Tải bản đầy đủ (.pdf) (192 trang)

Mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 192 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






PHẠM XUÂN THIÊN







́
I QUAN HÊ
̣
GIƢ
̃
A HƠ
̣
P TA
́
C VA
̀
ĐÂ
́
U TRANH


TRONG HÔ
̣
I NHÂ
̣
P KINH TÊ
́
QUÔ
́
C TÊ
́

CỦA VIT NAM HIN NAY







LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC












HÀ NỘI - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




PHẠM XUÂN THIÊN






́
I QUAN HÊ
̣
GIƢ
̃
A HƠ
̣
P TA
́
C VA
̀
ĐÂ
́
U TRANH

TRONG HÔ
̣
I NHÂ
̣
P KINH TÊ
́
QUÔ
́
C TÊ
́

CỦA VIT NAM HIN NAY


Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 62 22 80 05




LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC





Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYÊ
̃
N BA
́

DƢƠNG







HÀ NỘI - 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận án chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
TÁC GIẢ



PHẠM XUÂN THIÊN

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN 8
1. Các công trình nghiên cứu về hợp tác, đấu tranh; mối quan hệ giữa hợp
tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế 8

1.1. Các công trình nghiên cứu về hội nhập quốc tế, hội nhập kinh tế
quốc tế 8
1.2. Về hợp tác, đấu tranh; mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh
trong hội nhập kinh tế quốc tế 14
2. Các công trình nghiên cứu về giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và
đấu tranh trong thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 21
2.1. Mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong thực tiễn hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam 21
2.2. Về kinh nghiệm giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh
trong hội nhập kinh tế quốc tế 25
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP TÁC, ĐẤU TRANH; MỐI
QUAN H GIỮA HỢP TÁC VÀ ĐẤU TRANH TRONG HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIT NAM 35
1.1. Khái niệm hợp tác, đấu tranh; mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh
trong hội nhập kinh tế quốc tế 35
1.1.1. Khái niệm hợp tác và hợp tác trong hội nhập kinh tế quốc tế 35
1.1.2. Khái niệm đấu tranh và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế 40
1.1.3. Mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam hiện nay 45
1.2. Giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh và những yếu tố tác
động đến việc giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu trong
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 59
1.2.1. Giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập
kinh tế quốc tế 59

1.2.2. Những yếu tố tác động đến giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác
và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện
nay 61
Chƣơng 2. GIẢI QUYẾT MỐI QUAN H GIỮA HỢP TÁC VÀ ĐẤU TRANH
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIT NAM HIN

NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 81
2.1. Thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay 81
2.1.1. Ưu điểm giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh
trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 81
2.1.2. Hạn chế giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong
hội nhập kinh tế quốc tế 97
2.1.3. Nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế trong giải quyết mối
quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh 104
2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa hợp
tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
hiện nay 115
2.2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao về phẩm chất, năng lực
của chủ thể giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh
trong hội nhập kinh tế quốc tế với những hạn chế, bất cập của họ 115
2.2.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao về xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ với viê
̣
c gắn kết nền kinh tế quốc gia vào các tổ
chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu 119
2.2.3. Mâu thuẫn giữa những hạn chế, bất cập về cơ chế, chính sách,
pháp luật Việt Nam với những quy định chặt chẽ của luật pháp
quốc tế 121
Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN GIẢI QUYẾT MỐI QUAN
H GIỮA HỢP TÁC VÀ ĐẤU TRANH TRONG HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ CỦA VIT NAM HIN NAY 126

3.1. Quan điểm cơ bản về giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu
tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay 126
3.1.1. Hợp tác là điều kiện cho đấu tranh; đấu tranh là cơ sở để thúc

đẩy hợp tác trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 126
3.1.2. Kết hợp hội nhập kinh tế quốc tế với kiên quyết đấu tranh giữ
vững nền kinh tế độc lập, tự chủ 130
3.1.3. Nâng cao ý thức trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã
hội; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của
Nhà nước trong giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh
trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay 135
3.2. Giải pháp cơ bản giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh
trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay 138
3.2.1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giải quyết mối quan hệ
giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế 139
3.2.2. Bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế, pháp luật, tạo
cơ sở pháp lý vững chắc cho việc giải quyết mối quan hệ giữa
hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam hiện nay 152
3.2.3. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, mở rộng và tăng cường hoạt động
kinh tế đối ngoại 156
3.2.4. Xây dựng môi trường chính trị - xã hội ổn định; kết hợp chặt
chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, nâng cao thế và lực của
Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế 160
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 167
DANH MU
̣
C CÔNG TRÌNH KHOA HO
̣
C CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN 173
TÀI LIU THAM KHẢO 174
PHỤ LỤC 184




