Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Sự tương đồng và khác biệt giữa lý tưởng xã hội chủ nghĩa và lý tưởng Kitô giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1010.38 KB, 99 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




TẠ THỊ THANH HÀ





SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
LÝ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ
LÝ TUỞNG KITÔ GIÁO



Chuyên ngành : Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số : 60 22 85




TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC







Hà Nội – 2102



Công trình được hoàn thành tại: Khoa Triết học - Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đức Lữ




Phản biện 1:PGS.TS. Nguyễn Hồng Dưong
Phản biện 2:PGS.TS. Hoàng Minh Đô





Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận thạc sĩ họp
Tại:.Khoa Triết học - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Đại học
Quốc gia Hà Nội
16 giờ 00 ngày 08 tháng 03 năm 2012





Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội


CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN


CNXH : Chủ nghĩa xã hội
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
CNTB : Chủ nghĩa tư bản
TBCN : Tư bản chủ nghĩa
CNCS : Chủ nghĩa cộng sản
CSCN : Cộng sản chủ nghĩa
St : Sách Sáng thế
Cn : Sách Châm ngôn
Am : Sách A – mốt
Đnl : Sách Đệ nhị luật
Tv : Sách Thánh vịnh
Is : Sách I- sai – a
Gio : Sách Giop
Gier : Sách Giê- rê- mi – a
Đn : Sách Đa- ni- en
Ds : Sách dân số
Ga : Sách Giô- na
Lc : Sách Lu ca


1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhƣ chúng ta đã biết, tôn giáo xuất hiện rất sớm trong lịch sử nhân loại và còn
tồn tại lâu dài trong đời sống tinh thần của con ngƣời. Ph. Ăngghen có dự đoán về sự
tiêu vong của tôn giáo, nhƣng đó là trong một xã hội hoàn thiện ở một tƣơng lai xa,
khi con ngƣời không chỉ có mƣu sự mà còn cho thành sự nữa. Nghĩa là, tôn giáo sẽ
còn tồn tại cho đến khi nó không còn có đối tƣợng để phản ánh. Cho đến nay, ở các
quốc gia dù có chế độ chính trị khác nhau, tôn giáo vẫn là một hiện tƣợng xã hội
khách quan.
Trong lịch sử cũng nhƣ hiện tại, có một số quan điểm cho rằng, CNXH không
tƣơng dung với tôn giáo, CNXH phủ nhận sự tồn tại của tôn giáo và CNXH không
phù hợp với văn minh Kitô giáo v.v Tuy nhiên, sự thật không phải nhƣ vậy, những
ngƣời cộng sản chƣa bao giờ phủ nhận sự tồn tại của tôn giáo trong CNXH và cũng
chƣa khi nào có chủ trƣơng chống tôn giáo mà chỉ chống lại những kẻ lợi dụng tôn
giáo vì mục đích chính trị phản động.
Chủ nghĩa Mác –Lênin thừa nhận:“Trong lịch sử đạo Cơ đốc giáo sơ kỳ có
những điểm giống đáng lƣu ý với phong trào công nhân hiện đại…Cả đạo Cơ đốc lẫn
CNXH …đều tuyên truyền sự giải phóng con ngƣời trong tƣơng lai khỏi cảnh nô lệ
và nghèo khổ” [55; tr.663].
Công giáo là tôn giáo lớn thứ hai ở Việt Nam và là quốc gia có số tín đồ theo
Công giáo lớn thứ hai ở Đônng Nam Á, tính đến năm 2004 cả nƣớc có 5,9 triệu giáo
dân. Điều này có ảnh hƣởng không nhỏ đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là
trong văn hóa, đạo đức của con ngƣời thì không thể phủ nhận đƣợc. Có thể khẳng
định rằng, trong những năm qua, Công giáo Việt Nam vận động theo xu hƣớng tích
cực, tiến bộ là cơ bản – xu hƣớng Công giáo gắn với dân tộc, phục vụ lợi ích dân tộc,
tuân thủ chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc. Tuy nhiên, hiện nay các thế lực chính
trị xấu trong và ngoài nƣớc luôn tìm cách lợi dụng Công giáo hòng cản trở sự phát
triển của dân tộc ta, tìm cách chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và một số bộ
phận tín đồ, chức sắc Công giáo vì thiên kiến, hoặc vì lợi ích cá nhân, đặc biệt, là do
thiếu hiểu biết về mục đích, những điểm tƣơng đồng trong lý tƣởng XHCN mà cả
dân tộc ta đang hƣớng đến và lý tƣởng trong Kitô giáo mà họ đang tin theo không hề



2
mâu thuẫn, bài trừ nhau, nên đã vô tình hay cố ý tiếp tay cho các thế lực phản động
gây phƣơng hại đến lợi ích của dân tộc.
Bên cạnh những thành công là cơ bản, công tác quản lý Nhà nƣớc với Công
giáo ở nƣớc ta trong những năm qua cũng có những hạn chế nhất định. Liên quan
tới vấn đề này, có nhiều điểm phải bàn, song về cơ bản, thiếu sót trong quản lý Nhà
nƣớc với Công giáo thƣờng bị rơi vào hai thái cực: một là, tuyệt đối hóa những
điểm tƣơng đồng giữa lý tƣởng Kitô giáovà lý tƣởng XHCN, điều này dẫn đến tƣ
tƣởng chủ quan, buông lỏng quản lý Nhà nƣớc đối với Công giáo; hai là, tuyệt đối
hóa những điểm khác biệt giữa lý tƣởng Công giáo và lý tƣởng XHCN, dẫn đến
nhận thức khắt khe, đề phòng với các tín đồ Công giáo về phía công tác quản lý
Nhà nƣớc, đồng thời gây tâm lý lo sợ cho các tín đồ giáo dân, cản trở xu thế hòa
nhập, tích cực trong Công giáo, giảm sút hiệu quả quản lý. Những thiếu sót đó đều
có thể là những nguyên nhân dẫn đến hiện tƣợng không bình thƣờng trong đời sống
Công giáo.
Vì vậy, nhận thức đúng đắn về sự tƣơng đồng và khác biệt giữa lý tƣởng XHCN
và lý tƣởng Kitô giáo là vấn đề mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn góp phần phát huy
những điểm tích cực, hạn chế những điểm tiêu cực của Công giáo trong quá trình xây
dựng XHCN ở nƣớc ta. Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết trên, tôi đã chọn vấn
đề “Sự tương đồng và khác biệt giữa lý tưởng XHCN và lý tưởng Kitô giáo” làm đề
tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, do nhiều nguyên nhân khác nhau, việc nghiên cứu về
sự tƣơng đồng và khác biệt giữa lý tƣởng tôn giáo và lý tƣờng XHCN nói chung, và
sự tƣơng đồng giữa lý tƣởng XHCN và lý tƣởng Kitô giáo nói riêng còn ít đƣợc
quan tâm đúng mức. Sau khi Đảng ta có Nghị quyết số 24-NQ/TW và Nghị quyết số
37-NQ/TW, đặc biệt là Nghị quyết số 25-NQ/TW khẳng định “Tín ngưỡng, tôn giáo
là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc

trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta”, đã có một số công trình nghiên cứu bàn
về vấn đề này
Liên quan trực tiếp đến vấn đề này cũng có một số đề tài khoa học, luận văn
tiếp cận có tính chất bộ phận về tính tương đồng và khác biệt giữa tôn giáo và


