Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa cho sinh viên các trường Cao đẳng trên địa bàn Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (783.51 KB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ NGÂN

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG
TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ NGÂN

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG
TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

Chuyên ngành

: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Mã số


: 60 22 03 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN VĂN OÁNH

HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. NỘI DUNG VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG
CAO ĐẲNG TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI ........................................................ 13
1.1. Các khái niệm cơ bản ............................................................................... 13
1.1.1. Khái niệm đạo đức ........................................................................ 13
1.1.2. Khái niệm đạo đức xã hội chủ nghĩa............................................. 16
1.1.3. Khái niệm lý tưởng cách mạng .................................................... 18
1.2. Nội dung giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa cho sinh viên các trường
Cao đẳng. ................................................................................................. 21
1.2.1. Giáo dục lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc, yêu nước gắn
liền với yêu chủ nghĩa xã hội. ................................................................. 21
1.2.2. Giáo dục ý thức tự giác, sáng tạo trong học tập và nghiên cứu
khoa học. ................................................................................................. 25
1.2.3. Giáo dục lý tưởng cách mạng, lối sống cho sinh viên .................. 27
1.3. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa cho sinh
viên các trường Cao đẳng trên địa bàn Hà Nội ....................................... 35
1.3.1. Những đặc điểm cơ bản của sinh viên một số trường Cao đẳng trên
địa bàn Hà Nội. ........................................................................................ 35
1.3.2. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa cho

sinh viên các trường Cao đẳng trên địa bàn Hà Nội. ............................. 43
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG
CAO ĐẲNG TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI ....................................................... 48
2.1. Thực trạng giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa cho sinh viên các trường
Cao đẳng trên địa bàn Hà Nội và nguyên nhân của nó ........................... 48


2.1.1. Thực trạng giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa cho sinh viên các
trường Cao đẳng trên địa bàn Hà Nội ..................................................... 48
2.1.2. Nguyên nhân của thực trạng giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa
cho sinh viên các trường Cao đẳng trên địa bàn Hà Nội......................... 59
2.2. Một số giải pháp tăng cường giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa cho sinh
viên các trường Cao đẳng trên địa bàn Hà Nội. ..................................... 72
2.2.1. Đổi mới giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa, trước hết là đổi mới
nội dung, phương pháp giảng dạy các môn Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh .................................................................................................. 72
2.2.2. Xây dựng đội ngũ giảng viên, trước hết là giảng viên các môn Mác
– Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh giỏi về chuyên mơn nghề nghiệp, có
phẩm chất đạo đức, gắn “dạy chữ” với “dạy người”. ............................. 80
2.2.3. Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, vai trị hoạt động
của Đồn thanh niên, Hội sinh viên trong công tác giáo dục đạo đức xã
hội chủ nghĩa cho sinh viên ..................................................................... 83
2.2.4. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, đấu tranh chống các
hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội trong nhà trường. .......................... 86
2.2.5. Phát huy tính tự giác, chủ động, sáng tạo của sinh viên trong học
tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức xã hội chủ nghĩa trước tình hình mới 88
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 97



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 25 năm tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta, nhân
dân ta đã và đang thu được những thành tựu hết sức to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
đưa nước ta thốt khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển, bước vào nhóm
nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội đã và đang tạo điều kiện
thuận lợi cho sinh viên được rèn luyện, phấn đấu vươn lên vì ngày mai lập
thân, lập nghiệp. Bên cạnh những chuyển biến tích cực, sự tác động mạnh mẽ
từ mặt trái của cơ chế thị trường, của tồn cầu hóa và hội nhập thế giới, đã và
đang làm nảy sinh những hiện tượng tiêu cực, ảnh hưởng không tốt đến đạo
đức, lối sống của thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng, làm cho khơng
ít thanh niên, sinh viên sa ngã, hư hỏng, xa rời các giá trị đạo đức tốt đẹp của
dân tộc, có thái độ thờ ơ, bàng quan trước các sự kiện kinh tế, chính trị của
đất nước. Đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên suy thoái đạo đức,
mờ nhạt lý tưởng, thực dụng, thiếu hồi bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai
bản thân và tiền đồ đất nước.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Hội Sinh viên Việt Nam lần thứ VIII
năm 2009 đã đánh giá: Bên cạnh những ưu điểm và thành tựu mà sinh viên
Việt Nam đã đạt được, hiện nay vẫn còn:
Một bộ phận sinh viên chưa xác định được mục tiêu, động cơ học
tập đúng đắn, thiếu kiên trì, quyết tâm, chưa chăm chỉ học tập, thiếu
trung thực trong thi cử, kiểm tra, chưa thể hiện rõ ước mơ, hồi bão,
thụ động, thiếu ý chí vươn lên, ứng xử kém, tinh thần trách nhiệm
xã hội cịn hạn chế, có những biểu hiện chưa tốt về lối sống, mắc tệ