1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Ngày nay, khoa học và công nghệ đang có những bước tiến mạnh mẽ.
Những thành tựu của nó đã và đang thâm nhập ngày càng sâu rộng vào các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt, sự tác động của khoa học và công
nghệ đã làm cho lực lượng sản xuất biến đổi sâu sắc, phân công lao động và
hợp tác sản xuất ngày càng vượt ra khỏi biên giới một quốc gia và vươn tới
quy mô toàn cầu.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất hiện đại không chỉ tạo ra
những bước tiến vượt bậc về phát triển kinh tế - xã hội, mà còn có tác dụng
phá vỡ các “bao ke”, sự “biệt lập” giữa các vùng miền, quốc gia dân tộc; mở
rộng các mối quan hệ; lôi cuốn các quốc gia dân tộc tham gia ngày càng tích
cực hơn vào quá trình phân công lao động quốc tế. Mối quan hệ và sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các vùng miền, khu vực và các quốc gia dân tộc trở nên
phổ biến, mang tính tất yếu khách quan. Trong bối cảnh đó, hội nhập quốc tế
đã và đang trở thành hiện thực sinh động, là một trong những đòi hỏi khách
quan, cần có đối với quá trình phát triển của Việt Nam; vừa là thời cơ, vận
hội, vừa là thách thức đối với công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Nắm bắt xu thế phát triển tất yếu khách quan của thời cuộc, ngày 27
tháng 11 năm 2001, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng ta đã ban
hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “Về hội nhập kinh tế quốc tế”. Tiếp đó, ngày
14 tháng 03 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 37/2002/QĐ-
TTg, ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số
07-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế. Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định:

Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác
và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập

2
kinh tế quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
giàu mạnh [29, tr. 235-236].
Thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của 27 năm đổi mới toàn diện đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (1986 - 2013) là rất to lớn và có ý nghĩa
lịch sử, đã chứng minh một cách thuyết phục sự đúng đắn của đường lối đổi
mới, mở cửa, hội nhập quốc tế do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Đời sống
của nhân dân không ngừng nâng lên; sức mạnh quốc gia về mọi mặt được tăng
cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ
nghĩa được giữ vững; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng
rõ hơn. Tuy nhiên, do quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc
hậu, điểm xuất phát thấp, sản xuất mang nặng tính chất thủ công, manh mún;
lại không qua chế độ phát triển tư bản chủ nghĩa và chịu hậu quả nặng nề của
cuộc chiến tranh do thực dân Pháp và đế quốc Mỹ gây ra, nên cơ cấu kinh tế -
xã hội Việt Nam hiện nay đang tồn tại những hạn chế và tiềm ẩn nguy cơ có
thể nảy sinh các “mâu thuẫn”, “xung đột”. Hội nhập kinh tế quốc tế là một
trong những lĩnh vực trọng yếu của hội nhập quốc tế, không chỉ đưa đến những
thời cơ, thuận lợi, mà còn đặt ra cho các quốc gia, nhất là những quốc gia đang
phát triển như Việt Nam những khó khăn, thách thức không thể xem thường.
Trong đó, có những vấn đề mang tính thời sự, cấp bách, đòi hỏi phải được
nghiên cứu, giải quyết kịp thời, thỏa đáng cả về mặt lý luận và thực tiễn để đất
nước phát triển nhanh và bền vững, không rơi vào tình trạng “chệch hướng xã
hội chủ nghĩa”, “bị diễn biến hòa bình” và “tụt hậu xa hơn về kinh tế”.
“Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với
chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa
đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc” [29, tr. 69]. Theo

đó, những lợi ích quốc gia dân tộc và quốc tế luôn có sự đan xen, phụ thuộc,
chi phối lẫn nhau. Việc nhận thức đầy đủ và giải quyết đúng đắn các mối
quan hệ quốc tế nói chung, mối quan hệ giữa “hợp tác và “đấu tranh” trong

3
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam nói riêng có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc. Đồng thời, yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang đặt ra nhiều vấn đề mới mà việc
nhận thức đúng và giải quyết tốt những vấn đề đó có liên quan trực tiếp đến
mối quan hệ giữa “hợp tác” và “đấu tranh”, “đối tác và đối tượng” trong hội
nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Nghiên cứu, luận giải đúng bản chất, xác định đúng đối tác, đối tượng,
tìm giải pháp tối ưu để thu hút các nguồn vốn đầu tư, tiếp thu và sử dụng có
hiệu quả những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; vốn sống, kinh
nghiệm của đội ngũ chuyên gia các nước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; đồng thời, ngăn chặn, đẩy lùi, khắc phục những
hạn chế, yếu kém trong giải quyết mối quan hệ giữa “hợp tác” và “đấu tranh”
trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, không để nước ta bị “lép vế”,
“thiệt đơn, thiệt kép” trong làm ăn, quan hệ quốc tế là một trong những vấn đề
mang tính thời sự cấp bách hiện nay.
Xuất phát từ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc giải quyết mối quan
hệ giữa “hợp tác” và “đấu tranh” trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
hiện nay, những yêu cầu về phát triển lý luận trong tình hình mới và thực tiễn
vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết mối
quan hệ này. Đồng thời, góp phần giải quyết mối quan hệ giữa “hợp tác” và
“đấu tranh” trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đang đặt ra, chúng
tôi lựa chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay” làm đề tài Luận án Tiến sĩ Triết học.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích

Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về mối quan hệ giữa
hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam; khẳng định
quan điểm và đề xuất giải pháp cơ bản nhằm giải quyết tốt mối quan hệ này
trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay.

