Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Bạo lực học đường từ góc nhìn của học sinh, giáo viên và phụ huynh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 126 trang )

1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







PHẠM THỊ HUYỀN TRANG



BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG TỪ GÓC NHÌN
CỦA HỌC SINH, GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH
(Nghiên cứu trường hợp Trường THPT Hoàng Văn Thái,
huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình)




LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI




 Hà Nội - 2014 

2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






PHẠM THỊ HUYỀN TRANG


BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG TỪ GÓC NHÌN
CỦA HỌC SINH, GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH
(Nghiên cứu trường hợp Trường THPT Hoàng Văn Thái,
huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình)



Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tuấn Anh




 Hà Nội - 2014 

3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Bạo lực học đường từ góc nhìn của học sinh,
giáo viên và phụ huynh” là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Các kết quả
trình bày trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ
công trình nghiên cứu khoa học nào.





Hà Nội, ngày 29 tháng 03 năm 2014
Tác giả luận văn



Phạm Thị Huyền Trang

4
LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện luận văn thạc sĩ chuyên ngành Công tác xã hội với
đề tài: “Bạo lực học đường từ góc nhìn của học sinh, giáo viên và phụ huynh”, bên
cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận đƣợc sự giúp đỡ, động viên nhiệt tình, tâm
huyết của các thầy cô và bạn bè.
Để hoàn thành luận văn này, trƣớc tiên tôi xin chân thành cảm ơn Trƣờng
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Xã hội
học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại
trƣờng.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Tuấn Anh –

ngƣời đã tâm huyết chỉ dạy thêm cho tôi những tri thức khoa học, nhiệt tình hƣớng
dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của hiệu trƣởng, giáo viên, học
sinh, phụ huynh học sinh trƣờng THPT Hoàng Văn Thái trong suốt thời gian thực
hiện nghiên cứu tại trƣờng.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình, ngƣời thân, bạn bè và đồng nghiệp đã
giúp đỡ, chia sẻ, khích lệ, động viên để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Vì thời gian và kinh nghiệm còn hạn chế nên trong luận văn không tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong nhận đƣợc những ý kiến đóng góp của các thầy giáo,
cô giáo, các bạn và những ngƣời quan tâm đến nghiên cứu này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 29 tháng 03 năm 2014
Học viên


Phạm Thị Huyền Trang
5
MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU 7
1. Lý do chọn đề tài 7
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 8
3. Ý nghĩa của đề tài 16
4. Câu hỏi nghiên cứu 17
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 17
6. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu 17
7. Phƣơng pháp nghiên cứu 17
8. Phạm vi nghiên cứu 19
9. Cấu trúc luận văn 20
PHẦN 2: NỘI DUNG CHÍNH 21

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 21
1.1. Các khái niệm công cụ 21
1.2. Bạo lực học đƣờng từ góc nhìn của lý thuyết xã hội hóa cá nhân và lý thuyết
học hỏi xã hội 24
1.3. Địa bàn nghiên cứu: Trƣờng THPT Hoàng Văn Thái, Tiền Hải, Thái Bình 27
CHƢƠNG 2: BẠO LỰC HỌC ĐƢỜNG QUA TRẢI NGHIỆM, ĐÁNH GIÁ CỦA
HỌC SINH, GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH 29
2.1. Biểu hiện của bạo lực học đƣờng 29
2.2. Nguyên nhân dẫn đến bạo lực học đƣờng 58
2.3. Hậu quả của bạo lực học đƣờng 76
2.4. So sánh vai trò của giáo viên chủ nhiệm với vai trò của nhân viên công tác xã
hội trong trƣờng học 86
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 92
1. Kết luận 92
2. Khuyến nghị 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
Tài liệu tiếng Việt 97
6
Tài liệu tiếng Anh 99
PHỤ LỤC 101
QUY ĐỊNH CÁC HÌNH THỨC XỬ LÝ KỶ LUẬT HỌC SINH 101
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN HỌC SINH 103
HƢỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU HỌC SINH 104
BẢN GHI PHỎNG VẤN SÂU 107

7
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bạo lực học đƣờng không phải là vấn đề mới mẻ, tuy nhiên những năm gần
đây, theo thông tin từ các kênh truyền thông đại chúng thì hiện tƣợng này diễn ra

với những tính chất vô cùng phức tạp, mức độ ngày càng nghiêm trọng và đƣợc dƣ
luận xã hội rất quan tâm, chú ý.
Chúng ta chỉ cần gõ từ khóa “bạo lực học đƣờng” vào trang tìm kiếm google
thì chỉ sau 0,23 giây, kết quả trả về là 14.000.000 kết quả. Đây thực sự là vấn đề
bức xúc của xã hội, là một thực trạng đáng lo ngại, trở thành mối quan tâm của rất
nhiều gia đình, các nhà trƣờng và là nỗi trăn trở của toàn xã hội bởi hậu quả nghiêm
trọng mà nó gây ra.
Bạo lực học đƣờng ở Việt Nam diễn ra không chỉ ở các thành phố lớn mà
còn có ở các vùng nông thôn và dƣờng nhƣ xảy ra ở các cấp học. Bạo lực học
đƣờng không chỉ xảy ra ở học sinh nam mà còn cả ở học sinh nữ; không chỉ giữa
học sinh với học sinh mà còn có bạo lực giữa giáo viên với học sinh và ngƣợc lại.
Nó không những gây ra những tác động xấu đến mối quan hệ giữa trò với trò, thầy
với trò, mà còn gây hại trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ, tinh thần, thái độ học tập
của học sinh, công tác giảng dạy của thầy cô và các hoạt động giáo dục của nhà
trƣờng. Bạo lực học đƣờng hầu nhƣ xảy ra ở các cấp học nhƣng tập trung nhất là ở
lứa tuổi học sinh ở cuối cấp trung học cơ sở (THCS) và đầu cấp trung học phổ
thông (THPT).
Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam, năm học 2009 – 2010
trên toàn quốc đã xảy ra khoảng 1.598 vụ việc học sinh đánh nhau ở trong và ngoài
trƣờng học, nhiều vụ có tính chất nguy hiểm, gây thƣơng tích thậm chí tử vong
(năm học 2009-2010 xảy ra 7 vụ, năm học 2010-2011 xảy ra 4 vụ học sinh đánh
nhau dẫn đến chết ngƣời ở trong và ngoài trƣờng học). Các nhà trƣờng đã xử lý kỷ
luật khiển trách 881 học sinh, cảnh cáo 1. 558 học sinh, buộc thôi học có thời hạn (3
ngày, 1 tuần, 1 năm học) 735 học sinh. Theo số lƣợng trƣờng học và học sinh hiện
nay thì cứ 5.260 học sinh lại xảy ra một vụ đánh nhau, và cứ 9 trƣờng học lại xảy ra
một vụ đánh nhau. Cứ 10.000 học sinh thì lại có 1 học sinh bị kỷ luật khiển trách,
cứ 5.555 học sinh thì lại có 1 học sinh bị kỷ luật cảnh cáo vì đánh nhau, cứ 11.111
học sinh thì có 1 học sinh bị buộc thôi học có thời hạn vì đánh nhau [22, tr.2].
8
Trong thời gian qua, nhiều vụ việc về bạo lực học đƣờng diễn ra đƣợc các