5



nạn xã hội, vi phạm pháp luật, một bộ phận sinh viên cịn dễ bị lợi
dụng, lơi kéo vào những hoạt động với mục đích xấu
Là một bộ phận của giới trẻ, sinh viên các trường Cao đẳng trên địa bàn
Hà Nội cũng khơng nằm ngồi sự biến động đó. Cùng với sự phát triển chung
của cả nước, sinh viên các trường Cao đẳng trên địa bàn Hà Nội cũng đã có
những thành cơng nhất định trong học tập, tu dưỡng rèn luyện đạo đức. Song,
cũng bộc lộ những hạn chế đòi hỏi phải từng bước khắc phục để họ thực sự
trở thành những chủ nhân, những trí thức trong tương lai của đất nước. Đây
không phải là công việc của một cấp một ngành mà là công việc chung địi
hỏi cần có sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
Xuất phát từ vị trí, vai trị của sinh viên đối với sự phát triển đất nước;
xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, từ thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức xã
hội chủ nghĩa cho sinh viên nói chung và sinh viên các trường Cao đẳng trên
địa bàn Hà Nội nói riêng, tơi chọn vấn đề “Giáo dục đạo đức xã hội chủ
nghĩa cho sinh viên các trường Cao đẳng trên địa bàn Hà Nội ” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội
khoa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Xung quanh vấn đề đạo đức, giáo dục đạo đức nói chung, giáo dục đạo
đức cho sinh viên nói riêng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu dưới các góc
độ khác nhau, trong số đó có thể kể đến các cơng trình sau đây :
- Các cơng trình đã in thành sách có liên quan đến đề tài:
+ “Đạo đức mới” do GS Vũ Khiêu chủ biên (Nxb Khoa học xã hội,
1974). Trong cuốn sách này vấn đề đạo đức, đạo đức mới và giáo dục đạo đức
mới đã được tập thể các tác giả làm sáng tỏ trên những nét cơ bản.
+ “Định hướng giá trị cho thanh niên sinh viên trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Dương Tự Đam,( Nxb Thanh niên.

6



Hà Nội 2002). Trong cuốn sách này, tác giả trình bày một cách có hệ thống
những vấn đề lý luận về giá trị, định hướng giá trị, con đường, biện pháp giáo
dục định hướng giá trị ( trong đó có giá trị đạo đức) cho thanh niên sinh viên
trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ “ Giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước” của Ban tư tưởng - Văn hoá Trung
ương (Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2004). Trong cuốn sách này nội dung lý
luận cũng như thực tiễn đạo đức xã hội xã hội chủ nghĩa được nhóm biên soạn
trình bày một cách khá hệ thống. Ngoài ra những chuẩn mực, giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc cũng được trình bày một cách có hệ thống trên
những nét cơ bản. Trên cơ sở đó, nhóm các nhà biên soạn đã đề xuất phương
hướng và giải pháp xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong giai đoạn hiện nay.
+ “ Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao đạo đức cách
mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay” của PGS,TS
Nguyễn Thế Kiệt ( Nxb CTQG xuất bản năm 2011). Trong cuốn sách này,
tác giả đề cập đến 2 vấn đề lớn. Một là, nguồn gốc bản chất và nội dung đạo
đức cách mạng Hồ Chí Minh; hai là, đạo đức người cán bộ lãnh đạo quản lý
hiện nay- Thực trạng và giải pháp ( dưới ánh sáng đạo đức cách mạng Hồ
Chí Minh). Đây là một trong những tài tham khảo có giá trị khi nghiên cứu
đạo đức học.
+ “Xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay” của TS Nguyễn
Thị Thọ ( Nxb CTQG xuất bản năm 2011). Trong cuốn sách này, tác giả
đề cập đến 3 vấn đề lớn. Thứ nhất là một số vấn đề lý luận về đạo đức gia
đình. Thứ hai là kinh tế thị trường và sự tác động của nó đối với đạo đức
gia đình ở nước ta hiện nay và thứ ba là một số giải pháp định hướng đối
với việc xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay. Trong đó tác giả

7



nhấn mạnh việc đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức gia đình đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước.
+ “Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình
đổi mới và hội nhập quốc tế” do Phạm Hồng Tung chủ biên( Nxb CTQG
xuất bản năm 2011). Cơng trình chun khảo này là một trong những sản
phẩm khoa học của Đề tài cấp Nhà nước mã số KX.03.16/06-10. Cơng
trình đề cập khá tồn diện lối sống của thanh niên Việt Nam hiện nay, cả
mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Đối tượng khảo sát của nhóm nghiên cứu
khá tồn diện, trong đó đối tượng học sinh, sinh viên được các tác giả hết
sức chú ý, nhất là mục: “ Một số xu hướng biến đổi tiêu cực trong lối sống
của thanh niên Việt Nam trong thập niên đầu thế kỷ XXI ”
- Các luận án, luận văn có liên quan đến đề tài:
+ Kế thừa và đổi mới những giá trị đạo đức truyền thống trong quá
trình chuyển sang nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ
của Nguyễn Văn Lý, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1998.
+ Giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở tại thành phố
Hồ Chí Minh trong điều kiện đổi mới hiện nay của Đỗ Tuyết Bảo( Luận án
Tiến sĩ Triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, bảo vệ tại Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2001).
+ Giáo dục đạo đức cho thanh niên học sinh theo tư tưởng Hồ Chí
Minh ở nước ta hiện nay của Trần Minh Đoàn (Luận án Tiến sĩ Triết học,
chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, năm 2002).
+ Giáo dục tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa cho học sinh trung học
phổ thông ở miền Đông Nam Bộ hiện nay của Nguyễn Sỹ Quyết Tâm ( Luận
án Tiến sĩ Triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, bảo vệ tại Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2009)