4
2.2. Nhiệm vụ
Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận về hợp tác, đấu tranh; mối quan
hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Phân tích thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh
trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay.
Khẳng định quan điểm và đề xuất giải pháp cơ bản nhằm giải quyết tốt
mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề cơ bản về mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu vấn đề hợp tác, đấu tranh; mối quan hệ
giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, chủ
yếu kể từ khi nước ta gia nhập WTO đến nay. Hội nhập kinh tế quốc tế được
đề cập với tư cách là mặt cơ bản, đóng vai trò là trung tâm của hội nhập quốc
tế, là nền tảng hết sức quan trọng cho sự tồn tại và phát triển bền vững của hội
nhập quốc tế trên các lĩnh vực khác và là kết quả của đường lối, chính sách
mở cửa, phát triển kinh tế đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta; từ nhu cầu khách
quan của sự phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Các vấn đề về hợp tác và đấu tranh trong hội nhập văn hóa,
khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế và các lĩnh vực khác, có đề
cập đến trong luận án, nhưng chỉ là những tiền đề, mang tính hỗ trợ, góp phần

làm phong phú thêm mối quan hệ biện chứng giữa hợp tác và đấu tranh trong
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Việc điều tra, khảo sát thực tế phục vụ công tác nghiên cứu của đề tài
luận án chủ yếu là do tác giả tự thực hiện ở một số tỉnh phía Bắc và một số địa

5
phương được coi là tiêu điểm của việc giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và
đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta.
Tài liệu được sử dụng để phục vụ công tác nghiên cứu, phần lớn là
tiếng Việt, được công bố từ năm 2001 trở lại đây, nhất là sau khi Việt Nam
gia nhập WTO.
4. Cách tiếp cận, cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cách tiếp cận
Luận án xuất phát từ thực tiễn công cuộc đổi mới, thực hiện đường lối
mở cửa, hội nhập, phát triển kinh tế, nhất là kinh tế đối ngoại của Đảng, Nhà
nước ta và việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa hợp tác và đấu tranh
trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. “Trục xuyên suốt” nội dung
luận án là mối quan hệ biện chứng giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam.
4.2. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận duy
vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mâu
thuẫn, mâu thuẫn xã hội; về giải quyết mâu thuẫn xã hội nói chung và giải
quyết mâu thuẫn kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt
Nam nói riêng; các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước về đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế đối ngoại,
v.v Ngoài ra, luận án kế thừa và phát triển kết quả nghiên cứu của các nhà
khoa học trong và ngoài nước; các công trình khoa học liên quan đến đề tài.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận chung được vận dụng nhất quán trong quá trình

nghiên cứu, thực hiện luận án là phương pháp biện chứng duy vật. Đồng thời,
kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: lịch sử và lôgic, phân
tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, phương pháp so sánh, hệ thống hóa,
điều tra xã hội học và một số phương pháp khác.

6
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Phân tích, làm rõ hơn khái niệm “hợp tác”, “đấu tranh” trong hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam, khái quát khái niệm: “mối quan hệ giữa hợp tác
và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” và chỉ ra các nội
dung cơ bản của nó.
Khái quát những vấn đề đặt ra trong giải quyết mối quan hệ giữa hợp
tác và đấu tranh qua một số mâu thuẫn cần nhận thức đúng và giải quyết khi
Việt Nam gia nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, nhằm phát
huy vai trò động lực của “sự thống nhất biện chứng” giữa hợp tác và đấu
tranh trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Đề xuất giải pháp cơ bản giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa hợp tác
và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, góp phần giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần cung cấp luận cứu khoa học nhằm nâng cao nhận
thức và giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh, đặc biệt là, giải
quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho
những người quan tâm; các nhà quản lý kinh tế đối ngoại, những người trực
tiếp tham gia hội nhập kinh tế quốc tế; xây dựng và tổ chức triển khai thực
hiện các chương trình, dự án, các chính sách, kế hoạch phát triển kinh - xã
hội, nâng tầm cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng thời,
có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ công tác nghiên cứu, giảng

dạy và học tập triết học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan hệ quốc tế,
ngoại giao, trong các trường đại học, cao đẳng thuộc hệ thống giáo dục quốc
dân; trong các học viện thuộc hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện ở nước ta.

7
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả
liên quan tơ
́
i luận án, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án được kết cấu thành
03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hợp tác, đấu tranh; mối quan hệ
giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Chương 2: Giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội
nhập hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam - Thực trạng và những vấn đề đặt ra.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp cơ bản giải quyết mối quan hệ giữa
hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay.



8
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Các công trình nghiên cứu về hợp tác, đấu tranh; mối quan hệ
giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế
1.1. Các công trình nghiên cứu về hội nhập quốc tế, hội nhập kinh tế
quốc tế

