ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
MẠC THỊ LỆ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH CAO BẰNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI, 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
MẠC THỊ LỆ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH CAO BẰNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số : 60.22.85
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Trần Ngọc Liêu
HÀ NỘI, 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ với đề tài “Thực hiện chính sách
xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Cao Bằng” là công trình nghiên cứu của riêng cá
nhân tôi và những kết quả nghiên cứu trong luận văn này hoàn toàn trung thực.
Hà Nội, tháng 7 năm 2014
Tác giả Luận văn
Mạc Thị Lệ
LỜI CẢM ƠN
Luận văn với đề tài “Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở tỉnh
Cao Bằng” đƣợc hoàn thành tại trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà nội. Để hoàn thành luận văn, bên cạnh những nỗ lực
của bản thân, tác giả luận văn đã nhận đƣợc sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá
nhân, tập thể.
Trƣớc tiên, với tình cảm chân thành, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới TS. Trần Ngọc Liêu, thầy đã nhiệt tình hƣớng dẫn khoa học cho tác
giả để luận văn đƣợc hoàn thành.
Tác giả xin đƣợc gửi lời cảm ơn tới Ban Giám hiệu, quý thầy cô, các
cán bộ, công chức của Phòng, Ban, Khoa, Thƣ viện trƣờng Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn đã hết sức giúp đỡ tác giả trong quá trình hoàn thành luận
văn.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn gia đình, ngƣời thân, bạn bè và đồng nghiệp
đã luôn quan tâm, động viên và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình hoàn thành
Luận văn thạc sỹ của mình.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả Luận văn
Mạc Thị Lệ
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Tình hình nghiên cứu. 5
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 9
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 9
6. Ý nghĩa của luận văn 9
7. Kết cấu của luận văn 10
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ CHÍNH
SÁCH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO 11
1.1. Khái luận chung về đói nghèo và chính sách xóa đói giảm nghèo. 11
1.1.1. Một số vấn đề lý luận về đói nghèo. 11
1.1.2. Một số vấn đề lý luận về chính sách xóa đói giảm nghèo. 19
1.2. Tính tất yếu của việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo. 23
1.2.1. Tính tất yếu về mặt lý luận. 23
1.2.2. Tính tất yếu về mặt thực tiễn. 30
Chƣơng 2: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI GIẢM
NGHÈO Ở TỈNH CAO BẰNG 42
2.1.2. Nguyên nhân đói nghèo ở tỉnh Cao Bằng 49
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở Cao Bằng. 56
2.2.1. Mục tiêu thực hiện chính sách. 56
2.2.2. Nội dung và những thành tựu đạt được trong việc thực hiện chính
sách xóa đói giảm nghèo 60
2.3. Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong việc thực hiện chính
sách xóa đói giảm nghèo ở Cao Bằng 73
2.3.1. Hạn chế. 73
2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế. 82
2
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI GIẢM
NGHÈO Ở TỈNH CAO BẰNG 87
3.1. Giải pháp về quan điểm nhận thức. 87
3.2. Giải pháp về hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo. 89
3.3. Giải pháp về hoàn thiện chính sách xóa đói giảm nghèo 99
KẾT LUẬN 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 111
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bƣớc vào thể kỷ XXI, xã hội loài ngƣời đang trên đà phát triển mạnh cả
về kinh tế và xã hội, điều này làm cho một số nƣớc trên thế giới cũng nhƣ
Việt Nam đang đứng trƣớc những thay đổi lớn lao có ý nghĩa bƣớc ngoặt.
Những thay đổi ấy tạo ra những cơ hội và thách thức đối với đƣờng lối, chính
sách phát triển.
Trong những năm qua, nền kinh tế – xã hội của nƣớc ta đạt đƣợc những
thành tựu quan trọng, tuy nhiên với điểm xuất phát thấp nên nƣớc ta vẫn là
một nƣớc nghèo. Vì vậy, công cuộc xóa đói giảm nghèo là một trong những
chính sách ƣu tiên hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của
Việt Nam
Với sự phát triển kinh tế của đất nƣớc, nhìn chung đại bộ phận đời sống
nhân dân đã đƣợc nâng cao rõ rệt, con ngƣời không những đƣợc đáp ứng đầy
đủ vật chất hàng ngày mà còn có điều kiện để nghiên cứu, học tập và phát huy
năng lực cá nhân trong môi trƣờng phát triển theo xu thế chung của nhân loại.
Tuy nhiên, đối ngƣợc với những thành tựu đó vẫn còn tồn tại một bộ phận
không ít dân cƣ, đặc biệt là dân cƣ ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa vẫn chƣa có
điều kiện để tự nâng cao đời sống của mình, vật chất vẫn còn thiếu thốn, đói
nghèo vẫn còn hoành hành, những điều kiện tối thiểu của cuộc sống nhƣ ăn,
ở, mặc, đi lại, vẫn còn nhiều khó khăn. Hệ lụy của sự mất cân bằng này trong
xã hội đã tạo nên sự phân hoá giàu nghèo, chênh lệch trong phát triển cả về
vật chất lẫn tinh thần. Vì vậy, Vấn đề đói nghèo không chỉ là mối quan tâm
hàng đầu của những nƣớc có nền kinh tế phát triển, mà đối với nƣớc ta khi
nền kinh tế đang có những biến chuyển thì vấn đề phân hoá giàu nghèo lại là
vấn đề cần phải đƣợc chú trọng hơn.
Để phát triển đất nƣớc theo cơ chế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa thì một trong những điều đầu tiên cần đƣợc quan tâm là cân bằng về
4
chất lƣợng cuộc sống trong xã hội và xóa bỏ sự phân hóa về giàu nghèo.
Trong đó, thực hiện xoá đói giảm nghèo để có thể rút ngắn đƣợc khoảng cách
chênh lệch trong xã hội, nâng cao đời sống đối với ngƣời dân xóa bỏ nạn đói
nghèo là công việc quan trọng. Nhƣ vậy, xóa đói giảm nghèo không chỉ là
nhiệm vụ của các cấp, các ngành, ở từng địa phƣơng mà còn là nhiệm vụ của
tất cả mọi ngƣời, của toàn thể nhân dân.
