Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Nhận thức, thái độ và hành vi của sinh viên trường Đại học Hồng Đức với phương pháp học tập theo học chế tín chỉ 1.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.3 KB, 28 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






NGUYỄN THỊ LÝ




NHẬN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI CỦA
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC VỚI
PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Xã hội học











HÀ NỘI - 2011


2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






NGUYỄN THỊ LÝ




NHẬN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI CỦA
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC VỚI
PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 603130




Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Vân Hạnh






HÀ NỘI - 2011

4
MỤC LỤC
MỤC LỤC i
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ii
DANH MỤC CÁC HỘP iv

PHẦN MỞ ĐẦU
1
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn
2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu ……………………………
5
5. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………………
6
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu …………………………
8
7. Khung lý thuyết ……………………………………………………………

10
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
13
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
11
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu ………………………………………
11
1.2. Sơ lược về địa bàn nghiên cứu ……………………………………………
16
1.3. Cơ sở phương pháp luận …………………………………………………
19
1.4. Các lí thuyết được sử dụng trong đề tài
20
1.4.1. Nghịch lí LaPieE ………………………………………………………
20
1.4.2.Quan điểm về “ngưỡng tình huống” trong các nghiên cứu về thái độ …….
21
1.5. Các khái niệm công cụ

1.5.1. Nhận thức ………………………………………………………………
22
1.5.2. Thái độ ……………………………………………………………………
22
1.5.3. Hành vi …………………………………………………………………
23
1.5.4. Hành vi lệch chuẩn ……………………………………………………….
24
1.5.5. Sinh viên ………………………………………………………………….
24
1.5.6. Phương pháp học tập theo học chế tín chỉ ………………………………

24
CHƯƠNG 2: Thực trạng nhận thức – thái độ - hành vi của sinh viên trường
Đại học Hồng Đức với phương pháp học tập theo học chế tín chỉ
26
2.1. Nhận thức học tập của sinh viên về phương pháp học tập theo tín chỉ
26
2.1.1. Nhận thức của sinh viên về phương pháp học tập trên lớp trong phương
pháp học tập của hệ thống đào tạo tín chỉ ………………………………………
28


5
2.1.2. Nhận thức của sinh viên về hoạt động tự học trong phương pháp học ở nhà
và trên thư viện của hệ thống đào tạo tín chỉ ……………………………………
32
2.1.3. Nhận thức của sinh viên về các hoạt động biểu hiện tính tích cực học tập
của phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ ………………………
37
2.2. Thái độ của sinh viên với phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo
tín chỉ
42
2.2.1. Thái độ của sinh viên với thời gian học tập trên lớp, ở nhà trong hệ thống
đào tạo tín chỉ ………………………………………………………………
44
2.2.2. Thái độ của sinh viên với phương pháp giảng dạy của giảng viên theo học
chế tín chỉ ………………………………………………………………………
46
2.2.3. Thái độ của sinh viên với phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
theo học chế tín chỉ ………………………………………………………….
48

2.3. Hành vi học tập của sinh viên trong phương pháp học tập của hệ thống
đào tạo tín chỉ
51
2.3.1. Hành vi học tập tích cực …………………………………………………
54
2.3.2. Hành vi học tập thụ động ………………………………………………….
58
2.3.3. Hành vi học tập lệch chuẩn ………………………………………………
60
2.3.4. Hành vi học nhóm …………………………………………………….
62
CHƯƠNG 3: Các yếu tố ảnh hưởng tới nhận thức, thái độ và hành vi của
sinh viên trường Đại học Hồng Đức với phương pháp học tập theo học chế
tín chỉ
69
3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức của sinh viên trường Đại học
Hồng Đức với phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ
71
3.1.1. Đặc điểm của cá nhân của sinh viên ……………………………………….
72
3.1.2. Quy định của nhà trường ………………………………………………….
74
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ của sinh viên với phương pháp học
tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ
76
3.2.1. Các đặc điểm cá nhân của sinh viên ……………………………………
76
3.2.2. Phương pháp giảng dạy của giáo viên …………………………………
80
3.2.3. Quy định của nhà trường ………………………………………………

82
3.3. Các nhân tổ ảnh hưởng đến hành vi học tập của sinh viên trong hệ
thống đào tạo tín chỉ
86
3.3.1. Các đặc điểm cá nhân của sinh viên …………………………………
86
3.3.2. Phương pháp giảng dạy của giáo viên ………………………………
91
3.3.3. Cơ sở vật chất của nhà trường ……………………………………………
94
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
99
1. Kết luận…………………………………………………………………………
99

6
2. Một vài khuyến nghị…………………………………………………………
101
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………




1
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sau mười năm chuyển mình đổi mới, đến Đại hội toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1996
thì “Giáo dục, đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu”
1

. Trong quá trình toàn cầu hóa, nền giáo
dục nước ta cũng đứng trước những thách thức to lớn. Nắm bắt được xu hướng này, Đảng và Nhà nước ta đề
ra nhiệm vụ đổi mới giáo dục là nhiệm vụ cấp bách để làm động lực cho đất nước vươn lên tầm quốc tế.
Riêng về giáo dục đại học, nguyên thủ tướng Phan Văn Khải đã nói: “Đổi mới giáo dục đại học là vấn đề
quan trọng và cấp bách. Đây là vấn đề có tính chất quyết định để thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
2

Trong những năm gần đây, giáo dục đại học ở nước ta đã không ngừng nâng cao về cơ sở vật chất kĩ
thuật, trình độ giảng viên, phương pháp đào tạo… . Đặc biệt quan trọng là sự đổi mới hình thức đào tạo từ
đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ.
Đào tạo tín chỉ là phương thức đào tạo linh hoạt và mềm dẻo trong đó sinh viên được chủ động lập
kế hoạch và đăng kí học tập, tích lũy từng phần kiến thức theo tiến độ phù hợp với năng lực, điều kiện của
bản thân và nhà trường nhằm hoàn tất chương trình đào tạo để được cấp bằng tốt nghiệp.
3