phƣơng tiện truyền thông làm rõ, đã ít nhiều khiến các bậc phụ huynh lo lắng về sự
an toàn cho con cái khi đến trƣờng và khiến dƣ luận băn khoăn về cách ứng xử của
thế hệ trẻ hiện nay.
Đi sâu nghiên cứu bạo lực học đƣờng là một vấn đề cấp bách và ngày càng
trở nên cấp thiết hiện nay. Trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, đã có
nhiều công trình nghiên cứu về bạo lực học đƣờng thuộc các lĩnh vực nhƣ tâm lý
học, giáo dục học, xã hội học Tuy nhiên, những nghiên cứu về vấn đề này ở Việt
Nam trong lĩnh vực công tác xã hội vẫn còn vắng bóng. Việc nhìn nhận, phân tích
những quan niệm của học sinh, giáo viên và phụ huynh về bạo lực học đƣờng từ
tiếp cận công tác xã hội có ý nghĩa quan trọng giúp chúng ta có thể định hƣớng và
đƣa ra những giải pháp cụ thể để góp phần giảm bạo lực học đƣờng. Với ý nghĩa đó,
tác giả tiến hành nghiên cứu đề tài “Bạo lực học đường từ góc nhìn của học sinh,
giáo viên và phụ huynh” – nghiên cứu trƣờng hợp Trƣờng THPT Hoàng Văn Thái,
huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Các nghiên cứu trên thế giới
2.1.1. Nghiên cứu về thực trạng bạo lực học đường
Năm 2008, nghiên cứu “Bạo lực nữ sinh: Xu hƣớng và bối cảnh” (Violence
by Teenage: Trends and Context) do J. Robert Flores cùng với các cộng sự thực
hiện tại Mỹ với sự tài trợ của Sở Tƣ pháp Hoa Kỳ. Nghiên cứu đã khắc họa một bức
tranh tổng quát về hiện tƣợng bạo lực lứa tuổi thanh thiếu niên của những học sinh
nữ. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, có sự khác nhau về giới tính trong bắt nạt học
đƣờng, cụ thể, học sinh nam có nhiều khả năng là thủ phạm và là nạn nhân của sự
bắt nạt trực tiếp, những hành vi bạo lực thể chất, ngôn từ hoặc những cử chỉ bạo
lực. Ngƣợc lại, học sinh nữ thƣờng là thủ phạm và là nạn nhân của sự bắt nạt gián
tiếp hoặc những mối quan hệ mang tính gây hấn, đơn cử nhƣ là việc loan truyền tin
đồn. Thêm vào đó, nghiên cứu còn chỉ ra rằng, học sinh nam thƣờng xuyên là thủ
phạm gây ra các hành vi bắt nạt hơn, còn học sinh nữ thƣờng là nạn nhân [26].
Năm 2008, một cuộc điều tra toàn quốc mang tên “Nhận thức về bạo lực học

đƣờng” (Underdstanding school vilolence) đƣợc tiến hành hai năm một lần bởi
Trung tâm Ngăn chặn và Kiểm soát Dịch bệnh (Centers for Disease Control and
9
Prevention – CDC) qua khảo sát các học sinh trung học ở Hoa Kỳ. Nghiên cứu sử
dụng khái niệm: “Bạo lực học đƣờng là bạo lực của những thanh thiếu niên xảy ra
trong khuôn viên nhà trƣờng, trên đƣờng từ nhà đến trƣờng hoặc từ trƣờng về nhà,
trong các sự kiện do nhà trƣờng tổ chức hoặc trong một sự kiện cụ thể nào đó mà
nhà trƣờng tổ chức. Một thanh thiếu niên có thể là một nạn nhân, một thủ phạm,
hoặc một nhân chứng của bạo lực học đƣờng” [25, tr.1].
Kết quả nghiên cứu cho thấy bạo lực học đƣờng là một vấn đề lớn đối với
sức khỏe cộng đồng. Và ở đây, bạo lực là việc cố ý sử dụng vũ lực hoặc sức mạnh
có khả năng gây tổn hại về thể chất hoặc tâm lý đối với những ngƣời khác, nhóm
hoặc cộng đồng. Bạo lực thanh thiếu niên bao gồm các hành vi nhƣ bắt nạt, tát, hoặc
đánh đập,… có thể gây ra tổn hại về mặt tâm lý, tình cảm nhiều hơn tổn hại về thể
chất. Các hình thức bạo lực khác nhƣ bạo lực ở các băng đảng và tấn công (có hoặc
không có vũ khí),… có thể dẫn đến những chấn thƣơng nghiêm trọng về thể chất,
thậm chí là gây tử vong [25].
Kết quả nghiên cứu cũng khẳng định rằng, bạo lực thanh thiếu niên và bạo
lực học đƣờng có thể dẫn đến một loạt các hành vi tiêu cực ảnh hƣởng đến sức khỏe
nhƣ sử dụng rƣợu, ma túy và tự tử. Trầm cảm, lo âu, sợ hãi và nhiều vấn đề tâm lý
khác cũng có thể là hậu quả của bạo lực học đƣờng. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng
chỉ ra một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ của một thanh niên tham gia vào bạo
lực học đƣờng nhƣ: lịch sử của bạo lực; ma tuý, rƣợu, hoặc sử dụng thuốc lá; gia
đình nghèo khó; trƣờng học thiếu thốn; cộng đồng nghèo, Tuy nhiên, sự hiện diện
của những yếu tố này không có nghĩa là một thanh thiếu niên nào cũng sẽ trở thành
ngƣời phạm tội [25, tr.2].
Nghiên cứu cũng đã đƣa ra các chiến lƣợc ngăn chặn và can thiệp, không để
bạo lực học đƣờng xảy ra ở 4 cấp độ: các chiến lƣợc ngăn chặn ở cấp độ xã hội; các
chiến lƣợc trong trƣờng học; chƣơng trình ngăn chặn hƣớng tới cải thiện các quan
hệ gia đình, chƣơng trình ngăn chặn, can thiệp tập trung và các chiến lƣợc cấp độ cá

nhân. Tất cả các chƣơng trình này đƣợc thực hiện qua 4 bƣớc: (1) xác định vấn đề;
(2) xác định các yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ; (3) xây dựng và thử nghiệm các
chiến lƣợc phòng chống; (4) áp dụng rộng rãi [25, tr.2].
2.1.2. Nghiên cứu về các hình thức biểu hiện của bạo lực học đường
Công trình nghiên cứu của Wang.J và cộng sự năm 2009 đƣợc tiến hành tại
Mỹ với đề tài: “Bắt nạt học đƣờng tuổi thanh thiếu niên tại Hoa Kỳ: thể chất, ngôn
từ, quan hệ thực và quan hệ trên mạng truyền thông” (School Bullying Among US
10
Adolescents: Physical, Verbal, Relational and Cyber). Nghiên cứu đã chỉ ra rằng,
bắt nạt học đƣờng là một hành vi xảy ra ở thanh thiếu niên, ảnh hƣởng đến thành
tích học tập, kỹ năng xã hội, tâm lý lành mạnh cho cả nạn nhân và thủ phạm. Bắt
nạt thƣờng đƣợc định nghĩa nhƣ một hình thức của những hành vi cố ý, lặp đi lặp lại
và liên quan đến một sự chênh lệch quyền lực giữa nạn nhân và thủ phạm. Nghiên
cứu đã tập trung vào tìm hiểu bốn hình thức của hành vi bắt nạt là thể chất (đánh
đập, xô đẩy, đấm đá, ); ngôn từ (chế giễu, trêu chọc,…); xem xét mối liên quan của
bắt bạt học đƣờng với các đặc điểm về mặt nhân học xã hội, sự hỗ trợ của cha mẹ và
bạn bè trong mỗi hình thức. Kết quả nghiên cứu cho thấy, học sinh nam thƣờng
tham gia vào các hình thức bắt nạt trực tiếp là thể chất và ngôn từ; còn học sinh nữ
thƣờng tham gia vào các hình thức bắt nạt gián tiếp đó là loại trừ xã hội thông qua
các mối quan hệ và loan truyền tin đồn. Kết quả nghiên cứu còn cho thấy, bắt nạt
học đƣờng ở học sinh nam có tỷ lệ cao hơn bắt nạt học đƣờng ở học sinh nữ và hành
vi bắt nạt có xu hƣớng đạt mức cao nhất trong trƣờng trung học, sau đó giảm dần.
Hình thức bắt nạt thông qua hệ thống công nghệ - điện tử mà cụ thể là qua mạng
internet nhƣ email, tin nhắn tức thời hoặc điện thoại di động,… đang ngày càng trở
nên phổ biến. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, cha mẹ và bạn bè có ảnh hƣởng
rất lớn đối với hành vi bắt nạt học đƣờng ở các học sinh [28].
Kết quả nghiên cứu “Bạo lực học đƣờng” (Violence scolaire) của tác giả
Bellon Jean-Pierre và Gardette Bertrand năm 2010 đã chỉ ra rằng, đặc tính đầu tiên
của bạo lực trong học đƣờng, đó là sự lặp đi lặp lại và thời gian kéo dài của nó có
thể làm cho cuộc sống của nạn nhân khó khăn hơn rất nhiều. Tác giả không chắc