Về hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế là xu thế khách quan, đã diễn ra từ rất sớm trên phạm
vi toàn cầu. Ở Việt Nam, quá trình hội nhập quốc tế thực sự trở nên sôi động
kể từ khi triển khai thực hiện chính sách mở cửa, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở trong nước và nước ngoài đã có nhiều
công trình nghiên cứu về hội nhập quốc tế. Tiêu biểu là các công trình: “Khu
vực hóa và toàn cầu hóa - hai mặt của tiến trình hội nhập quốc tế” của Trung
tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Viện Thông tin khoa học xã hội,
xuất bản năm 2000; “Một số vấn đề về khái niệm hội nhập quốc tế”, Tạp chí
Nghiên cứu Châu Âu, số 1, năm 2002; “Một số xu hướng lý luận về hội nhập
quốc tế”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 3, năm 2006 của tác giả
Hoàng Khắc Nam; “Hội nhập quốc tế: Cơ hội và thách thức đối với giá trị
truyền thống trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay” của tác giả Nguyễn
Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 8, năm 2004; “Hội nhập quốc tế: Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 2, năm 2011 của
tác giả Phạm Quốc Trụ; “Toàn cầu hóa hội nhập và phát triển bền vững từ
góc nhìn triết học đương đại”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội của tác giả Hồ
Bá Thâm, Nguyễn Thị Hồng Diễm (Đồng chủ biên), năm 2011; …
Khi đề cập đến hội nhập quốc tế, trong công trình “Khu vực hóa và
toàn cầu hóa - hai mặt của tiến trình hội nhập quốc tế”của Trung tâm Khoa
học xã hội và Nhân văn quốc gia, Viện Thông tin khoa học xã hội, xuất bản
năm 2000, các tác giả đã rút ra vấn đề cốt lõi của toàn cầu hóa và hội nhập

9
quốc tế là khắc phục những mâu thuẫn giữa lôgic bình đẳng của thị trường với
lôgic bình đẳng của nền dân chủ; các nước phương Tây không nên áp đặt mô
hình toàn cầu hóa của mình cho tất cả các quốc gia dân tộc trên thế giới. Đồng
thời, phân tích mối quan hệ giữa khu vực hóa với toàn cầu hóa, phân tích các
mô hình hội nhập quốc tế khác nhau, quan hệ giữa chủ nghĩa dân tộc và toàn
cầu hóa, hội nhập quốc tế, quan hệ giữa toàn cầu hóa với bản sắc dân tộc, khả

năng nảy sinh xung đột, mâu thuẫn, đấu tranh của hội nhập quốc tế …
Tác giả Hoàng Khắc Nam, trong các bài viết: “Một số vấn đề về khái
niệm hội nhập quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 1, năm 2002 và
“Một số xu hướng lý luận về hội nhập quốc tế”, Tạp chí Những vấn đề kinh
tế thế giới, số 3, năm 2006,… đã đề cập đến những nội dung của khái niệm
hội nhập quốc tế với tư cách là quá trình hay trạng thái; điều kiện và nguyên
tắc hội nhập quốc tế;… Đồng thời, phân tích những xu hướng lý luận về hội
nhập quốc tế, trong đó, nổi bật là chủ nghĩa chức năng, chủ nghĩa chức năng
mới, chủ nghĩa liên bang, chủ nghĩa đa nguyên và chủ nghĩa xuyên quốc gia.
Trong bài viết “Hội nhập quốc tế: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp
chí Nghiên cứu quốc tế, số 2, của tác giả Phạm Quốc Trụ, năm 2011; “Toàn
cầu hóa hội nhập và phát triển bền vững từ góc nhìn triết học đương đại”,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội của tác giả Hồ Bá Thâm, Nguyễn Thị Hồng
Diễm (Đồng chủ biên), năm 2011, các tác giả đã đề cập khá sâu sắc những
vấn đề lý luận về hội nhập quốc tế. Ngày nay, hội nhập quốc tế diễn ra dưới
nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình từ
thấp đến cao. Các tác giả đã xây dựng định nghĩa, chỉ ra nội dung bản chất,
các hình thức và tính chất của hội nhập quốc tế. Phân tích tính tất yếu và
những tác động, ảnh hưởng của hội nhập quốc tế như là một xu thế lớn của
thời đại. Theo đó, hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước tiến
hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về
lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính
sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ

10
chức quốc tế. Như vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế
đáp ứng lợi ích hay nguyện vọng của nhau, không chống đối nhau), hội nhập
quốc tế vượt lên trên sự hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ
và tính kỷ luật cao của các chủ thể tham gia.
Tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn trong bài viết “Hội nhập quốc tế: Cơ hội

và thách thức đối với giá trị truyền thống trong điều kiện toàn cầu hóa hiện
nay”, Tạp chí Triết học, số 8, năm 2004; đã khẳng định, hội nhập quốc tế
trong điều kiện toàn cầu hóa, tự thân nó chứa đựng nhiều yếu tố tích cực, góp
phần thúc đẩy tiến bộ xã hội, bảo tồn các giá trị truyền thống mà các quốc
gia dân tộc có thể khai thác thông qua hợp tác. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra
những thách thức, những rủi ro và “cạm bẫy” mà các quốc gia dân tộc cần
cảnh giác, đấu tranh để vượt qua.
Như vậy, qua các công trình nghiên cứu nêu trên, chúng ta nhận thấy:
Một là, mặc dù còn những cách tiếp cận và quan điểm khác nhau về hội
nhập quốc tế, nhưng hầu hết các tác giả đều cho rằng, hội nhập quốc tế là quá
trình tham gia một cách chủ động của các quốc gia dân tộc vào đời sống quốc
tế nhằm khai thác hiệu quả những lợi thế quốc gia và lợi thế quốc tế cho sự
phát triển của mỗi quốc gia dân tộc. Đồng thời, thực hiện các nghĩa vụ quốc
gia dân tộc đối với các cam kết quốc tế, luật pháp quốc tế mà quốc gia dân tộc
đã ký kết hoặc tham gia. Hội nhập quốc tế diễn ra với nhiều phương thức,
nhiều cấp độ khác nhau: từ hợp tác song phương đến hợp tác đa phương, từ
liên kết khu vực thông qua các khối kinh tế, quân sự, … đến liên kết mang
tính toàn cầu. Xu hướng chung của hội nhập quốc tế là sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa các quốc gia dân tộc ngày càng tăng, đẩy mạnh hợp tác nhằm mục đích
phát triển kinh tế - xã hội ngày càng phổ biến.
Hai là, hiện nay quá trình hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh
tế quốc tế nói riêng do các nước tư bản “dẫn dắt” và “thúc đẩy”. Họ đề ra và
định đoạt các quy tắc ứng xử trong các quan hệ quốc tế. Trong đó, có không ít
những điều khoản bất hợp lý, không công bằng, gây tổn hại cho các nước

