạo nên những bước phát triển mới của nền văn hóa trong giai đoạn hiện nay.

8
1.4 CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC TA VỀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA Ở CƠ SỞ
Trong thời gian qua, từ Trung ương đến địa phương đã ban hành nhiều văn bản
để cụ thể hóa những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chăm lo phát triển văn
hóa.
- Văn bản Trung ương:
+ Tại chương III, Điều 30 và 31 của Hiến pháp năm 1992 có quy định: Nhà
nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn;
kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hóa các dân tộc Việt Nam, tư tưởng đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài
năng sáng tạo trong nhân dân.
+ Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tháng 04/2006: “Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế, xã hội”.
+ Chỉ thị số 27 – CT/TW ngày 12/01/1998 của Bộ Chính trị và Chỉ thị số
14/1998/CT-TTg ngày 28/03/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội.

+ Nghị định số 11/2006/NĐ-CP ngày 18/01/2006 của Chính phủ về việc ban
hành Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng.
- Văn bản địa phương:
+ Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ VII, nhiệm kỳ 2005 – 2010
tháng 03/2006 nêu: Hoàn thiện các quy hoạch phát triển ngành văn hóa, thông tin; ưu
tiên đầu tư cho các thiết chế văn hóa phục vụ cộng đồng như: bảo tàng, thư viện, công
viên, khu vui chơi giải trí. Nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho nhân dân vùng sâu,

9
vùng xa. Triển khai rộng khắp phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”.
+ Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Chợ Mới, nhiệm kỳ 2005 – 2010. Về lĩnh
vực văn hóa – xã hội: Tăng cường xây dựng môi trường văn hóa, nếp sống văn minh,
gia đình văn hóa, lối sống cộng đồng, làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống xã hội,
là động lực để thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển. Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu và có hiệu quả hơn.
+ Quyết định và quy chế của UBND tỉnh An Giang, về việc thực hiện nếp sống
văn minh trong tiệc cưới, việc tang, lễ hội,…
+ Kế hoạch thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống
mới ở khu dân cư” của UBMTTQ Việt Nam huyện Chợ Mới, năm 2006 – 2010.
+ Nghị quyết và Chương trình hành động của Đảng ủy, HĐND, UBND xã Mỹ
Hiệp về cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới”.
+ Kế hoạch triển khai và thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa ở khu dân cư” của UBMT xã Mỹ Hiệp huyện Chợ Mới, giai đoạn
2006 – 2010.
+ Căn cứ vào kế hoạch nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” giai đoạn 2006 – 2010 của Đảng ủy xã Mỹ Hiệp ngày
25/12/2005.







10
Chương 2
THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
Ở XÃ MỸ HIỆP, TỪ NĂM 2011 ĐẾN NAY
2.1 ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH
2.1.1 Vị trí địa lý
Xã Mỹ Hiệp là một trong ba xã Cù lao Giêng thuộc huyện Chợ Mới. Phía Đông
giáp với sông Tiền, phía Tây và Bắc giáp với xã Tấn Mỹ, phía Nam giáp với xã Bình
Phước Xuân. Nằm cách trung tâm huyện Chợ Mới 16km về phía Đông Nam. Với
tổng diện tích tự nhiên là 2.297,94 ha (trong đó diện tích đất nông nghiệp là 1.522,56
ha). Cơ cấu hành chính xã được chia thành 07 ấp, có 177 tổ tự quản.
Về dân số: toàn xã có 4.703 hộ với 20.331 nhân khẩu, trong độ tuổi lao động là
13.365 nhân khẩu. Mật độ dân số bình quân 874 người/km
2
.
Về dân tộc: chủ yếu là dân tộc Kinh với 20.201 nhân khẩu, dân tộc Hoa với 100
nhân khẩu, khmer 3 nhân khẩu.
Về tôn giáo: đa số đều có đạo, trong đó, đạo Phật giáo Hòa Hảo chiếm 23,3%,
Cao Đài 24,4%, Phật giáo Việt Nam chiếm 52,3%.
2.1.2 Tình hình kinh tế - xã hội
Với điều kiện về vị trí địa lý, tự nhiên và dân số như trên đã tạo điều kiện thuận
lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội của xã Mỹ Hiệp. Tình hình kinh tế địa phương
ổn định và có xu hướng phát triển, đời sống nhân dân nâng lên rõ nét. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế đạt 16,15%. Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp chiếm 23,9%; Công nghiệp –
xây dựng chiếm 23,8%; Thương mại – Dịch vụ chiếm 52,3%. Thu nhập bình quân
đầu người đạt 27,05 triệu đồng/người/năm.