chắn về thời gian chính xác xảy ra bạo lực học đƣờng mà các nạn nhân phải gánh
chịu, cũng nhƣ mốc thời gian mà kể từ đó nạn bạo lực học đƣờng bắt đầu. Nghiên
cứu chỉ ra rằng những hành động quấy rối có thể lan rộng ra theo một cách lặp đi
lặp lại trong ít nhất một năm học [24].
“Bạo lực, bắt nạt và hành vi nguy cơ của học sinh tại các trƣờng học ở Nam
Phi” (Bullying, Violence and Risk Behavior in South African School Students) là
tên một đề tài nghiên cứu về bạo lực học đƣờng đƣợc LiangH và cộng sự đƣợc tiến
hành bằng phƣơng pháp điều tra bằng bảng hỏi. Nghiên cứu đã kiểm tra tỉ lệ hành vi
bắt nạt của 5.074 học sinh vị thành niên đang học lớp 8 và lớp 11 tại 72 trƣờng học
ở Cape và Durban, Nam Phi. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng có khoảng hơn một
phần ba học sinh tham gia vào hành vi bắt nạt. Tác giả kết luận rằng, tỷ lệ học sinh
nam là chủ thể và nạn nhân của bắt nạt học đƣờng cao hơn học sinh nữ, những học
11
sinh nam ít tuổi hơn thƣờng là nạn nhân. Tác giả cũng kết luận rằng, bắt nạt học
đƣờng là vấn đề phổ biến ở độ tuổi vị thành niên tại Nam Phi. Hành vi này có thể
coi là một chỉ số về bạo lực, chống đối xã hội hoặc hành vi nguy cơ [29].
2.1.3. Nghiên cứu về các nguyên nhân dẫn tới bạo lực học đường
Trong một bài viết mang tên “Tám nguyên nhân của bạo lực học đƣờng”
(Eight Causes of School Violence), Jim Moore cho rằng, “gốc rễ của tất cả các vấn
đề đó là tinh thần”, ông đƣa ra 8 nguyên nhân chủ yếu của bạo lực học đƣờng, đó là:
(1) Trƣớc khi đứa trẻ ra đời, các bậc cha mẹ của chúng đã có sự lạm dụng ma túy.
Chính điều này làm ảnh hƣởng không nhỏ đến trẻ, trẻ sẽ bị lệch lạc về nhận thức
cũng nhƣ đạo đức và có khả năng phản ứng với bất cứ sự khiêu khích nào. (2) Lạm
dụng trong gia đình: đây cũng là một vấn đề khá lớn, một hành động đơn giản nhƣ
đá, đánh đập hoặc tra tấn một con chó cũng vô hình tạo nên hành vi hung hãn của
những đứa trẻ. (3) Thuốc chống trầm cảm cho trẻ: chính những viên thuốc này cũng
có thể dẫn đến khuynh hƣớng tự tử và giết ngƣời ở cả ngƣời lớn và trẻ em. (4) Bắt
nạt học đƣờng: chính những hành vi bắt nạt, đe dọa nhƣ dùng súng hoặc những vật
dụng có liên quan khác là nguyên nhân gây ra bạo lực học đƣờng. (5) Các phƣơng
tiện truyền thông nhƣ âm nhạc, truyền hình, phim bạo lực, phim viễn tƣởng, có

ảnh hƣởng không nhỏ đến nhận thức của trẻ. (6) Thiếu sự giáo dục tôn giáo trong
gia đình. (7) Cuộc tấn công trƣờng học tồi tệ nhất trong lịch sử đƣợc thực hiện bởi
một thành viên hội đồng nhà trƣờng với một nửa tấn thuốc nổ 18 tháng năm 1927 ở
Bath, MI với 45 ngƣời chết và 58 ngƣời bị thƣơng. (8) Ép buộc đi theo một đảng
phái chính trị thứ hai hoặc tra tấn niềm tin chính trị của họ cũng là nguyên nhân gây
nên những hành vi bạo lực [27].
Có thể nói rằng, các công trình nghiên cứu kể trên đã tập trung tìm hiểu biểu
hiện, thực trạng, nguyên nhân, một số hành vi lệch chuẩn dẫn đến bạo lực học
đường. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu đã đề ra những chiến lược ngăn chặn và
can thiệp phù hợp với bối cảnh của quốc gia mình để bạo lực học đường không xảy
ra. Điều này thể hiện được sự quan tâm, chú ý của các nhà khoa học xã hội, các
nhà giáo dục cũng như các quốc gia tới vấn đề bạo lực học đường. Vấn đề đặt ra ở
đây là những chiều cạnh trên của bạo lực học đường đã được quan tâm nghiên cứu
đến đâu ở Việt Nam.
2.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam
Dƣới đây, chúng ta sẽ điểm lại những công trình đáng lƣu ý theo các hƣớng
nhƣ sau.
12
2.2.1. Nghiên cứu về các nguyên nhân dẫn tới bạo lực học đường
Nghiên cứu Lê Thị Hồng Thắm và Tô Gia Kiên với đề tài: “Nguyên nhân
dẫn đến bạo lực học đƣờng tại trƣờng THCS Lê Lai Quận 8 Thành phố Hồ Chí
Minh năm 2009”. Nghiên cứu này đã sử dụng phƣơng pháp thảo luận nhóm, phỏng
vấn sâu và bảng hỏi tự điền để thu thập thông tin từ các học sinh có hành vi bạo lực,
thầy cô và phụ huynh học sinh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, học sinh có hành vi
bạo lực luôn muốn thể hiện bản thân và đây cũng là những học sinh thƣờng xuyên
bị cha mẹ quát mắng, đánh đập mỗi khi phạm sai lầm. Đặc biệt hơn, chính cha mẹ
là ngƣời ủng hộ con em mình thực hiện hành vi bạo lực khi bị ngƣời khác xúc
phạm. Nghiên cứu này cũng khẳng định, nhà trƣờng chƣa tổ chức đƣợc chƣơng
trình phòng chống bạo lực học đƣờng và không đồng nhất trong cách xử lý các hành
vi sai phạm của học sinh, đôi khi chính các thầy cô cũng có hành vi bạo lực đối với

học sinh [14].
Tác giả Nghiêm Thị Phiến tiến hành nghiên cứu với đề tài “Ảnh hƣởng của
nhóm bạn bè tới hành vi lệch chuẩn của học sinh” qua khảo sát 31 học sinh thiếu
niên cá biệt tại trƣờng THCS Thịnh Quang, Hà Nội. Nghiên cứu đã chỉ ra những
hành vi lệch chuẩn của nhóm học sinh này và những nguyên nhân dẫn đến các hành
vi đó. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiện tƣợng bạn bè xấu rủ rê, lôi kéo là một
trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới những hành vi lệch chuẩn ở học sinh
[12].
Nguyễn Thị Hoa với công trình nghiên cứu “Hành vi có vấn đề của trẻ vị
thành niên: những ảnh hƣởng của bố mẹ”. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhân cách
và mối quan hệ của bố mẹ có ảnh hƣởng sâu sắc đến hành vi có vấn đề của trẻ vị
thành niên. Bên cạnh đó, tác giả đã chỉ ra rằng cách ứng xử của bố mẹ với con cái
trong xã hội hiện nay chủ yếu theo hai xu hƣớng: bố mẹ thiếu quan tâm, chăm sóc
con cái hoặc quá nuông chiều con cái. Tác giả kết luận rằng, trong những nguyên
nhân dẫn đến hành vi có vấn đề của trẻ ở lứa tuổi này, bố mẹ phải chịu một phần
trách nhiệm và vấn đề đặt ra là cần có sự quan tâm và giáo dục đúng mực từ phía
cha mẹ của các em [7].
2.2.2. Nhận thức, thái độ và hành vi của học sinh về bạo lực học đường
Một trong những công trình nghiên cứu cần phải kể đến trong hƣớng nghiên
cứu này là luận văn của tác giả Lại Phƣơng Dung với đề tài “Nhận thức, thái độ và
hành vi của học sinh Trung học phổ thông về bạo lực học đƣờng (Nghiên cứu
trƣờng hợp trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến và THPT Dƣơng Tự Minh, Thành
13
phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên)”. Luận văn này đã trình bày những quan niệm,
thái độ và hành vi của học sinh THPT về bạo lực học đƣờng, tìm hiểu nguyên nhân
dẫn đến hành vi bạo lực của học sinh THPT. Kết quả nghiên cứu cho thấy, bạo lực
ở học sinh THPT luôn tồn tại. Phần lớn học sinh nhận thức đƣợc nguyên nhân và
những ảnh hƣởng tiêu cực của bạo lực học đƣờng nhƣng cho rằng những hành vi đó
chỉ mang tính chất phòng vệ bản thân, không nhận thức rõ đƣợc những ảnh hƣởng
lâu dài của nó. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, học sinh có thái độ khác nhau trƣớc