Trong những năm qua, với những thay đổi trong phát triển kinh tế đã tạo
ra những cơ hội và thách thức đối với đƣờng lối và chính sách phát triển của
Đảng và Nhà nƣớc ta. Chính sách xóa đói giảm nghèo đã trở thành một chủ
trƣơng lớn và là một nội dung quan trọng của nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với quan điểm xuyên suốt trong cƣơng lĩnh
phát triển đất nƣớc của Đảng ta là tăng trƣởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng thời kỳ và từng chính sách phát
triển. Từ quan điểm ấy, nhiều năm qua xóa đói giảm nghèo đã trở thành một
chính sách xã hội trọng điểm trong suốt quá trình phát triển kinh tế và xã hội.
Cao Bằng là một tỉnh miền núi phía bắc nằm trong danh sách năm tỉnh
nghèo nhất cả nƣớc, với hơn 95% đồng bào là ngƣời dân tộc thiểu số và hơn
70% số xã nằm trong diện đặc biệt khó khăn, là tỉnh vùng cao có đƣờng biên
giới khá dài, lại nằm xa khu trung tâm kinh tế của cả nƣớc nên kinh tế chủ
yếu là nông - lâm nghiệp, nặng tính tự cung, tự cấp, sản xuất hàng hoá và dịch
vụ chƣa phát triển, cơ sở hạ tầng yếu kém nên tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt
khó khăn còn cao. Vì vậy, tỉnh Cao Bằng thực hiện chính sách xoá đói giảm
nghèo là thực hiện một trong những chính sách xã hội cơ bản hƣớng vào phát
triển con ngƣời, nhất là ngƣời nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia vào quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc, để cho ngƣời nghèo có cơ hội và điều
kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội phát triển sản xuất tự vƣơn lên thoát khỏi đói
nghèo. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu chiến lƣợc xóa đói giảm
5
nghèo thì trong những năm qua tỉnh Cao Bằng đã tích cực triển khai thực hiện
các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc.
Tuy nhiên, công cuộc thực hiện xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Cao Bằng
vẫn còn nhiều hạn chế và gặp nhiều trở ngại. Nhận thấy vấn đề xóa đói giảm
nghèo ở tỉnh Cao Bằng là một vấn đề cấp thiết. Chính vì vậy tác giả đã chọn
đề tài “Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Cao Bằng” làm đề tài
nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Từ trƣớc đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề xóa đói
giảm nghèo, các công trình ấy ít nhiều đã tổng hợp, phân tích, làm rõ về quan
niệm, các yếu tố dẫn đến đói nghèo và những giải pháp về xóa đói giảm
nghèo và đƣợc tiếp cận dƣới nhiều góc độ khác nhau:
Các công trình do Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội chủ biên nhƣ: Đói
nghèo ở Việt Nam (Hà Nội, 1993); Nhận diện đói nghèo ở nước ta (Hà Nội,
1993), Xóa đói giảm nghèo (Hà Nội, 1996), Xóa đói giảm nghèo với tăng
trưởng kinh tế (Nxb Lao động, 1997). Các công trình nghiên cứu này làm rõ
các vấn đề lý luận về đói nghèo và phân tích rõ về các yếu tố ảnh hƣởng đến đói
nghèo ở nƣớc ta, từ đó đƣa những giải pháp nhằm xóa đói giảm nghèo nói chung.
Các công trình nghiên cứu là tài liệu tham khảo phù hợp cho các địa
phƣơng thuộc khu vực miền núi nói chung.
Sách chuyên khảo của Hà Quế Lâm “Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân
tộc thiểu số nước ta hiện nay – thực trạng và giải pháp” (Nxb Chính trị quốc
gia, Hà nội, 2002) đã cho ngƣời đọc thấy đƣợc tình trạng đói nghèo ở nhiều
vùng dân tộc thiểu số ở nƣớc ta. Đồng thời tác giả còn nêu ra những nguyên nhân
cơ bản về tình trạng đói nghèo và đƣa ra những khuyến nghị về định hƣớng và
một số giải pháp xóa đói, giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số ở nƣớc ta.
Một số sách chuyên khảo chỉ đi sâu nghiên cứu thực trạng đói nghèo ở
riêng một địa phƣơng nhƣ: Tiến sỹ Hoàng Văn Cƣờng với sách chuyên khảo
6
“Xóa đói giảm nghèo ở huyện Từ Liêm” (Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2004)
cũng đã nêu rõ đặc trƣng về tình hình đói nghèo ở huyện Từ Liêm nói riêng.
Qua đó cũng nêu giải pháp và kiến nghị nhằm xóa đói giảm nghèo ngay tại
huyện Từ Liêm. Đây là sách để các tỉnh lân cận khu vực ngoại thành Hà Nội
và các tỉnh miền bắc nói chung có thể nghiên cứu, tham khảo trong việc xóa
đói giảm nghèo cho ngƣời dân.
Một số công trình nghiên cứu khác cũng đƣa ra những cách thức,
phƣơng pháp để ngƣời dân có thể tham khảo, vận dụng, tự xóa đói giảm
nghèo và tự thoát nghèo bằng nhiều cách khác nhau, đó là: “Làm ăn có kế
hoạch để xóa đói giảm nghèo” của nhóm tác giả Vi Hồng Nhân – Ngô Quang
Hƣng – Trịnh Thị Thủy (Nxb Văn hóa dân tộc, 2007), “Những điển hình tiên
tiến trong xóa đói giảm nghèo” của nhóm tác giả Đinh Viết Vinh – Phạm Văn
Khánh – Viết Hồng (Nxb Lao động xã hội, 2006), tài liệu của nhóm tác giả
Trần Văn Ơn – Tô Xuân Phúc – Nguyễn Tất Cảnh,“Thương mại hóa sản
phẩm bản địa: hướng đi mới nhằm xóa đói giảm nghèo cho miền núi Việt
Nam” (Nxb Nông nghiệp, 2008). Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này
là tài liệu tham khảo phù hợp cho các địa phƣơng thuộc khu vực miền núi và
vùng dân tộc thiểu số ở nƣớc ta.