Hình thức đào tạo tín chỉ đòi hỏi sinh viên phải có một phương pháp học thật sự khoa học, chủ động,
tích cực hơn, dành nhiều thời gian hơn cho việc tự học và tự tìm tài liệu nghiên cứu. Mục đích của đào tạo tín
chỉ là phát huy tính tích cực học tập của sinh viên để nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Với mục đích nâng cao chất lượng giáo dục đại học, trường Đại học Hồng Đức chuyển từ hình thức
đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ từ năm 2008 nhằm nâng cao tính tích cực học tập của sinh viên. Với
hình thức đào tạo mới này, sinh viên trường Đại học Hồng Đức nhận thức thế nào về hình thức đào tạo tín
chỉ? Họ có thái độ như thế nào với hình thức đào tạo này? Và hành vi (việc thực hành) phương pháp học tập
theo hình thức đào tạo theo tín chỉ có gì đáng chú ý?
Đi tìm câu trả lời cho các vấn đề như hiện trạng của nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên trường
Đại học Hồng Đức với việc học tập theo học chế tín chỉ, độ chênh giữa nhận thức về hình thức đào tạo theo
tín chỉ với hành vi học tập theo hình thức này, thiết nghĩ nghiên cứu về “Nhận thức, thái độ và hành vi của
sinh viên trường Đại học Hồng Đức với phương pháp học tập theo học chế tín chỉ” là điều cần thiết.
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học

Đề tài góp phần làm rõ hơn hệ thống khái niệm trong nghiên cứu nhận thức, thái độ và hành vi và
cũng là một đóng góp nhỏ giúp chúng ta có thể kiểm chứng một số lí thuyết xã hội học như: lí thuyết ngưỡng
tình huống, nghịch lí LaPie trong việc giải quyết các vấn đề xã hội.
2.2 Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài này giúp chúng ta có một cái nhìn tổng quan về nhận thức, thái độ và hành vi của sinh viên
trường Đại học Hồng Đức với phương pháp học tập theo học chế tín chỉ và những nhân tố ảnh hưởng đến
thực trạng này, từ đó có những giải pháp nâng cao chất lượng học tập và giảng dạy.



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

1
Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, 1996, xem
trên ngày 26/10/2008
2
Xem bài Thủ tướng: Đổi mới giáo dục đại học là chuyện cấp bách trên
cập nhật ngày 26/10/2008

3
Quy định về đào taoh Đại học và Cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ, Ban hành kèm theo quyết định số
801/2008/QĐ -ĐHHĐ ngày 03 tháng 9 năm 2008 của hiệu trưởng trường ĐHHĐ


2
2
3.1 Mục đích nghiên cứu
Đề tài này được thực hiện nhằm tìm hiểu thực trạng nhận thức – thái độ - hành vi của sinh viên
trường Đại học Hồng Đức với phương pháp học tập theo học chế tín chỉ cũng như các yếu tố tác động tới

thực trạng này. Qua đây người nghiên cứu phần nào có những cơ sở để lí giải cho chất lượng học tập của
sinh viên trường Đại học Hồng Đức để từ đó có những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập của sinh
viên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tìm hiểu thực trạng nhận thức của sinh viên trường Đại học Hồng Đức về phương pháp học
tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ ở các nhóm vấn đề sau:
- Sinh viên nhận thức đúng hay sai về phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ.
- Sinh viên nhận thức đúng hay sai về phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ thông qua các hoạt
động học tập như: học tập trên lớp, học tập ở nhà, học tập trên thư viện.
Đề tài cũng tìm hiểu thái độ của sinh viên với phương pháp học tập theo học chế tín chỉ như:
- Sinh viên có thái độ thích hay không thích với phương pháp học tập theo học chế tín chỉ.
- Sinh viên có thái độ thích hay không thích với một số hoạt động học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ như:
phương pháp kiểm tra, đánh giá, phương pháp giảng dạy của giáo viên và thời gian học tập của sinh viên.
Bên cạnh đó, đề tài hướng đến tìm hiểu hành vi học tập của sinh viên với các nhóm hành vi học tập
sau:
- Hành vi học tập tích cực.
- Hành vi học tập thụ động.
- Hành vi phản học tập.
- Hành vi học nhóm – một hành vi tiêu biểu trong hoạt động học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ.
Đề tài cũng nhằm chứng minh sự tồn tại của độ chênh lệch giữa nhận thức, hành vi trong phương
pháp học tập theo học chế tín chỉ của sinh viên.
Đồng thời, cũng tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức, thái độ và hành vi của sinh viên về
phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ.
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên trường Đại học Hồng Đức với phương pháp học tập theo
học chế tín chỉ.
4.2 Khách thể nghiên cứu
Sinh viên trường Đại học Hồng Đức.
4.3. Phạm vi nghiên cứu

* Phạm vi thời gian: tháng 3/2010 đến 11/2011
* Phạm vi không gian: Trường Đại học Hồng Đức
* Nội dung nghiên cứu
- Nhận thức: Nghiên cứu giới hạn trong việc tìm hiểu và phân tích xem sinh viên trường Đại học
Hồng Đức có nhận thức đúng về phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ không và tìm hiểu nhận
thức của sinh viên thông 15 biểu hiện về hoạt động học tập trên lớp, ở nhà và trên thư viện.
- Thái độ: Nghiên cứu chỉ tìm hiểu các biểu hiện trong thái độ của sinh viên khi tham gia hoạt động
học tập: Sinh viên thích hay không thích phương pháp học tập theo học chế tín chỉ, sinh viên thích hay không
thích một số hoạt động liên quan đến học tập như: phương pháp giảng dạy của giáo viên, phương pháp kiếm
tra, đánh giá và thời gian học tập.


- Hành vi (thực hành phương pháp học tập):
Chúng tôi hướng đến tìm hiểu hành vi học tập của sinh viên trong hệ thống đào tạo tín chỉ ở 18 loại
hành vi phổ biến trong các hoạt động học tập trên lớp, ở nhà, trên thư viện với các nhóm hành vi học tập tích


3
3
cực, hành vi học tập thụ động, hành vi học tập lệch chuẩn, ngoài ra còn tìm hiểu hành vi học nhóm – một đặc
trưng của phương pháp học tập theo học chế tín chỉ.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp chọn mẫu
Thông tin được thu thập từ mẫu được lựa chọn ngẫu nhiên từ các khoa của trường Đại học Hồng
Đức. Dung lượng mẫu là 300 sinh viên. Tính đại diện của mẫu nghiên cứu được đảm bảo bằng quy trình
chọn mẫu ngẫu nhiên theo cụm nhiều giai đoạn
5.2. Phương pháp thu thập thông tin
5.2.1 Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi
Tôi đã tiến hành phát 300 phiếu trưng cầu ý kiến cho sinh viên các khoa trong trường : Khoa Xã hội,
bộ môn Tâm lí, Khoa Tự nhiên, Khoa Kĩ thuật công nghệ, Khoa Ngoại ngữ:

Nội dung phiếu trưng cầu ý kiến gồm 2 phần lớn: Phần nội dung chính của phiếu hỏi và phần thông
tin cá nhân.
5.2.2 Phương pháp phỏng vấn sâu:
Để bổ sung thông tin cho các nghiên cứu định lượng tôi tiến hành 10 phỏng vấn sâu cá nhân gồm các
sinh viên năm thứ nhất, năm thứ 2 và năm thứ 3 ở các khoa và bộ môn trong trường như: tự nhiên, xã hội,
kinh tế, mầm non…
Nội dung xoay quanh chủ đề hành vi chủ động học tập của sinh viên (Tự học ở nhà, hành vi học tập
trên lớp) và các yếu tố ảnh hưởng đến nó.
5.2.3. Phương pháp quan sát
Nghiên cứu đã thực hiện cả quan sát tham dự và quan sát không tham dự để tìm hiểu: nhận thức, thái
độ, hành vi của sinh viên trường Đại học Hồng Đức với phương pháp học tập theo học chế tín chỉ.
5.3 Phương pháp xử lí thông tin
Các thông tin định lượng được xử lí bằng phần mền thống kê chuyên dụng SPSS 15.0.
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
Chúng tôi đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi nghiên cứu sau:
1) Sinh viên trường Đại học Hồng Đức nhận thức về phương pháp học tập theo tín chỉ như thế nào?
2) Sinh viên trường Đại học Hồng Đức có thích phương pháp học tập theo học chế tín chỉ không?
3) Sinh viên trường Đại học Hồng Đức đang thực hành phương pháp học tập theo tín chỉ ra sao?
4) Liệu có tồn tại một độ chênh giữa nhận thức và hành vi thực hành phương pháp học theo tín chỉ của sinh
viên trường đại học Hồng Đức không?
5) Những yếu tố nào ảnh hưởng đến nhận thức, thái độ và hành vi của sinh viên trường Đại học Hồng Đức
trong phương pháp học tập theo học chế tín chỉ.
Từ những câu hỏi nghiên cứu này cũng như phân tích những nghiên cứu từ trước, tôi đặt ra một số
giả thuyết nghiên cứu như sau:
6.1. Phần đông sinh viên Đại học Hồng Đức có nhận thức đúng về phương pháp học tập theo tín chỉ, tuy
nhiên số sinh viên thích phương pháp học tập này không chiếm tỉ lệ cao như tỉ lệ nhận thức đúng.
6.2. Mức độ nhận thức đúng khá cao của sinh viên về phương pháp học tập theo tín chỉ chưa chuyển hóa
thành các hành vi học tập đúng theo phương pháp này
6.3. Nhận thức, thái độ và hành vi học tập của sinh viên trong hệ thống đào tạo tín chỉ, cũng như độ chênh
giữa các biến số này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Phương pháp giảng dạy của giáo viên, vị trí ngồi trên

lớp, giới tính, ngành học, năm học, điểm trung bình học tập, cơ sở vật chất của nhà trường.


4
4
7. Khung lý thuyết






































Quy định của Bộ, quy định của
trường
Phương pháp giảng dạy của
giáo viên

Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên trường Đại học Hồng Đức với phương
pháp học tập theo học chế tín chỉ.
Cơ sở vật chất: diện tích
phòng học, ánh sáng, âm
thanh, hệ thống thư viện.
Đặc điểm của sinh viên
+Đặc điểm nhân khẩu: Giới
tính, năm học, ngành học…
+ Một số đặc điểm khác: vị trí
chỗ ngồi, điểm học kì gần
nhất….


Nhận thức của sinh
viên trường Đại học
Hồng Đức với
phương pháp học tập
theo học chế tín chỉ:
- Nhận thức chung
về phương pháp học
tập theo tín chỉ.
- Nhận thức về hoạt
động học tập trên
lớp
- Nhận thức về các
hoạt động học tập ở
nhà, trên thư viện
-Nhận thức về các
hoạt động biểu hiện
tính tích cực học tập
của sinh viên.
Thái độ của sinh viên
trường Đại học Hồng
Đức với phương pháp
học tập theo học chế
tín chỉ:
- Sinh viên thích hay
không thích phương
pháp học tập theo học
chế tín chỉ.
-Sinh viên thích hay
không thích thời gian
học tập ở nhà, trên

lớp theo hệ thống đào
tạo tín chỉ
- Sinh viên thích hay
không thích phương
pháp dạy học của
giáo viên
-Sinh viên thích hay
không thích phương
pháp kiếm tra, đánh
giá kết quả học tập

Hành vi học tập của sinh viên với
phương pháp học tập theo học chế
tín chỉ:
-Hành vi học tập đúng với tinh
thần của phương pháp học tập
trong hệ thống đào tạo tín chỉ
+Hành vi học tập tích cực

- Hành vi không đúng với tinh
thần của phương pháp học tập
trong hệ thống đào tạo tín chỉ
+Hành vi học tập thu động
+ Hành vi lệch chuẩn trong học tập
- Hành vi học nhóm