11
Thu ngân sách đạt kết quả tốt, tăng bình quân 10%/năm, chi ngân sách cân đối
và đúng nguyên tắc. Các công trình xây dựng cơ bản được đầu tư xây dựng tương đối
đúng tiến độ, chất lượng công trình được đảm bảo việc phát triển kinh tế - xã hội trên
địa bàn.
Văn hóa – xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; an sinh xã hội được đảm bảo, đời
sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Hệ thống trường lớp được đầu tư xây
dựng khá đồng bộ, toàn xã có 7 trường học: 1 trường Trung học Phổ thông, 1 trường
Trung học cơ sở, 4 trường tiểu học và 1 trường mẫu giáo (một điểm chính và 2 điểm
phụ). Chất lượng giáo dục ở các cấp học từng bước được nâng lên, thực hiện tốt công
tác phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và Trung học cơ sở; có 1 trường đạt chuẩn quốc gia.
Tình hình học sinh bỏ học có chiều hướng giảm.
Lĩnh vực Y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm thường xuyên. Đặc
biệt là trong công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động được thực
hiện khá tốt. Tỷ lệ hộ nghèo giảm dần từ 513 hộ năm 2006 chiếm tỷ lệ 11,46% đến
năm 2010 giảm còn 117 hộ chiếm tỷ lệ 2,5%. Hiện nay, hộ nghèo theo chuẩn mới là
355 hộ chiếm tỷ lệ 7,5%.
Hoạt động thông tin, tuyên truyền ngày càng đi vào chiều sâu với nhiều hình
thức phong phú, đa dạng đã góp phần giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức,
cổ vũ phong trào thi đua yêu nước sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân. Hoạt động
thể dục thể thao phát triển mạnh, ý thức rèn luyện sức khỏe được nâng cao.
Đời sống văn hóa ngày càng phát triển đến từng hộ gia đình, từng cụm dân cư.
Nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang được giữ gìn tốt bản sắc văn hóa dân
tộc, thuần phong mỹ tục. Các thiết chế văn hóa thường xuyên được xây dựng và sửa
chữa tương đối tốt. Cảnh quang môi trường ngày thêm xanh, sạch, đẹp, bộ mặt nông
thôn ngày thêm khởi sắc.

12
2.2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐỜI SỐNG VĂN

HÓA Ở XÃ MỸ HIỆP
2.2.1 Kết quả đạt được
Từ khi tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII phát triển thành phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa cơ sở” thì đến nay, phong trào
đáp ứng ngang tầm phát triển trong giai đoạn mới nhằm phát huy dân chủ, nâng cao
tính tự giác, tự quản và tăng cường sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Nhìn chung,
cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” thời gian qua dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ cùng với hệ thống chính trị và các ban vận động ấp, nhân dân
xã Mỹ Hiệp đã hưởng ứng tích cực cuộc vận động, phong trào ngày càng được nâng
cao, chất lượng và đạt những kết quả quan trọng, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực đời
sống xã hội, góp phần hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ, ổn định an ninh chính tri, trật
tự an toàn xã hội, tăng trưởng kinh kế, phát triển văn hóa, không ngừng hoàn thiện,
củng cố hệ thống chính trị đến tận các ấp. Kết quả đạt được thể hiện trên một số lĩnh
vực sau:
- Đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, làm giàu
hợp pháp:
Để khơi dậy mạnh mẽ tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau ở khu dân cư, cùng
với sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước thông qua các chương trình xóa đói
giảm nghèo, làm giàu hợp pháp góp phần thực hiện tốt các chương trình mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội của địa phương như: tham gia các tổ chức nghề nghiệp, tổ hợp tác,
chuyển giao và tiếp thu khoa học kỷ thuật vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng
vật nuôi, dạy nghề, giải quyết việc làm cụ thể như làng nghề đóng xuồng ghe, nuôi cá
đăng quần ở ấp Tây Thượng, hội làm vườn và nghề làm gạch ở ấp Trung Châu,…Qua
đó, đã hình thành và phát triển nhiều cơ sở sản xuất, ngành nghề hoạt động có hiệu
quả, giải quyết tốt công ăn việc làm ổn định cho lao động ở địa bàn dân cư, góp phần

13
nâng thu nhập bình quân đầu người đến nay là 27,05 triệu đồng/người/năm.Toàn xã
hiện có 4.703 hộ, trong đó có 4. 365 hộ có đời sống ổn định. Có 4.757 lượt hộ sản
xuất, kinh doanh giỏi (cấp xã 2.959 hộ; cấp huyện 1.177 hộ và 624 hộ cấp tỉnh). Hộ