Các bài viết công bố trên các tạp chí cũng đã đề cập tới việc thực hiện
xóa đói giảm nghèo.
Để thấy đƣợc tình hình đói nghèo ở tỉnh Cao Bằng nói riêng, tác giả
Nguyễn Thị Nƣơng với bài viết “Cao Bằng tập trung nguồn lực đầu tư phát
triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số”, tạp chí Cộng Sản số 812 (2010) cho
thấy hiệu quả công tác dân tộc và chính sách dân tộc đã góp phần tạo ra sự
chuyển biến mạnh mẽ về đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc thiểu số ở
Cao Bằng. Đồng thời, đƣa ra một số chủ trƣơng lớn để tập trung nguồn lực
phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn
tiếp theo.
7
Một số bài có thể là tài liệu tham khảo trong việc đƣa ra những giải
pháp xóa đói giảm nghèo nhƣ: “Trợ giá, trợ cước ở Cao Bằng: Tiếp sức cho
xoá đói giảm nghèo” của Bằng Giang, (theo Báo Dân tộc & Phát triển - Số
45/2009), bài viết đã cho thấy thực tế về cuộc sống thiếu thốn của ngƣời dân
tại Cao Bằng, đồng thời bài viết cũng cho thấy rõ một số giải pháp đƣợc tỉnh
đề ra để nhằm giúp đỡ cuộc sống của ngƣời dân địa phƣơng.
Nhằm đƣa ra các giải pháp trong việc thực hiện một số chính sách xã
hội và thực hiện an sinh xã hội ở địa phƣơng thì bài viết “Cơ sở lý luận và
thực tiễn để xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách an sinh xã hội trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế”, tạp chí Cộng sản số 834 (2012) của tác giả Nguyễn Hữu Dũng là một
trong những tài liệu tham khảo nghiên cứu sâu sắc về vấn đề thực hiện hệ
thống chính sách an sinh xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Bài viết “Thực hiện một số chính sách xã hội ở vùng dân tộc thiểu số
trong hội nhập và phát triển” của tác giả Sơn Phƣớc Hoan trong tạp chí cộng
sản số 805 (2009) đã cho thấy đƣợc nguyên nhân dẫn đến đói nghèo ở vùng
dân tộc thiểu số nói chung, qua đó đƣa ra những chính sách và đƣa ra những
giải pháp nhằm xóa đói giảm nghèo và phát triển trong qua trình hội nhập và
phát triển trong giai đoạn hiện nay.
Trong những năm gần đây có các những công trình nghiên cứu là các
Luận văn thạc sỹ nhƣ: “An sinh xã hội đối với nông dân tỉnh Cao Bằng trong
giai đoạn hiện nay” của tác giả Nông Văn Dũng, (Đại học khoa học xã hội và
nhân văn, (2011)). Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề an sinh xã
hội đối với nông dân tỉnh Cao Bằng từ năm 2011 đến nay, luận văn đi sâu
nghiên cứu về thực trạng và giải pháp thực hiện bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã
hội, xóa đói giảm nghèo và vấn đề giải quyết việc làm tăng thu nhập cho
ngƣời nông dân tỉnh Cao Bằng.
8
Luận văn thạc sỹ của tác giả Hoàng Thị Ngọc Hà “Đảng bộ tỉnh Cao
Bằng lãnh đạo công tác xóa đói, giảm nghèo từ năm 2001 đến năm 2010”.
Đại học quốc gia Hà Nội, (2012). Luận văn chủ yếu đi sâu nghiên cứu sự lãnh
đạo công tác xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ tỉnh Cao bằng trên địa bàn của
tỉnh, từ đó đƣa ra một số nhận xét và bài học kinh nghiệm trong quá trình lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh Cao Bằng.
Nhìn chung, các công trình ở trên đã đề cập đến vấn đề đói nghèo dƣới
các góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn. Một số bài viết nghiên cứu cụ
thể về các vấn đề đói nghèo của ngƣời dân ở tỉnh Cao Bằng, cho thấy đời
sống hàng ngày của ngƣời dân còn nghèo khó cả về vật chất và tinh thần, qua
đó cũng đề ra các hƣớng giải pháp nhằm để thực hiện xóa đói giảm nghèo.
Nhận thấy việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo mang tính thiết
thực và quan trọng nên tôi lựa chọn vấn đề Thực hiện chính sách xóa đói giảm
nghèo ở tỉnh Cao Bằng làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Từ việc làm rõ vấn đề lý luận về đói nghèo, chính sách xóa đói giảm
nghèo, quan điểm và đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc ta về xóa đói giảm
nghèo, luận văn khảo sát và đánh giá tình hình thực hiện chính sách xóa đói
giảm nghèo ở tỉnh Cao Bằng. Từ đó đƣa ra giải pháp về xóa đói giảm nghèo
nhằm nâng cao việc xóa đói giảm nghèo bền vững ở Cao bằng.
- Nhiệm vụ:
Để đạt đƣợc mục đích trên luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ cơ bản sau:
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về đói nghèo và chính sách xóa đói
giảm nghèo.
+ Luận giải về tính tất yếu của việc xóa đói giảm nghèo.
9
+ Khảo sát và đánh giá việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở
tỉnh Cao Bằng.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao việc xóa đói giảm nghèo
bền vững trong những năm gần đây.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng:
Luận văn đi sâu nghiên cứu về vấn đề đói nghèo, chính sách xóa đói
giảm nghèo và việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo.
- Phạm vi: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện chính sách xóa đói
giảm nghèo ở tỉnh Cao Bằng từ năm 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn thực hiện trên cơ sở vận dụng lý luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đói nghèo
và đƣờng lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về xóa đói giảm
nghèo.
- Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu luận văn chủ yếu sử dụng các phƣơng pháp
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phƣơng pháp phân tích,
tổng hợp, logic, lịch sử, quy nạp, diễn dịch nhằm thực hiện mục đích, nhiệm
vụ đề tài đặt ra.
6. Ý nghĩa của luận văn.