3
CNXH. Trong đó, đáng chú ý hơn cả là đề tài “Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về tôn giáo” – 1998 của trung tâm Khoa học về Tín ngƣỡng và Tôn
giáo thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trong công trình này, các tác
giả đã đề cập đến một số nét tƣơng đồng của một số học thuyết tôn giáo với CNXH.
Điều này đƣợc thể hiện đậm nét ở cách nhìn nhận, ứng xử của Hồ Chí Minh đối với
các tôn giáo.
Luận văn thạc sỹ khoa học tôn giáo “Phát huy tính tương đồng giữa tôn giáo
và CNXH - một phương hướng cơ bản để nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước
đối với tôn giáo ở nước ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Xuân Hà – 2001 đã chỉ ra
một số điểm tƣơng đồng và dị biệt giữa thế giới quan tôn giáo và thế giới quan
XHCN, giữa lý tƣởng tôn giáo và mục tiêu giải phóng dân tộc dƣới sự lãnh đạo của
Đảng ta; tác giả cũng đã làm rõ một số nội dung cơ bản về sự tƣơng đồng và sự dị
biệt giữa lý tƣởng tôn giáo và mục tiêu của sự nghiệp cách mạng ở nƣớc ta hiện
nay.
Ngoài ra, còn có bài viết đề cập đến sự tƣơng đồng và khác biệt giữa XHCN
và tôn giáo của tác giả Nguyễn Đức Lữ với các bài “Tôn giáo và CNXH ở Việt Nam”
(Tạp chí Cộng sản, số 71 năm 2004); “Tôn giáo cùng tồn tại trong quá trình xây
dựng CNXH” (Tạp chí Cộng sản, số 112, năm 2006); “Quá trình hình thành tôn giáo
và CNXH đều xuất phát từ sự phản kháng của giai cấp bị trị” (Tạp chí Công tác tôn
giáo, số 6, năm 2009); “Tôn giáo và CNXH đều phản ánh ước mơ của người dân về
sự giải phóng” (Tạp chí Công tác tôn giáo, số 11, năm 2009) tác giả đã chỉ ra giữa
lý tƣởng XHCN và lý tƣởng tôn giáo có sự tƣơng đồng về mục tiêu xã hội, tƣơng
đồng về đạo đức cộng sản và đạo đức tôn giáo; đồng thời tác giả cũng chỉ ra sự khác

biệt giữa CNXH và các tôn giáo cơ bản nằm ở thế giới quan cũng nhƣ phƣơng pháp
và lực lƣợng thực hiện sứ mệnh giải phóng con ngƣời.
Nhìn chung, trong các công trình nghiên cứu nêu trên, các tác giả đã tiếp cận
từ các góc độ khác nhau, đây là tƣ liệu quý giá mà tác giả có thế kế thừa, vận dụng
trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, nghiên cứu về sự
tƣơng đồng và khác biệt giữa lý tƣởng XHCN và lý tƣởng Kitô giáo là một nội dung
mới, khó khăn, phức tạp, cho đến nay, chƣa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu. Vì vậy,
tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu vấn đề này trong luận văn.


4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn tập trung làm rõ một số nội dung cơ bản về sự tƣơng đồng và khác
biệt giữa lý tƣởng XHCN và lý tƣởng Kitô giáo, để động viên đồng bào Công giáo
tích cực tham gia vào công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xƣớng và lãnh đạo
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ cơ bản sau:
+ Khái lƣợc sự phát triển từ CNXH không tƣởng đến CNXH khoa học và khái
quát đƣợc lịch sử hình thành và phát triển của Kitô giáo.
+ Phân tích sự tƣơng đồng và khác biệt giữa lý tƣởng XHCN và lý tƣởng Kitô giáo
+ Nêu bật đƣợc ý nghĩa của việc tìm hiểu sự tƣơng đồng và khác biệt giữa lý
tƣởng XHCN và lý tƣởng Kitô giáo với công tác tôn giáo của Nhà nƣớc XHCN Viêt
Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa lý tƣởng XHCN và lý tƣởng Kitô giáo.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tiếp cận với vấn đề đặt ra ở góc độ CNXH khoa học.

Luận văn xem xét nội dung biểu hiện của sự tƣơng đồng và khác biệt giữa lý
tƣởng XHCN và lý tƣởng Kitô giáo dƣới góc độ lịch sử tƣ tƣởng.
Luận văn chỉ để cập đến những vấn đề có liên quan tới CNXH khoa học và
Kitô giáo (chủ yếu là Công giáo).
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ
tƣơng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về tôn giáo và CNXH.
Luận văn cũng tiếp thu những kết quả nghiên cứu của các công trình có liên
quan trực tiếp đến đề tài.




5
5.2. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn dựa trên phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp các phƣơng pháp nhƣ: Logic và lịch sử, phân tích và
tổng hợp, đi từ trừu tƣợng đến cụ thể, so sánh…
6. Ý nghĩa của luận văn
Tìm hiểu những điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa lý tƣởng XHCN và lý
tƣởng Kitô giáo, có ý nghĩa thực tiễn quan trọng đối với công tác quản lý tôn giáo nói
chung và Công giáo nói riêng. Nó giúp cho Đảng và Nhà nƣớc ta phát huy những điểm
tƣơng đồng và khắc phục đƣợc những điểm khác biệt giữa chúng trong công tác quản
lý đối với Công giáo cũng nhƣ tạo niềm tin, thu hút đồng bào Công giáo tham gia tích
cực vào công cuộc xây dựng đất nƣớc.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho các nghiên cứu và giảng dạy có liên quan đến sự tƣơng đồng và khác biệt giữa
lý tƣởng XHCN và lý tƣởng Kitô giáo, làm cơ sở để Đảng và Nhà nƣớc ta vận dụng
trong quá trình xây dựng chính sách tôn giáo cũng nhƣ công tác quản lý tôn giáo

cho phù hợp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc
kết cấu làm 03 chƣơng, 10 tiết.


6

B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI LƢỢC CHUNG VỀ LỊCH SỬ TƢ TƢỞNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VÀ CÁC PHONG TRÀO KITÔ GIÁO
1.1.Một số khái niệm cơ bản
 Khái niệm xã hội chủ nghĩa
Theo các tài liệu nghiên cứu cho đến nay mà chúng ta tiếp cận đƣợc thì thuật ngữ
“XHCN” (hay “CNXH”) lần đầu tiên đƣợc sử dụng ở Pháp vào cuối thế kỷ XVII, đầu thế
kỷ XVIII và đến giữa thế kỷ XIX thì đƣợc sử dụng rộng rãi ở Nga.
Cho đến nay, nội hàm của khái niệm “XHCN” không đồng nhất ở các tác giả
khác nhau. Với các tác giả ở các thời đại khác nhau sẽ đƣa ra cách hiểu khác nhau.
Các nhà tƣ tƣởng đại diện cho các tập đoàn, các giai cấp xã hội khác nhau, xuất
phát từ lợi ích khác nhau mà đƣa ra quan niệm khác nhau về “XHCN”. Chính bởi
vậy, chúng ta mới có các khái niệm “XHCN phong kiến”, “XHCN Cơ đốc giáo”,
“XHCN tiểu tƣ sản”, “XHCN tƣ sản”… Mặc dù khác nhau nhƣ vậy, nhƣng bản
thân các khái niệm “XHCN” dù ở thời đại nào cũng có những đặc điểm chung, và
đó cũng là cách hiểu khái quát nhất về thuật ngữ này.
Trong Tiếng Việt, các khái niệm “XHCN” và “CNXH” thƣờng đƣợc dùng đi
liền với nhau, có khi chúng đƣợc dùng thay thế lẫn nhau, nhƣng chúng lại thƣờng
đƣợc sử dụng nhƣ những thuật ngữ có ý nghĩa riêng biệt. Nhƣng dù là chung hay riêng
thì thuật ngữ “XHCN” hay “CNXH” thƣờng đƣợc dùng với các nội hàm sau đây:
Thứ nhất, dùng để chỉ những nhu cầu, mong ƣớc của nhân dân lao động về một

nền sản xuất hiện đại có tính xã hội hóa ngày càng cao dựa trên chế độ công hữu về tƣ
liệu sản xuất (nền sản xuất cho số đông và vì số đông).
Thứ hai, khái niệm dùng để nói đến một xã hội mà quyền lực nhà nƣớc đƣợc
thực thi một cách dân chủ (nhà nƣớc của dân, do dân, và vì dân) - xã hội XHCN. Cũng
giống nhƣ các xã hội có giai cấp trƣớc đó, trong xã hội XHCN nhà nƣớc vẫn còn tồn tại;
tuy nhiên, nhà nƣớc đó là thể hiện đỉnh cao của việc thực thi nền dân chủ, trong đó,