những hành vi bạo lực học đƣờng, nhiều học sinh chọn cách ứng xử thờ ơ trƣớc
hành vi bạo lực của những ngƣời khác nhƣng sẵn sàng có phản ứng bạo lực nếu có
liên quan đến bản thân hoặc bạn bè. Nghiên cứu cũng nhấn mạnh đến vai trò của gia
đình, nhà trƣờng trong việc giáo dục học sinh để phòng ngừa, ngăn chặn, giảm thiểu
bạo lực học đƣờng. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đƣa ra khuyến nghị đối với nhà
nƣớc và các cơ quan chức năng cần có những chính sách, chƣơng trình hành động
để không chỉ học sinh mà toàn xã hội nhận thức và phòng tránh bạo lực học đƣờng
[2].
Năm 2008, tác giả Hoàng Bá Thịnh và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu
“Hành vi bạo lực của nữ sinh trung học”, qua khảo sát 200 phiếu tại hai trƣờng
THPT thuộc quận Đống Đa. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hầu hết học sinh khẳng
định có hiện tƣợng nữ sinh đánh nhau trong trƣờng học. Phần lớn các em nữ đã có
hành vi đánh nhau cho rằng bạo lực giữa nữ sinh là “bình thƣờng” và “chấp nhận
đƣợc”. Kết quả nghiên cứu còn cho thấy, bạo lực học đƣờng không chỉ là chuyện
của mỗi học sinh, mà có tính chất lây lan theo nhóm bạn. Về phƣơng tiện sử dụng,
33% học sinh khi đánh nhau thƣờng dùng các “chiêu thức võ công” nhƣ túm tóc,
cào cấu, xé áo Việc sử dụng “võ mồm” kết hợp với tay chân tuy không gây nên
những thƣơng tích nghiêm trọng về thể chất nhƣng lại gây nên những tổn thƣơng về
tâm lý, tinh thần đối với nạn nhân khi bị chửi rủa hết sức tục tĩu, hoặc bị xé tung áo
giữa đám đông. Những phƣơng tiện khác đƣợc sử dụng khi đánh nhau nhƣ dép,
guốc; gậy gộc; gạch đá; dùng dao lam, ống tuyp nƣớc,… tùy mức độ mà có thể gây
nên thƣơng tích, thậm chí gây nên tàn phế hoặc cƣớp đi mạng sống của bạn học.
Nghiên cứu còn chỉ ra nguyên nhân xảy ra bạo lực giữa các học sinh nữ, xuất phát
từ những lý do rất đơn giản nhƣng cũng là cơ sở để các em đụng tay đụng chân nhƣ
thấy ghét thì đánh, bạn dám nhìn đểu, trả thù tình, ngƣời khác nhờ đánh và không
có lý do gì cũng đánh,… Về hậu quả của bạo lực học đƣờng, phần lớn những học
sinh nữ đã có hành vi đánh nhau cho rằng bạo lực giữa nữ sinh là “bình thƣờng” và
14
“chấp nhận đƣợc”. Mặc dù hầu hết học sinh nhận thức đƣợc hậu quả của bạo lực là
gây tổn thƣơng về tinh thần và thể xác hay làm mất đi thiện cảm của mọi ngƣời đối

với con gái nhƣng vẫn còn có ý kiến cho rằng hành vi bạo lực không gây ra hậu quả
gì [15].
Nguyễn Thị Thùy Dung với nghiên cứu “Nhận thức của học sinh trƣờng
THPT Nguyễn Trƣờng Tộ (TP Vinh, Nghệ An) về vấn đề bạo lực học đƣờng” đã
tiến hành dựa trên phƣơng pháp điều tra bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu. Kết quả
nghiên cứu cho thấy: nhìn chung học sinh đã có những hiểu biết nhất định về bạo
lực học đƣờng, thông qua việc nhận diện đƣợc các hành vi gây ra bạo lực nhƣ: đánh
nhau có hung khí (gậy gộc, dao, mác, mã tấu, kiếm, côn ); “đấm, đá, đạp vào bạn
khác”; “có lời nói hăm dọa, cảnh cáo bạn khác”; “đe dọa để lấy tiền của học sinh
khác”… Tuy nhiên, trong các câu trả lời của học sinh, sự giới hạn của khái niệm
bạo lực học đƣờng chỉ gói gọn đơn giản ở những hành vi gây tổn thƣơng đến cơ thể
mà ít nhiều có sử dụng đến hung khí. Một bộ phận học sinh còn hiểu phiến diện về
bạo lực học đƣờng, không xếp các hành vi làm tổn thƣơng về mặt tinh thần là bạo
lực. Một số học sinh khác cho rằng những hành vi bạo lực xảy ra bên ngoài khuôn
viên nhà trƣờng cũng không phải là bạo lực học đƣờng, số ít học sinh còn cho rằng
“đấm, đá, đạp vào bạn khác” không phải là bạo lực học đƣờng [3].
Tác giả Lê Thị Lan Anh với nghiên cứu “Một số yếu tố tâm lý ảnh hƣởng
đến hành vi bạo lực học đƣờng của học sinh THPT” đã tiến hành dựa trên
cácphƣơng pháp điều tra bằng bảng hỏi (200 học sinh tại trƣờng THPT Xuân Đỉnh,
Từ Liêm, Hà Nội, trong đó: 100 học sinh khối lớp 11, 100 học sinh khối lớp 12) và
phƣơng pháp phỏng vấn sâu (05 học sinh có hành vi bạo lực học đƣờng, 02 giáo
viên đang giảng dạy tại trƣờng, trong đó mỗi khối bao gồm 1 giáo viên). Kết quả
khảo sát cho thấy học sinh THPT đã từng có những hành vi bạo lực với bạn bè của
mình và ngƣợc lại. Các hành vi bạo lực này chủ yếu là bạo lực về mặt tinh thần, đơn
cử nhƣ gán ghép bạn bè bằng những biệt hiệu xấu dẫn đến việc bạn bè xấu hổ, e
ngại; bịa ra những tin đồn ác ý cho bạn bè; chửi rủa bạn bằng những ngôn từ xúc
phạm; khai trừ, cô lập, tránh tiếp xúc với bạn một cách có chủ ý,… Kết quả nghiên
cứu cho thấy, chính vì nhận biết các hành vi bạo lực thể chất dễ dàng hơn nên học
sinh không hoặc ít khi sử dụng các hành vi bạo lực này với bạn bè của mình và
ngƣợc lại, các em cũng nhận đƣợc ít hơn các hành vi này từ phía bạn bè của mình.

Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, những cảm xúc tiêu cực nhƣ tức giận, thất vọng
có liên quan rất lớn đến hành vi bạo lực học đƣờng của học sinh THPT, khi những
15
cảm xúc này xuất hiện thì xu hƣớng gây ra hành vi bạo lực ở học sinh là rất lớn.
Những tình huống làm xuất hiện cảm xúc tức giận, thất vọng và gây ra hành vi bạo
lực ở học sinh đó là khi học sinh bị đánh giá, xúc phạm về nhân phẩm, danh dự. Khi
học sinh bị đánh giá về vẻ bề ngoài, ngoại hình sẽ có một số hành vi đáp trả đƣợc
học sinh lựa chọn nhƣ im lặng, bỏ qua hay thƣơng thuyết. Bên cạnh yếu tố tâm lý cá
nhân, các yếu tố tâm lý xã hội nhƣ giáo dục gia đình, giáo dục nhà trƣờng, mối quan
hệ bạn bè, hoạt động vui chơi, giải trí mà học sinh tham gia cũng có ảnh hƣởng tới
hành vi bạo lực của học sinh. Nghiên cứu cũng cho rằng có thể làm giảm hành vi
bạo lực học đƣờng ở học sinh THPT thông qua biện pháp tham vấn tâm lý [1].
Sở Giáo dục và Đào tạo Thái Bình đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu đề xuất
một số giải pháp khắc phục hiện tƣợng bạo lực trong trƣờng THPT ở Thái Bình”
2010 với phƣơng pháp điều tra bằng bảng hỏi. Kết quả nghiên cứu cho thấy hiện
tƣợng bạo lực trong các trƣờng THPT ở Thái Bình xảy ra có chiều hƣớng gia tăng
về số lƣợng và tính chất phức tạp. Các biểu hiện bạo lực diễn ra trong các mối quan
hệ giữa học sinh với học sinh, giữa học sinh với giáo viên, thậm chí giữa phụ huynh
với học sinh, giữa phụ huynh với giáo viên. Đặc biệt, hiện tƣợng nữ sinh trong
trƣờng THPT ở Thái Bình đánh nhau xuất hiện ngày càng nhiều và phần lớn các vụ
này có nguyên nhân xuất phát từ tình yêu nam nữ. Kết quả nghiên cứu chỉ ra năm
nguyên nhân dẫn đến bạo lực học đƣờng: (1) đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh
THPT dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo, khả năng kiềm chế không cao nên dễ có những
phản ứng nông nổi; (2) môi trƣờng xã hội bên ngoài nhƣ phim ảnh, game online,
truyện tranh mang tính chất bạo lực tác động tiêu cực đến nhận thức và hành vi của
học sinh; (3) thiếu sự quan tâm, chăm sóc của những ngƣời thân trong gia đình, các
thầy cô trong nhà trƣờng; (4) công tác quản lý và giáo dục học sinh của các nhà
trƣờng chƣa chặt chẽ, thiếu đồng bộ, trách nhiệm của thầy cô đối với công tác quản
lý và giáo dục học sinh chƣa cao; và (5) công tác phối kết hợp giữa nhà trƣờng, gia
đình và các tổ chức trong xã hộ với cơ quan chức năng trong việc giáo dục và xử lý

học sinh có hành vi bạo lực chƣa đƣợc thƣờng xuyên, ở một số nhà trƣờng, sự phối
kết hợp chỉ mang tính chất hành chính hoặc giải quyết theo hƣớng đơn giản hóa
những vụ bạo lực đã xảy ra. Nghiên cứu cũng khẳng định hiện tƣợng bạo lực học
đƣờng không chỉ gây ra những hậu quả cho học sinh về mặt tinh thần, thể xác, thậm
chí cả về tính mạng mà còn gây hậu quả không tốt cho ngành giáo dục, cho cộng
đồng và xã hội. Kết quả nghiên cứu còn cho thấy, nhận thức của các cơ quan hữu
quan trong các trƣờng THPT ở Thái Bình về bạo lực học đƣờng còn thiếu sự thống
16
nhất và chƣa đƣợc đề cao; một bộ phận không nhỏ giáo viên và phụ huynh học sinh
vẫn coi bạo lực là một phƣơng pháp giáo dục, coi một số hành vi bạo lực của học
sinh nhƣ là một phần tất yếu đi cùng với tuổi học trò nên không quan tâm đúng mực
tới các hành vi này [18].
Như vậy, có thể nói rằng cho đến nay nhiều công trình nghiên cứu ở các lĩnh
vực như xã hội học, tâm lý học, giáo dục học, tập trung tìm hiểu nhiều chiều cạnh
khác nhau của bạo lực học đường. Các công trình nghiên cứu đã tập trung tìm hiểu
nhận thức, thái độ và hành vi của học sinh về bạo lực học đường; thực trạng hành
vi bạo lực của nữ sinh trung học, một số yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến hành vi bạo
lực học đường của học sinh THPT, những ảnh hưởng của nhóm bạn bè tới hành vi
lệch chuẩn của học sinh; những ảnh hưởng của cha mẹ đến hành vi có vấn đề của
trẻ vị thành niên; nguyên nhân dẫn đến bạo lực học đường, đề xuất một số giải
pháp khắc phục hiện tượng bạo lực học đường trong trường THPT tại một địa
phương cụ thể, Tuy nhiên, phải nhấn mạnh rằng, các nghiên cứu về bạo lực học
đường từ góc nhìn của công tác xã hội cho đến nay vẫn còn vắng bóng. Vì vậy,
nghiên cứu này dưới góc nhìn của công tác xã hội sẽ chỉ ra biểu hiện, phân tích
nguyên nhân, hậu quả, đề xuất giải pháp đối với bạo lực học đường qua nghiên cứu
sự trải nghiệm, đánh giá của học sinh, giáo viên và phụ huynh trường THPT Hoàng
Văn Thái, Tiền Hải, Thái Bình. Đồng thời, nghiên cứu này cũng so sánh vai trò của
giáo viên chủ nhiệm với vai trò của nhân viên công tác xã hội trong trường học.

3. Ý nghĩa của đề tài

3.1. Ý nghĩa khoa học
Ý nghĩa khoa học của đề tài đƣợc thể hiện qua việc vận dụng các lý thuyết về
xã hội hóa cá nhân, lý thuyết học hỏi xã hội để phân tích bạo lực học đƣờng nhằm
cung cấp thêm một góc nhìn đối với bạo lực học đƣờng từ tiếp cận công tác xã hội.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài đƣợc thể hiện qua hai khía cạnh sau:
Thứ nhất, từ kết quả nghiên cứu thực địa, đề tài làm rõ về bạo lực học đƣờng
qua nghiên cứu tại một địa bàn cụ thể, từ đó đề xuất giải pháp góp phần giảm bạo
lực học đƣờng.
Thứ hai, luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu học tập, tham khảo cho
sinh viên các trƣờng Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp và những ai
quan tâm nghiên cứu về bạo lực học đƣờng.
17
4. Câu hỏi nghiên cứu
- Câu hỏi 1: Bạo lực học đƣờng biểu hiện nhƣ thế nào?
- Câu hỏi 2: Những nguyên nhân nào dẫn đến bạo lực học đƣờng?
- Câu hỏi 3: Hậu quả của bạo lực học đƣờng nhƣ thế nào?
- Câu hỏi 4: Vai trò của giáo viên chủ nhiệm có điểm gì tƣơng đồng so với
vai trò của nhân viên công tác xã hội trong trƣờng học?

5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này tìm hiểu góc nhìn của học sinh, giáo viên và phụ huynh về
bạo lực học đƣờng – một vấn đề khá nóng bỏng đã trở thành mối quan tâm của rất
nhiều gia đình, các nhà trƣờng và là nỗi trăn trở của toàn xã hội bởi hậu quả nghiêm
trọng mà nó gây ra.
Thông qua kết quả nghiên cứu, tác giả luận văn lấy đó làm cơ sở khoa học và
thực tiễn để đề xuất một số khuyến nghị cụ thể góp phần làm hạn chế, giảm tình
trạng bạo lực học đƣờng hiện nay dƣới góc độ của công tác xã hội.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt đƣợc mục đích trên, đề tài triển khai các nhiệm vụ sau đây:
- Tìm hiểu biểu hiện của bạo lực học đƣờng
- Phân tích các nguyên nhân dẫn đến bạo lực học đƣờng
- Đánh giá những hậu quả của bạo lực học đƣờng
- So sánh vai trò của giáo viên chủ nhiệm với vai trò của nhân viên công tác
xã hội trong trƣờng học

6. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: bạo lực học đƣờng
- Khách thể nghiên cứu: học sinh, giáo viên và phụ huynh trƣờng THPT
Hoàng Văn Thái, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình

7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phƣơng pháp phân tích tài liệu
Phƣơng pháp này đƣợc tác giả sử dụng nhằm khai thác những tài liệu sẵn có
trên các bài báo, tạp chí và các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến
18
“bạo lực học đƣờng”, “yếu tố tâm lý ảnh hƣởng đến hành vi bạo lực học đƣờng của
học sinh THPT”, “nhận thức, thái độ và hành vi của học sinh THPT”, “hành vi bạo
lực của nữ sinh trung học”, Những tài liệu này, sẽ giúp cho tác giả có cái nhìn
tổng quan từ những nghiên cứu đi trƣớc về vấn đề bạo lực học đƣờng. Những công
trình nghiên cứu này, bao gồm cả tài liệu trong nƣớc và tài liệu nƣớc ngoài. Việc
phân tích đó sẽ giúp tác giả đƣa ra những so sánh tƣơng quan giữa các nghiên cứu
khác nhau của các quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam về bạo lực học đƣờng.
7.2. Phƣơng pháp quan sát
Phƣơng pháp này nhằm ghi chép, mô tả, phân tích, đánh giá các yếu tố liên
quan đến bạo lực học đƣờng từ góc nhìn của học sinh, giáo viên và phụ huynh.
Quá trình quan sát đƣợc diễn ra trong suốt thời gian nghiên cứu tại thực địa,
tác giả quan sát vào nhiều thời điểm trong các ngày từ thứ 2 đến thứ 7: tác giả thực
hiện quan sát trƣớc giờ vào lớp (6h30-7h00; 13h00 – 14h00) và sau khi tan học

(10h20 – 11h45; 16h40 – 17h30) tại các điểm gần cổng trƣờng, các ngã ba, ngã tƣ
xã Tây Phong, xã Tây Sơn, xã Tây Tiến; quan sát trong thời gian nghỉ giải lao giữa
các tiết học tại các hành lang lớp học, khuôn viên nhà trƣờng, quan sát một số tiết
sinh hoạt của các lớp. Trong quá trình này, tác giả đã quan sát cách thức giao tiếp,
những hoạt động học tập, vui chơi của học sinh, các mối quan hệ, các buổi sinh hoạt
lớp, các tiết giảng dạy kỹ năng sống của giáo viên, Cách thức quan sát đƣợc kết
hợp giữa quan sát tham dự và quan sát không tham dự.
Ở đây, tác giả đã ghi chép lại các thông tin do ngƣời đƣợc phỏng vấn cung
cấp, hoàn toàn không can thiệp vào các dữ liệu của nghiên cứu bằng cái nhìn chủ
quan của bản thân.
7.3. Phƣơng pháp phỏng vấn sâu
Tác giả sử dụng phƣơng pháp này nhằm tìm hiểu cuộc sống, kinh nghiệm và
quan niệm của học sinh, giáo viên và phụ huynh về vấn đề bạo lực học đƣờng.
Trƣớc khi tiến hành phỏng vấn sâu, tác giả đã định hƣớng trƣớc những nội
dung cần hỏi. Trong quá trình phỏng vấn, tác giả đã tiến hành phỏng vấn một cách
linh hoạt đối với từng trƣờng hợp theo nội dung đã đƣợc định hƣớng trƣớc đó và ghi
âm lại toàn bộ các cuộc phỏng vấn và sau đó tiến hành gỡ băng ghi âm để có đƣợc
thông tin dạng văn bản.
19
Trong nghiên cứu này, tác giả đã thực hiện 75 cuộc phỏng vấn sâu, trong đó
có 30 học sinh: 10 học sinh lớp10 (trong đó: 02 nữ học lực Khá, 03 nữ học lực
Trung bình, 02 nam học lực Khá, 03 nam học lực Trung bình); 10 học sinh lớp11
(trong đó: 03 nữ học lực Trung bình, 02 nữ học lực Khá, 02 nam học lực Khá, 02
nam học lực Trung bình, 01 nam học lực Yếu), 10 học sinh lớp 12 (trong đó: 02 nữ
học lực Khá, 02 nữ học lực Trung bình, 02 nam học lực Khá, 03 nam học lực Trung
bình, 01 nam học lực Yếu); 15 giáo viên (trong đó: 09 thầy giáo; 06 cô giáo), 30
phụ huynh học sinh (18 nữ, 12 nam) của trƣờng THPT Hoàng Văn Thái.
Trong quá trình phỏng vấn, tác giả đã đƣợc ngƣời cung cấp thông tin cho
phép ghi âm lại toàn bộ cuộc phỏng vấn với mục đích phục vụ cho nghiên cứu,
đồng thời để đảm bảo tính khuyết danh, tác giả đã đổi tên và sử dụng những tên giả

gán cho từng trƣờng hợp phỏng vấn. Do đó, tên của những ngƣời trả lời phỏng vấn
và những ngƣời đƣợc đề cập đến trong các phỏng vấn sâu không phải là tên thật.
7.4. Phƣơng pháp thảo luận nhóm
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã tiến hành thảo luận 4 nhóm: 1 nhóm
giáo viên, 3 nhóm học sinh thuộc 3 khối lớp 10, lớp 11, lớp 12 đƣợc chọn để nghiên
cứu. Một thảo luận nhóm với giáo viên đƣợc tiến hành từ 8h00 – 9h30 ngày
2/4/2013 với 20 thầy cô giáo hiện đang giảng dạy trực tiếp tại trƣờng. Ba thảo luận
nhóm đƣợc tiến hành từ 10h00 – 11h00 ngày 4/4/2013 với 12 học sinh khối 10;
16h30 -17h30 ngày 4/4/2013 với 12 học sinh khối 11, 10h30 – 11h30 với 12 ngày
5/4/2013 học sinh khối 12. Hoạt động thảo luận nhóm đƣợc tiến hành trƣớc để cho
tất cả các thành viên có thể đƣa ra ý kiến của mình về vấn đề bạo lực học đƣờng.
Sau đó, dựa trên kết quả thảo luận nhóm, tác giả chọn lọc những ý chính và tiến
hành các cuộc phỏng vấn sâu.
8. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Trƣờng THPT Hoàng Văn Thái, huyện Tiền Hải, tỉnh
Thái Bình.
- Về thời gian: từ tháng 10/2012 – 09/2013
- Về nội dung: Luận văn này, tác giả chỉ giới hạn nghiên cứu biểu hiện,
nguyên nhân, hậu quả của bạo lực học đƣờng dƣới góc nhìn của học sinh,
giáo viên và phụ huynh; so sánh vai trò của giáo viên chủ nhiệm với vai
trò của nhân viên công tác xã hội trong trƣờng học.

20
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm có 02 chƣơng, cụ thể nhƣ sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài, bao gồm 03 nội dung: các
khái niệm công cụ; bạo lực học đƣờng từ góc nhìn của lý thuyết xã hội hóa cá nhân
và lý thuyết học hỏi xã hội; địa bàn nghiên cứu: Trƣờng THPT Hoàng Văn Thái,
Tiền Hải, Thái Bình.