Luận văn đóng góp một phần cho việc làm rõ thêm cơ sở lý luận về Đói
nghèo, chính sách xóa đói giảm nghèo. Luận văn đánh giá khách quan thực
trạng đói nghèo và tình hình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở tỉnh
Cao Bằng.
Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch
định chính sách xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Luận văn có
10
thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu vấn đề xóa đói giảm nghèo ở
các địa bàn có đặc thù tƣơng tự nhƣ cao Bằng làm tƣ liệu giảng dạy và là tài
liệu tham khảo cho việc hoạch định chính sách và quản lý trong vấn đề xóa
đói giảm nghèo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chƣơng và 8 tiết.
11
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÓI NGHÈO
VÀ CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1. Khái luận chung về đói nghèo và chính sách xóa đói giảm nghèo.
1.1.1. Một số vấn đề lý luận về đói nghèo.
Trong những năm qua, vấn đề đói nghèo luôn đƣợc cả cộng đồng quốc
tế quan tâm, tại hội nghị thƣợng đỉnh thiên niên kỷ của Liên Hợp quốc năm
2000, có 189 quốc gia thành viên tham gia đã nhất trí thông qua tuyên bố
thiên niên kỷ và cam kết đạt mục tiêu thiên niên kỷ vào năm 2015 [10, tr. 9].
Điều này thể hiện sự đồng thuận chƣa từng có trong lịch sử của các nhà lãnh
đạo trên thế giới về những thách thức lớn trên toàn cầu trong thế kỷ XXI cũng
nhƣ cam kết chung về việc giải quyết thách thức này. Tuyên bố thiên niên kỷ
và các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ tạo ra lộ trình và tầm nhìn về một thế
giới mà ở đó không còn đói nghèo, ai cũng đƣợc học hành, sức khỏe của
ngƣời dân đƣợc cải thiện, môi trƣờng đƣợc bảo vệ một cách bền vững, mọi
ngƣời đều đƣợc hƣởng các quyền tự do, bình đẳng và công bằng [10, tr. 9].
Từ trƣớc đến nay có đã nhiều quan điểm khác nhau về đói nghèo, tuy
nhiên, để xác định đói nghèo có thể xem xét ở nhiều góc độ khác nhau.
Trước hết, về kinh tế, nhìn chung đƣợc thể hiện qua thu nhập của họ từ
các công việc mà họ hoạt động để đáp ứng những nhu cầu cơ bản về: ăn, mặc,
ở, y tế, giáo dục, văn hóa và các giao tiếp xã hội. Đồng thời tƣơng ứng với
kinh tế đó là mức sống của họ trong xã hội. Vì vậy, khi xem xét hiện tƣợng
đói nghèo ở lĩnh vực kinh tế thì những nhu cầu cơ bản, tối thiểu về đời sống
vật chất cần phải đƣợc quan tâm.
Các khoản tiêu dùng từ thu nhập phản ánh mức độ thỏa mãn các nhu
cầu tối thiểu để xem đối tƣợng đói nghèo đã phải chi cho ăn uống nhƣ thế
nào, chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong cơ cấu tiêu dùng của họ. Từ đó thấy đƣợc
12
thực trạng nghèo đói và độ chệnh lệch có tính chất vùng hoặc khu vực giữa
các đối tƣợng khác nhau.
Thu nhập từ kinh tế quyết định mức sống hàng ngày của ngƣời nghèo.
Mức sống bao gồm các loại chi tiêu trong đời sống hàng ngày và có liên hệ
mật thiết đến chế độ dinh dƣỡng, năng lƣợng (calo) trên đầu ngƣời trong một
ngày. Chi tiêu và thu nhập luôn tồn tại cùng nhau trong hoạt động sống. Thu
nhập của ngƣời nghèo nhìn chung rất thấp và không ổn định, chính vì vậy mà
thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần là điều tất yếu. Đối với ngƣời nghèo, do
nguồn thu nhập ít ỏi nên hầu nhƣ phần lớn thu nhập chủ yếu đƣợc sử dụng để
đáp ứng nhu cầu ăn uống thƣờng ngày, còn nhu cầu về tinh thần thì rất ít hoặc
cũng có thể không có điều kiện để đáp ứng. Chính vì thế, đói nghèo đƣợc thể
hiện rõ nét khi không đƣợc đáp ứng trong các tiêu chí định tính đƣợc thể hiện
ở một vài khía cạnh nhƣ nhà ở, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, việc làm (khả
năng nắm bắt và chuyển đổi), vốn xã hội (quan hệ, thông tin…).
Thứ hai, xét về góc độ văn hóa – xã hội, tình trạng hoặc mức độ đói
nghèo đƣợc thể hiện rõ trong việc tiếp cận của ngƣời nghèo đối với các vấn đề
văn hóa, xã hội nhƣ: y tế, giáo dục, văn hóa, thông tin, tín dụng…còn hạn chế.
Sự thiếu thốn trong lĩnh vực giáo dục đã làm cho trình độ dân trí của họ
có sự cách biệt đáng kể, khả năng tham gia vào các hoạt động của một xã hội
hiện đại là hạn chế.
Đối với việc tiếp cận các dịch vụ y tế, vấn đề chăm sóc sức khỏe của
ngƣời nghèo nhìn chung ở mức độ thấp. Đa số những ngƣời nghèo thƣờng ít
đến các bệnh viện khám chữa bệnh, vì hạn chế trong vấn đề nhận thức nên họ
thƣờng tự chữa bệnh bằng các phƣơng pháp dân gian hoặc áp dụng một số hủ
tục lạc hậu gây nên những kết quả đáng tiếc xảy ra đối với tính mạng. Sự tiếp
cận đối với các hoạt động khám chữa bệnh định kỳ, tiêm chủng mở rộng,
nhận thức trong việc bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em… đều hạn chế.
13
Đối với các vấn đề thông tin truyền thông, thông tin thời sự hàng ngày
của ngƣời nghèo cập nhật còn ở mức độ thấp nên sự hiểu biết và mức độ
hƣởng thụ còn hạn chế. Mức độ tiếp nhận văn hóa – thông tin, phát thanh
truyền hình vẫn chƣa đƣợc đáp ứng đối với các nhu cầu hàng ngày của họ, các
thông tin kinh tế thị trƣờng, tiến bộ khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm về sản
xuất giỏi…cập nhật ở mức độ yếu kém.