11
đang phát triển. Sự đan xen lợi ích quốc gia dân tộc, giai cấp làm cho hội
nhập quốc tế ngay từ đầu đã mang tính hai mặt, vừa “hợp tác” vừa “đấu
tranh”. Vì vậy, các nước đang phát triển cần vừa đẩy mạnh hội nhập quốc tế,
vừa kiên quyết, khôn khéo đấu tranh để bảo vệ lợi ích của quốc gia dân tộc

mình; giữ được tính độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế; đưa quốc gia dân
tộc ngày càng phát triển.
Ba là, trong quan hệ của các nước đang phát triển, còn tồn tại không ít
những khác biệt, thậm chí bất đồng; song trong điều kiện hội nhập quốc tế,
mỗi quốc gia dân tộc cần nhận thức sâu sắc những lợi ích cơ bản, đoàn kết,
kiên trì đấu tranh để xây dựng trật tự thế giới công bằng, hợp lý hơn.
Có thể khẳng định, những kết luận của các công trình khoa học đã giúp
cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, hoạch định các chính
sách hội nhập, tích cực, chủ động trong giải quyết các mối quan hệ quốc tế, đề
ra những giải pháp hiệu quả trong hội nhập quốc tế nói chung, giải quyết mối
quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh nói riêng. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng,
rất cần tiếp tục nghiên cứu và khẳng định rõ hơn bản chất của các mối quan
hệ quốc tế hiện nay để thấy rõ tính tất yếu khách quan của hội nhập quốc tế,
nhưng không nên, không thể “áp đặt” trên toàn cầu những giá trị, mô hình hội
nhập kinh tế quốc tế kiểu tư bản chủ nghĩa. Đồng thời, cần phân tích, nêu bật
đặc trưng mối quan hệ giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù” trong hội nhập
quốc tế hiện nay.
Về hội nhập kinh tế quốc tế
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã và đang làm tăng lên
vai trò của các mối liên hệ, sự tác động và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc
gia dân tộc cũng như các vùng miền, khu vực; “cuốn hút” các quốc gia dân
tộc đi theo quỹ đạo của hội nhập quốc tế. Xuất phát từ nhận thức về vị trí, vai
trò quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế trong hội nhập quốc tế nói chung,
một số công trình khoa học đã đi sâu phân tích nội dung, phương thức của hội
nhập kinh tế quốc tế, tiêu biểu như: “The Theory of Economic Integration”

12
(Thuyết hợp nhất kinh tế), Richard D. Irwin Inc., Homewood, Illinois của tác
giả Balassa Bela; “Về hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu - Trao
đổi, số 15, tháng 8 năm 2000 của tác giả Đậu Ngọc Xuân; “Một số vấn đề về

khái niệm hội nhập quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 2, năm 2002
của tác giả Hoàng Khắc Nam; “Văn hóa với tư cách tiền đề của hội nhập kinh
tế: Những kinh nghiệm quốc tế và khả năng vận dụng cho Việt Nam”, Thông
tin Khoa học xã hội, số 12, năm 2005 của tác giả Lương Văn Kế; “Toàn cầu
hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, năm 2004 của tác giả Ngô Văn Điểm; v.v
Từ năm 1961, trong cuốn “The Theory of Economic Integration”
(Thuyết hợp nhất kinh tế), Richard D. Irwin Inc., Homewood, Illinois, tác giả
Balassa Bela, đã đưa ra khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là quá trình
gắn kết mang tính thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Nói cách khác,
vừa gắn nền kinh tế và thị trường từng quốc gia dân tộc với thị trường khu
vực và thị trường thế giới, vừa gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế
kinh tế khu vực và toàn cầu.
Trong bài viết “Về hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu -
Trao đổi, số 15, tháng 8 năm 2000, tác giả Đậu Ngọc Xuân cho rằng, đây là
quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước với kinh tế khu vực và thế
giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo những hình
thức khác nhau. Tác giả Hoàng Khắc Nam, trong bài viết: “Một số vấn đề về
khái niệm hội nhập quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 2, năm 2002,
đã phân tích, chỉ rõ những khác biệt giữa hội nhập kinh tế quốc tế với hội
nhập chính trị và hội nhập trên các lĩnh vực khác. Đồng thời, khẳng định hội
nhập kinh tế quốc tế là mặt cơ bản, trung tâm của hội nhập quốc tế. Trên cơ
sở đó, tác giả đề cập đến con đường, cách thức hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong bài viết “Văn hóa với tư cách tiền đề của hội nhập kinh tế: Những kinh
nghiệm quốc tế và khả năng vận dụng cho Việt Nam”, Thông tin Khoa học xã
hội, số 12, năm 2005, tác giả Lương Văn Kế đã đề cập tới những yêu cầu

13
khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế, mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế
quốc tế với hội nhập văn hóa và hội nhập trên các lĩnh vực khác.