7
quyền làm chủ đất nƣớc, làm chủ xã hội không thuộc về thiểu số bóc lột mà thuộc về đa
số quần chúng nhân dân lao động.
Thứ ba, khái niệm dùng để chỉ phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân
lao động chống lại chế độ tƣ hữu, chống lại áp bức bất công, mong muốn và chủ
trƣơng xây dựng một chế độ công hữu, thực hiện công bằng, bình đẳng và dân chủ đối
với tất cả các thành viên trong xã hội (còn gọi là phong trào XHCN, hoặc trào lƣu
XHCN vv )
Thứ tư, khái niệm dùng để chỉ một chế độ chính trị - xã hội đƣợc xây dựng trên
thực tế do giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo toàn
thể nhân dân tổ chức xây dựng chế độ mới – chế độ XHCN.
Thứ năm, khái niệm còn dùng để chỉ ƣớc mơ, quan niệm, lý luận về sự nghiệp
giải phóng con ngƣời trong lịch sử tƣ tƣởng của nhân loại (tƣ tƣởng XHCN, tƣ tƣởng
CNCS, vv ).
 Lý tưởng xã hội chủ nghĩa
Theo từ điển Tiếng Việt, “Lý tƣởng” là mục đích cao nhất, tốt đẹp nhất, hoàn hảo
nhất mà ngƣời ta muốn đạt tới. Từ cách định nghĩa này cùng với khái niệm XHCN đã
phân tích ở trên, chúng ta có thể đƣa ra cách hiểu chung nhất về khái niệm “Lý tƣởng
XHCN” nhƣ sau:
Trƣớc hết, chúng ta nên hiểu khái niệm “Lý tƣởng XHCN” với tƣ cách là một trong
các bộ phận cấu thành nên hình thái ý thức chính trị. Lý tƣởng XHCN là một hình thức
phản ánh dƣới dạng đời sống tinh thần của đông đảo quần chúng nhân dân lao động bị áp

bức, bị bóc lột trong lịch sử nhằm đấu tranh, phê phán chống lại chế độ chính trị xã hội của
giai cấp thống trị bóc lột đƣơng thời, từ đó, hình thành nên những niềm tin, ƣớc mơ, khát
vọng về con đƣờng và cách thức nhằm xây dựng một xã hội không còn giai cấp, công bằng,
dân chủ và thịnh vƣợng trong tƣơng lai. Xuất phát từ sự phản kháng tinh thần đó, các nhà tƣ
tƣởng XHCN đã từng bƣớc xây dựng nên những quan niệm về một xã hội tƣơng lai tốt đẹp,
điển hình và hoàn thiện nhất chính là học thuyết của các nhà XHCN khoa học.
Nhƣ vậy, “Lý tƣởng XHCN” thực chất là một hệ thống những quan niệm về
những nhu cầu hoạt động thực tiễn và ƣớc mơ của các giai cấp lao động, bị thống trị; về
con đƣờng, cách thức và phƣơng pháp đấu tranh nhằm thực hiện việc xây dựng một chế


8
độ xã hội tốt đẹp, mà trong đó, tƣ liệu sản xuất chủ yếu thuộc về quyền sở hữu chung
của mọi thành viên và toàn xã hội, một xã hội không còn bóc lột, không còn áp bức và
bất công, mọi ngƣời đƣợc bình đẳng về mọi mặt và đều có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh
phúc, văn minh.
1.1.2. Khái quát về Kitô giáo và lý tưởng Kitô giáo
 Khái quát về Kitô giáo
Kitô giáo là tên gọi chung của các tôn giáo (Công giáo, Chính thống giáo, Tin
lành và Anh giáo) cùng thờ một đấng Thƣợng đế là Christo, phiên âm tiếng Hán Việt là
Cơ đốc. Đạo này ra đời vào những năm đâu công nguyên, ở các tỉnh phía Đông đế quốc
La Mã cổ đại.
Khi mới ra đời, Kitô giáo xuất hiện dƣới hình thức những công xã nhỏ gồm
những ngƣời nô lệ và dân nghèo thành thị trong các dòng ngƣời Do Thái lƣu tán ở vùng
Tiếu Á. Do có thái độ chống lại chính quyền La Mã, đạo Kitô giáo bị chính quyền La
Mã thẳng tay đàn áp. Vụ tàn sát đầu tiên vô cùng khốc liệt diễn ra vào đầu năm 64 dƣới
triều hoàng đế Nêrôn.
Tuy bị xua đuổi và đàn áp nhƣng đạo Kitô giáo vẫn không ngừng phát triển. Đến
thế kỷ II, các công xã Kitô giáo đã liên hiệp lại và tổ chức thành giáo hội. Từ đây, trong
hàng ngũ tín đồ ngày càng có thêm nhiều ngƣời giàu có và quyền lãnh đạo chuyển dần

sang tay những ngƣời thuộc tầng lớp trên.
Năm 313, hoàng đế Côngxtăngtin ban hành sắc lệnh Milanô cho phép đạo Kitô
đƣợc truyền bá. Năm 325, Côngxtăngtin triệu tập đại hội các giáo chủ đạo Kitô giáo để
xác định giáo lý và chấn chỉnh tổ chức giáo hội. Năm 337, với việc chịu phép rửa tội
trƣớc khi chết, Côngxtăngtin trở thành vị hoàng đế La Mã đầu tiên theo đạo Kitô giáo.
Năm 392, hoàng đế Têôđôdiút chính thức tuyên bố đạo Kitô giáo là quốc đạo của đế
quốc La Mã. Đây là điểm mốc đánh dấu sự phát triển của Kitô giáo, từ một tôn giáo địa
phƣơng thành một tôn giáo lớn giữ vị trí độc tôn tại đế quốc La Mã.
Năm 395, hoàng đế Têôđôdiút chia đế quốc thành hai nƣớc là đế quốc Đông La
Mã đóng đô ở Côngxtăngtinốp và đế quốc Tây La Mã đóng đô ở La Mã. Từ thế kỷ V,
giữa các giáo hội Đông và giáo hội Tây La Mã có sự bất đồng rất sâu sắc, đặc biệt là bất
đồng trong cách giải thích vế Đức Chúa ba ngôi và bất đồng trong việc tranh giành khu


9
vực truyền giáo. Kết quả là năm 1054, Kitô giáo chính thức phân biệt thành hai giáo hội
hoàn toàn độc lập với nhau: Giáo hội phƣơng Tây, gọi là giáo hội La Mã và giáo hội
phƣơng Đông, gọi là giáo hội Hy Lạp, hay giáo hội Công giáo.
Đến thế kỷ XVI, khi giai cấp tƣ sản ra đời, giáo hội Công giáo vốn là chỗ dựa
vững chắc của chế độ phong kiến liền trở thành lực lƣợng cản trở sự phát triển của
CNTB. Một phong trào cải cách tôn giáo nổ ra rộng rãi ở châu Âu, mà tiêu biểu là
phong trào cải cách tôn giáo ở Đức do Martin Luther (1483- 1546) đề xƣớng; phong trào
cải cách tôn giáo ở Thụy Sĩ do Unrich Dvingli (1484- 1531) và Giăng Canvanh (1519-
1564) lãnh đạo; Kết quả của các phong trào cải cách tôn giáo nói trên là sự ra đời của
đạo Tin Lành (tách ra từ đạo Công giáo), và ra đời Anh giáo – một tôn giáo đƣợc coi là
gạch nối giữa Thiên chúa và Tin Lành vì về thuyết giáo, Anh giáo chủ yếu dựa theo
quan điểm thần học Canvanh và lập giáo hội riêng không quan hệ với giáo hội Rôma,
nhƣng cách thức hành đạo lại dựa theo nghi lễ Công giáo và cơ cấu tổ chức vẫn theo
Công giáo.
Hiện nay, tổng số tín đồ của Kitô giáo trên toàn thế giới là khoảng 1.8 tỉ ngƣời,

trong đó Thiên chúa giáo khoảng 1.02 tỉ, đạo Chính thống khoảng 200 triệu, đạo Tin
Lành và Anh giáo khoảng 550 triệu.
 Khái niệm lý tưởng Kitô giáo
Nhƣ đã trình bày ở trên, Kitô giáo ra đời xuất phát từ mong muốn có một đấng
cứu thế xuất hiện để đánh đổ đế quốc La Mã, giải thoát quần chúng nhân dân lao khổ khỏi
cuộc sống khổ cực và xây dựng một vƣơng quốc của sự công bằng, do đó giáo lý Kitô giáo
vừa thể hiện mơ ƣớc đƣợc giải thoát khỏi cuộc sống bi đát, bế tắc và đầy khổ ải, đau thƣơng
của quần chúng, vừa thể hiện phản ứng của họ trƣớc thực tại cuộc sống đó, đúng nhƣ Ph.
Ăngghen đã nhận xét trong “Góp phần vào lịch sử Kitô giáo nguyên thủy”, rằng Kitô giáo
là “một thứ tôn giáo của ngƣời nô lệ và bán tự do, của những ngƣời nghèo khó và những
ngƣời bị tƣớc hết mọi quyền lợi, các dân tộc Rôma đô hộ hay làm tan tác”[55; tr 543].
Có thể nói “Lý tƣởng Kitô giáo” chính là muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn,
muốn hƣớng con ngƣời đến một thế giới không còn áp bức, khổ đau, không có chiến
tranh, ai ai cũng đƣợc hƣởng hạnh phúc, đƣợc hƣởng công bằng, bình đẳng và đƣợc tự