gia đình có nhà bán kiên cố, kiên cố là 4.511 hộ đạt 96,76% không có nhà tranh, tre
dột nát. Các tuyến lộ liên xã, liên ấp đều được nhựa hóa. Điện nông thôn được phủ
khắp toàn xã đạt 94,8%.
- Đoàn kết thực hiện phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, nhân đạo từ thiện,
pháy huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Tương thân tương ái”:
Qua 5 năm thực hiện về hoạt động nhân đạo từ thiện, thông qua cuộc vận động
quỹ “Vì người nghèo – xã hội từ thiện”, quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” do các cấp phát
động, chăm lo cho đối tượng chính sách hộ nghèo được các ban ngành, đoàn thể và
các tầng lớp nhân dân đồng tình hưởng ứng đóng góp tiền, của, hiện vật với tổng số
tiền 858 triệu đồng. Từ số tiền vận động được đã hỗ trợ cất mới và sữa chữa 07 căn
nhà tình nghĩa, 68 căn nhà tình thương, nhà đại đoàn kết; trợ giúp cho 600 lượt học
sinh nghèo có hoàn cảnh khó khăn với số tiền trên 50 triệu đồng, tặng quà tết cho 758
lượt hộ nghèo vui tết cùng cộng đồng với số tiền 80,5 triệu đồng, cứu trợ đột xuất cho
3.120 lượt hộ với số tiền 310 triệu. Ngoài nguồn bảo trợ của Nhà nước thì Hội bảo trợ
người tàn tật, trẻ mồ côi của xã đã vận động đóng góp quỹ “Bảo trợ người tàn tật trẻ
mồ côi” được số tiền trên 10 triệu đồng để giúp cho 32 cụ già neo đơn, 8 người tàn
tật, trẻ mồ coi có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Thực hiện các chính sách xã hội về chăm sóc người có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn. Tính đến nay ngành Lao Động – Thương Binh xã hội đã cấp cho 355 sổ hộ
nghèo, 95 xuất trợ cấp xã hội, 1.800 sổ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi. Từ
những phong trào này đã góp phần khắc phục và nâng cao đời sống của các hộ nghèo,
gia đình chính sách, các cụ già neo đơn, trẻ mồ coi tại địa phương.

14
- Đoàn kết phát huy dân chủ, mọi người sống và làm việc theo pháp luật,
theo hương ước, quy ước của cộng đồng:
Bên cạnh, phong trào đoàn kết phát huy dân chủ giũ gìn kỷ cương củng đã tác
động quyền làm chủ của nhân dân trong các buổi họp lệ tổ tự quản, tiếp xúc với Đại
biểu HĐND đóng góp hơn 40 ý kiến liên quan đến nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội trên nhiều lĩnh vực trong phạm vi Tỉnh, Huyện và của xã nhà cũng như

những bức xúc của nhân dân về vấn đề an ninh trật tự, quy hoạch treo, vệ sinh môi
trường, phòng chống tham nhũng, lãng phí, giá cả thị trường gia tăng,…Đặc biệt, là
trong các đợt lấy phiếu tín nhiệm các chức danh Chủ tịch, phó Chủ tịch HĐND,
UBND xã và cuộc bầu cử trưởng ấp được thực hiện đúng quy trình, dân chủ khách
quan tạo điều kiện cho nhân dân phát huy quyền làm chủ một cách tốt nhất. Nhân dân
còn tham gia tốt việc báo tin tố giác tội phạm và tệ nạn xã hội, đã có 1336/1664
nguồn tin có giá trị giúp ngành công an ngăn chặn và xử lý kịp thời góp phần giữ gìn
an ninh trật tự ở địa bàn dân cư.
Hoạt động của Ban thanh tra nhân dân thường xuyên được duy trì, từng bước
được nâng lên thực hiện khá tốt vai trò giám sát, tham gia triển khai và theo dõi việc
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Công tác hòa giải được quan tâm giải quyết kịp
thời tránh để tồn động nhiều và kéo dài, cũng như hạn chế thấp nhất đơn thư gởi vượt
cấp, trong hòa giải luôn đảm bảo tính công minh, có lý có tình nhằm giữ gìn đoàn kết
nội bộ nhân dân ở địa bàn dân cư.
- Đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc; thuần phong mỹ tục trong nhân dân:
Trên địa bàn xã có sự sắp xếp, bố trí nhà cửa khang trang, cảnh quan sạch đẹp,
nông thôn ngày thêm khởi sắc, môi trường văn hóa xã hội từng bước được cải thiện.
Cơ sở hạ tầng điện, đường, trường, trạm,…được đầu tư nâng cấp mở rộng. Xã có 01
đài phát thanh, 21 cụm loa được phủ khắp ở 7 ấp trong toàn xã, phát thanh ngày 03

15
buổi đã góp phần tuyên truyền kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật Nhà nước đến mọi người dân. Toàn xã có 05 sân bóng đá, 06 sân bóng chuyền,
02 sân cầu lông, được hoạt động thường xuyên thu hút nhiều thanh thiếu niên tập
luyện thân thể và vui chơi giải trí lành mạnh. Phong trào thể dục thể thao rèn luyện
sức khỏe được nhân dân tham gia ngày càng nhiều, trong đó phải kể đến đội tập thể
dục dưỡng sinh của hội người cao tuổi của xã, có trên 30 thành viên luyện tập mỗi
ngày 02 buổi.
Về xây dựng nếp sống văn minh, từ cuộc vận động nếp sống văn minh trong