8


+ Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức con người Việt Nam trong điều
kiện hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học của Trần Thị Tuyết Sương, bảo vệ
tại Viện Triết học, 1998.
+ Đạo đức của sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở
Việt Nam – thực trạng và giải pháp” của Vũ Thanh Hương (Luận văn thạc sĩ
triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004)
+ “Vấn đề đạo đức cách mạng của sinh viên ở tỉnh Hưng Yên hiện
nay” của Trần An Bình (Luận văn Thạc sĩ Triết học 2011).
+ “Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng Y đức cho sinh viên
các trường cao đẳng Y tế ở thành phố Hà Nội hiện nay” của Mai Thị Minh
Nghĩa( Luận văn Thạc sĩ Triết học 2011).
+ “Vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên tỉnh Tuyên Quang hiện nay”
của Trương Thị Thu Ngà( Luận văn thạc sĩ triết học 2012)
+ “Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng
đạo đức mới cho sinh viên ở Nam Định hiện nay” của Vũ Thị Mai (Luận văn
thạc sĩ triết học 2012)
- Các bài viết nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Trong nhiều năm qua, trên một số tạp chí – nhất là các tạp chí thuộc
lĩnh vực lý luận chính trị - đã đăng tải nhiều bài viết liên quan đến đạo đức,
trong đó có một số bài viết trực tiếp bàn đến vấn đề giáo dục đạo đức nói
chung, giáo dục đạo đức cho sinh viên nói riêng, thí dụ :
+ “ Về việc tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong xây dựng nền đạo đức
mới ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Văn Phúc (Tạp chí Triết học số 11,
2006).Trong bài viết này, tác giả đi sâu phân tích sự cần thiết phải tạo ra bước
chuyển mạnh mẽ trong xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay, để đáp
ứng yêu cầu phát triển đất nước.


9


+ “ Về tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức
mới” của Nguyễn Văn Phúc (Tạp chí Triết học số 3, 2007). Trên cơ sở quan
điểm duy vật lịch sử, tác giả Nguyễn Văn Phúc đã đi sâu phân tích tính quy
luật cũng như sự cần thiết của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức
mới ở nước ta hiện nay. Hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức này nhìn chung khá
bao qt, trong đó có học sinh, sinh viên.
+ “ Thực trạng đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên nước ta hiện
nay qua văn kiện Đại hội XI của Đảng” của Trần Sỹ Phán (Tạp chí Triết học
số 8, 2011). Trong bài viết này, trên cơ sở tổng hợp số liệu thu thập được, tác
giả đi sau phân tích thực trạng đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên nước ta
hiện nay, đánh giá và khẳng định mặt tích cực đồng thời chỉ ra những hạn chế,
yếu kém cần khắc phục trên tinh thần Đại hội lần thứ XI của Đảng.
+ “Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đến lối sống của sinh viên Việt
Nam hiện nay” của Trần Sỹ Phán (Tạp chí Lý luận chính trị, số 3-2012)
Trong bài viết này, ngồi việc đưa ra và phân tích một số khái niệm cơng
cụ, tác giả đi sâu phân tích ảnh hưởng – chủ yếu là ảnh hưởng tiêu cực –
của lối sống thực dụng đối với sinh viên nước ta hiện nay, từ đó đưa ra
những giải pháp nhằm khắc phục ảnh hưởng tiêu cực đó.
+ “ Rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo tinh thần
nghị quyết Trung ương 4 khóa XI” của Lê Trọng Luyện (Tạp chí Lý luận
chính trị, số 5-2012). Bài viết phân tích, làm sâu sắc thêm sự cần thiết phải
rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên nước ta hiện nay theo
tinh thần nghị quyết Trung ương 4 khóa XI.
+ “ Tăng cường giáo dục, nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực của
đội ngũ cán bộ trước yêu cầu xây dựng, chỉnh đốn Đảng” của Lương Cương
(Tạp chí Lý luận chính trị, số 9-2012).


10


Những cơng trình và bài viết trên đây ít nhiều đã đề cập đến vấn đề
đạo đức và giáo dục đạo đức trong điều kiện hiện nay. Đây là nguồn tư liệu
quý giá để chúng tôi tham khảo và kế thừa trong quá trình thực hiện đề tài
luận văn của mình. Tuy nhiên cho đến nay chưa có cơng trình nào đi sâu
nghiên cứu một cách hệ thống về vấn đề giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa
cho sinh viên các trường Cao đẳng trên địa bàn Hà Nội với những biểu hiện
đặc thù của nó. Điều đó thơi thúc tác giả lựa chọn vấn đề Giáo dục đạo đức
xã hội chủ nghĩa cho sinh viên các trường Cao đẳng trên địa bàn Hà Nội
để nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nhận thức về giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa, phân tích
thực trạng giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa cho sinh viên các trường Cao
đẳng trên địa bàn Hà Nội và nguyên nhân của nó; đưa ra một số giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa
cho sinh viên các trường Cao đẳng trên địa bàn Hà Nội
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ
cơ bản như sau:
- Góp phần làm sáng tỏ nội hàm của khái niệm đạo đức xã hội chủ
nghĩa, tầm quan trọng, nội dung giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa cho sinh
viên các trường Cao đẳng trên địa bàn Hà Nội.
- Tìm hiểu thực trạng của giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa cho sinh
viên các trường Cao đẳng trên địa bàn Hà Nội
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường giáo dục đạo đức xã
hội chủ nghĩa cho sinh viên các trường Cao đẳng trên địa bàn Hà Nội