10
do, nhƣng thế giới ấy không phải đƣợc xây dựng ngay trên trần thế, khi con ngƣời đang
sống mà là ở Thiên đƣờng- tức là khi con ngƣời đã chết và về với Chúa.
1.1.3. Khái niệm tương đồng và khác biệt
Theo Đại từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin xuất bản năm
1998, “tƣơng đồng” có nghĩa là nhƣ nhau, giống nhau (trang 1768). Ngƣời ta thƣờng sử
dụng khái niệm tƣơng đồng nhƣ là tính từ để chỉ ra tính chất, đặc điểm giống nhau của
một sự vật, hiện tƣợng này với một sự vật, hiện tƣợng khác. Ví dụ, ngƣời ta thƣờng nói:
những nét tƣơng đồng, những đặc điểm tƣơng đồng hay tƣơng đồng văn hóa…Còn
“khác biệt” có nghĩa là không giống nhau. Khái niệm khác biệt dùng để so sánh sự khác
nhau về bản chất, tính chất của các sự vật, hiện tƣợng. Ngoài khái niệm “khác biệt” nêu
trên, đôi khi ngƣời ta còn dùng khái niệm “dị biệt” để nói lên sự khác nhau của các sự
vật, hiện tƣợng. Tƣơng đồng và khác biệt có nhiều cấp độ, và quan hệ biện chứng với
nhau. Hai sự vật, hiện tƣợng khi đem so sánh với nhau ta thấy trong đó bao hàm cả sự

tƣơng đồng và khác biệt.
Từ sự nhìn nhận các sự vật, hiện tƣợng trong mối quan hệ biện chứng, chúng ta
thấy rằng giữa lý tƣởng XHCN và lý tƣởng Kitô giáo vừa có điểm tƣơng đồng, vừa có
điểm khác biệt. Nói một cách khác, cách nhìn nhận và xem xét vấn đề của chúng tôi ở
đây là trong tƣơng đồng luôn có sự khác biệt, và trong khác biệt lại có sự tƣơng đồng.
Tuy nhiên, không thể đồng nhất hai khái niệm này với nhau, bởi đây là hai mặt đối lập
của một vấn đề. Nội dung của những điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa lý tƣởng
XHCN và lý tƣởng Kitô giáo sẽ đƣợc trình bày cụ thể trong chƣơng 2 của luận văn.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển tƣ tƣởng xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển từ tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng
đến chủ nghĩa xã hội khoa học
Tƣ tƣởng XHCN xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử tƣ tƣởng của nhân loại ở cả
phƣơng Đông và phƣơng Tây. Nó đƣợc thể hiện qua những nội dung, khuynh hƣớng
khác nhau, dƣới nhiều dạng, nhiều hình thức khác nhau, tùy theo những điều kiện lịch
sử cụ thể của mỗi thời kỳ quy định. Tƣ tƣởng XHCN có quá trình phát sinh, phát triển
lâu dài từ thời kỳ cổ đại cho đến hiện đại, từ tƣ tƣởng XHCN không tƣởng đến tƣ tƣởng
XHCN khoa học.


11
 Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời Cổ đại.
Chế độ công xã Nguyên thủy tan rã, thay vào đó là chế độ chiếm hữu nô lệ. Lần đầu
tiên trong lịch sử nhân loại – vào thời sơ kỳ của chế độ Chiếm hữu nô lệ, do sự áp bức bóc
lột, bất bình đẳng bắt đầu xuất hiện trong xã hội, đã làm nảy sinh tƣ tƣởng phản kháng, phẫn
uất trong tầng lớp những ngƣời bị áp bức bóc lột. Họ mong muốn có một cuộc sống bình
đẳng, họ thấy luyến tiếc quá khứ, mơ ƣớc trở về “thời kỳ hoàng kim” xa xƣa và họ tìm đến
một xã hội lý tƣởng trong quá khứ. Điều này đƣợc thể hiện thông qua những câu chuyện
thần thoại, những tiểu thuyết viễn tƣởng.
Những truyện thần thoại đầu tiên mang chủ đề xã hội, đồng thời có màu sắc tôn
giáo đa thần xuất hiện ở Hy Lạp và La Mã, tiêu biểu phải kể đến:

Hêxiốt – một nhà thơ cổ của Hy Lạp, thông qua các tác phẩm của mình, ông
đã phủ định hiện tại, mơ ƣớc trở về xã hội hoàng kim xa xƣa tốt đẹp, không có bóc
lột, không có sự phân biệt giữa ngƣời giầu và ngƣời nghèo, không ai phải lao động
nặng nhọc…
Phái Kinich kịch liệt lên án luật lệ và trật tự xã hội đƣơng thời, lý tƣởng hóa trạng
thái tự nhiên đầu tiên, mong muốn trong xã hội không có luật lệ phức tạp.
Epho lý tƣởng hóa ngƣời Xkipphơ với những đức tính: không tham lam,
không đấu tranh sinh tồn, không có xu hƣớng làm giầu, coi tất cả là tài sản chung,
kể cả vợ con…
Iămbun đã mô tả về cuộc sống của những ngƣời thổ dân trên “hòn đảo hạnh phúc”
nhƣ là một trạng thái tích cực đối lập với xã hội Hy Lạp đƣơng thời. Đó là một xã hội mà
mọi ngƣời sống gắn bó với nhau qua quan hệ họ hàng, trong xã hội ấy không có chính
quyền trung ƣơng, mọi ngƣời đều có nhiệm vụ riêng trong tổng thể các nhiệm vụ chung của
công xã, mọi ngƣời đều không có gia đình riêng của mỗi cá nhân.
Ở La Mã, những tƣ tƣởng XHCN chủ yếu gắn với lý luận của tôn giáo, đặc biệt là
Cơ đốc giáo sơ kỳ. Giáo lý của Cơ đốc giáo sơ kỳ thể hiện thái độ phê phán những kẻ giầu
có “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn nhà giầu đi vào thiên đàng”. Đặc biệt, giáo lý Cơ
đốc giáo sơ kỳ còn thể hiện ƣớc mơ về một tƣơng lai tốt đẹp: “Giang sơn ngàn năm của
Chúa”, “Ngày chúa giáng thế lần thứ hai”, hay “Ngày phán xử cuối cùng”…


12
Có thể thấy rằng, tƣ tƣởng XHCN thời kỳ cổ đại về cơ bản là những hình thái tƣ
tƣởng tự phát, ngây thơ, cảm tính, nói lên tiếng nói của ngƣời lao động chống lại chế độ
nô lệ, mơ ƣớc về một xã hội công bằng, bình đẳng. Những tƣ tƣởng XHCN cổ đại chịu
ảnh hƣởng sâu sắc bởi thế giới quan tôn giáo, nhất là Cơ đốc giáo sơ kỳ. Những tƣ
tƣởng đó còn ảnh hƣởng sâu sắc đến toàn bộ tƣ tƣởng XHCN thời trung cổ và nhiều trào
lƣu CSCN thời cận đại.
 Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời Trung đại
Trong thời Trung đại, đạo đức Kitô giáo chi phối nặng nề đời sống tinh thần ở