Các vấn đề về chuyển giao khoa học – kỹ thuật và chuyển dịch cơ cấu
sản xuất hầu hết đều hạn chế trong việc áp dụng. Họ vẫn giữ các hình thức
canh tác truyền thồng lạc hậu, sử dụng những kỷ thuật đơn giản trong hoạt
động sản xuất hàng ngày. Chính vì vậy, kết quả thu đƣợc luôn kém hiệu quả
về kinh tế.
Nhƣ vậy, cần có cách nhìn nhận tổng thể về đói nghèo và xem xét các
đặc trƣng, tiêu chí về đói nghèo trong sự tƣơng tác lẫn nhau mới có thể xác
định chính xác sự tác động của các yếu tố khác nhau đến tình trạng đói nghèo,
từ đó có chiến lƣợc giảm nghèo thích hợp.
Một số nhà khoa học, kinh tế học cũng đã đƣa ra những quan điểm của
mình về đói nghèo.
Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nƣớc đang phát
triển, Robert McNamara, khi là giám đốc của Ngân hàng Thế giới, đã đƣa ra
khái niệm nghèo tuyệt đối. Trong đó ông cho rằng, nghèo ở mức độ tuyệt đối
là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Điều đó có nghĩa là thu nhập thực
tế của họ không đảm bảo đủ cho họ đƣợc hƣởng cái mà xã hội cho phép họ
đƣợc hƣởng mức tối thiểu để duy trì đƣợc tái sản xuất sức lao động. Theo quan
niệm này thì nghèo tuyệt đối thƣờng chỉ tồn tại ở các nƣớc chậm phát triển.
Nhƣ vậy, có thể hiểu rằng, nghèo tuyệt đối là tình trạng thiếu thốn
những điều kiện tối thiểu để duy trì cuộc sống, tiếp cận những nhu cầu về các
vấn đề dinh dƣỡng, giáo dục và các dịch vụ y tế. Việc xác định đối tƣợng là
nghèo tuyệt đối hay không phải dựa vào chuẩn nghèo của quốc gia và của thế giới.
14
Trên mức nghèo tuyệt đối thì khái niệm nghèo tƣơng đối đƣợc sử dụng
và tồn tại ở tất cả các nƣớc, kể cả các nƣớc phát triển. Nghèo tƣơng đối là một
bộ phận dân cƣ hoặc một cá nhân có thu nhập thấp hơn thu nhập và mức sống
trung bình của xã hội, do đó họ thiếu cơ hội để tạo thu nhập, thiếu tài sản để
tiêu dùng, dễ bị tổn thƣơng khi rủi ro.
Nghèo tƣơng đối có thể đƣợc xem nhƣ là việc cung cấp không đầy đủ
các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những ngƣời thuộc về một số tầng
lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó. So với mức sống trung
bình của một quốc gia, bộ phận dân cƣ có mức sống dƣới mức sống trung
bình đƣợc coi là nghèo khổ. Sự chênh lệch về mức sống của các tầng lớp dân
cƣ tạo ra nghèo tƣơng đối. Nhìn chung các quốc gia trên thế giới đều tồn tại
sự bất bình đẳng trong thu nhập và phân phối thu nhập. Dựa vào nhiều số liệu
thống kê khác nhau trong một xã hội thì có thể biết đƣợc ranh giới của nghèo
tƣơng đối. Tỷ lệ nghèo tƣơng đối của một xã hội, một đất nƣớc có thể dao
động thƣờng xuyên và thƣờng thì sẽ có mức chuẩn cho việc xác định nghèo
tuyệt đối và nghèo tƣơng đối. Các ranh giới nghèo tƣơng đối và nghèo tuyệt đối
đều không có thể xác định đƣợc nếu nhƣ không có trị số tiêu chuẩn cho trƣớc.
Hiện nay, ngƣời ta còn áp dụng phƣơng pháp xác định đói nghèo theo
Tổng cục Thống kê, Ngân hàng thế giới xác định và đƣợc thực hiện trong các
cuộc khảo sát mức sống dân cƣ.
Đƣờng đói nghèo ở mức thấp gọi là đƣờng đói nghèo về lƣơng thực, thực
phẩm. Đây là phƣơng pháp chung nhất mà các quốc gia cũng nhƣ các tổ chức
quốc tế xác định đói nghèo là dựa vào nhu cầu chi tiêu cho nhu cầu lƣơng
thực, thực phẩm. Đƣờng đói nghèo về lƣơng thực, thực phẩm đƣợc xác định
theo chuẩn mà hầu hết các nƣớc đang phát triển cũng nhƣ Tổ chức Y tế Thế
giới và các cơ quan khác đã xây dựng mức Calo tối thiểu cần thiết cho mỗi
thể trạng con ngƣời, là chuẩn về nhu cầu 2.100 Calo/ngƣời/ngày. Những
15
ngƣời có mức chi tiêu dƣới mức chi cần thiết để đạt đƣợc lƣợng Calo này gọi
là nghèo về lƣơng thực, thực phẩm [16, tr. 9].
Đƣờng đói nghèo thứ hai ở mức cao hơn gọi là đƣờng đói nghèo chung,
bao gồm cả mặt hàng lƣơng thực, thực phẩm và phi lƣơng thực, thực phẩm.
So với đƣờng đói nghèo ở mức thấp thì đƣờng đói nghèo chung đƣợc
tính thêm các chi phí cho các mặt hàng phi lƣơng thực, thực phẩm. Tính cả
chi phí này với đƣờng đói nghèo về lƣơng thực, thực phẩm ta có đƣờng đói
nghèo chung. Tuy nhiên, kinh tế càng phát triển thì tỷ lệ chi cho nhu cầu
lƣơng thực, thực phẩm ngày một giảm mà chi cho nhu cầu phi lƣơng thực,
thực phẩm ngày một tăng.