5
5
NỘI DUNG CHÍNH

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Trong những năm vừa qua, rất nhiều những hội thảo về phương thức đào tạo trong hệ thống tín chỉ
được tổ chức ở các trường Đại học Quốc Gia Hà Nội, Đại học Hà Tĩnh, Đại học Vinh, Đại học Hồng Đức,
Đại học Đà Lạt, Đại học Thái Nguyên, Đại học dân lập Thăng Long Đặc biệt có những hội thảo mang tầm
quốc gia như Hội thảo về phương thức đào tạo trong hệ thống tín chỉ tại Đại học Đà Nẵng vào năm 2006 đã
thu hút được sự tham gia của rất nhiều giảng viên, nhà nghiên cứu ở các trường đại học, các viện nghiên cứu
trên mọi miền trên tổ quốc.
Đưa ra các giải pháp để triển khai phương pháp học tập theo học chế tín chỉ, PGS.TS Nguyễn Văn
Nhã – Trưởng ban đào tạo Đại học Quốc Gia Hà Nội đã có bài viết: “Các giải pháp triển khai phương thức
đào tạo theo tín chỉ ở Đại học Quốc Gia Hà Nội” trong hội thảo này.
Bên cạnh những bài viết đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo trong học chế tín chỉ,
nhiều học giả còn đưa ra những phân tích dựa trên kinh nghiệm của các nước có nền giáo dục phát triển và
đã có những thành công trong hoạt động ứng dụng phương pháp học tập theo học chế tín chỉ như Trung
Quốc, Mĩ, Malaixia… Đưa ra những kinh nghiệm của Malaixia trong hoạt động đào tạo theo tín chỉ và so
sánh với Việt Nam trong tiến trình đào tạo này TS Lê Văn Hảo – Trường Đại học Nha Trang đã viết “Tổ
chức đào tạo đại học theo tín chỉ: Kinh nghiệm của Malaixia và so sánh với Việt Nam.
TS Eli Mazul &TS Phạm Thị Ly đã chỉ ra hệ thống giáo dục đại học tốt nhất thế giới - Mĩ là một hệ
thống không có hệ thống qua bài viết “Hệ thống đào tạo theo tín chỉ của Mĩ và những cải cách cho hệ thống
giáo dục đại học Việt Nam”.
Không chỉ quan tâm đến những hoạt động trong lĩnh vực đào tạo chính quy, hội thảo cũng có nhiều
bài viết quan tâm đến lĩnh vực đào tạo văn bằng 2, không chính quy như Th.S Phan Thị My với bài viết
“Tiếp cận hệ thống tín chỉ trong đào tạo không chính quy”.
Ngoài hội thảo trên còn rất nhiều các hội thảo khác như hội thảo “Đổi mới phương thức dạy theo học
chế tín chỉ” của Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn TP. Hồ Chí Minh diễn ra vào năm 2008
Không chỉ có hội thảo, các bài nghiên cứu dưới hình thức bài báo về phương thức đào tạo tín chỉ
cũng xuất hiện khá nhiều trên các tạp chí với nhiều nội dung khác nhau. Tuy nhiên, các bài nghiên cứu này
chủ yếu tập trung ở một số những nhóm như sau:
Thứ nhất, những bài nghiên cứu tập trung tìm hiểu về bản chất của tín chỉ cũng như sự ứng dụng nó
ở Việt Nam thu hút được sự tham gia nghiên cứu của rất nhiều nhà giáo, nhà nghiên cứu, những người quan

tâm đến lĩnh vực giáo dục như:
Nghiên cứu về lịch sử và bản chất của học chế tín chỉ, PGS.TS Hoàng Văn Vân đã có bài viết
“Phương thức đào tạo theo tín chỉ: lịch sử, bản chất và những hàm ý cho phương pháp giảng- dạy ở bậc đại
học” trong tạp chí khoa học số 3 năm 2010. Trên trang web của Đại học Quốc Gia, GS.TS Lê Thạc Cán đã
phân tích về “Tổ chức giảng dạy và học tập theo chương trình định sẵn và học chế tín chỉ” trên trang web
của Đại học Quốc Gia Hà Nội. Cũng phân tích về bản chất của học chế tín chỉ và việc áp dụng nó tại Việt
Nam, Giáo sư Lâm Quang Thiệp đã phân tích về “Về học chế tín chỉ và việc áp dụng ở Việt Nam” trong tạp
chí khoa học số 3 năm 2007. Không những chỉ ra bản chất của học chế tín chỉ, PGS.TS Phan Quang Thế đã
phân tích những điểm dễ và khó khi học theo hệ thống đào tạo tín chỉ trong bài viết “Học theo tín chỉ, dễ và
khó ở đâu” đăng trên web của Đại học Thái Nguyên.
Sau khi áp dụng hình thức đào tạo này tại trường Đại học Hà Tĩnh, Th.S Nguyễn Thị Hương Giang
cũng có bài viết “Tìm hiểu về phương thức đào tạo theo tín chỉ” đăng trên tạp chí Giáo dục số 4 năm 2009.
Nhóm thứ hai là những bài nghiên cứu tập trung về các hình thức tổ chức dạy học, các phương pháp
dạy và học trong hình thức đào tạo tín chỉ. Nhóm nghiên cứu này thường đi vào những vấn đề cụ thể trong
việc áp dụng phương thức đào tạo này ở Việt Nam. Một số những bài viết liên quan đến những vấn đề này
như:


6
6
Bàn về phương pháp dạy học nhóm, TS Ngô Thu Dung đã có bài “Phương pháp dạy học nhóm, một
phương pháp tích hợp cần sử dụng trong giảng dạy và tổ chức một số môn học và hoạt động giáo dục theo
học chế tín chỉ” trên tạp chí giáo dục số 3 năm 2007. Cùng nhóm bài này, TS Tôn Quang Cưởng đã phân
tích về “ Các hình thức tổ chức dạy học trong mối quan hệ với phương pháp dạy học và phương pháp kiểm
tra đánh giá trong đào tạo tín chỉ” trên trang web của Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Có thể nói rằng, nghiên cứu của chúng tôi ở đây tiếp nối những mạch nghiên cứu trên. Nghiên cứu
“Nhận thức, thái độ và thực hành của sinh viên trường Đại học Hồng Đức với phương pháp học tập theo tín
chỉ” đi vào phân tích đối tượng người học trong hệ thống đào tạo tín chỉ với phương pháp học tập trong hệ
thống đào tạo này với các câu hỏi nghiên cứu: Sinh viên trường Đại học Hồng Đức nhận thức như thế nào về
phương pháp đào tạo theo hệ thống tín chỉ? Họ có thái độ và hành vi ra sao trong hệ thống đào tạo này? Liệu

có độ chênh giữa nhận thức, thái độ và hành vi của sinh viên trong phương pháp học tập theo hệ thống đào
tạo tín chỉ hay không? Đây là một hướng nghiên cứu còn khá mới mẻ trong những hướng nghiên cứu về hệ
thống đào tạo theo tín chỉ ở Việt Nam.
1.2. Sơ lược về địa bàn nghiên cứu
Trường Đại học Hồng Đức được thành lập theo Quyết định số 797/TTg ngày 24/9/1997 của Thủ tướng
Chính phủ trên cơ sở của trường Cao đẳng Sư phạm, Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật, Cao đẳng Y tế Thanh
Hoá. Trường lấy Hiệu của Hoàng đế Lê Thánh Tông làm tên gọi.
Là trường công lập trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa và chịu sự quản lý nhà nước của Bộ
Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, Ngành Trung ương trong phạm vi chức năng quyền hạn có liên quan
Trường Đại học Hồng Đức đã bắt đầu chuyển sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ từ năm 2008, đến nay
nhóm sinh viên bắt đầu học theo hệ thống đào tạo này đã bước sang năm thứ 4. Trong quá trình chuyển đổi
từ hình thức đào tạo niên chế sang hình thức đào tạo tín chỉ, trong giai đoạn đầu, nhà trường, đội ngũ giảng
viên và sinh viên đã gặp phải không ít những khó khăn. Tuy nhiên, sau 4 năm học triển khai hình thức đào
tạo này với sự học hỏi kinh nghiệm từ nhiều trường đi trước, nhà trường đã chuẩn hóa thành những quy định
trong mọi hoạt động giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học khiến tập thể giảng viên và sinh viên yên
tâm giảng dạy và học tập.
Mặc dù, đang là những năm đầu triển khai hệ thống đào tạo này nhưng nhà trường, giảng viên và sinh
viên rất tích cực tìm hiểu và vận dụng sáng tạo những ưu điểm của phương pháp học tập theo hệ thống đào
tạo tín chỉ vì thế chất lượng học tập và giảng dạy đang từng bước được nâng cao.
1.3. Cơ sở phương pháp luận
Nghiên cứu này được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa
duy vật biện chứng.
Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên trường Đại học Hồng Đức với phương pháp học tập theo
tín chỉ là một hành vi xã hội. Nó không chỉ chịu tác động của mục đích, nhu cầu, đặc điểm của cá nhân người
học mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: phương pháp giảng dạy của giáo viên, môi trường xã hội
xung quanh…. Bởi thế, muốn tìm hiểu và lí giải được “Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên trường Đại
học Hồng Đức với phương pháp học tập theo tín chỉ” chúng ta phải xem xét nó trong các mối quan hệ với
các yếu tố chủ quan của người học cũng như nhưng yếu tố khách quan khác.
Mặt khác, sự ra đời và phát triển của phương pháp học tập theo tín chỉ tại các trường Đại học của
nước ta nói chung và Đại học Hồng Đức nói riêng cũng là sự phản ánh thực tiễn của xã hội Việt Nam với xu