châu Âu. Giáo hội Cơ đốc giáo biến thành thế lực bảo vệ chế độ quân chủ chuyên chế và
chính nó cũng là thế lực phong kiến hà khắc. Điều kiện xã hội ấy đã làm xuất hiện nhiều
trào lƣu chống áp bức, hƣớng vào chống chế độ phong kiến, đồng thời chống cả giáo hội
Cơ đốc giáo. Trong trào lƣu ấy, nguyện vọng có tính chất XHCN đƣợc biểu hiện thành
khát vọng về một xã hội bình đẳng, trong đó không có luật lệ của trần gian. Tiêu biểu
phải kể đến:
Phong trào Taborít ở Tiệp Khắc, với tƣ tƣởng đấu tranh là: “Trên trái đất không
đƣợc có vua, không đƣợc có kẻ thống trị và thần dân; sƣu thuế phải đƣợc xoá bỏ, không
ai có thể cƣỡng bức ngƣời khác làm điều gì vì tất cả đều là anh chị em. Ở thành phố
Taborơ không có cái của anh, cái của tôi, mọi cái đều là của chung và không ai đƣợc có
tài sản, ai có tức là phạm tội đáng chết”. Có thể nói, phong trào Taborít kiên quyết phủ
nhận chính quyền phong kiến và quyền tƣ hữu. Về cơ bản phong trào không đi xa hơn
CSCN tiêu dùng. Theo V.P.Vônghin: “Có thể nói rằng, đối với lịch sử CNXH, đây là
thời kỳ chẳng làm nên gì cả”[40; tr.143].
Nhìn chung, lịch sử tƣ tƣởng XHCN thời Trung đại đều có một số đặc trƣng nổi
bật, nhƣ: ƣớc mơ xây dựng một xã hội cộng sản theo lối khổ hạnh. Một điểm đáng chú ý
là những tƣ tƣởng XHCN thời kỳ này chƣa đƣợc phản ánh bằng hình thức lý luận, dù là
lý luận dƣới hình thức thô thiển nhất. Mà phải đến thế kỷ XVI – XVII trở đi, những tƣ
tƣởng ấy mới đƣợc thể hiện dƣới các hình thức lý luận tinh tế.
 Tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ thế kỷ XV- đến thế kỷ XVIII
Đây là thời kỳ chế độ phong kiến châu Âu suy tàn và CNTB bắt đầu nảy sinh.
Trong lòng xã hội xuất hiện mâu thuẫn và xung đột giữa giai cấp tƣ sản và giai


13
cấp quý tộc phong kiến, có sự đối lập giữa ngƣời lao động vất vả nhƣng lại nghèo
khổ với những kẻ ngồi không nhƣng lại hƣởng giàu sang an nhàn. Trong hoàn
cảnh xã hội đó, nhiều nhà tƣ tƣởng tiến bộ thời kỳ này dù xuất thân từ tầng lớp
thƣợng lƣu trong xã hội, đã đứng lên đấu tranh bảo vệ quyền lợi của những ngƣời
lao khổ. Các nhà tƣ tƣởng đã lên tiếng phê phán xã hội đƣơng thời, có ý tƣởng về

một xã hội mới nhân đạo và công bằng, muốn xây dựng một xã hội phồn vinh và
đem lại hạnh phúc cho đông đảo mọi ngƣời. Tiêu biểu cho các nhà tƣ tƣởng
XHCN thời kỳ này là: Tômát Môrơ, Tômađô Campanenla, Giêrác Uynxtenli,
Giăng Mêliê, Môrenly, Giắc Babớp…
Tômát Morơ (1478 – 1535) – một nhà tƣ tƣởng, chính trị, một nhà văn nổi tiếng
nhất nƣớc Anh vào đầu thể kỷ XVI. Trong tác phẩm “Utopia” có nghĩa là “không t-
ƣởng” của mình, Tômát Morơ đã nêu lên một cách rõ rệt những luận điểm mang tính
CSCN. Tác phẩm đã phê phán xã hội nƣớc Anh thế kỷ XVI, phê phán chế độ quân chủ
chuyên chế đƣơng thời hà khắc, lên án chế độ bóc lột ngƣời lao động dã man cũng nhƣ
phê phán cuộc sống xa hoa của bọn nhà giầu: Hãy cho bọn chây lƣời ăn ít hơn, hãy bắt
bọn chúng phải làm việc. Đặc biệt, Tômát Morơ còn phê phán chính sách chiếm đoạt
ruộng đất của giai cấp tƣ sản với hình ảnh “cừu ăn thịt ngƣời”, phê phán công trƣờng thủ
công kéo dài thời gian lao động để bóc lột ngƣời lao động. Điểm mới nhất trong tác
phẩm “Không tƣởng” là đã chỉ ra đƣợc mọi tệ nạn xã hội do chế độ tƣ hữu đẻ ra và
muốn xây dựng xã hội công bằng, bình đẳng phải hoàn toàn xoá bỏ chế độ tƣ hữu.
Tômát Morơ đã phác họa về một xã hội mới mang tính cộng sản cả về kinh
tế, chính trị, xã hội, giáo dục, gia đình có giá trị. Đó là một xã hội đƣợc xây dựng
trên cơ sở của chế độ công hữu về tƣ liệu sản xuất và tƣ liệu tiêu dùng, ở đó mọi
ngƣời đều có nghĩa vụ lao động và đƣợc hƣởng những tƣ liệu sinh hoạt theo
nguyên tắc bình đẳng…
Đƣợc coi là ngƣời mở đầu cho lịch sử tƣ tƣởng XHCN cận đại, với tƣ cách là
một nhà tƣ tƣởng, Tômát Morơ đã để lại cho các thế hệ sau một mô hình tƣơng đối toàn
diện về xã hội CSCN, nhƣ Ph.Ăngghen đã nhận xét: Thế kỷ XVI, CNXH đã đƣợc trình
bày nhƣ một bức tranh chung phản ánh tập trung trong tác phẩm của Morơ. Tuy nhiên,
hạn chế lớn nhất của Morơ là ông không tin vào sự thật có đƣợc nhƣ vậy nên không đề


14
ra biện pháp để xoá bỏ chế độ tƣ hữu, cũng nhƣ ông đã thừa nhận: “Tôi vui lòng thừa
nhận rằng, trong nhà nƣớc của xã hội không tƣởng có rất nhiều cái mà tôi có thể chúc

cho các nƣớc của chúng ta có hơn là hy vọng rằng cái đó sẽ xảy ra”.
Tômađô Campanenla (1568-1639)- một nhà tƣ tƣởng nổi tiếng ngƣời Italia.
Ngƣời ta biết đến ông với tác phẩm “Thành phố mặt trời” – một tác phẩm chứa đựng
những tƣ tƣởng tiến bộ về một xã hội tƣơng lai, một xã hội mà loài ngƣời mơ ƣớc hƣớng
tới khi thực tế đang phải đối mặt với hiện thực xã hội ở các nƣớc châu Âu đầy rẫy sự bất
công lúc bấy giờ.
Theo Campanenla, chế độ tƣ hữu là nguồn gốc của mọi bất công, đói nghèo,
tham lam và các tệ nạn xã hội. Do đó, cần phải xóa bỏ chế độ tƣ hữu, coi chế độ tƣ hữu
là trái với yêu cầu của đạo đức, giầu và nghèo là những thiếu sót của xã hội loài ngƣời.
Campanenla muốn xây dựng một xã hội dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tƣ liệu
sản xuất và phân phối bình quân, ở đó “Mọi tài sản đều là của chung”, coi trọng mọi
nghề, coi trọng lao động, coi trọng tài năng, tạo điều kiện mọi ngƣời đều có việc làm.
Thành phố mặt trời còn có nhà nƣớc, các nhà chức trách của nhà nƣớc đều đƣợc lựa
chọn trên cơ sở tài năng, thông qua việc bầu cử và bãi miễn của dân. Đó còn là xã hội
hoà bình, không có bạo lực, không có chiến tranh; xã hội quan tâm đến cuộc sống của
con ngƣời sao cho thế hệ sau tốt hơn thế hệ trƣớc.
Giêrác Uynxtenli (1609 - 1652), ngƣời Anh – ông là một nhà tƣ tƣởng XHCN nửa
cuối thế kỷ XVII – đầu thế kỷ XVIII. Khi nhận xét về Giêrác Uynxtenli, Vônghin viết:
“ông là một nhà tƣ tƣởng vĩ đại và độc lập. Học thuyết của ông là một mắt khâu quan
trọng và độc đáo trong sự phát triển của tƣ tƣởng CSCN, một mắt khâu đáng đƣợc nhà
sử học chăm chú nghiên cứu”
Tƣ tƣởng của Uynxtenli qua tác phẩm “Luật tự do” - là cƣơng lĩnh nhằm cải tạo
triệt để xã hội bằng cách thủ tiêu chế độ tƣ hữu về ruộng đất xây dựng chế độ cộng hoà.
Giêrác Uynxtenli phê phán chế độ quân chủ lập hiến và xã hội tƣ sản Anh. Đồng thời
ông cũng lên án chế độ tƣ hữu, và cho rằng, cái gọi là “quyền tƣ hữu” mà luật pháp tƣ
sản đặt ra là “đáng nguyền rủa”.
Giêrác Uynxtenli hƣớng tới xây dựng một xã hội tự do, bình đẳng và dân chủ,
trong đó mọi thứ đều là của chung, mọi ngƣời lao động đƣợc tự do, không bị áp bức,