Để xác định đói nghèo thì chuẩn nghèo không chỉ là cơ sở quan trọng
nhất để xác định các hộ gia đình đƣa vào chƣơng trình xóa đói giảm nghèo mà
còn phải phản ảnh thực chất nghèo của dân cƣ, giúp cho các nhà quản lý và
các nhà khoa học một cái nhìn căn cơ hơn về thực chất tình trạng nghèo.
Chuẩn nghèo mới phải tiến thêm một bƣớc về nguyên tắc, đảm bảo đƣợc các
yêu cầu: đảm bảo nhu cầu tối thiểu về dinh dƣỡng (đủ ăn và có chất), chỗ ở,
và các dịch vụ y tế, xã hội.
Có thể thấy, chuẩn nghèo là một khái niệm động, nó biến động theo
không gian và thời gian. Về không gian, nó biến đổi theo trình độ phát triển
kinh tế - xã hội của từng vùng và từng quốc gia. Về thời gian, chuẩn nghèo có
sự biến động lớn và nó biển đổi theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và nhu
cầu của con ngƣời theo từng giai đoạn lịch sử, vì kinh tế, xã hội phát triển thì
đời sống của con ngƣời đƣợc cải thiện hơn.
Đối với Việt Nam, thừa nhận định nghĩa về đói nghèo tại Hội nghị về
chống đói nghèo do Ủy ban Kinh tế xã hội khu vực Châu Á Thái Bình Dƣơng
(ESCAP) tổ chức tại Bangkok, Thái Lan vào tháng 9/1993, các quốc gia trong
khu vực đã thống nhất cao và cho rằng: “Nghèo đói là tình trạng một bộ phận
dân cƣ không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con ngƣời mà
16
những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập
quán của từng vùng và những phong tục ấy đƣợc xã hội thừa nhận” [10, tr. 20].
Điểm cốt lõi của định nghĩa này là ở nhu cầu cơ bản của con ngƣời,
căn cứ xác định đói hay nghèo là ở chỗ đối với nhu cầu cơ bản ấy con ngƣời
có thể đƣợc hƣởng và thỏa mãn hay không. Nhu cầu cơ bản chính là cái thiết yếu,
tối thiểu để duy trì sự tồn tại của con ngƣời nhƣ những vấn đề ăn, mặc, ở, đi lại.
Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc và hiện
trạng đời sống trung bình phổ biến của cƣ dân hiện nay mà đƣa ra chuẩn
nghèo chung cho cả nƣớc. Chuẩn nghèo Việt Nam là một tiêu chuẩn để đo
lƣờng mức độ nghèo của các hộ dân tại Việt Nam. Chuẩn nghèo khác với
chuẩn nghèo bình quân trên thế giới. Tuy nhiên, do có sự khác nhau về mức
sống và giá cả theo thời gian và theo địa phƣơng nên tiêu chuẩn xác định đói
nghèo cũng đƣợc thay đổi theo từng thời kỳ và từng vùng.
Căn cứ vào mức sống cụ thể của các địa phƣơng, Bộ Lao động – Thƣơng
binh và Xã hội đã công bố chuẩn nghèo tính theo thu nhập bình quân đầu ngƣời
cho các giai đoạn cụ thể khác nhau: Giai đoạn 1993 – 1995, giai đoạn 1996 –
2000 và giai đoạn 2001 – 2005, giai đoạn 2006 – 2010. Chuẩn nghèo đƣợc tính
đƣợc tính toán dựa vào mức thu nhập tối thiểu/ngƣời/ngày tính ra đơn vị lƣơng
thực quy gạo hay tiền Việt Nam và khác nhau giữa các vùng.
Tiêu chí đánh giá đói nghèo đƣợc dựa vào chuẩn đánh giá nghèo do Bộ
Lao động Thƣơng binh và xã hội ban hành lần thứ nhất vào năm 1993 quy
định: Chia hộ đói nghèo trong cả nƣớc làm hai loại là hộ đói và hộ nghèo,
chia cả nƣớc làm 2 vùng đói nghèo là thành thị và nông thôn, trong đó: Hộ
đói là hộ có thu nhập lƣơng thực quy gạo bình quân dƣới 8 kg/ngƣời/tháng
đối với khu vực nông thôn và dƣới 13 kg/ngƣời/tháng đối với khu vực thành
thị. Hộ nghèo là hộ có thu nhập lƣơng thực quy gạo bình quân dƣới 15
kg/ngƣời/tháng đối với khu vực nông thôn và dƣới 20 kg/ngƣời/tháng đối với
khu vực thành thị.
17
Để đánh giá phù hợp với sự thay đổi của điều kiện kinh tế xã hội năm
1995 chuẩn nghèo lần thứ hai đƣợc ban hành: Chia hộ đói nghèo trong cả nƣớc
thành hai loại là hộ đói và hộ nghèo, chia cả nƣớc thành 3 vùng đói nghèo là:
Nông thôn, miền núi và hải đảo; nông thôn, đồng bằng và trung du; khu vực
thành thị. Trong đó, hộ đói là hộ có thu nhập lƣơng thực quy gạo bình quân dƣới
13 kg/ngƣời/tháng, tính cho mọi vùng. Hộ nghèo là hộ có thu nhập lƣơng thực
quy gạo bình quân dƣới 15 kg/ngƣời/tháng đối với khu vực nông thôn, miền núi
và hải đảo, dƣới 20 kg/ngƣời/tháng đối với khu vực nông thôn đồng bằng và
trung du và dƣới 25 kg/ngƣời/tháng đối với khu vực thành thị.
Thông báo số 1751/ LĐTBXH năm 1997 quy định chuẩn nghèo lần thứ
ba: Chia hộ đói nghèo trong cả nƣớc thành hai loại là hộ đói và hộ nghèo, chia
cả nƣớc thành 3 vùng đói nghèo là: nông thôn miền núi và hải đảo; nông thôn
đồng bằng và trung du; thành thị. Trong đó, hộ đói là hộ có mức thu nhập
bình quân quy gạo dƣới 13 kg/ngƣời/tháng, tƣơng đƣơng 45.000 đồng, tính
cho mọi vùng. Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân quy gạo dƣới 15
kg/ngƣời/tháng, tƣơng đƣơng 70.000 đồng, tính cho khu vực nông thôn đồng
bằng, và dƣới 25 kg/ngƣời/tháng, tƣơng đƣơng với 90.000 đồng, tính cho khu
vực thành thị.