Trong công trình “Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2004, tác giả Ngô Văn
Điểm cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay diễn ra với nhiều cấp độ,
quy mô khác nhau, từ song phương đến đa phương; song, dù ở cấp độ, quy
mô nào thì hội nhập kinh tế luôn đóng vai trò là “đầu tàu” của hội nhập quốc
tế, chi phối quá trình hội nhập trên các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Có thể khẳng định, khi đề cập đến nội hàm của khái niệm hội nhập kinh
tế quốc tế, hay đề cập tới vị trí, vai trò, mối quan hệ của hội nhập kinh tế quốc
tế với hội nhập quốc tế nói chung, nhìn chung các tác giả đều cho rằng, hội
nhập kinh tế quốc tế là trung tâm của hội nhập quốc tế, vừa đóng vai trò chi
phối, vừa là động lực dẫn dắt toàn bộ quá trình hội nhập quốc tế. Hơn nữa,
với vai trò là mặt cơ bản, trung tâm của hội nhập quốc tế, hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay không đơn thuần vì mục đích kinh tế, mà còn là một quá
trình mang đậm màu sắc chính trị. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng rộng
mở thì những khó khăn, thách thức và tác động tiêu cực từ các diễn biến
không có lợi từ bên ngoài sẽ gia tăng. Vì vậy, tích cực, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế cần gắn liền với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Nhìn chung, các công trình khoa học đã khẳng định tính phức tạp của
hội nhập kinh tế quốc tế, kết quả hội nhập kinh tế quốc tế phụ thuộc vào điều
kiện, bước đi, từng lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên, còn ít các công trình khoa học
đề cập một cách trực tiếp, hệ thống, chuyên sâu về những yếu tố tác động, ảnh
hưởng đến hội nhập kinh tế quốc tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. Đặc biệt,
cần khẳng định rõ hơn yêu cầu về cảnh giác cách mạng trước âm mưu, thủ
đoạn chống phá của các thế lực thù địch, thông qua hội nhập kinh tế quốc tế
để thực hiện “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”, lái Việt Nam đi theo quỹ đạo của các nước tư bản.

14
1.2. Về hợp tác, đấu tranh; mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh
trong hội nhập kinh tế quốc tế

Về cơ sở lý luận của hợp tác, đấu tranh; mối quan hệ giữa hợp tác và
đấu tranh
Hội nhập kinh tế quốc tế cho phép các quốc gia chậm phát triển có cơ
hội và điều kiện tiếp cận với dòng vốn, công nghệ, mở rộng thị trường, tiếp
nhận kỹ năng và kinh nghiệm quản lý từ các quốc gia phát triển; tạo cơ hội để
các quốc gia dân tộc thực hiện mô thức phát triển rút ngắn trên cơ sở vận
dụng các nguồn lực từ bên ngoài, kết nối với nguồn lực trong nước. Tuy
nhiên, nhiều nhà khoa học cảnh báo rằng, bên cạnh những thời cơ, vận hội,
hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra không ít khó khăn, thách thức. Hợp tác,
đấu tranh, mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc
tế đều có cơ sở khách quan, với các ràng buộc rất phức tạp, không thể xem
thường. Về vấn đề này, tiêu biểu có các công trình: “Một lịch sử tư tưởng về
hội nhập kinh tế” của tác giả Machlup, Fritz, Nxb Columbia University Press,
New York, 1977; “Hội nhập kinh tế quốc tế: Giới hạn và triển vọng” của tác
giả Jovanovich, М. Nxb Routledge, 1998; “Toàn cầu hóa trong bối cảnh
Châu Á - Thái Bình Dương - Một số vấn đề Triết học” của tác giả Phạm Văn
Đức (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007; “Toàn cầu hóa và tương
lai của các nước đang chuyển đổi” của Grzegorz W. Kolodka, Nxb Chính trị
quốc gia dịch và phát hành năm 2006; “Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ở Việt Nam”, đề tài nghiên cứu khoa học
- công nghệ, mã số QTCT.06.01 do GS.TS Vũ Văn Hiền, Trung tâm đào tạo,
bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học quốc gia Hà Nội chủ trì năm
2007; “Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế
trong bối cảnh mới của Việt Nam” của các tác giả Thái Văn Long, Vũ Thế
Tùng đăng trên Tạp chí Lý luận Chính trị, số 10 năm 2012; …
Trong các công trình: “Một lịch sử tư tưởng về Hội nhập kinh tế” của
tác giả Machlup, Fritz, Nxb Columbia University Press, New York, 1977;