việc cưới, việc tang, lễ hỏi…từng bước được nhân dân ý thức tổ chức tiết kiệm, lành
mạnh. Các lễ hội dân gian hàng năm được tổ chức tốt đã đáp ứng nhu cầu hưởng thụ
văn hóa truyền thống của nhân dân. Các tập tục văn hóa lạc hậu, mê tín dị đoan, đồng
bóng được đẩy lùi. Toàn xã có 01 Câu lạc bộ Hát với nhau, 01 đội văn nghệ, 01 đội
nhạc cổ truyền và 07 đội đờn ca tài tử ở 07 ấp,…được duy trì hoạt động hàng tuần và
vào các lễ, hội, tết,…Song song, công tác kiểm tra các hoạt động kinh doanh văn hóa
được duy trì thường xuyên nên việc tàng trữ và sử dụng văn hóa phẩm thuộc loại cấm
lưu hành không xảy ra. Với những kết quả của cuộc vận động thời gian qua cộng
đồng dân cư đã cố gắng nổ lực đoàn kết cùng nhau thực hiện ó hiệu quả tốt đẹp trên
nhiều lĩnh vực của phong trào “Xây dựng đời sống văn hóa”. Từ đó, số hộ đạt gia
đình văn hóa trên toàn xã có 4.387 hộ chiếm 93,9%, 7/7 ấp được công nhận là ấp văn
hóa (trong đó, có 04 ấp được huyện, tỉnh kiểm tra công nhận ấp văn hóa 5 năm liền).
- Đoàn kết chăm lo sự nghiệp giáo dục, chăm sóc sức khỏe, thực hiện dân số
kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ môi trường:
Nhận thức đúng đắn của nhân dân về trách nhiệm đối với sự nghiệp giáo dục
được nâng cao. Hàng năm, phụ huynh tự giác đưa con em trong độ tuổi đến trường
đạt từ 98 đến 100%. Trẻ bỏ học giữa chừng ngày giảm dần còn 2,5%. Về phổ cập giáo
dục tiểu học được trên công nhận đạt chuẩn 10 năm liền, phổ cập tiểu học đúng độ

16
tuổi 3 năm liền, phổ cập giáo dục THCS 4 năm liền; phong trào xã hội hóa học tập
cộng đồng, mô hình gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học đã có chuyển biến tích cực.
Quỹ khuyến học được thành lập nhiều năm qua, hàng năm đã giúp đỡ tiền, vật dụng
hỗ trợ học tập, sách, vở, xe đạp, quần áo,…cho các em học sinh nghèo hiếu học. Hiện
quỹ khuyến học của xã có trên 50 triệu đồng.
Trên lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, thực hiện dân số kế hoạch hóa gia đình, giữ
gìn môi trường, phòng chống dịch bệnh ngày càng được nhân dân tự giác thực hiện.
Công tác y tế, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo càng được quan tâm. Trạm
y tế của xã từng bước được trang bị khá tốt để chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân
dân, nên từ đó việc mua bảo hiểm tự nguyện của người dân ngày càng nhiều hơn. Có

3.962 hộ sử dụng nước sạch đạt 85%, Hộ sử dụng cầu tiêu hợp vệ sinh 2.843 hộ đạt
60,45%, có 4.183 hộ có nhà tắm đạt 90,15%. Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình
được tuyên truyền sâu rộng và thường xuyên góp phần nâng cao ý thức cho người dân
tham gia thực hiện nên tỷ lệ dân số tự nhiên giảm dần còn 0,88%. Tỷ lệ sinh con thứ 3
giảm còn 5%, chích ngừa tiêm chủng mở rộng đạt 98,8%, trẻ em suy ding dưỡng là
18,8%. Công tác vệ sinh môi trường hàng năm đều thực hiện tốt, tổ chức vệ sinh thu
gom rác, khai thông cống rãnh, ao, hồ, diệt lăng quăng phòng ngừa dịch bệnh, có
3.969 hộ xử lý rác đúng quy định đạt 85,3%.
- Đoàn kết xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân
dân ở khu dân cư:
Thông qua việc củng cố nâng chất cuộc vận động “TDĐKXDĐSVHỞKDC” đã
củng cố kiện toàn hệ thống chính trị ở địa phương ngày càng lớn mạnh về chính trị, số
lượng và chất lượng hiệu quả hoạt động ngày càng tốt hơn. Đảng bộ tiếp tục đạt loại
trong sạch vững mạnh, 90% chi bộ đạt loại trong sạch vững mạnh, 10% đạt loại khá.
Mặt trận và các đoàn thể đều đạt loại vững mạnh. Phong trào quần chúng tự quản toàn
diện được củng cố nâng chất theo đề án 01 của huyện ủy. Từ đó, nội dung hoạt động