thế phát triển của thời đại về việc vươn tới một xã hội tri thức. Nghiên cứu về “Nhận thức, thái độ và hành vi
của sinh viên trường Đại học Hồng Đức với phương pháp học tập theo tín chỉ” có thể coi là một sự đánh giá
về đặc trưng của bối cảnh giáo dục nước ta hiện nay.

1.4. Các lí thuyết sử dụng trong đề tài
1.4.1 Nghịch lí LaPieE
LaPieE là nhà nghiên cứu xã hội người Mĩ. Vào năm 1934, để tìm hiểu thái độ của người dân châu
Mĩ với người dân châu Á, LaPiere đã thực hiện thí nghiệm về sự tiếp đón của người dân Mĩ với một cặp vợ


7
7
chồng người Trung Quốc ở 251 nhà nghỉ, khách sạn, nhà hàng, gara ô tô và có 250 địa điểm ông và cặp vợ
chồng người Trung Quốc được tiếp đón nhiệt tình.
Sau đó 6 tháng LaPiere đã gửi tới 251 địa điểm mà ông đã cùng đến với cặp vợ chồng người Trung
Quốc lá thư với câu hỏi “Ông bà có sẵn lòng đón tiếp những người Trung Quốc làm khách của mình không”.
Kết quả có 128 thư trả lời và chỉ có 1 lá thư đồng ý rõ ràng, 9 lá thư bộc lộ thái độ lưỡng lự và 118 thư từ
chối thẳng thừng.
Những kết quả này đã chứng minh được rằng: thái độ cần phải được nghiên cứu trực tiếp qua hành
vi. Ông cũng đặt ra câu hỏi: Liệu có sự mâu thuẫn giữa hành vi và thái độ hay không?
Từ cách tiếp cận chuyên biệt theo nghich lí LaPieE, trong đề tài này, chúng ta có thể tìm hiểu được
mối liên hệ giữa nhận thức, thái độ và hành vi thực hành phương pháp học tập theo tín chỉ là có hay không?
Liệu có độ chênh giữa nhận thức, thái độ và hành vi không?
1.4.2. Quan điểm về “ngưỡng tình huống” trong một số nghiên cứu về thái độ
Thuật ngữ “thái độ” có nhiều định nghĩa khác nhau. Thái độ “là một tâm thế ủng hộ hay phản đối với
một nhóm đối tượng nhất định” [ 15, tr. 163] , hoặc thái độ là “những mạng lưới của các niềm tin liên kết
đan chéo nhau vốn được lưu giữ lâu dài trong trí nhớ của chúng ta và được kích hoạt khi chúng ta gặp đối
tượng của thái độ hoặc vấn đề liên quan”. [ 15, tr. 164]
Tiếp nối việc nghiên cứu cấu trúc của thái độ liên quan đến nghịch lí LaPierE, người ta chỉ cấu trúc
của thái độ gồm 3 thành phần và mỗi thành phần có một ngưỡng tình huống. Đây là những điều kiện, bối

cảnh xã hội mà trong đó thành phần đó có thể biểu hiện ra hay là xác suất mà thành phần đó xuất hiện. Lí
thuyết này chỉ ra rằng: tuỳ theo ngưỡng tình huống mà một thành phần trong một tình huống cụ thể sẽ hiện
ra, việc tìm ra ngưỡng tình huống cho từng thành phần sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thái độ.
Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng quan điểm về “ngưỡng tình huống” trong nghiên cứu về thái độ
nhằm xác định sự tồn tại các ngưỡng tình huống giữa các thành phần: nhận thức, thái độ và hành vi của sinh
viên về phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ.
1.5. Các khái niệm công cụ
1.5.1. Nhận thức
Trong đề tài này, khái niệm “Nhận thức” được phân tích là những quan điểm, sự nhìn nhận và đánh
giá của sinh viên trường Đại học Hồng Đức với phương pháp học tập theo tín chỉ:
+ Nhận thức chung của sinh viên trường ĐH Hồng Đức với phương pháp học tập theo tín chỉ.
+ Nhận thức về mục tiêu của phương pháp học tập theo tín chỉ của sinh viên ĐH Hồng Đức.
+ Nhận thức về cách tham gia bài giảng trên lớp, về hoạt động chuẩn bị bài, về hoạt động lên thư
viện… của sinh viên học theo hình thức đào tạo tín chỉ.
1.5.2. Thái độ
Trong nghiên cứu này, khái niệm “thái độ” được phân tích là tâm thế thích hay không thích của sinh
viên trường Đại học Hồng Đức với phương pháp học tập theo hệ thống tín chỉ.
+ Sinh viên trường Đại học Hồng Đức có thái độ thích hay không thích với phương pháp học tập
theo tín chỉ.
+ Sinh viên có thái độ thích hay không thích với thời gian học tập trên lớp, ở nhà theo học chế tín
chỉ.
+ Sinh viên có thái độ thích hay không thích với phương pháp dạy học của giáo viên theo học chế tín
chỉ.
+ Sinh viên có thái độ thích hay không thích với phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
theo học chế tín chỉ.
1.5.3. Hành vi.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng khái niệm hành vi để phân tích những phản ứng của sinh
viên trường Đại học Hồng Đức trước phương pháp học tập theo học chế tín chỉ. Tìm hiểu về hành vi của sinh
viên trường Đại học Hồng Đức với phương pháp học tập theo tín chỉ ở đề tài này tìm hiểu qua những góc độ
sau:



8
8
+ Hành vi học tập tích cực.
+ Hành vi học tập thụ động.
+ Hành vi học tập lệch chuẩn.
1.5.4. Hành vi lệch chuẩn:
Trong nghiên cứu này, hành vi lệch chuẩn là những hành vi không được thực hiện trong hoạt động
học tập của sinh viên, nhưng vì lợi ích cá nhân những hành vi này vẫn được thực hiện một cách cố tình và bí
mật như: sử dụng tài liệu trong khi thi mà chưa được phép, nghỉ học quá thời gian cho phép
1.5.5. Sinh viên
Trong đề tài này, sinh viên là những người đang theo học tại trường Đại học Hồng Đức
1.5.6. Phương pháp học tập theo học chế tín chỉ:
1.5.6.1. Phương pháp học tập:
Phương pháp học tập là: phương pháp tự điều khiển hoạt động nhận thức và rèn luyện khả năng
thu thập thông tin để hình thành hệ thống tri thức và kỹ năng thực hành, hình thành nhân cách của người học
và thành đạt mục tiêu học tập. [8, tr. 3]
1.5.6.2 Học chế tín chỉ:
Học chế tín chỉ: là phương thức đào tạo linh hoạt và mềm dẻo, trong đó sinh viên được chủ động lập
kế hoạch và đăng kí học tập, tích lũy từng học phần kiến thức theo tiến độ phù hợp với năng lực, điều kiện
của bản thân và nhà trường nhằm hoàn tất chương trình đào tạo để được cấp bằng tốt nghiệp. [6, tr. 15]. Sau
khi quy chế 43 của bộ giáo dục ban hành khái niệm học chế tín chỉ còn có một tên gọi khác nữa là hệ thống
tín chỉ. Vì vậy, trong đề tài này, chúng tôi sẽ đồng nhất 2 khái niệm học chế tín chỉ và hệ thống tín chỉ, 2
khái niệm này sẽ được hiểu theo nghĩa giống nhau.
Phương pháp học tập theo học chế tín chỉ là: phương pháp học tập mà người học chủ động lựa
chọn kế hoạch học tập và tích cực thực hiện kế hoạch đó. Đây là phương pháp mà người học phát huy cao độ
tính tự học của mình và học nội dung cốt lõi là chính.
Trong đề tài này, phương pháp học tập theo học chế tín chỉ có thể được hiểu theo những khía cạnh
sau:

+ Cần phải có phương pháp lập kế hoạch cho cả khóa học.
+Phương pháp học tập trong giờ lí thuyết là nghe, viết, suy ngẫm còn giờ thảo luận là nói và tranh
luận nhiều hơn.
+ Tăng cường thời lượng học trên thư viện và ở nhà.
+ Tăng cường thời gian học nhóm
+ Sinh viên phát huy khả năng độc lập, sáng tạo trong học tập.











CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG NHẬN THỨC - THÁI ĐỘ - HÀNH VI CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐH
HỒNG ĐỨC VỚI PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP THEO TÍN CHỈ
2.1. Nhận thức của sinh viên về phương pháp học tập theo tín chỉ
. Nghiên cứu nhận thức của sinh viên trường Đại học Hồng Đức với phương pháp học tập trong hệ
thống đào tạo tín chỉ chúng tôi đã đưa ra 15 nhận định về phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ
với các nhóm hoạt động như: hoạt động học tập trên lớp, ở nhà, trên thư viện và một số hoạt động khác liên
quan đến học tập.


9
9
Trong từng hoạt động chúng tôi đưa ra 3 phương án trả lời: đúng, sai và phân vân. Tuy nhiên, để tính
chỉ số nhận thức đúng về phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ, chúng tôi quan niệm phương

án trả lời chỉ có phương án đúng và chưa đúng. Thực hiện phép tính toán thống kê để đo lường mức độ nhận
thức đúng chúng tôi thu được kết quả sau:
Bảng 2.1: Mức độ nhận thức đúng về phươg pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ
Mẫu điều tra
281
Chỉ số mức độ nhận thức về phương pháp học tập
trong hệ thống đào tạo tín chỉ
78.6/100
Độ lệch tiêu chuẩn
14
Giá trị lớn nhất
100
Giá trị nhỏ nhất
40
Chỉ số nhận thức đúng về phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ của sinh viên trường
Đại học Hồng Đức khá cao: 78,6 điểm phần trăm. Chỉ số này cho thấy phần đông sinh viên của trường có
cách hiểu đúng đắn về phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ.
2.1.1. Nhận thức của sinh viên về phương pháp học tập trên lớp trong phương pháp học tập của hệ
thống đào tạo tín chỉ.
Để nghiên cứu nhận thức của sinh viên về phương pháp học tập trên lớp trong hệ thống đào tạo tín
chỉ, chúng tôi đưa ra 6 nhận định với 5 nhận định đúng và 1 nhận định sai, cụ thể là: “Dám tranh luận với
giáo viên khi có ý kiến khác”, “Mạnh dạn tranh luận với các bạn trong lớp, trong nhóm khi có ý kiến khác
nhau về một vấn đề”, “Tham gia phát biểu ý kiến trên lớp”, “Biết nghe giảng một cách phê phán”, “Tăng
cường học nhóm” và “Dành nhiều thời gian học tập trên lớp”. Thực hiện tính toán thống kê để đo lường
mức độ nhận thức đúng chúng tôi thu được kết quả
Bảng 2.2: Mức độ nhận thức đúng về phương pháp học tập trên lớp
Mẫu điều tra
281
Chỉ số mức độ nhận thức về phương pháp học tập trên lớp
trong hệ thống đào tạo tín chỉ

77.3/100
Độ lệch tiêu chuẩn
24,6
Giá trị lớn nhất
100
Giá trị nhỏ nhất
16.6
Chỉ số nhận thức đúng về phương pháp học tập trên lớp trong hệ thống đào tạo tín chỉ xấp xỉ bằng
với chỉ số nhận thức chung (77.3 điểm phần trăm so với 78,6 điểm phần trăm). Chỉ số thấp hơn không quá
nhiều nhưng nó cũng cho thấy: sinh viên trường Đại học Hồng Đức có nhận thức về phương pháp học tập
trên lớp chưa cao bằng so với nhận thức chung về nhóm các phương pháp học tập khác trong hệ thống tín
chỉ, tuy nhiên đây cũng là một chỉ báo khá cao.
Tìm hiểu kĩ hơn về vấn đề này thông qua thống kê cụ thể các chỉ số tần suất chúng tôi thu được kết
quả trong bảng sau:






Bảng 2.3: Tần suất về nhận thức của sinh viên về phương pháp học tập trên lớp trong hệ thống đào tạo
tín chỉ (đơn vị %)
Nhận định
Đúng
Sai
Phân
vân
Học tập trong đào tạo theo hình thức tín chỉ là dám tranh luận với giáo viên khi có ý
kiến khác
89.3

3.9
6.8
Học tập trong đào tạo theo hình thức tín chỉ là tích cực trình bày vấn đề lại theo cách
hiểu của mình trong các giờ học thảo luận, các buổi xemina.
88.2
5.4
6.4


10
10
Học tập trong đào tạo theo hình thức tín chỉ là tham gia phát biểu nhiều ý kiến trên lớp
71.7
16.8
11.5
Học tập trong đào tạo theo hình thức tín chỉ là biết cách nghe một cách phê phán
(không chấp nhận máy móc mọi thông tin nghe được)
60.1
21.0
18.9
Học tập trong đào tạo theo hình thức tín chỉ là tăng cường học nhóm
93.1
3.2
4.6
Học tập trong đào tạo theo hình thức tín chỉ là chủ yếu dành thời gian học tập trên lớp
12.5
76.7
10.8
Bảng số liệu trên cho thấy số lượng sinh viên nhận thức đúng về phương pháp học tập trong hoạt
động học trên lớp đều khá cao. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn có những sinh viên nhận thức chưa đúng về

các phương pháp học tập trên lớp, những nhận thức không đúng chiếm một tỉ lệ không lớn nhưng nó cho
thấy vẫn còn một số sinh viên có nhận thức sai lầm với phương pháp học tập này.
Bên cạnh những sinh viên nhận thức sai vẫn còn một nhóm không nhỏ những sinh viên băn khoăn,
chưa biết hoặc chưa hiểu rõ về bản chất của hoạt động học tập trên lớp trong hệ thống đào tạo tín chỉ. Đây là
nhóm đối tượng dễ tác động để tăng cường tỉ lệ nhận thức đúng về hoạt động học tập trên lớp của sinh viên
Đại học Hồng Đức.
2.1.2. Nhận thức của sinh viên về hoạt động tự học trong phương pháp học ở nhà và trên thư viện của
hệ thống đào tạo tín chỉ.
Tìm hiểu về nhận thức của sinh viên về hoạt động tự học trong phương pháp học ở nhà và trên thư
viện qua 4 nhận định trong đó có 3 nhận định đúng và 1 nhận định sai là: là tăng thời lượng học trên thư viện
và ở nhà”, “là biết cách đọc tài liệu một cách phê phán (không chấp nhận máy móc mọi thông tin đọc
được)”, “là phải tự đọc các tài liệu liên quan đến nội dung môn học”, “là học thuộc lòng bài giảng hay tài
liệu”, chúng tôi thực hiện thống kê và thu được kết quả sau:
Bảng 2.4: Mức độ nhận thức đúng về hoạt động tự học của phương pháp học trên thư viện và ở nhà
trong đào tạo tín chỉ
Mẫu điều tra
281
Chỉ số mức độ nhận thức về hoạt động tự học của phương pháp học
trên thư viện và ở nhà trong hệ thống đào tạo tín chỉ
76.3/100
Độ lệch tiêu chuẩn
17.9
Giá trị lớn nhất
100
Giá trị nhỏ nhất
20
Chỉ số 76.3 điểm phần trăm là một chỉ số khá cao, giúp chúng ta nhận thức rõ đa phần sinh viên đều
có ý thức tốt khi đánh giá về hoạt động tự học trên thư viện và và ở nhà.
Tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này chúng tôi thống kê tần suất và có kết quả trong bảng sau:








Bảng 2.5: Tần suất nhận thức của sinh viên về tự học trên thư viện và ở nhà trong phương pháp học
tập của hệ thống đào tạo tín chỉ (đơn vị %)
Nhận định
Đúng
Sai
Phân
vân
Học tập trong đào tạo theo hình thức tín chỉ là tăng thời lượng học trên thư viện và ở
nhà
82.1
8.2
9.6
Học tập trong đào tạo theo hình thức tín chỉ là phải tự đọc các tài liệu liên quan đến nội
dung môn học
88.9
6.1
5.0
Học tập trong đào tạo theo hình thức tín chỉ là học thuộc lòng bài giảng hay tài liệu
10.0
81.1
8.9
Học tập trong đào tạo theo hình thức tín chỉ là biết cách đọc tài liệu một cách phê phán
52.5
19.8

28.1


11
11
(không chấp nhận máy móc mọi thông tin đọc được)
Bảng thống kê cho thấy, số lượng sinh viên nhận thức đúng về bản chất của nó đều trên 80%, tỉ lệ
nhận thức sai dưới 10%, tỉ lệ còn phân vân đều trên 5%. Tương tự, như cách lí giải, phân tích trong phương
pháp học tập trên lớp chúng ta rất dễ dàng tăng cường tỉ lệ sinh viên nhận thức đúng bằng cách tác động vào
số lượng sinh viên vẫn còn băn khoăn chưa rõ về hoạt động tự học ở nhà và trên thư viện trong phương pháp
học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ.
2.1.3. Nhận thức của sinh viên về các hoạt động biểu hiện tính tích cực học tập của phương pháp học
tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ
Tìm hiểu về vấn đề này chúng tôi đã đưa ra 5 nhận định, trong đó có 4 nhận định đúng: “là phải xây
dựng kế hoạch học tập cho từng môn học”, “luôn tìm tòi sáng tạo về môn học”, “sinh viên được lựa chọn
môn học, giáo viên”, “mạnh dạn tranh luận với các bạn trong lớp, trong nhóm khi có ý kiến khác nhau về
một vấn đề”, và 1 nhận định sai: “coi ý kiến của giáo viên luôn luôn đúng”, chúng tôi thực hiện thống kê và
thu được kết quả như sau
Bảng 2.6: Mức độ nhận thức đúng về các hoạt động biểu hiện tính cực của sinh viên của phương pháp
học ở hệ thống đào tạo tín chỉ
Mẫu điều tra
281
Chỉ số mức độ nhận thức về hoạt động biểu hiện tính tích cực của sv
trong phương pháp học ở hệ thống đào tạo tín chỉ
81.2/100
Độ lệch tiêu chuẩn
18
Giá trị lớn nhất
100
Giá trị nhỏ nhất