11


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức xã hội chủ
nghĩa cho sinh viên trong phạm vi các trường Cao đẳng trên địa bàn Hà Nội
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp với các phương pháp lịch sử và lôgic,
phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học, thống kê... để thực hiện đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề liên quan đến giáo dục đạo
đức ở các trường đại học, cao đẳng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.

12


Chương 1
NỘI DUNG VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CHO SINH VIÊN
CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo
đức đã xuất hiện cách đây hơn 2.600 năm trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ

và Hy Lạp cổ đại.
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos (moris) - lề thói,
(moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Cịn “ln lí” thường
xem như đồng nghĩa với “đạo đức” thì gốc ở chữ Hy Lạp là Êthicos nghĩa là
lề thói, tập tục. Hai danh từ đó chứng tỏ rằng, khi ta nói đến đạo đức, tức là
nói đến những lề thói tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người
và người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày. Sau này người ta thường
phân biệt hai khái niệm, moral là đạo đức, cịn Ethicos là đạo đức học.
Ở phương Đơng, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại bắt nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của họ. Đạo là một trong những
phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là
con đường, đường đi, về sau khái niệm đạo được vận dụng trong triết học để
chỉ con đường của tự nhiên. Đạo cịn có nghĩa là con đường sống của con
người trong xã hội.
Khái niệm đức đầu tiên xuất hiện trong Kim văn đời nhà Chu và từ đó
trở đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để nói đến
nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là
nguyên tắc luân lý. Như vậy có thể nói đạo đức theo quan niệm của người

13


Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống
đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Ở phương Tây, vấn đề đạo đức từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà tư tưởng. Cho đến nay, người ta vẫn coi Xôcrát ( 469 – 399 trCN) là
người đầu tiên đặt nền móng cho khoa học Đạo đức học. Còn Arixtốt (384 –
322 trCN) đã viết bộ sách Đạo đức học với 10 cuốn, trong đó ơng đặc biệt
quan tâm đến phẩm hạnh con người. Nội dung của phẩm hạnh chính là chỗ
biết định hướng đúng, biết làm việc thiện. Ơng nói: Chúng ta bàn về đạo đức

không phải để biết đức hạnh là gì mà là để trở thành con người có đức hạnh.
Trong lịch sử Đạo đức học, Êpiquya ( 341 – 271 trCN) là người đầu
tiên đưa ra phạm trù lẽ sống vào Đạo đức học và là một trong những người có
cơng luận giải về sự tự do của con người
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa như sau:
“Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,
qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử
của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được
thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh của truyền thống và sức mạnh
của dư luận xã hội.” [51, tr6]
Trong định nghĩa trên có mấy điểm cần chú ý sau:
Thứ nhất, đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh
tồn tại xã hội, phán ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội. Đạo đức cũng như
các quan điểm triết học, chính trị, nghệ thuật, tơn giáo đều mang tính chất của
kiến trúc thượng tầng. Chế độ kinh tế xã hội là nguồn gốc của quan điểm về
đạo đức con người. Các quan điểm này thay đổi theo điều kiện kinh tế - xã
hội. Ví dụ: Thích ứng với chế độ phong kiến, dựa trên cơ sở bóc lột những
người nông dân bị cột chặt vào ruộng đất là đạo đức xã hội phong kiến. Thích
ứng với chế độ tư bản, dựa trên cơ sở bóc lột người cơng nhân làm thuê là đạo

14


đức tư sản. Chế độ xã hội chủ nghĩa tạo ra một nền đạo đức biểu hiện mối
quan hệ hợp tác trên tình đồng chí và quan hệ tương trợ xã hội chủ nghĩa của
những người lao động đã được giải phóng khỏi ách bóc lột. Như vậy, sự phát
sinh và phát triển của đạo đức, xét đến cùng là một quá trình do sự phát triển
của phương thức sản xuất quyết định.
Thứ hai, Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người.
Loài người đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi con người:

phong tục, tập quán, tôn giáo, pháp luật, đạo đức…Đối với đạo đức, sự đánh
giá hành vi con người theo khuôn phép chuẩn mực và qui tắc đạo đức biểu
hiện thành những khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi
nghĩa. Các khái niệm thiện ác, khuôn phép và qui tắc hành vi của con người
thay đổi từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, từ dân tộc này sang dân tộc khác.
Trong xã hội có giai cấp thì đạo đức bao giờ cũng biểu hiện lợi ích của một
giai cấp nhất định. Những khn phép (chuẩn mực) và qui tắc đạo đức là yêu
cầu của xã hội hoặc của một giai cấp nhất định đề ra cho hành vi mỗi cá nhân,
nó bao gồm hành vi của cá nhân đối với xã hội (đối với tổ quốc, nhà nước,
giai cấp mình và giai cấp khác…) và đối với người khác. Những chuẩn mực
và quy tắc đạo đức nhất định được công luận của xã hội, hay một giai cấp,
dân tộc thừa nhận. Ở đây quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ của mình đối
với xã hội và đối với người khác (khuôn phép hành vi) là tiền đề của hành vi
đạo đức của cá nhân. Đã là một thành viên của xã hội, con người phải chịu sự
giáo dục nhất định về ý thức đạo đức, một sự đánh giá đối với hành vi của
mình và trong hồn cảnh nào đó cịn chịu sự khiển trách của lương tâm…Cá
nhân phải chuyển hóa những địi hỏi của xã hội và những biểu hiện của chúng
thành nhu cầu, mục đích và hứng thú trong hoạt động của mình. Biểu hiện của
sự chuyển hóa này là hành vi cá nhân tuân thủ những ngăn cấm, những
khuyến khích, những chuẩn mực phù hợp với những đòi hỏi của xã hội…Do

15


vậy sự điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện, và xét về bản chất, đạo đức
là sự lựa chọn của con người phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Thứ ba, đạo đức là một hệ thống các giá trị, các hiện tượng đạo đức thường
biểu hiện dưới hình thức khẳng định, hoặc là phủ định một hình thức chính
đáng, hoặc khơng chính đáng nào đó. Nghĩa là nó bày tỏ sự tán thành hay
phản đối trước thái độ hoặc hành vi ứng xử của các cá nhân, giữa cá nhân với

cộng đồng trong một xã hội nhất định. Vì vậy, đạo đức là một nội dung hợp
thành hệ thống giá trị xã hội. Sự hình thành phát triển và hồn thiện hệ thống
giá trị đạo đức khơng tách rời sự phát triển và hoàn thiện của ý thức đạo đức
và sự điều chỉnh đạo đức. Nếu hệ thống giá trị đạo đức phù hợp với sự phát
triển, tiến bộ, thì hệ thống ấy có tính tích cực, mang tính nhân đạo. Ngược lại,
thì hệ thống ấy mang tính tiêu cực, phản động, phản nhân đạo.
1.1.2. Khái niệm đạo đức xã hội chủ nghĩa
Trả lời các câu hỏi: Có đạo đức cộng sản hay khơng, có ln lý cộng sản
hay không, V. I. Lênin khẳng định rằng: “ Tất nhiên là có. Người ta thường
bảo chúng ta khơng có đạo đức của chúng ta, và giai cấp tư sản buộc tội
những người cộng sản chúng ta là bác bỏ mọi thứ đạo đức. Đó là một cách
đánh lộn sịng các khái niệm làm cơng nhân và nơng dân bị lầm lạc” [32, tr
366]. Người nêu rõ rằng, đạo đức của chúng ta hồn tồn phục vụ lợi ích đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản: “Đạo đức cộng sản là đạo đức phục vụ
cuộc đấu tranh ấy, là đạo đức nhằm đoàn kết những người lao động chống
mọi sự bóc lột, chống lại mọi chế độ tư hữu, vì chế độ tư hữu trao cho một cá
nhân thành quả lao động do toàn thể xã hội sáng tạo ra. Ruộng đất đối với
chúng ta là tài sản chung” [32, tr 369]. Vì vậy, “đối với một người cộng sản,
tất cả đạo đức nằm trong cái kỷ luật đồn kết keo sơn đó và trong cuộc đấu
tranh tự giác của quần chúng chống bọn bóc lột... Đạo đức giúp xã hội lồi
người tiến lên cao hơn, thốt khỏi ách bóc lột lao động” [32, tr 371].

16


Với sự thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản, từ đạo đức giai cấp của giai
cấp vô sản, đạo đức cộng sản chủ nghĩa biến thành quy luật đạo đức của toàn
xã hội. Cùng với sự kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức cơ bản chung
của lồi người, giai cấp vơ sản đã nêu lên những quy phạm đạo đức riêng của
mình, như: Tinh thần đồn kết giai cấp; chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa tập