Chương 2: Bạo lực học đƣờng qua trải nghiệm, đánh giá của học sinh, giáo
viên và phụ huynh với 04 nội dung nhƣ sau: biểu hiện của bạo lực học đƣờng;
nguyên nhân dẫn đến bạo lực học đƣờng, giáo viên và phụ huynh; hậu quả của bạo
lực học đƣờng; so sánh vai trò của giáo viên chủ nhiệm với vai trò của nhân viên
công tác xã hội trong trƣờng học.
21
PHẦN 2: NỘI DUNG CHÍNH
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Khái niệm bạo lực
Bạo lực là một khái niệm có nội hàm rộng, có mối liên hệ mật thiết với khái
niệm bạo lực học đƣờng. Cho đến nay, ở Việt Nam và trên thế giới, có rất nhiều
định nghĩa khác nhau về bạo lực. Có thể điểm qua một số khái niệm đáng lƣu ý sau.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì bạo lực đƣợc hiểu là: “Sức mạnh dùng để cƣỡng bức,
trấn áp hoặc lật đổ” [23, tr.55]. Khái niệm này dễ làm ngƣời ta liên tƣởng tới các
hoạt động chính trị, nhƣng trên thực tế bạo lực đƣợc coi nhƣ một phƣơng thức hành
xử trong các quan hệ xã hội nói chung. Các mối quan hệ xã hội vốn rất đa dạng và
phức tạp nên hành vi bạo lực cũng rất phong phú, đƣợc chia thành nhiều dạng khác
nhau tùy theo từng góc độ nhìn nhận: bạo lực nhìn thấy và bạo lực không nhìn thấy
đƣợc; bạo lực với phụ nữ, với trẻ em,… Từ điển xã hội học do Gunter Endruweit và
Gisela Trommsdorf chủ biên viết: “Bạo lực là các hành vi có khuynh hƣớng hủy
diệt nhƣ một phƣơng tiện tối hậu để thực thi quyền lực trong khuôn khổ quan hệ
trên – dƣới, một chiều dựa trên ƣu thế bên ngoài, không có sự thừa nhận của ngƣời
yếu thế” [30, tr.304]. Còn Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì cho rằng: “Bạo lực là
việc đe dọa hay dùng sức mạnh thể chất hay quyền lực đối với bản thân, ngƣời khác
hoặc đối với một nhóm ngƣời hay một cộng đồng ngƣời mà gây ra hay làm gia tăng
khả năng gây ra tổn thƣơng, tử vong, tổn hại về tâm lý, ảnh hƣởng đến sự phát triển
hay gây ra sự mất mát” [41]. Tác giả Lê Thị Quý viết: “Bạo lực là việc đe dọa hay
dùng sức mạnh thể chất, quyền lực đối với ngƣời khác hoặc một nhóm ngƣời, một
cộng đồng gây ra hoặc làm tăng khả năng tổn thƣơng, tử vong, tổn hại về tâm lý,

ảnh hƣởng đến sự phát triển, gây ra sự mất mát” [13, tr.17].
Nhƣ vậy, có thể hiểu bạo lực là việc làm gây tổn thƣơng cho ngƣời khác cả
về thể xác và tinh thần. Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung làm rõ cả hai hình
thức bạo lực trên đƣợc phản ánh từ góc nhìn của học sinh, phụ huynh và giáo viên,
trong đó bạo lực thể xác là những hành vi mà chủ thể gây ra bạo lực thƣờng sử dụng
cơ bắp hoặc công cụ/hung khí gây nên sự đau đớn, tổn hại về thân thể đối với nạn
nhân; bạo lực tinh thần là những lời nói, cử chỉ, thái độ mang tính chất lăng mạ, xúc
phạm nhân phẩm, đe dọa với mục đích cảnh cáo, răn đe, phô trƣơng thanh thế hoặc
làm tổn thƣơng tâm lý, khủng hoảng tinh thần cho đối phƣơng.
22
1.1.2. Khái niệm bạo lực học đường
Trƣớc khi đƣa ra khái niệm bạo lực học đƣờng, tác giả muốn đề cập đến một
khái niệm mang tính chất tƣơng đồng mà nhiều ngƣời trên thế giới và ở Việt Nam
thƣờng sử dụng, đó là khái niệm bắt nạt học đƣờng. Ở các nƣớc phƣơng Tây, bắt
nạt học đƣờng cũng là một phần của bạo lực học đƣờng và thậm chí nhiều khi họ
còn đồng nhất giữa bắt nạt với bạo lực học đƣờng.
Tác giả Dan Olweus đã đƣa ra định nghĩa theo một cách chung nhất, “bắt nạt
trong trƣờng học là những hành vi tiêu cực đƣợc lặp đi lặp lại, có ý định xấu của
một hoặc nhiều học sinh nhằm trực tiếp chống lại một học sinh, ngƣời có khó khăn
trong việc tự bảo vệ bản thân” [34, tr.19]. Bộ Dịch vụ sức khỏe và Nhân sinh Hoa
Kỳ (U.S. Department of Health & Human Services) cho rằng “bắt nạt là hành vi gây
hấn, hành vi không mong muốn ở những đứa trẻ đang độ tuổi đến trƣờng có liên
quan đến sự mất cân bằng về quyền lực hay nhận thức. Các hành vi này đƣợc lặp đi
lặp lại hoặc có khả năng lặp lại theo thời gian. Cả những ngƣời bắt nạt và bị bắt nạt
đều bị ảnh hƣởng nghiêm trọng và lâu dài” [39].
Nhƣ vậy, có thể hiểu bắt nạt học đƣờng là hành vi thể hiện sức mạnh (về thể
chất hoặc tinh thần) để đe dọa hoặc thực hiện các hành vi làm tổn thƣơng ngƣời
khác, nhằm mục kiểm soát và duy trì quyền lực với ngƣời bị bắt nạt, hành vi bắt nạt
không xảy ra một lần mà lặp đi lặp lại theo thời gian giữa những bạn trong độ tuổi
đến trƣờng.

Vậy khái niệm bạo lực học đƣờng đƣợc hiểu nhƣ thế nào? Dƣới đây, tác giả
sẽ đƣa ra một số quan điểm khác nhau của các nhà nghiên cứu đi trƣớc.
Xét từ góc độ văn hóa, “bạo lực học đƣờng là một hiện tƣợng phản văn hóa,
thể hiện lối ứng xử coi thƣờng luật pháp, không chấp hành nội quy trƣờng học, đi
ngƣợc lại và làm hoen ố những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp trong xã hội,
trong nhà trƣờng” [5, tr.27]. Xét từ góc độ giáo dục, “bạo lực học đƣờng là sự phản
ánh kết quả giáo dục không đƣợc nhƣ mong muốn, là thƣớc đo gián tiếp cho thấy
hiệu quả và chất lƣợng ngƣợc chiều với mục tiêu giáo dục toàn diện, nhất là giáo
dục đạo đức, lối sống theo chuẩn mực văn hóa” [5, tr.28]. Tác giả Oilchange cho
rằng: “Bạo lực học đƣờng là bất kỳ hình thức hoạt động bạo lực hoặc các hoạt động
bên trong các cơ sở trƣờng học. Nó bao gồm các hành vi bắt nạt, lạm dụng thân thể,
lạm dụng bằng lời nói, ẩu đả, bắn,… Bắt nạt và lạm dụng vật chất là những hình
thức phổ biến nhất của bạo lực có liên quan đến bạo lực học đƣờng. Tuy nhiên,
23
trƣờng hợp cực đoan nhƣ bắn và giết ngƣời cũng đã đƣợc liệt kê nhƣ là bạo lực học
đƣờng” [33].
Hiện nay, các nhà nghiên cứu còn nhiều tranh luận và chƣa có sự thống nhất
trong việc đƣa ra một định nghĩa, khái niệm cụ thể mang tính khoa học về bạo lực
học đƣờng. Kế thừa những quan điểm của các nhà nghiên cứu đi trƣớc, nghiên cứu
này sử dụng quan niệm, bạo lực học đường là một thuật ngữ chỉ những hành vi bạo
lực diễn ra trong môi trường học đường, là hệ thống xâu chuỗi lời nói, hành vi
mang tính miệt thị, đe dọa, khủng bố người khác, để lại thương tích trên cơ thể,
thậm chí dẫn đến tử vong, đặc biệt là gây tổn thương đến tư tưởng, tình cảm, tạo cú
sốc tinh thần cho những đối tượng trực tiếp tham gia vào quá trình giáo dục trong
nhà trường, cũng như đối với những ai quan tâm đến sự nghiệp giáo dục. Bạo lực
học đường không chỉ xảy ra giữa học sinh với học sinh mà còn xảy ra giữa học sinh
với giáo viên hoặc cán bộ công nhân viên trong nhà trường, hoặc giữa cán bộ, giáo
viên trong nhà trường với nhau.
1.1.3. Khái niệm công tác xã hội
Công tác xã hội có vai trò, vị trí rất quan trọng và mang ý nghĩa to lớn trong