15
“Hội nhập kinh tế quốc tế: Giới hạn và triển vọng” của tác giả Jovanovich,

М. Nxb Routledge, 1998 các tác giả đã nhận định về tính tất yếu của mở
rộng kinh tế đối ngoại hiện nay và vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa hợp
tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Tính tất yếu của hợp tác và
đấu tranh xuất phát từ thực tiễn phân công lao động và hợp tác quốc tế giữa
các nước, từ sự phân bố tài nguyên thiên nhiên không đều và sự chênh lệch
về trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật giữa các quốc gia dân tộc, dẫn đến xu
thế hợp tác kinh tế để sử dụng có hiệu quả nguồn lực của mỗi quốc gia.
Đồng thời, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang làm
cho hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mở rộng,
rất phức tạp. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ đã và đang
đẩy nhanh quá trình phụ thuộc lẫn nhau về các mặt, nhất là mặt kinh tế, xã hội
giữa các quốc gia dân tộc; trong đó, mỗi quốc gia dân tộc có những lợi thế
riêng và đều tìm cách khai thác tối đa lợi thế của mình.
Công trình: “Toàn cầu hóa trong bối cảnh châu Á - Thái Bình Dương -
Một số vấn đề Triết học” của tác giả Phạm Văn Đức (chủ biên), Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 2007; “Toàn cầu hóa và tương lai của các nước đang
chuyển đổi” của Grzegorz W. Kolodka, Nxb Chính trị quốc gia dịch và phát
hành năm 2006, Các nhà khoa học đã luận giải những vấn đề lý luận cơ bản
về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, đề cập khá sâu sắc cơ
sở triết học của hợp tác, đấu tranh, mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh
cũng như việc giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh, tính tất yếu
khách quan và những nội dung cơ bản của hợp tác và đấu tranh trong điều
kiện lịch sử mới
Trong công trình “Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ ở Việt Nam”, đề tài nghiên cứu khoa học - công nghệ,
mã số QTCT.06.01, các tác giả đã chỉ rõ, hội nhập kinh tế quốc tế là một quá
trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của lao động, phạm vi hoạt động và
quan hệ giữa con người ngày càng mở rộng. Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở

16

thành sự lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để phát triển. Tuy
nhiên, các tác giả cũng cho rằng, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại
những thuận lợi, mà còn mang đến những khó khăn, thách thức. Vì vậy, hợp
tác phải gắn liền với đấu tranh để vừa hội nhập hiệu quả, vừa xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ.
Trong bài viết “Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và
hội nhập quốc tế trong bối cảnh mới của Việt Nam”, Tạp chí Lý luận Chính
trị, số 10 năm 2012, các tác giả Thái Văn Long, Vũ Thế Tùng đã phân tích
những tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế đến xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ của mỗi quốc gia dân tộc. “Việc nhận thức và giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế là vấn đề thời sự nóng
bỏng, liên quan trực tiếp đến sự phát triển của nhiều nước, trong đó có Việt
Nam [69, tr. 57]. Từ đó, đề xuất những giải pháp xử lý đúng đắn mối quan hệ
giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế hiện nay.
Như vậy, trong các công trình khoa học nêu trên, các tác giả đã đi sâu
phân tích các yếu tố thúc đẩy con người trong hoạt động thực tiễn, nhất là yếu
tố lợi ích. Coi các mâu thuẩn nảy sinh trong xã hội, xét đến cùng, đều xuất
phát từ mâu thuẫn về lợi ích. Do đó, có thể khẳng định, lợi ích là cơ sở quan
trọng để hình thành mối quan hệ biện chứng giữa hợp tác và đấu tranh. Tuy
nhiên, lợi ích luôn tồn tại trong sự đan xen, tác động qua lại và cùng tồn tại
trong các chủ thể lợi ích; quan hệ lợi ích là quan hệ nhiều thứ bậc, cấp độ,
nhiều chiều cạnh và có những tính chất khác nhau. Điều đó, làm nên sự đa
dạng, phức tạp của hợp tác và đấu tranh. Vì vậy, khi nghiên cứu về mối quan
hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế, cần có quan điểm
xem xét một cách khách quan, toàn diện và lịch sử - cụ thể.
Các tác giả nhấn mạnh rằng, trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ
giữa hợp tác và đấu tranh, nếu chỉ xem xét mâu thuẫn cơ bản thì chưa đủ mà
cần xem xét và chỉ ra những mâu thuẫn chủ yếu trong hệ thống các lợi ích chi
phối hoạt động của từng cá nhân, nhóm xã hội, giai cấp, dân tộc trong giai