Để phù hợp với điều kiện và bối cảnh phát triển kinh tế xã hội chung của
đất nƣớc trong giai đoạn mới, cuối năm 2000 Bộ Lao động Thƣơng binh và xã
hội đã điều chỉnh mức chuẩn nghèo mới tăng lên gấp 1,5 lần so với mức chuẩn
nghèo cũ (tại Thông báo số 1143/LĐTBXH ngày 1-11-2000), quy định: Bỏ
tiêu chí xác định hộ đói, giữ lại tiêu chí xác định hộ nghèo, không dựa vào thu
nhập lƣơng thực quy gạo mà dựa vào thu nhập tính theo tiền Việt Nam, trong
đó: Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân dƣới 80.000 đồng/ngƣời/tháng, tính
cho khu vực nông thôn miền núi và hải đảo, dƣới 100.000 đồng/ngƣời/tháng
tính cho khu vực nông thôn đồng bằng, và dƣới 150.000 đồng/ngƣời/tháng tính
cho khu vực thành thị.
18
Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ ngày
8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn
2006-2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ
200.000 đồng/ngƣời/tháng (2.400.000 đồng/ngƣời/năm) trở xuống là hộ
nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000
đồng/ngƣời/tháng (dƣới 3.120.000 đồng/ngƣời/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Hiện nay, theo số liệu mới nhất, chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai
đoạn 2011-2015 theo Chỉ thị số 1752/CT-TTg ngày 21-9-2010 của Thủ tƣớng
Chính phủ, mức chuẩn nghèo và cận nghèo đƣợc xác định, những hộ có thu nhập
bình quân từ 400.000 đồng/ngƣời/tháng trở xuống là hộ nghèo (khu vực nông
thôn), đối với khu vực thành thị hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình
quân 500.000 đồng/ngƣời/tháng; Hộ cận nghèo là những hộ có mức thu nhập
bình quân từ 401.000 đồng đến 520.000 đồng/ngƣời/tháng (khu vực nông thôn),
đối với khu vực thành thị là từ 501.000 đồng đến 650.000 đồng/ngƣời/tháng.
(Chỉ thị: về việc tổ chức tổng điều tra hộ nghèo trên toàn quốc …)
Hiện nay, đói nghèo vẫn diễn ra trên tất cả các châu lục với những mức
độ khác nhau. Ở các nƣớc kém phát triển và các nƣớc đang phát triển thì tình
trạng nghèo tuyệt đối vẫn còn tồn tại ở mức độ phổ biến, sự đói nghèo của
dân cƣ đang là một vấn đề nhức nhối rất cấp bách phải tháo gỡ nhƣng cũng vô
cùng khó khăn trong việc thực hiện xóa đói giảm nghèo. Không chỉ ở nông
thôn hay những vùng xa trung tâm mà ngay cả thành thị vẫn còn tồn tại tình
trạng nghèo tuyệt đối này. Có rất nhiều các tổ chức của Liên Hợp Quốc và
của cộng đồng quốc tế thực hiện sứ mệnh vẻ vang là chống và hỗ trợ đói
nghèo trên phạm vi hành tinh. Ngƣời ta đã tổ chức những chiến dịch lớn với
hàng vạn tấn lƣơng thực, hàng triệu USD để cứu giúp những ngƣời hoạn nạn
ở các nƣớc châu Phi, châu Á. Sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần là rất đáng
kể. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, dù đây là công việc mà toàn cầu quan tâm
nhƣng việc chống đói cho các nƣớc đói nghèo thì thành quả đạt đƣợc vẫn còn
19
ở mức hạn chế, sự trợ giúp của cộng đồng đối với một bộ phận dân cƣ khốn
khó cũng vẫn còn hạn chế.
Như vậy, nghèo khổ hay đói nghèo là một hiện tƣợng xã hội, vừa là vấn
đề lịch sử để lại, vừa là vấn đề của phát triển, thƣờng xuất hiện trong quá trình
phát triển mà quốc gia nào cũng vấp phải. Nó ảnh hƣởng trực tiếp tới cuộc sống
của con ngƣời, từ cá nhân, gia đình đến cộng đồng. Mỗi quốc gia ở các mức độ
khác nhau đều phải quan tâm đến việc giải quyết vấn đề đói nghèo để vƣợt qua
những trở ngại cho sự phát triển phồn thịnh về kinh tế và từng bƣớc đạt tới
công bằng xã hội. Tuy nhiên, ở các chế độ xã hội khác nhau thì mục đích và
mức độ quan tâm cũng khác nhau. Song đây là vấn đề toàn cầu nên nó cũng thu
hút sự quan tâm, phối hợp các nỗ lực giải quyết của cộng đồng quốc tế.
1.1.2. Một số vấn đề lý luận về chính sách xóa đói giảm nghèo.
Trong phạm vi quốc gia, nếu vấn đề đói nghèo không đƣợc giải quyết
thì không một mục tiêu nào mà cộng đồng quốc gia đặt ra nhƣ hòa bình, ổn
định, công bằng xã hội…có thể giải quyết đƣợc. Không chỉ riêng Việt Nam
mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đƣa ra những hoạch định, chính
sách, các biện pháp xóa đói giảm nghèo nhằm đƣa đất nƣớc thoát khỏi tình
trạng đói nghèo, ổn định xã hội.
Xóa đói giảm nghèo là tổng thể các biện pháp, chính sách của Nhà
nƣớc và xã hội đối với những đối tƣợng thuộc diện đói nghèo, nhằm tạo điều
kiện để họ tăng thu nhập, thoát khỏi tình trạng thu nhập không đáp ứng đƣợc
những nhu cầu tối thiểu trên cơ sở chuẩn nghèo đƣợc quy định theo từng địa
phƣơng, khu vực, quốc gia.