giải quyết các vấn đề xã hội, nhằm đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội của mỗi
quốc gia. Chính vì vậy, với lịch sử phát triển hơn 100 năm tại các nƣớc Âu Mỹ và
nhiều quốc gia khác trên thế giới, công tác xã hội đã đƣợc công nhận là một nghề
quan trọng. Cho đến nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về công tác xã hội, có
thể điểm qua một số định nghĩa tiêu biểu sau: Theo Lê Văn Phú (2004) thì Hiệp hội
quốc gia nhân viên xã hội Mỹ (NASW) cho rằng: “Công tác xã hội là một chuyên
ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng tăng cƣờng hay khôi phục việc
thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những điều kiện thích hợp nhằm đạt
đƣợc các mục tiêu đó” [21, tr.25]. Tác giả còn liệt kê thêm khái niệm của Cơ sở
thực hành công tác xã hội (Foundation of Social Work Practice): “công tác xã hội là
một khoa học ứng dụng để giúp đỡ mọi ngƣời vƣợt qua khó khăn của họ và đạt
đƣợc vị trí ở mức độ phù hợp trong xã hội. Công tác xã hội đƣợc coi nhƣ là một
môn khoa học vì nó dựa trên những luận chứng khoa học và những cuộc nghiên cứu
đã đƣợc chứng minh, nó cung cấp một lƣợng kiến thức có cơ sở thực tiễn cho công
tác xã hội và xây dựng những kĩ năng chuyên môn hoá” [21, tr.25].
Hiệp hội các nhân viên xã hội Quốc tế thông qua tháng 7 năm 2000 tại
Montréal, Canada (IFSW) cho rằng: “Nghề công tác xã hội thúc đẩy sự thay đổi xã
24
hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con ngƣời, tăng năng lực và giải phóng
cho ngƣời dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận
dụng các lý thuyết về hành vi con ngƣời và hệ thống xã hội, công tác xã hội tƣơng
tác vào những điểm giữa con ngƣời với môi trƣờng của họ. Nhân quyền và công
bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản của nghề” [32].
Nhƣ vậy, có thể hiểu công tác xã hội là một khoa học, một nghề thực hành,
một hoạt động chuyên nghiệp nhằm giúp đỡ các cá nhân, nhóm, cộng đồng yếu thế
nhằm nâng cao năng lực, tăng cƣờng hoặc khôi phục việc thực hiện các chức năng
xã hội của họ và tạo điều kiện thích hợp nhằm đạt đƣợc các mục tiêu đó.
1.1.4. Khái niệm nhân viên công tác xã hội
Trong các tài liệu nƣớc ngoài, thuật ngữ này có tên chung là Social worker.
Hiện nay, có rất nhiều thuật ngữ khác nhau đƣợc sử dụng nhƣ: nhân viên xã hội, cán

sự xã hội, ngƣời trợ giúp, nhân viên công tác xã hội, Theo tác giả Bùi Thị Xuân
Mai (2010) thì Hiệp hội Nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp Quốc tế IASW
(International Association of Social Workers) cho rằng: “Nhân viên công tác xã hội
là ngƣời đƣợc đào tạo và trang bị các kiến thức và kỹ năng trong công tác xã hội, họ
có nhiệm vụ: trợ giúp các đối tƣợng nâng cao khả năng giải quyết và đối phó với
vấn đề trong cuộc sống, tạo cơ hội để các đối tƣợng tiếp cận đƣợc nguồn lực cần
thiết; thúc đẩy sự tƣơng tác giữa các cá nhân, giữa các cá nhân với môi trƣờng tạo
ảnh hƣởng tới chính sách xã hội, các cơ quan, tổ chức vì lợi ích của cá nhân, gia
đình, nhóm và cộng đồng thông qua hoạt động nghiên cứu và hoạt động thực tiễn”
[11,tr.143].
Nhƣ vậy, có thể hiểu nhân viên công tác xã hội là những ngƣời đƣợc đào tạo
một cách chuyên nghiệp về công tác xã hội, họ sử dụng những kiến thức và kỹ năng
của mình để giúp cho xã hội thấy rõ trách nhiệm của họ đối với sự phát triển chung
của xã hội, trợ giúp thân chủ tăng cƣờng khả năng giải quyết và đối phó với các vấn
đề của mình thông qua việc cung cấp các dịch vụ xã hội, tiếp cận các nguồn lực,
thiết lập những mối quan hệ thuận lợi giữa thân chủ và môi trƣờng của họ.
1.2. Bạo lực học đƣờng từ góc nhìn của lý thuyết xã hội hóa cá nhân và lý
thuyết học hỏi xã hội
1.2.1. Bạo lực học đường từ góc nhìn của lý thuyết xã hội hóa cá nhân
Cho đến nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về xã hội hóa, hay cụ thể hơn
là xã hội hóa cá nhân. Có thể điểm qua một số định nghĩa đáng lƣu ý nhƣ sau: tác
25
giả David Popenoe cho rằng “xã hội hóa là một quá trình, thông qua đó cá nhân
phát triển nhân cách và học hởi đƣợc hành vi, lối sống của một xã hội hoặc một
nhóm” [37]. Từ điển Xã hội học của Nhà xuất bản Oxford viết: “Xã hội hóa là quá
trình thông qua đó chúng ta học để trở thành những thành viên của xã hội, bằng
cách tiếp thu những giá trị, chuẩn mực của xã hội và học tập đóng các vai trò xã
hội” [40]. Tác giả G.Andreeva thì cho rằng: “Xã hội hóa là quá trình hai mặt. Một
mặt, cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào môi trƣờng xã
hội, vào hệ thống các mối quan hệ xã hội. Mặt khác, cá nhân tái sản xuất một cách

chủ động hệ thống các mối quan hệ xã hội thông qua chính việc họ tham gia vào các
hoạt động và thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội” [4, tr.258-259].
Khi nhắc đến xã hội hóa cá nhân, không thể không đề cập đến môi trƣờng xã
hội hóa. Đó chính là nơi cá nhân có thể thực hiện thuận lợi các tƣơng tác xã hội của
mình nhằm mục đích thu nhận và tái tạo kinh nghiệm xã hội [4, tr.260]. Trong cuốn
sách Xã hội học, tác giả Phạm Tất Dong và Lê Ngọc Hùng đã bàn đến các môi
trƣờng quan trọng của xã hội hóa cá nhân nhƣ gia đình, nhà trƣờng, nhóm thành
viên, thông tin đại chúng, nơi làm việc và nhà nƣớc. Nghiên cứu khái quát quan
điểm của các tác giả về môi trƣờng xã hội hóa cá nhân, tác giả luận văn nhận thấy
có những nội dung quan trọng nhƣ sau. Thứ nhất, gia đình là môi trƣờng xã hội hóa
đầu tiên và quan trọng bậc nhất của mỗi cá nhân bởi hầu hết mỗi cá nhân đều sinh
ra và lớn lên trong môi trƣờng gia đình, có mối quan hệ tƣơng tác mật thiết với các
thành viên khác; từ đó các cá nhân dần hình thành nên nhân cách, giá trị của riêng
bản thân thông qua việc học hỏi các kinh nghiệm, kỹ năng và tái tạo lại chúng trong
đời sống sinh hoạt hàng ngày. Thứ hai, trƣờng học là con đƣờng chính thức, nơi mà
các cá nhân có thể tiếp thu các tri thức, kỹ năng lao động quan trọng, mở rộng dần
các mối quan hệ xã hội thông qua các mối tƣơng tác nhƣ thầy cô, nhóm bạn,… Thứ
ba, nhóm thành viên là môi trƣờng quan trọng thứ hai sau gia đình, là nơi mà các cá
nhân có thể thu nhận các kinh nghiệm xã hội theo cả con đƣờng chính thống và
không chính thống thông qua sự tƣơng tác với các thành viên có cùng vị thế với
mình. Chính nhóm thành viên là nơi mà các cá nhân có thể dễ dàng chia sẻ cũng
nhƣ dễ chịu ảnh hƣởng về quan điểm, lối sống, kinh nghiệm, các giá trị, chuẩn mực,
cách ứng xử,… V.C.Merlin đã khẳng định sự tác động của nhóm đối với cá nhân là
thành viên của nó: “Đặc điểm của mối quan hệ đặc trƣng trong nhóm có ý nghĩa
quyết định đối với sự hình thành nhân cách cá nhân” [4, tr.155]. Thứ tư, thông tin
đại chúng cũng là nhân tố ngày càng chiếm vai trò quan trọng với các cá nhân bởi

×