17
đoạn lịch sử ấy. Từ đó, có những phương thức, biện pháp giải quyết mâu
thuẫn cho phù hợp.
Về cơ bản, chúng tôi nhất trí với những nhận định của các tác giả trong
các công trình khoa học nêu trên và sẽ tiếp thu, kế thừa những thành tựu của
các công trình ấy vào xây dựng nội dung luận án. Tuy nhiên, chúng tôi cũng
nhận thấy sự cần thiết phải phân tích, làm rõ thêm sự biến đổi phức tạp của
các quan hệ lợi ích trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế để thấy rõ hơn về
tính phức tạp, đan xen của hợp tác, đấu tranh và mối quan hệ giữa hợp tác và
đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như cần nhận thức đầy đủ và
sâu sắc hơn về đối tượng, đối tác, mối quan hệ đối tượng, đối tác; sự cần thiết
thúc đẩy sự chuyển hóa đối tượng thành đối tác, v.v
Các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh
trong hội nhập kinh tế quốc tế
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam gắn liền với công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo (tháng 12
năm 1986). Đặc biệt, gắn với sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150
của WTO; vấn đề hợp tác và đấu tranh, mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh
trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Trong những năm qua, đã xuất
hiện khá nhiều công trình khoa học về vấn đề này, tiêu biểu là: "Việt Nam hội
nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá - vấn đề và giải pháp" của Vụ Hợp tác
kinh tế đa phương - Bộ Ngoại giao, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm
2002; “Hội nhập kinh tế quốc tế với phát triển bền vững” của các tác giả Lê
Thế Giới, Võ Xuân Tiến, Trương Bá Thanh (chủ biên), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, năm 2005; “Những vấn đề cơ bản về thể chế hội nhập kinh tế
quốc tế” của tác giả Nguyễn Như Bình, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2005;
“Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đối với tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam” của tác giả Nguyễn Xuân Thắng
(chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007; các công trình: “Kinh tế tri
thức và tác động của nó đến quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam”, Tạp


18
chí Lý luận Chính trị, số 10/2003; “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của tác giả Hoàng
Ngọc Hoà (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007; “Tác động của
việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và hội nhập kinh tế quốc tế đến
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam: Một năm nhìn lại”, Tạp chí Cộng
sản, số 783, tháng 01 năm 2008 của tác giả Trương Đình Tuyển; “Việt Nam
đã, đang và sẽ tiếp tục chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, Tạp chí Cộng
sản số 831, tháng 01 năm 2012 của tác giả Nguyễn Phú Trọng;…
Trong các công trình: "Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu
hoá - vấn đề và giải pháp" của Vụ Hợp tác kinh tế đa phương - Bộ Ngoại
giao, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002; “Hội nhập kinh tế quốc tế với
phát triển bền vững”, các tác giả Lê Thế Giới, Võ Xuân Tiến, Trương Bá
Thanh (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005; “Những vấn đề cơ
bản về thể chế hội nhập kinh tế quốc tế” của Nguyễn Như Bình, Nxb Tư
pháp, Hà Nội, 2005, các công trình khoa học nêu trên đã đề cập khá sâu sắc
những vấn đề cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế. Nhìn chung, các tác giả đã
khẳng định toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế tri thức
là “hiện tượng phổ biến”, “một xu thế khách quan” nhưng diễn ra hết sức
phức tạp, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, có mặt thuận và mặt nghịch, có thời
cơ, vận hội tốt, song cũng chứa đựng nhiều nguy cơ, thách thức, không thể
xem thường. Với tư cách là một xu thế khách quan, toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế đã trở thành một trong những động lực chủ yếu, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, tạo phản ứng dây chuyền, gây ra những biến đổi hết
sức mới mẻ đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia dân
tộc. Đồng thời, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang làm đảo lộn một số quan
niệm của chúng ta về thế giới đương đại. Rõ ràng là, sự lớn mạnh của các
quốc gia dân tộc hiện nay không chỉ phụ thuộc vào sự phát triển của khoa học
và công nghệ, mà còn phụ thuộc rất lớn vào phương thức quản lý và tổ chức

sản xuất xã hội.

19
Khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan, đồng
nghĩa với việc thừa nhận nó mang tính quy luật. Các tác giả của các công
trình khoa học nêu trên thừa nhận rằng, những quy luật kinh tế với tư cách là
quy luật xã hội cũng vận động, phát triển trong thời gian và không gian nhất
định; chịu sự tác động, chi phối bởi hoạt động thực tiễn của con người. Hội
nhập kinh tế quốc tế xuất phát từ lợi ích và vì lợi ích, trước hết là lợi ích kinh
tế của mỗi quốc gia dân tộc, của từng giai cấp; do đó, nhận thức đúng tính quy
định vốn có của nó, giúp chúng ta tránh được những tác động tiêu cực, tác
động không mong muốn mà nó gây nên.
Trong các công trình khoa học: “Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh
tế quốc tế đối với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Xuân Thắng (chủ biên), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2007;
“Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” của tác giả Hoàng Ngọc Hoà (chủ biên), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2007, các tác giả đã chỉ ra rằng, hội nhập kinh tế quốc
tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế thế
giới mới, bảo đảm phân phối lợi ích công bằng hơn, hợp lý hơn. Khuynh
hướng phát triển của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế phụ thuộc vào sự tác
động biện chứng giữa hợp tác và đấu tranh.
Khi đề cập đến hội nhập kinh tế với các yêu cầu mở cửa thị trường, tác
giả Hoàng Ngọc Hoà trong bài viết “Kinh tế tri thức và tác động của nó đến
quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số
10/2003; tác giả Trương Đình Tuyển trong bài “Tác động của việc gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới và hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển kinh
tế - xã hội của Việt Nam: Một năm nhìn lại”, Tạp chí Cộng sản, số 783 (tháng
01 năm 2008); đã đặt ra một số vấn đề lý luận về đổi mới tư duy kinh tế và
đổi mới tư duy chính trị trong xây dựng các chính sách và chiến lược phát

triển kinh tế - xã hội năm năm, mười năm. Trong đó, không ít vấn đề, theo các
tác giả, nhất thiết phải được nhìn nhận lại và xem xét tường tận hơn, sâu sắc

×