15
bóc lột, không có bất công và tất cả đều sống bằng lao động của chính mình; một xã hội
quan tâm đến giáo dục quy định học tập kết hợp với lao động, lý thuyết gắn với thực
tiễn. Tuy nhiên, hạn chế của Uynxtenli là dựa vào chính phủ tƣ sản để tiến hành cải tạo
xã hội; quan điểm chƣa tách ra khỏi sự thần bí tôn giáo.
Giăng Mêliê (1664 - 1729), ngƣời sáng lập ra khuynh hƣớng cách mạng của
CNXH không tƣởng ở Pháp những năm cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Ông có
nhiều tƣ tƣởng XHCN hết sức đặc sắc nhƣ:
Giăng Mêliê đã phê phán chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp và bảo vệ lợi ích
của nông dân. Ông tố cáo bọn vua chúa và chiến tranh phi nghĩa, phản đối sự bất bình
đẳng đến mức quá đáng giữa một số tầng lớp ngƣời trong xã hội. Đặc biệt, ông coi nông
dân là nhân vật trung tâm của xã hội và chỉ ra mục tiêu chính của cuộc cách mạng xã hội
trong xã hội tƣơng lai là giải phóng nông dân và nông dân cũng chính là lực lƣợng cơ
bản của cuộc cách mạng ấy.
Trong tác phẩm “Những di chúc của tôi”, Giăng Mêliê đã nêu lên tƣ tƣởng về
một xã hội tƣơng lai là phải xóa bỏ chế độ tƣ hữu, thiết lập chế độ công hữu về của cải.
Xã hội tƣơng lai sẽ đƣợc xây dựng nhƣ một gia đình thống nhất, mọi ngƣời sống với
nhau một cách hòa bình, coi nhau nhƣ anh em, đoàn kết hữu nghị, giúp đỡ lẫn nhau. Xã
hội mới cũng đảm bảo cho tất cả mọi ngƣời những nhu cầu cần thiết trong cuộc sống.
Giăng Mêliê khẳng định phải có đấu tranh cách mạng mới xoá bỏ đƣợc áp bức bóc lột
và bất công xã hội.
Phrăngxoa Môrenly – một đại biểu của CNXH không tƣởng Pháp thế kỷ XVIII.
Trong tác phẩm “Bộ luật của tự nhiên” Phrăngxoa Môrenly phê phán chế độ tƣ hữu đã
đem đến cho loài ngƣời những bất công đau khổ và cả những tội ác, những tệ nạn xã
hội. Từ đó, nêu bật lên tƣ tƣởng xóa bỏ chế độ tƣ hữu, Phrăngxoa Môrenly cũng nêu lên
tƣ tƣởng xây dựng một xã hội tƣơng lai, cho rằng xã hội đó đƣợc xây dựng trên chế độ
công hữu về của cải, mỗi ngƣời đều đƣợc đảm nhận một công việc của xã hội tùy theo
năng lực của họ, lao động là bắt buộc và là quyền của mọi ngƣời. Xã hội mới đó sẽ thực
hiện nguyên tắc: làm theo năng lực, hƣởng theo lao động. Mọi thành viên trong xã hội
quan hệ với nhau một cách bình đẳng trong khuôn khổ của pháp luật.



16
Gabrien Mably (1709 - 1785) ngƣời Pháp, với tác phẩm “Những nghi vấn đặt ra
cho các nhà triết học kinh tế một trật tự tự nhiên và tất yếu của các xã hội chính trị” đã
nêu lên những tƣ tƣởng mới và tiến bộ: Lên án chế độ quân chủ chuyên chế Pháp thế kỷ
XVIII và cho rằng chế độ đó nhất định phải thủ tiêu. Đồng thời, phê phán chế độ tƣ hữu
và chỉ ra cần đấu tranh xoá bỏ chế bỏ chế độ tƣ hữu. Gabrien Mably khẳng định mọi
ngƣời sinh ra đều có quyền bình đẳng, đó là quyền tự nhiên của con ngƣời.
Khi bàn về mô hình xã hội tƣơng lai, Gabrien Mably cho rằng xã hội đó sẽ đƣợc
xây dựng trên cơ sở cộng đồng về ruộng đất và tài sản, coi đó là nền tảng để phục vụ
cuộc sống hạnh phúc của mọi ngƣời. Ông cũng là ngƣời đầu tiên cho rằng, xã hội mới
cần áp dụng nguyên tắc “làm theo khả năng, phân phối theo nhu cầu”. Xã hội mới theo
quan niệm của Gabrien Mably là một xã hội không có bạo lực, không có đấu tranh,
không có sự phân chia giầu – nghèo, con ngƣời đƣợc phát triển toàn diện.
Grắc Babớp (1760 - 1797), ngƣời Pháp với tác phẩm “Tuyên ngôn của những
ngƣời bình dân”. Là ngƣời đầu tiên đã đặt vấn đề đƣa lý tƣởng về CNXH thành hiện
thực, ông đã nêu ra cƣơng lĩnh hành động gồm những biện pháp cụ thể cần thực hiện
ngay trong quá trình cách mạng nhƣ: sản xuất và phân phối bánh mỳ cho nhân dân, nắm
giữ và chia nhà ở của bọn nhà giầu cho nhân dân…
Grắc Babớp cho rằng một xã hội công bằng, bình đẳng tất yếu sẽ ra đời, trong
xã hội đó mọi ngƣời đều có trách nhiệm lao động, mọi ngƣời đều có cuộc sống bình
đẳng, ấm no, tự do, hạnh phúc. Và ông khẳng định rằng, muốn có xã hội đó thì quần
chúng lao động phải vùng lên đấu tranh chống lại bọn bóc lột. Grắc Babớp chủ
trƣơng thiết lập “chuyên chính cách mạng của những ngƣời lao động” và coi đó là
công cụ cần thiết để tiến hành cải tạo xã hội cũ. Hạn chế của Grắc Babớp là ở chỗ
ông quan niệm cách mạng là công việc của một nhóm ngƣời có âm mƣu mà chƣa
nhìn thấy hết sức mạnh của quần chúng.
Nhìn chung các tƣ tƣởng thời kỳ này đã thể hiện một cách sâu sắc những
giá trị của chủ nghĩa nhân đạo, muốn giải phóng con ngƣời thoát khỏi mọi ràng

buộc của các luật lệ của Giáo hội và chế độ phong kiến đƣơng thời. Đồng thời phê
phán gay gắt và sâu sắc đối với xã hội tƣ sản, bƣớc đầu xây dựng về mặt lý luận
mô hình xã hội tƣơng lai.


17
Mặc dù còn không ít hạn chế, nhƣng những giá trị tích cực trong nội dung các
học thuyết của các nhà tƣ tƣởng XHCN thời kỳ này là không nhỏ, nó góp phần đƣa lịch
sử các tƣ tƣởng XHCN phát triển lên một bƣớc mới – đó là sự phát triển của CNXH
không tƣởng – phê phán ở Pháp và Anh, cũng nhƣ của CNXH khoa học sau này.
 Chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán đầu thế kỷ XIX
Đây là thời kỳ xuất hiện nền đại công nghiệp và giai cấp vô sản hiện đại cùng với
sự xung đột giữa giai cấp vô sản và giai cấp tƣ sản. Cách mạng dân chủ tƣ sản Pháp
(1789) là thời kỳ CNTB chiến thắng nhƣng chƣa hoàn toàn thắng lợi về chính trị. Sau
thất bại của Napôlêông (1815), giai cấp vô sản hiện đại bắt đầu thức tỉnh về sứ mệnh
lịch sử của mình. Trong hoàn cảnh ấy đã xuất hiện nhiều nhà XHCN không tƣởng nhƣ:
Hăngri Xanhximông, Sáclơ Phuriê và Rôbớc Ôoen…
Cơlôđơ Hăngri đơ Xanhximông (1760-1825). Một trong những nội dung quan
trọng trong tƣ tƣởng của Xanhximông là lý luận về giai cấp và xung đột giai cấp và
khẳng định rằng giai cấp vô sản có đủ sức mạnh giành lại toàn bộ chính quyền. Ông
nhận thấy cuộc đấu tranh giữa những ngƣời không có tài sản và những ngƣời sở hữu là
không tránh khỏi. Xanhximông cho rằng, nguyên nhân dẫn tới sự ra đời của giai cấp là
do chế độ tƣ hữu và ông khẳng định rằng giải phóng giai cấp cần lao là mục đích cuối
cùng của ông.
Xanhximông phê phán cuộc cách mạng dân chủ tƣ sản năm 1789 và xã hội tƣ
sản Pháp. Ông chỉ ra rằng, đó là một cuộc cách mạng còn nhiều hạn chế, nửa vời, thiếu
triệt để, cuộc cách mạng ấy chƣa thiết lập đƣợc một chế độ phù hợp với quyền lợi của
giai cấp nghèo khổ, và cho rằng cần phải có một cuộc cách mạng có thể làm thay đổi
theo hƣớng đảm bảo lợi ích cho số đông và vì số đông giai cấp cần lao.
Xanhximông nêu lên mong muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp đáp ứng đƣợc

các nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi ngƣời, trong xã hội mọi ngƣời đều phải làm
việc, đều trở thành ngƣời lao động và mọi công việc phối hợp một cách có lợi nhất
trong khối liên hiệp thống nhất. Xã hội tƣơng lai phải cải thiện tình hình của giai cấp
nghèo nhất trong xã hội, các thiết chế xã hội phải thúc đẩy việc tăng phúc lợi cho
những ngƣời vô sản. Xanhximông cho rằng muốn xây dựng đƣợc xã hội tƣơng lai thì
trƣớc hết phải giải quyết vấn đề sở hữu một cách có lợi nhất cho toàn xã hội. Tuy


18
nhiên, hạn chế của Xanhximông là vẫn còn duy trì chế độ tƣ hữu và giải quyết mâu
thuẫn xã hội bằng con đƣờng thuần tuý hoà bình. Ông cho rằng, các biện pháp hòa
bình mới là những biệp pháp duy nhất có thể nhằm mục đích xây dựng, sáng tạo, lập
nên những thiết chế vững chắc.
Phrăngxoa Mari Sáclơ Phuriê (1772 - 1837). Trong các tác phẩm của mình, ông
đã phê phán và lên án xã hội tƣ bản một cách sâu sắc và biện chứng. Theo ông, xã hội tƣ
sản là một “trạng thái vô chính phủ của công nghiệp” đó là xã hội mà “Sự nghèo khổ
sinh ra từ chính bản thân sự thừa thãi”. Đặc biệt, ông đã chỉ ra mâu thuẫn cơ bản trong
xã hội tƣ sản là mâu thuẫn giữa những kẻ giầu có ăn không ngồi rồi trong cảnh dồi dào
thừa thãi với quần chúng lao động đòi có việc làm. Sáclơ Phuriê cũng đấu tranh đòi đem
lại quyền cơ bản nhất cho ngƣời lao động là quyền đƣợc lao động. Sáclơ Phuriê cũng
phê phán cái gọi là “dân chủ”, “bình đẳng” trong xã hội tƣ sản, và chỉ ra rằng, trong xã
hội tƣ sản ngƣời nghèo chỉ bình đẳng trên danh nghĩa, còn thực tế, họ phải chịu đựng
mọi bất bình đẳng.
Sáclơ Phuriê mong muốn xây dựng một xã hội mới, trải qua giai đoạn “đảm bảo”
tiến tới giai đoạn “hài hòa”. Trong xã hội đó, có sự thống nhất lợi ích cá nhân, lợi ích tập
thể và lợi ích xã hội, mỗi cá nhân chỉ tìm thấy lợi ích của mình trong lợi ích chung của
toàn xã hội. Sáclơ Phuriê khẳng định khi xã hội mới đã đảm bảo đƣợc điều kiện sinh
sống thì sẽ chuyển sang giai đoạn “hài hòa”, lúc đó mọi ngƣời sẽ lao động hoàn toàn tự
nguyện, đƣợc thực sự tự do và đời sống sẽ hạnh phúc; mọi năng lực của con ngƣời sẽ
đƣợc hoàn thiện, con ngƣời sẽ phát triển tới mức chƣa từng thấy.

Cũng giống nhƣ Xanh Ximông, Phuriê không chủ trƣơng đấu tranh xoá bỏ chế
độ tƣ hữu, phản đối bạo lực và cho rằng xã hội tƣơng lai sẽ đƣợc thực hiện bằng con
đƣờng hòa bình. CNXH của Phuriê nhƣ Ph. Ăngghen đánh giá: “càng phẫn nộ với kẻ
bóc lột giai cấp công nhân không thể tránh khỏi trong phƣơng thức sản xuất ấy, thì nó lại
càng không hiểu sự bóc lột ấy là ở chỗ nào và sinh ra nhƣ thế nào”. Tuy nhiên, những tƣ
tƣởng lao động hấp dẫn, nguyên tắc mọi ngƣời có quyền đƣợc lao động và quyền có tƣ
liệu để sinh sống là những tƣ tƣởng tiến bộ chứng tỏ học thuyết của Phuriê là một bƣớc
tiến lớn trong sự phát triển các quan niệm nhân đạo về CNXH thật sự của con ngƣời.


19
Rôbớt Ôoen (1771 - 1858) lên án và phủ nhận chế độ tƣ hữu một cách sâu sắc và
toàn diện. Theo ông, chế độ tƣ hữu đã làm cho ngƣời sở hữu trở nên ngu muội, ích kỷ, nó
làm cho con ngƣời xa cách nhau, thù hằn nhau, tàn sát, chém giết lẫn nhau. Nó
là nguyên nhân gây ra tất cả các tiêu cực và sự bất hợp lý trong xã hội. Từ đó,
ông kiên quyết bác bỏ chế độ tƣ hữu vì nó là nguyên nhân của mọi tội phạm và
thảm hoạ của con ngƣời. Ông nêu bật tính chất hai mặt của nền công nghiệp hoá
trong chế độ tƣ hữu TBCN từ đó ông kết luận phải xoá bỏ chế độ tƣ hữu. Ông đã
dự đoán một cuộc cách mạng xã hội vĩ đại mà chính nền đại công nghiệp là tiền
đề cho cuộc cách mạng xã hội ấy.
Rôbớt Ôoen chỉ ra xã hội mới phải xây dựng bằng chế độ công hữu và cho rằng
nếu chế độ công hữu đƣợc tổ chức một cách đúng đắn thì sẽ không còn mâu thuẫn đối
kháng về lợi ích, không còn các tệ nạn xã hội; trong xã hội mới các thành viên sẽ sống
nhƣ một gia đình và hoạt động trên cơ sở lao động tập thể, bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ giữa tất cả các thành viên. Hạn chế của Rôbớt Ôoen là muốn cải tạo xã hội
bằng con đƣờng hoà bình và đặt nhiều hy vọng vào nhà cầm quyền của giai cấp tƣ sản.
Có thế khẳng định rằng các học thuyết xã hội của các nhà không tƣởng thời kỳ
này có giá trị tích cực và cả hạn chế.
Thứ nhất, đã phê phán, lên án sâu sắc CNTB ngay từ khi nó mới ra đời, đồng
thời phản ánh đời sống khổ cực cũng nhƣ khát vọng của quần chúng lao động về một xã

hội tốt đẹp hơn xã hội TBCN.
Thứ hai, nhiều nhà không tƣởng đã nhận thấy rằng một xã hội xây dựng trên cơ
sở chế độ tƣ hữu về tƣ liệu sản xuất thì không thể có tự do, bình đẳng, hạnh phúc thực
sự. Họ đã khẳng định phải xoá bỏ chế độ tƣ hữu và xây dựng chế độ công hữu về tƣ liệu
sản xuất. Các nhà không tƣởng đã thức tỉnh đối với đa số quần chúng nhân dân lao động
vùng lên đấu tranh chống lại chế độ tƣ hữu, áp bức, bóc lột, bất công cho dù đó chỉ là
cuộc đấu tranh tự phát và thƣờng kết thúc bằng sự đàn áp và thất bại.
Thứ ba, là giá trị phác thảo mô hình chung về xã hội mới mang tính chất của một
cộng đồng xã hội và CSCN. Đó là một xã hội mà chính quyền nhà nƣớc là do nhân dân
bầu ra một cách dân chủ, là xã hội đƣợc xây dựng trên chế độ công hữu về tƣ liệu sản