17
của 177 tổ tự quản từng bước có nâng lên, đảm bảo chất lượng góp phần phát triển
kinh tế, văn hóa xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa bàn dân
cư, kết quả phân loại có trên 10% tổ đạt loại tốt, 80% đạt loại khá, 10% đạt loại trung
bình, không có tổ yếu kém.
2.2.2 Những tồn tại, yếu kém trong việc xây dựng đời sống văn hóa ở xã
Mỹ Hiệp huyện Chợ Mới:
Bên cạnh những kết quả đạt được trong việc xây dựng đời sống văn hóa ở xã
Mỹ Hiệp, vẫn còn tồn tại một sô yếu kém như sau:
- Tuy được Đảng ủy, chính quyền xã tổ chức triển khai, quán triệt, xong vẫn
còn một ít cán bộ, đảng viên chưa nhận thức về tầm quan trọng của công tác phát triển
văn hóa xã hội. Công tác tuyên truyền, vận động từng lúc, từng nơi chưa kịp thời đều
khắp và sâu rộng. Từ đó, một số chỉ tiêu vẫn còn thấp như: Tỷ lệ hộ xây dựng cầu tiêu

hợp vệ sinh còn thấp (60,45%), trẻ em suy dinh dưỡng tuy có giảm nhưng vẫn còn ở
mức cao (18,8%). Tệ nạn xã hội vẫn cồn diễn biến phức tạp, văn hóa phẩm có nội
dung xấu vẫn còn lan truyền ảnh hưởng đến đạo đức, lối sống của thanh thiếu niên.
- Một số hộ dân chưa quan tâm đóng góp chung vào sự phát triển kinh tế, văn
hóa xã hội, vẫn còn hiện tượng khoán trắng cho Nhà nước, làm ảnh hưởng một phần
trong công việc thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực văn hóa – xã hội ở địa phương.
- Chất lượng việc tổ chức triển khai cuộc vận động chưa đồng đều, còn mang
tính hình thức, kết quả bình xét công nhận gia đình văn hóa, ấp văn hóa chưa phản
ánh đầy đủ các tiêu chí chất lượng cuộc vận động. Chất lượng gia đình văn hóa chưa
đồng đều, mời dân họp không đạt yêu cầu, nội dung tuyên truyền chưa phong phú,
còn một số ít cá nhân có lối sống vì bản thân, cá nhân ích kỷ, chạy đua theo vật chất,
đánh mất lương tâm, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, đánh mất tình cảm gia
đình và xã hội. Bên cạnh đó, việc khen thưởng, biểu dương các hộ gia đình văn hóa
tiên tiến còn hạn chế và chưa kịp thời.

18
- Cơ sở vật chất vẫn còn hạn chế so với yêu cầu phát triển văn hóa hiện nay.
Các hoạt động văn hóa, thể thao còn mang tính phong trào, chưa có cở sở vật chất cải
tiến, sân bãi để tập luyện.
2.3 NGUYÊN NHÂN ĐẠT ĐƯỢC VÀ CHƯA ĐẠT ĐƯỢC
2.3.1 Nguyên nhân đạt được
- Nhờ sự đổi mới toàn diện và đúng đắn của Đảng tạo đà cho sự phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội làm cho đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được
cải thiện rõ rệt. Có sự chuyển biến lớn với những nhận thức đúng đắn về vai trò văn
hóa, văn nghệ của cấp ủy, chính quyền địa phương. Từ đó, phong trào luôn được quan
tâm giúp đỡ, tạo điều kiện cả về cơ sở vật chất lẫn tinh thần của các cấp, các ngành.
Đảng ủy xã thường xuyên tổ chức củng cố kiện toàn Ban chỉ đạo xây dựng nếp
sống văn minh, gia đình văn hóa của xã, ấp, chỉ đạo hướng dẫn các ấp, tổ tự quản xây
dựng quy ước nếp sống văn hóa ở cơ sở. Xây dựng kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực
hiện đến từng gia đình, tổ tự quản và ban ấp.

- Bên cạnh, là sự nhiệt tình của Mặt trận Tổ quốc và các ban ngành, hội đoàn
thể xã luôn đi đầu trong chỉ đạo và thực hiện chỉ đạo góp phần đạt kết quả rất khả
quan. Cùng với sự phấn đấu của 07 ấp trong việc quyết tâm thực hiện cho được Nghị
quyết đã đề ra.
- Nhà nước ta là nhà nước “của dân, do dân và vì dân”. Do đó, việc phát huy
sức mạnh của nhân dân vẫn là trên hết góp phần cho thắng lợi thực hiện cuộc vận
động. Từ thực tế cuộc sống, đại bộ phận nhân dân cần mẫn trong lao động, tiết kiệm
trong tiêu dùng, tận dụng thời gian lao động để tăng thêm thu nhập.
2.3.2 Nguyên nhân hạn chế
- Đầu tư cho phát triển văn hóa còn thấp và chưa đa dạng. Chưa thấy hết vị trí,
tầm quan trọng của văn hóa và mối quan hệ của văn hóa với kinh tế, xã hội. Hệ thống