thể; lao động sáng tạo với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản ... Trong quá trình vận động và phát triển những nguyên
tắc, quy phạm đạo đức cộng sản không ngừng được bổ sung và được áp dụng
với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đạo đức cộng sản thể hiện ra như là
thành quả tiến bộ đạo đức của loài người, tồn bộ nội dung chân chính của nó
hợp với nhân tính chứa đựng trong nền đạo đức của các giai cấp tiến bộ trong
tất cả các thời đại lịch sử trước đây, nay đã được phát triển cao độ.
Đạo đức cộng sản chủ nghĩa là giai đoạn cao trên con đường tiến lên của
đạo đức lồi người. Nó kế thừa và phát triển tất cả những gì tốt đẹp nhất được
nhân loại sáng tạo ra trong suốt hàng ngàn năm đấu tranh chống áp bức, bất
công xã hội cũng như những thói hư, tật xấu, phản đạo đức. Đạo đức cộng sản
là một nền đạo đức của tương lai, một nền đạo đức mang ý nghĩa nhân văn
cao cả. Tư tưởng nhân đạo cốt lõi trong đạo đức cộng sản là: tất cả vì con
người, tơn trọng con người, thương u con ngưịi, giải phóng con người, tạo
mọi điều kiện cho con người được phát triển tự do và toàn diện trong mối
quan hệ hài hoà giữa cá nhân và tập thể, cộng đồng và xã hội. Chỉ có chủ
nghĩa cộng sản mới đem lại hạnh phúc thực sự cho con người.
Để hình thành đạo đức mới - đạo đức trong xã hội cộng sản chủ nghĩa,
chúng ta phải tích cực đấu tranh với những quan điểm đạo đức lạc hậu,
phản động đang ngăn cản quá trình phát triển lịch sử. Đại diện cho đạo đức
cộng sản là giai cấp vơ sản, sứ mệnh của nó là thủ tiêu tận gốc sự bóc lột
và áp bức dưới bất cứ hình thức nào, và về khách quan nó tiêu biểu cho lợi

17


ích của tồn thể quần chúng lao động, nó bao hàm nhiều nhân tố đạo đức
chung của cả loài người.
Trong xã hội hiện nay, bên cạnh những truyền thống đạo đức tốt đẹp của
dân tộc và của nhân loại đang trở thành nguồn sức mạnh tinh thần vô cùng to

lớn của sự nghiệp đổi mới tồn diện đất nước, thì cũng đang cịn khơng ít
những vấn đề thuộc về lĩnh vực đạo đức cần phải giải quyết. Đó là cuộc đấu
tranh giữa lối sống lành mạnh, trung thực, vị tha, nhân ái thấm đượm tình
người sâu sắc với lối sống thực dụng, ích kỷ, chạy theo đồng tiền bất chính,
sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm người khác.
Đứng trước sự suy thoái đạo đức, sự phát triển lệch chuẩn nhân cách so
với yêu cầu xã hội trong một bộ phận nhân dân địi hỏi chúng ta “phải tăng
cường cơng tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân ”, lành mạnh hoá đời sống tinh thần xã hội – đây là
một nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
1.1.3. Khái niệm lý tưởng cách mạng
Theo Từ điển tiếng Việt, lý tưởng là “mục đích cao nhất, tốt đẹp nhất
mà người ta mong muốn đạt tới”. Theo từ điển xã hội học, lý tưởng là “những
khát khao, nguyện vọng, tư tưởng về tương lai tốt đẹp mà con người hằng
mong tới, là trạng thái hoàn hảo nhất mà người ta mong muốn đạt tới”.
Lý tưởng phản ánh xu thế phát triển của xã hội, những khát vọng của
con người, phản ánh cái cần phải có, cái có thể có. Do là sự phản ánh những
khát vọng, những hồi bão của con người mà lý tưởng, một mặt, vừa mang
tính thời đại, vừa mang tính vượt trước.
Lý tưởng có vai trò to lớn, chủ đạo đối với hoạt động con người.
V.A.Xukhômlinxki, một nhà giáo dục Nga đã nhận định rằng, “người nào có
một lý tưởng cao đẹp thúc đẩy, lý tưởng đó đối với anh ta trở thành một thực
tế hiển nhiên thì người đó khơng những sẽ u cầu cao đối với chính bản thân

18


mình, đối với hành vi của mình mà cịn thể hiện tinh thần trách nhiệm đối với
những công việc của người khác”.
Vì lý tưởng thể hiện những khát khao, nguyện vọng, những mong ước

của con người, do vậy, để thực hiện được lý tưởng, mỗi người cần có nhận
thức, có tình cảm, niềm tin và có ý chí, nghị lực.
Trong khái niệm “lý tưởng cách mạng”, cần phải hiểu đó là “lý tưởng
cách mạng Việt Nam”. Để hiểu rõ khái niệm này, chúng ta có thể tham khảo
ngữ cảnh đề cập tới khái niệm này của một số nhà nghiên cứu, nhà hoạt động
cách mạng hay trong các văn bản, văn kiện của Đảng và Nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong lần gặp gỡ với thanh niên, đã nói:
“…chúng ta không được một phút nào quên lý tưởng cao cả của mình là phấn
đấu cho Tổ quốc ta hồn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng
lợi trên đất nước ta” .
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV đã viết: “Cách mạng
Việt Nam là một q trình cách mạng khơng ngừng từ cách mạng dân tộc dân
chủ tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Và trong quá trình cách mạng, khi
cả nước làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến lược,
Đảng ta từ khi ra đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao hai ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Điều 2, Luật Giáo dục (năm 2005) viết: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo
con người Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm
mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã viết: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát

19


vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
Với những điều đã trình bày như trên, có thể thấy, khái niệm “lý

tưởng cách mạng” ln có nội hàm là “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Hai nhân tố độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có mối quan hệ biện chứng
với nhau, chúng là điều kiện, tiền đề cho nhau. Theo đó, “độc lập dân tộc là
điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ
sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt
chẽ với nhau”.
Như vậy, lý tưởng cách mạng là những khát khao, nguyện vọng của mỗi
người và toàn thể dân tộc Việt Nam về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Về khái niệm lý tưởng cách mạng của thanh niên
Lý tưởng cách mạng của thanh niên không tách rời lý tưởng của Đảng,
của dân tộc, đó là những khát khao, nguyện vọng về độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Bước vào công cuộc đổi mới, trong điều kiện của cơ chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, lý tưởng cách
mạng của thanh niên là tiếp tục phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho sinh viên nhằm
hướng đến các chuẩn mực xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách
mạng hiện nay, bao gồm:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia,
toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí
vươn lên đưa đất nước thốt khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân
thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.