20
xuất; là xã hội không có giai cấp, mọi ngƣời sống trong xã hội đều đƣợc chung hƣởng
quyền bình đẳng, ấm no, hạnh phúc
Thứ tư, các nhà không tƣởng đã nêu nhiều luận điểm có giá trị, nhiều tiên đoán, dự
đoán tài tình về quy luật phát triển xã hội, đó là những tiền đề tƣ tƣởng trực tiếp để C.Mác
và Ph.Ăngghen xây dựng hệ thống lý luận về xã hội mới, xã hội XHCN và CSCN
Bên cạnh những giá trị tích cực, CNXH không tƣởng phê phán còn bộc lộ một số
hạn chế, nhƣ: Các nhà không tƣởng không giải thích đƣợc bản chất của chế độ nô lệ làm
thuê trong xã hội TBCN, không phát hiện học thuyết về giá trị thặng dƣ trong nền sản
xuất TBCN. Các nhà không tƣởng chƣa ai phát hiện đƣợc lực lƣợng xã hội có khả năng
lật đổ chế độ tƣ bản và xây dựng thành công chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn tức là chƣa
ai phát hiện đƣợc sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Các nhà không tƣởng chƣa ai
tự đặt mình là ngƣời đại diện cho quyền lợi của giai cấp vô sản và quần chúng lao động
để đấu tranh giải phóng họ, họ tách học thuyết của mình ra khỏi phong trào quần chúng.
- Các nhà không tƣởng còn đứng trên quan điểm duy tâm để mƣu cầu giải phóng xã hội.
 Quá trình hình thành và phát triển của CNXH khoa học
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, CNTB ở một số nƣớc châu Âu đã đạt đƣợc
những thành tựu to lớn nhờ sự phát minh và ứng dụng máy hơi nƣớc trong sản xuất.

Phƣơng thức sản xuất TBCN phát triển mạnh mẽ, vai trò thống trị của giai cấp tƣ sản
đƣợc củng cố, đồng thời bản chất phản động của giai cấp này cũng bộc lộ rõ rệt, mâu
thuẫn giữa lực lƣợng sản xuất và quan hệ sản xuất nảy sinh (biểu hiện theo chu kỳ nạn
khủng hoảng sản xuất, công nhân thất nghiệp) dẫn đến mâu thuẫn xã hội giữa giai cấp
công nhân và giai cấp tƣ sản ngày càng gay gắt, làm xuất hiện các cuộc đấu tranh giai
cấp giữa giai cấp vô sản và tƣ sản, tiêu biểu nhƣ: Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
thành phố Liông (Pháp) năm 1831- 1834. Cuộc khởi nghĩa của công nhân thành phố
Xilêdi (Đức) năm 1844. Phong trào Hiến chƣơng Anh năm 1836 đến 1848. Những sự
kiện này chứng tỏ rằng: mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tƣ sản là có thực
và đã nổi lên so với mâu thuẫn giữa giai cấp tƣ sản và giai cấp phong kiến trƣớc đây.
Các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tƣ sản với tƣ cách
là một lực lƣợng xã hội độc lập với những yêu sách kinh tế và chính trị của riêng giai
cấp mình. Tuy nhiên, các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân cũng bộc lộ yếu kém


21
của mình thể hiện chƣa có đƣờng lối đấu tranh, chƣa có một tổ chức thống nhất lãnh đạo
nên phong trào đều bị thất bại.
Từ điều kiện khách quan ấy, một yêu cầu lịch sử đƣợc đặt ra cho giai cấp vô sản
là phải nhanh chóng xây dựng cho mình một cơ sở lý luận khoa học để dẫn đƣờng cho
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trên con đƣờng thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử
vẻ vang của mình. Và phong trào hiện thực ấy cũng là cơ sở thực tiễn để C.Mác và
Ph.Ăngghen nghiên cứu xây dựng nên học thuyết của mình.
Cùng với sự phát triển của CNTB là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự
nhiên, với những thành tựu to lớn vào đầu thế kỷ XIX, trong đó có 3 phát minh quan
trọng: Học thuyết về tế bào; Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lƣợng; Học thuyết
tiến hoá của Đác Uyn. Những phát minh này có tác dụng trực tiếp phục vụ quá trình
chinh phục thiên nhiên, phát triển sản xuất và tiến bộ xã hội. Nó giúp cho C.Mác và Ph.
Ăngghen khẳng định thêm phép biện chứng của mình.
Cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên ở thế kỷ XIX, khoa học xã hội cũng

phát triển mạnh mẽ, cung cấp những tiền đề tƣ tƣởng, lý luận cho CNXH khoa học ra
đời, tiêu biểu nhƣ: Triết học cổ điển Đức với Phép biện chứng của Hêghen trong xem
xét các sự vật, hiện tƣợng trong tự nhiên và lịch sử và chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc.
Kinh tế chính trị cổ điển Anh với hai nhà kinh tế học là Ađam Smít và Đavít Ricácđô.
Ađam Smít để lại cho học thuyết Mác lý luận về giá trị lao động. Đavít Ricácđô để lại
cho học thuyết Mác lý luận địa tô chênh lệch. CNXH không tƣởng mà đại diện xuất sắc
là Xanhximông, Phuriê và Ôoen đã để lại cho học thuyết Mác mô hình và nguyên tắc
xây dựng xã hội tƣơng lai.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những giá trị của các lý luận nêu trên một cách
có chọn lọc, phê phán và gạt bỏ những mặt hạn chế của họ để tạo ra học thuyết tiên tiến
– CNXH khoa học.
Có thể khẳng định rằng, sự ra đời của CNXH khoa học là một bƣớc ngoặt trong
lịch sử tƣ tƣởng nhân loại nói chung, lịch sử các tƣ tƣởng XHCN nói riêng. Với sự ra
đời của CNXH khoa học nó đã thay thế và chấm dứt hoàn toàn sự tồn tại của các quan
điểm, các học thuyết về CNXH có tính chất không tƣởng trong lịch sử loài ngƣời trƣớc


22
đó. Với công lao to lớn của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đƣa CNXH từ không tƣởng
trở thành khoa học.
1.2.2. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội
CNXH theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là giai đoạn đầu của hình thái
kinh tế - xã hội CSCN. CNXH tiến bộ, ƣu việt hơn tất cả các xã hội trƣớc đó về các đặc
trƣng chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm giải phóng con ngƣời khỏi mọi tình trạng
áp bức, bóc lột, bất công. Để xây dựng CNXH, những ngƣời cộng sản phải hình dung,
phác thảo ra đƣợc những đƣờng nét cơ bản nhất của mô hình CNXH. Nếu không phác
thảo đƣợc mô hình, những đƣờng nét cơ bản thì rất khó định hƣớng để xây dựng CNXH
và biến nó trở thành hiện thực.
Ngay từ khi mới hình thành CNXH khoa học, C.Mác và Ăngghen đã cố gắng
phác họa ra mô hình CNXH với đầy đủ các đặc trƣng và sau này đƣợc Lênin bổ sung và

đƣa vào thực tiễn, về xây dựng một xã hội không có áp bức bất công, con ngƣời đƣợc
sống bình đẳng với nhau. Các nhà kinh điển Mác - Lê nin đã đƣa ra 6 đặc trƣng cơ bản
nhƣ sau:
Thứ nhất, cơ sở vật chất của CNXH là nền đại công nghiệp hiện đại
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, mỗi chế độ xã hội đều có
một cơ sở vật chất - kỹ thuật tƣơng ứng, phản ánh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật
của nó. Nếu công cụ thủ công là đặc trƣng cho cơ sở vật chất – kỹ thuật của các xã hội
tiền TBCN thì nền đại công nghiệp cơ khí là cơ sở vật chất của CNTB. Xã hội XHCN
nảy sinh với tính cách là phủ định biện chứng CNTB, xét cả mặt thực tế, cả logic – lý
luận khoa học đều chứng minh rằng, xã hội XHCN là sự kế tiếp sau xã hội TBCN, có
nhiệm vụ giải quyết những mâu thuẫn mà CNTB đã không thể giải quyết triệt để. Đặc
biệt, là giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu xã hội hóa ngày càng tăng của lực lƣợng sản
xuất ngày càng hiện đại với chế độ chiếm hữu tƣ nhân TBCN về tƣ liệu sản xuất. Do đó,
cơ sở vật chất của xã hội XHCN, khi nó hoàn thiện, nhất thiết phải là nền đại công
nghiệp phát triển cao hơn so với CNTB.
Thứ hai, xã hội XHCN xoá bỏ chế độ tư hữu TBCN, thiết lập chế độ công hữu về
những tư liệu sản xuất chủ yếu

×