Chính sách xóa đói giảm nghèo là tập hợp các chủ trƣơng, các biện
pháp khuyến khích đối tƣợng phụ thuộc vào chính sách nhằm đạt đƣợc mục
đích của chủ thể ra chính sách. Chính sách xóa đói giảm nghèo bao gồm các
chƣơng trình, dự án và các quyết định hƣớng tới xóa đói giảm nghèo.
20
Nhƣ vậy, Chính sách bao gồm những dự định lập kế hoạch, hƣớng dẫn,
phát động, tài trợ hoặc thông qua các dự án, chƣơng trình, những hoạt động
đang đƣợc thực hiện của chính phủ. Chính sách là những quyết định, quy định
của nhà nƣớc (tức là các cấp chính quyền từ trung ƣơng đến địa phƣơng) đƣợc
cụ thể hoá thành các chƣơng trình, dự án cùng các nguồn lực, vật lực, các thể
thức, quy trình hay cơ chế thực hiện nhằm tác động vào đối tƣợng có liên
quan, thay đổi trạng thái của đối tƣợng theo hƣớng mà nhà nƣớc mong muốn.
Chính sách xóa đói giảm nghèo có thể đƣợc hiểu là những quyết định,
quy định của nhà nƣớc đƣợc cụ thể hoá trong các chƣơng trình, dự án cùng
với nguồn lực, vật lực, các thể thức, qui trình hay cơ chế thực hiện nhằm tác
động vào các đối tƣợng cụ thể nhƣ ngƣời nghèo, hộ nghèo hay xã nghèo với
mục đích cuối cùng là xóa đói giảm nghèo.
Để thực hiện tốt công cuộc xóa đói giảm nghèo, Đảng và Nhà nƣớc ra
đã đƣa ra những nội dung nằm trong các chính sách xóa đói giảm nghèo nhƣ:
tạo điều kiện cho ngƣời nghèo có điều kiện phát triển sản xuất gia tăng thu
nhập bằng các biện pháp; cấp tín dụng ƣu đãi cho ngƣời nghèo: cho vay lãi
thấp, giúp họ có vốn sản xuất và từ đó có thể thoát nghèo; hỗ trợ cho họ đất
sản xuất bằng cách giảm các thuế đất; thực hiện hỗ trợ đầu tƣ các cơ sở hạ
tầng về đƣờng sá, các công trình thủy lợi, tạo điều kiện cho ngƣời dân tham
gia sản xuất, nâng cao năng suất lao động để thoát nghèo; dựa trên từng cơ sở,
vùng miền, xác định đc thế mạnh và có kế hoạch phát triển từng ngành nghề
giúp giải quyết các tình trạng thoát nghèo, thất nghiệp, tăng thu nhập cho
ngƣời nghèo; tạo điều kiện cho ngƣời dân có điều kiện học hỏi kỹ thuật canh
tác sản xuất bằng cách mở các lớp sản xuất, phổ biến kiến thức tới thôn bản,
nâng cao lao động cho ngƣời nghèo; tạo điều kiện cho ngƣời nghèo có cơ hội
đƣợc tiếp cận với các dịch vụ cơ bản nhƣ; y tế, giáo dục, nƣớc sạch, vệ sinh;
hỗ trợ về y tế bằng việc cấp thẻ bảo hiểm y tế, cấp thuốc miễn phí cho ngƣời
nghèo thông qua các chƣơng trình mục tiêu quốc gia; hỗ trợ về giáo dục: miễn
21
giảm học phí cho các con em thuộc diện đói nghèo; hỗ trợ vể nhà ở; hỗ trợ về
nƣớc sạch. Tạo điều kiện cho họ có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ an sinh xã
hội… Xóa đói giảm nghèo là một phần quan trọng nằm trong chính sách an
sinh xã hội của mỗi quốc gia. Cùng với các chính sách khác tạo ra một tấm
lƣới toàn diện bảo vệ cho các thành viên xã hội.
Có thể thấy rằng, xóa đói giảm nghèo vừa là một đòi hỏi tất yếu khách
quan, vừa là một đòi hỏi tự thân và cấp bách cho sự hình thành và phát triển
của chủ nghĩa xã hội.
Ở nƣớc ta, ngay từ những ngày đầu giành đƣợc độc lập dân tộc, Hồ Chí
Minh đã coi công việc xóa đói giảm nghèo quan trọng và cấp bách. Ngƣời đã
chỉ rõ đói nghèo là một trong ba thứ giặc cần phải diệt và giao nhiệm vụ cho
nhân dân toàn quốc: “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”. Ngƣời
chủ trƣơng làm cho ngƣời nghèo thì đủ ăn, ngƣời đủ ăn thì khá giả lên, ngƣời
khá giả thì giàu thêm. Hồ Chí Minh đã đƣa ra mục tiêu phấn đấu để nhân dân
thoát nạn bần cùng, làm cho mọi ngƣời có công ăn, việc làm, ấm no và đời
sống hành phúc.
Hồ Chí Minh coi đói nghèo là giặc, đã thể hiện và hàm chứa hết tinh
thần và tƣ tƣởng vĩ đại của ngƣời trong một triết lý phát triển. Với việc nỗ lực
xóa đói, giảm nghèo, quyết tâm “đánh đuổi” đói nghèo đã giúp cho xã hội
phát triển ngày một giàu mạnh và phồn vinh. Không sợ đói nghèo ở đây chỉ
có thể đƣợc hiểu là ta không sợ kẻ thù, không sợ hoàn cảnh đói nghèo thực
tại, còn chắc chắn chúng ta phải nỗ lực để “tiêu diệt” đói nghèo để đƣa đời
sống của mỗi ngƣời dân, của cả đất nƣớc ngày một ấm no hơn.
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề tăng gia sản xuất và tiết kiệm
để xóa đói giảm nghèo. Ngƣời đề nghị hội đồng chính phủ phát động một
chiến dịch tăng gia sản xuất và mở những cuộc vận động cứu đói, phong trào
để dành một nắm gạo nhỏ theo từng buổi đã đƣợc nhân rộng thành phong trào
tiết kiệm gạo khắp cả nƣớc. Điều đó đã nói lên sự coi trọng và việc làm cụ thể