19
chính quyền cơ sở chưa đủ mạnh để đảm bảo thực hiện vai trò quản lý, chậm thể chế
hóa Nghị quyết của Đảng, nhất là tuyền truyền, phổ biến chính sách pháp luật, công
tác vận động tuyên truyền chưa gắn con người với thực tiển cuộc sống đặt ra. Chưa
thật sự quán triệt quan điểm đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, chưa gắn liền
huy động với bồi dưỡng sức dân, nên có một số phong trào còn hạn chế, ít coi trọng
và đi sâu vận độngnhân dân.
- Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tuy cố gắng kiện toàn củng cố, nhưng vẫn
còn yếu kém trong phương thức hoạt động, công tác tập hợp nhân dân tham gia còn
hạn chế. Công tác phối hợp giữa chính quyền với Mặt trận và các đoàn thể chưa đồng
bộ, thiếu chặt chẽ trong việc hướng dẫn nghề nghiệp, kiễm tra sử dụng đồng vốn
trong nhân dân đối với thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo dẫn đến tình
trạng thoát nghèo chưa bền vững.
- Kinh phí đầu tư để xây dựng và sửa chữa cac thiết chế văn hóa còn gặp nhiều
khó khăn. Đặc biệt, chưa đầu tư xây dựng được nhà văn hóa và việc tổ chức các hoạt
động văn hóa, văn nghệ vẫn còn theo từng thời điểm, chưa thường xuyên và rộng
khắp. Từ đó, việc thu hút lôi cuốn quần chúng nhân dân tham gia vẫn còn hạn chế.
2.4 NHỮNG KINH NGHIỆM TRONG XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ

Từ những kết quả đạt được và hạn chế trên, có thể rút ra một số kinh nghiệm
sau đây:
- Khẳng định yếu tố có tính quyết định và quan trọng hàng đầu là tinh thần
trách nhiệm và vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà
nước, thủ trưởng đơn vị. Qua thực tế cho thấy địa phương , đơn vị nào có sự quan tâm
của hệ thống chính trị thì nơi đó phong trào xây dựng đời sống văn hóa phát triển
mạnh, được duy trì thường xuyên và ngược lại.

20
- Công tác tuyên truyền vận động nâng cao nhận thức về quan điểm, ý nghĩa,
tầm quan trọng của cuộc vận động trong cả hệ thống chính trị. Cán bộ, đảng viên,
công nhân viên chức, đoàn viên, hội viên là nhân tố tích cực để động viên quần chúng
nhân dân tham gia thực hiện.
- Tăng cường vai trò tham mưu, đề xuất tích cực của Mặt trận với cấp ủy Đảng
và công tác phối hợp đồng bộ với các tổ chức thành viên trong Ban chỉ đạo, trong đó
nhất là ngành văn hóa thông tin, tạo sự đoàn kết thống nhât trong thực hiện.
- Phải thực hiện tốt phương châm “lấy gia đình làm đối tượng, tổ tự quản, ấp
làm địa bàn hoạt động; cán bộ đảng viên, hội viên, người tốt trong nhân dân làm nồng
cốt trong phong trào” và phải bắt đầu từ xây dựng gia đình văn hóa, lấy tiêu chí, tiêu
chuẩn trong xây dựng gia đình văn hóa làm chuẩn mực trong việc xem xét tư cách
đảng viên bình chọn chiến sĩ thi đua, lao động tiên tiến hàng năm.
- Đầu tư nhân lực và có điều kiện, tiềm năng nhu cầu hoạt động phù hợp với giá
trị tinh thần văn hóa truyền thống của địa phương. Cụ thể là phát huy tất cả những
tiềm năng cao nhất trong cộng đồng để phục vụ đáp ứng cho sự phát triển phong trào
xây dựng phát triển văn hóa và phải đi đôi với việc phát triển kinh tế, xã hội nhằm
nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần, giáo dục tuyên truyền tư tưởng đạo đức, lối
sống tạo sự nhận thức sâu sắc và sự ủng hộ mạnh mẽ hơn trong nhân dân về xây dựng
và phát triển nền văn hóa mới.








21
Chương 3
MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
Ở XÃ MỸ HIỆP ĐẾN NĂM 2015

Cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở hiện nay với mục đích là tạo
ra động lực thúc đẩy phong trào cách mạng ở khu dân cư, động viên mọi người, mọi
gia đình không ngừng nâng cao dân trí, phát huy quyền làm chủ, đoàn kết xóm làng
yên vui, gia đình bình đẳng, ấm no, hạnh phúc, văn minh và tiến bộ. Đồng thời bài trừ
mọi tệ nạn, tiêu cực xã hội, góp phần thực hiện xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
ngày càng cao.
Để khắc phục những tồn tại yếu kém, đồng thời để thực hiện được mục tiêu
cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở xã Mỹ Hiệp huyện Chợ mới. Cần có một
số phương hướng và giải pháp sau đây.
3.1 MỤC TIÊU XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở XÃ MỸ HIỆP, HUYỆN CHỢ
MỚI ĐẾN NĂM 2015
Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, hiệu lực quản lý của Nhà
nước. Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân tạo sức mạnh tổng hợp khai thác
tốt tiềm năng, sử dụng có hiệu quả nguồn lực, phát triển kinh tế bền vững, thực hiện
tốt các chính sách an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, đảm bảo an ninh quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị và
trật tự an toàn xã hội.
Đưa cuộc vận động “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào
chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia đình, khu dân
cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi mặt

đời sống, được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác, quan hệ hằng ngày của cộng
đồng và từng con người, tạo sức đề kháng đối với các sản phẩm độc hại. Tiếp tục đẩy