20


- Có ý thức tập thể, đồn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,

nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức
bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,
năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên mơn, trình
độ thẩm mỹ và thể lực.
1.2. Nội dung giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa cho sinh viên các
trường Cao đẳng.
1.2.1. Giáo dục lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc, yêu nước
gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội.
Ở người Việt Nam lòng yêu nước là một tình cảm rất tự nhiên được
hình thành từ rất sớm, lại được thử thách, khẳng định qua bao nhiêu thăng
trầm của lịch sử, được bổ sung, phát triển qua từng thời kỳ, theo yêu cầu phát
triển của dân tộc và thời đại. Tinh thần yêu nước đó trở thành chủ nghĩa yêu
nước, thành một trong những giá trị truyền thống cao quý nhất, bền vững nhất
của dân tộc ta. Yêu nước đã thực sự trở thành một thứ vũ khí tinh thần mà,
theo Giáo sư Trần Văn Giàu: “Vận nước suy hay thịnh, mất hay còn, nhục
hay vinh, phần rất quan trọng là tuỳ thuộc ở chỗ ta ứng dụng và phát huy hay
ta quên lãng và chôn vùi vũ khí tinh thần ấy” [9,tr5].
Như vậy, cơng tác giáo dục truyền thống yêu nước là một phần không
thể thiếu được để phát triển thế hệ trẻ, nhằm xây dựng ở họ lòng yêu nước
nồng nàn, thiết tha gắn bó với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức
trong sáng, có ý chí và quyết tâm xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh.
Đó là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trong đó nhà trường
ln đóng vai trị trực tiếp và quan trọng.

21


Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên Việt Nam, địi hỏi phải có

hệ thống giải pháp mang tính đồng bộ và khoa học, trước hết cần quan tâm
nhận thức và giải quyết một số nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, cụ thể hóa các phương thức biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam trong thời kỳ mới để sinh viên dễ hiểu, dễ tiếp thu và chuyển hóa
thành hành động cách mạng.
Chúng ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH trong điều kiện
đất nước đã hoàn toàn độc lập, nhân dân được sống trong hịa bình. Do vậy,
u nước trong điều kiện hiện nay chính là sự cố gắng phấn đấu học tập, tu
dưỡng và rèn luyện; là tinh thần lao động cần cù, sáng tạo và tiết kiệm của
mỗi người dân để làm ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội; tham
gia tích cực và có hiệu quả vào cơng cuộc xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính
đáng cho bản thân, gia đình và cho xã hội để qua đó, góp phần phát triển kinh
tế đất nước.
Thanh niên, sinh viên Việt Nam dù ở cương vị nào cũng phải nỗ lực
hồn thành tốt nhiệm vụ của mình, thực hiện tốt nghĩa vụ và trách nhiệm cơng
dân, phấn đấu góp phần đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, từng bước
vươn lên theo kịp các nước trong khu vực và thế giới. Do vậy, thế hệ trẻ ngày
nay cần thể hiện lịng u nước của mình bằng hành động dũng cảm, sáng tạo,
xung kích trong phát triển kinh tế; năng động, nhạy bén “đi tắt đón đầu” trong
học tập nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất,
đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, hạ giá thành sản phẩm, xây
dựng nên những thương hiệu Việt có sức cạnh tranh cao trên trường quốc tế.
Khơng ngừng nâng cao lịng tự hào dân tộc, tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam và tương lai tươi sáng của đất nước, tiền đồ của dân
tộc; trung thành với mục tiêu lý tưởng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn; tự giác chấp

22



hành nghiêm chỉnh mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật Nhà nước.
Trong thời kỳ mới, chủ nghĩa yêu nước biểu hiện nhiều nội dung và
hình thức đa dạng, phong phú hơn. Bản chất của chủ nghĩa yêu nước ngày nay
là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp hài hòa chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp cơng nhân, là
đem hết nhiệt tình, trí tuệ và tài năng để xây dựng Tổ quốc theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, trước mắt là xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh trên tinh thần hịa bình, hữu nghị và hội nhập, cùng nhau
phát triển.
Thứ hai, tích cực tuyên truyền, giác ngộ chủ nghĩa yêu nước cho sinh
viên, với những hình thức đa dạng, phong phú, thiết thực và hiệu quả.
“Chủ nghĩa yêu nước là một trong những tình cảm sâu sắc nhất, đã
được củng cố qua hàng trăm, hàng nghìn năm của các tổ quốc biệt lập”[27, tr
226]. Song, thực tiễn thời gian qua đã cho thấy, dường như chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam - nguồn lực nội sinh to lớn của dân tộc vẫn chưa được khơi
dậy, khai thác và phát huy đúng với tiềm năng vốn có của nó. Con đường và
cách thức đưa chủ nghĩa yêu nước từ trái tim, khối óc, tình cảm đến với đời
sống hiện thực, trở thành phương châm, lẽ sống và hành động của mỗi người
Việt Nam vẫn còn những bất cập nhất định, cần được nhận thức đầy đủ và
giải quyết có hiệu quả. Cần chú trọng đến việc bồi dưỡng tình cảm cách
mạng, khơi dậy và phát huy tinh thần ái quốc, ý thức tự lực, tự cường; kích
thích bầu nhiệt huyết, tính năng động, sáng tạo và quả cảm đối với sinh viên.
Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: Để phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng
hợp của toàn dân tộc, chúng ta cần phải “tăng cường tuyên truyền, giáo dục
tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ… cho mọi người”
Trong đó, việc tích cực đổi mới, lựa chọn, kết hợp và vận dụng sáng tạo các

23



phương pháp, hình thức tuyên truyền, giác ngộ chủ nghĩa yêu nước giữ vai trò
hết sức quan trọng. Đặc biệt, cần kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền, giáo dục
chủ nghĩa yêu nước với đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trong sinh
viên. Thi đua chính là điều kiện, tiền đề quan trọng để biến lòng yêu nước
thành hành động cách mạng tự giác của mọi người.
Thứ ba, tạo ra các điều kiện và môi trường xã hội thuận lợi, làm cơ sở
và động lực để phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong điều kiện mới.
Trong điều kiện hiện nay, nhiều sinh viên có tinh thần yêu nước, nhưng họ lại
khó có thể thể hiện những hành vi u nước, khi họ cịn rất khó khăn, thiếu
thốn, để lập nghiệp. Khi sinh viên đã ý thức được họ cần phải làm gì để thể
hiện tinh thần u nước thì vai trị của Đảng và Nhà nước trong việc tạo những
điều kiện và môi trường thuận lợi cho sinh viên có những hoạt động cụ thể,
thiết thực góp phần vào sự ổn định, phát triển đất nước là vô cùng quan trọng.
Đảng và Nhà nước phải không ngừng nâng cao chất lượng lao động
trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho sinh viên sau
khi ra trường. Huy động nhiều nguồn lực xã hội, đầu tư ngân sách thoả đáng
để đẩy mạnh dạy nghề, hồn thiện chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc
làm; có chính sách tín dụng ưu đãi cho các cơ sở dạy nghề, đặc biệt các nghề
kỹ thuật cao; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng dịch vụ thị trường lao động; tín
dụng ưu đãi cho sinh viên vay tạo việc làm, lập nghiệp; khuyến khích sinh
viên đi lao động, học tập có thời hạn ở nước ngồi. Xây dựng chiến lược
truyền thơng quốc gia về định hướng nghề nghiệp, việc làm cho sinh viên.
Bảo đảm cơ cấu hợp lý trong đào tạo công nhân kỹ thuật, trung cấp chuyên
nghiệp, cao đẳng. Tập trung đào tạo hình thành nguồn nhân lực khoa học cơng nghệ có chất lượng cao, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ mới đáp
ứng yêu cầu của kinh tế tri thức, tạo mũi nhọn phát triển kinh tế, góp phần đẩy
nhanh quá trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Đây là những điều kiện cho

24



sinh viên có thể phát huy hết khả năng của mình để phát triển và cống hiến
cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Tóm lại, giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam với nội dung mới, yêu
nước gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, yêu nước trên lập trường giai cấp
công nhân – yêu nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Giáo
dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa cho sinh viên trong thời
kỳ mới chính là nhằm khơi dậy và phát huy tinh thần và nghị lực, trí tuệ và tài
năng của thế hệ trẻ và toàn thể cộng đồng để tập trung phát triển kinh tế, xây
dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc thân yêu và
thành quả cách mạng, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao
uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
1.2.2. Giáo dục ý thức tự giác, sáng tạo trong học tập và nghiên cứu
khoa học.
“Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ
là mùa xuân của xã hội”[13, tr 167]. Điều đó đã khẳng định niềm tin lớn lao
của Chủ Tịch Hồ Chí Minh vào thế hệ trẻ trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước của dân tộc. Thế hệ thanh niên ngày nay ra sức học tập, rèn luyện phát
huy truyền thống quý báu của dân tộc, làm theo lời dạy của Bác đã đạt được
nhiều thành tích trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,... góp phần
xây dựng đất nước ngày càng phát triển, sánh vai với các cường quốc trên thế
giới. Để đạt được điều đó, thanh niên Việt Nam nói chung, sinh viên nói riêng
phải tự giác, phát huy sự sáng tạo, quyết tâm, có tinh thần đoàn kết, giúp đỡ
lẫn nhau trong học tập và nghiên cứu khoa học.
Tự giác là một trong những đức tính quan trọng cần có ở mỗi con
người. “Tính Tự giác" thực sự giúp cho chúng ta biết suy nghĩ về những việc
mình làm và đưa ra những lựa chọn đúng đắn. Đồng thời là đích mà chúng ta

25



×