22
mạnh công tác xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội, ngăn chặn
và đẩy lùi các hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự công cộng, mại dâm, ma túy, cờ
bạc…Triển khai cuộc vận động xây dựng gia đình Việt Nam giữ gìn và phát triển
những giá trị truyền thống của văn hóa dân tộc tại địa phương.
Đến năn 2015 cần đạt được các chỉ tiêu cụ thể sau đây: Tốc độ tăng trưởng bình
quân đạt 16%. Thu nhập bình quân đầu người 56,6 triệu đồng. Cơ cấu kinh tế: khu
vực nông nghiệp 20%; Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp 26%; Thương mại – Dịch
vụ 54%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn 0,76%, tỷ lệ trẻ em suy ding dưỡng còn
17,7%, giảm tỷ lệ hộ nghèo còn 1%, giải quyết việc làm cho 10.000 lao động, có 98%
hộ sử dụng nước sạch, 80% hộ có nhà vệ sinh, 95% hộ sử dụng điện, tỷ lệ tốt nghiệp
trung học cơ sở 99% trở lên, trung học phổ thông 85%, tiếp tục duy trì đạt chuẩn phổ
cập giáo dục THCS và phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Tỷ lệ tập hợp quần
chúng vào các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội đạt từ 6,5% đến 70% so với dân số
từng giới. Tỷ lệ đảng viên trên dân số đạt 1,5%, bình quân phát triển 15 đảng
viên/năm.
3.2 GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở XÃ MỸ HIỆP, HUYỆN CHỢ
MỚI ĐẾN NĂM 2015
Xuất phát từ đường lối Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta về xây
dựng đời sống văn hóa cơ sở trong thời gian qua.
Xuất phát từ tình hình thực trạng xây dựng đời sống văn hóa ở xã Mỹ Hiệp.
Bản thân xin nêu ra một số giải pháp sau đây nhằm tiếp tục phát huy những kết quả đã
đạt được, khắc phục những hạn chế:
3.2.1 Tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền, thông tin, cổ động:
Đây là việc làm thường xuyên và liên tục, cung cấp thông tin văn hóa cho nhân
dân qua hệ thống truyền thanh của xã. Do đó, cần xây dựng củng cố hệ thống truyền
thanh, phát thanh đến tận các ấp. Ngoài cung cấp thông tin cho dân, hệ thống này còn


23
có nhiệm vụ đáp ứng một phần nhu cầu văn hóa của nhân dân, khuyến khích sự phát
triển của văn hóa, văn nghệ ở xã. Hoạt động này vừa cung cấp thông tin văn hóa, nâng
cao đời sống tinh thần của nhân dân, vừa chuyển tải đến dân những chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, phổ biến những kiến thức khoa học kỷ
thuật, vệ sinh phòng bệnh, biểu dương kịp thời những gương tốt, người tốt, việc tốt,
phê phán những vi phạm, những việc làm sai trái.
Ngoài thông tin văn hóa bằng đài truyền thanh, qua các buổi sinh hoạt văn hóa
chuyên đề chung cho nhân dân, hoặc câu lạc bộ, cần tăng cường các hoạt động cổ
động văn hóa trực quan như: khẩu hiệu, áp phích, bản tin, triển lãm tranh ảnh, mit
tinh,…Vừa nâng cao nhận thức, vừa bồi dưỡng tình cảm cho mọi người, lôi cuốn mọi
người gắn bó với tập thể, cộng đồng, tham gia các hoạt động văn hóa tập thể.
3.2.2 Phát huy vai trò hoạt động của Câu lạc bộ
Với vai trò là một tổ chức xã hội tập hợp theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản
của những người có chung sở thích nhằm thực hiện các hoạt động trên nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội như: chính trị, xã hội, kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn học nghệ
thuật…Thông qua cuộc vận đông “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư” xây dựng nhiều câu lạc bộ, đội, nhóm sở thích để nhân dân được tham
gia sinh hoạt văn hóa theo nhu cầu. Đây là một nổ lực rất lớn góp phần làm nhu cầu
sinh hoạt văn hóa gắn liền với đời sống một cách thiết thực. Hiện nay, ở xã có nhiều
câu lạc bộ như: CLB phụ nữ không sinh con thứ 3, CLB khuyến nông, CLB dưỡng
sinh, CLB thanh niên và một số CLB thể dục thể thao,…Riêng ở các ấp văn hóa hoạt
động mạnh nhất vẫn là CLB đàn ca tài tử thu hút quần chúng đến sinh hoạt rất đông
và đóng góp cho xã trong việc phục vụ các lễ hội, tham gia các hội thi, hội diễn các
cấp.
Điều đáng chú ý là thông qua nguyên tắc tự quản, tự nguyện của câu lạc bộ nên
các sinh hoạt đều do hội viên tự đóng góp kinh phí hoạt động và mua sắm trang thiết

24

bị. Hầu hết các câu lạc bộ đều có những đóng góp lớn cho các lĩnh vực đời sống xã
hội phù hợp với chủ trương xã hội hóa của Đảng và Nhà nước.
3.2.3 Xây dựng và củng cố thư viện, bưu điện văn hóa xã:
Hiện nay, xã đã có thư viện và nhà bưu điện văn hóa xã. Điều cơ bản là phải
phối hợp các bộ phận này để phát huy hiệu quả cơ sở vật chất và các tài liệu, sách
báo. Cần có sáng kiến kêu gọi những người của địa phương đang sinh sống ở mọi
miền đất nước gởi biếu sách, báo về xã góp phần phong phú các loại sách phục vụ
nhân dân. Hầu hết các trường học và cơ quan, ban ngành đều có tủ sách phục vụ nội
bộ và đây là một trong những tiêu chí trong việc xây dựng cơ quan văn hóa.
3.2.4 Bảo tồn và phát huy tác dụng của các di tích lịch sử, văn hóa cách
mạng để giáo dục truyền thống, tổ chức, quản lý tốt các lễ hội ở xã:
Công tác giáo dục truyền thống lịch sử và cách mạng được xã quan tâm đặc
biệt. Hiện xã có 1 nhà bia ghi danh liệt sĩ, 1 di tích được xếp hạng cấp tỉnh là Dương
Công Phủ, và hàng năm đều có tổ chức lễ hội. Xã đã biên soạn xong lịch sử Đảng bộ,
đó là di sản quý báu để chúng ta khai thác, sử dụng. Phát huy vai trò của các di sản
văn hóa để bồi dưỡng tình cảm quê hương, nhớ về cội nguồn, truyền thống uống nước
nhớ nguồn, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, đoàn kết, nghĩa tình, giáo dục
trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị ở địa phương: giáo
dục truyền thống cho thế hệ trẻ.
Qua tổ chức lễ hội, qua học tập truyền thống lịch sử địa phương, hướng dẫn cho
quần chúng biết cái hay, cái đẹp cần phát huy; và cả những cái xấu, cái dở cần tránh,
cần xóa bỏ, nhất là các hủ tục mê tính dị đoan.Trong tổ chức, quản lý các lễ hội, các
di tích lịch sử, văn hóa cách mạng, cần coi trọng cả phần lễ và phần hội. Trong lễ cần
thiết thực, trang nghiêm nhưng không quá cầu kỳ, rườm rà, nệ cổ; trong hội cần phải
lành mạnh, mang tính quần chúng cao, tránh thương mại hóa. Giữ cho môi trường văn
hóa và môi trường tự nhiên trong sạch. Cần bảo quản và tôn tạo đài tưởng niệm và

25
trang nghiêm để ghi nhớ công ơn các liệt sĩ và giáo dục truyền thống cho các thế hệ
tiếp theo.

3.2.5 Tổ chức các hoạt động văn nghệ quần chúng:
Trong điều kiện phát triển các phương tiện nghe, nhìn hiện đại, nhân dân vẫn
thích thưởng thức văn nghệ quần chúng. Tâm lý thích sáng tạo, thể hiện tài năng của
mình, nhất là những người có năng khiếu là cơ sở để phát triển phong trào văn nghệ
quần chúng, ngoài nhu cầu thưởng thức nghệ thuật còn có nhu cầu giao tiếp, tiếp xúc,
gặp gở của mọi lứa tuổi, nên văn nghệ quần chúng là nơi có thể tập hợp đông đảo
nhân dân ở cơ sở. Thông qua phát triển văn nghệ quần chúng, công tác văn hóa góp
phần nâng cao nhận thức, bồi dưỡng tình cảm cách mạng, tình cảm quê hương cho
nhân dân.
Cần chú trọng xây dựng các câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ theo lứa tuổi, theo
địa bàn, theo nhóm người: phụ nữ, thanh thiếu niên, cán bộ hưu trí, cựu chiến binh,
người cao tuổi, CLB giới tính, CLB thể dục, CLB cờ tướng, CLB đàn ca tài tử…là
những nơi sinh hoạt văn hóa, trao đổi tư tưởng, giao lưu tình cảm ở cơ sở.
Trong hoạt động này cần coi trọng những người nhiệt tình, có năng khiếu, động
viên họ giao cho họ những trách nhiệm cụ thể, họ sẽ hăng hái làm và vận động người
khác tham gia. Kinh phí để tổ chức thực hiện có thể vận động từ nhiều nguồn. Ngoài
kinh phí của chính quyền, đoàn thể, có thể vận động sự đóng góp, tài trợ của cán bộ,
nhân dân và các đơn vị đóng trên địa bàn.
3.2.6 Hoạt động xây dựng nếp sống văn hóa:
Giáo dục văn hóa để hình thành một lối sống, nếp sống, phong tục, tập quán, tốt
đẹp là công việc liên quan đến mọi người, mọi gia đình, mọi ngành, mọi cấp, là mối
quan tâm của toàn xã hội. Vì vậy, cần thực hiện phương châm công tác: Đảng lãnh
đạo, chính quyền các cấp tổ chức thực hiện; ngành Văn hóa – Thông tin tham mưu và

×