20
Chỉ số nhận thức đúng rất cao (81,2 điểm phần trăm) cho thấy sinh viên nhận thức rất rõ nét về một
số hoạt động biểu hiện tính tích cực học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ.
Để nghiên cứu kĩ hơn về tính tích cực của sinh viên trong phương pháp học tập này, chúng tôi tiến
hành phân tích tần suất của các nhận định và thu được những kết quả sau:
Bảng 2.7: Tần suất nhận thức của sinh viên về các hoạt động biểu hiện tính tích cực học tập trong
phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ (đơn vị %)
Nhận định
Đúng
Sai
Phân
vân
Học tập trong đào tạo theo hình thức tín chỉ là xây dựng kế hoạch học tập cho từng môn học
88.6
2.5
8.9
Học tập trong đào tạo theo hình thức tín chỉ là luôn tìm tòi sáng tạo về môn học
83.6
3.6
12.8
Học tập trong đào tạo theo hình thức tín chỉ là coi ý kiến của giáo viên luôn luôn đúng
7.1
77.9
15.0
Học tập trong đào tạo theo hình thức tín chỉ là sinh viên được lựa chọn môn học, giáo viên
67.5
17.9
14.6
Học tập trong đào tạo theo hình thức tín chỉ là mạnh dạn tranh luận với các bạn trong lớp,
trong nhóm khi có ý kiến khác nhau về một vấn đề.

89.3
3.9
6.8
Tỉ lệ nhận thức đúng khá cao ở trên được nhìn nhận rõ ràng hơn thông qua từng chỉ số riêng rẽ.
Trong 4 nhận định đúng và 1 nhận định sai về các hoạt động biểu hiện tính tích cực, tỉ lệ sinh viên nhận thức
được đây là những nhận định đúng chiếm tỉ lệ khá cao (tỉ lệ cao nhất là 89.3% số sinh viên hiểu “Học tập
trong đào tạo theo hình thức tín chỉ là mạnh dạn tranh luận với các bạn trong lớp, trong nhóm khi có ý kiến
khác nhau về một vấn đề.” và tỉ lệ thấp nhất là 67.5% sinh viên hiểu “Học tập trong đào tạo theo hình thức
tín chỉ là sinh viên được lựa chọn môn học, giáo viên”.
Tiểu kết: Từ những phân tích trên chúng ta có thể nhận thấy: sinh viên trường Đại học Hồng Đức có
nhận thức đúng khá cao về phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ. Cũng có những sinh viên
nhận thức sai và còn phân vân, tuy nhiên tỉ lệ này không quá nhiều.
2.2. Thái độ của sinh viên với phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ.
Nghiên cứu về thái độ của sinh viên với phương pháp học tập này, chúng tôi chỉ đưa ra một câu hỏi:
Bạn có thích phương pháp học tập trong hình thức đào tạo tín chỉ hay không? với 2 phương án trả lời: Có,
Không. Tiến hành xử lí thống kê những phương án nhận được trong câu hỏi này chúng tôi thu được số liệu ở
bảng sau:
Bảng 2.8 : Thái độ của sinh viên với phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ


12
12
Thái độ với phương pháp học tập trong hệ
thống đào tạo tín chỉ
Tần số
Tần suất (%)
Thích
159
56.8
Không thích

120
43.2
Có 56.8% số sinh viên thích phương pháp học tập trong hệ thống thống đào tạo tín chỉ, đây là một
chỉ số trung bình. Nó phản ánh một hiện thực cho thấy sinh viên phải chịu khá nhiều áp lực và căng thẳng
trong học tập. Sự căng thẳng và áp lực trong học tập phần nhiều là do phương pháp học tập mang lại. Tỉ lệ
không thích phương pháp này khá cao, có tới 43.2% số sinh viên không thích phương pháp học tập này.
2.2.1. Thái độ của sinh viên với thời gian học tập trên lớp, ở nhà trong hệ thống đào tạo tín chỉ.
Điểm khác biệt khá lớn trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ là thời gian học tập trên lớp giảm đi và
tăng cường thời gian tự học ở nhà. Tìm hiểu về vấn đề này chúng tôi đưa ra nhận định tìm hiểu về thời gian
học tập với lí do không thích là: Bạn ít có thời gian rảnh rỗi hơn. Phân tích thống kê tính tần suất lí do này
chúng tôi nhận thấy: Tỉ lệ sinh viên không thích phương pháp học theo học chế tín chỉ vì phương pháp này
khiến các bạn có ít thời gian rảnh khá cao: 36.9%, trong khi đó chỉ có 16.3% số sinh viên cho rằng: Thích
phương pháp này vì có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn.
2.2.2. Thái độ của sinh viên với phương pháp giảng dạy của giảng viên theo học chế tín chỉ.
Tìm hiểu phương pháp giảng dạy của giáo viên, chúng tôi đã đưa ra 9 phương pháp giảng dạy và
nhận thấy: Với những phương pháp giảng dạy truyền thống, tỉ lệ giảng viên sử dụng rất ít, như trong phương
pháp giảng viên độc thoại liên tục chỉ chiếm 8.6%, phương pháp giảng viên đọc cho sinh viên ghi cũng chỉ
chiếm 10.7%. Trong khi đó, nhóm phương pháp hiện đại, tiến tiến đang khá phổ biến tại giảng đường đại
học của chúng ta. Chẳng hạn như: 68.6% giáo viên áp dụng phương pháp đặt câu hỏi gợi mở, định hướng
cho sinh viên, 77.1% giáo viên đang áp dụng phương pháp cho sinh viên thảo luận nhóm Sự thay đổi này
chắc chắn nhận được những cảm xúc, thái độ từ phía sinh viên.
Tìm hiểu về vấn đề này chúng tôi đã đưa ra các nhận định: Bạn thích phương pháp học tập theo hệ
thống tín chỉ vì phương pháp giảng dạy của giáo viên linh hoạt hơn hay bạn không thích phương pháp đào
tạo theo tín chỉ vì phương pháp giảng dạy của giáo viên không thay đổi so với niên chế. Thao tác thống kê
chúng tôi đã thu được những kết quả sau: 53.5% sinh viên cho biết họ thích phương pháp học tập trong hệ
thống đào tạo tín chỉ vì phương pháp giảng dạy cuả giáo viên linh hoạt hơn. Đây là một chỉ số khá cao, nó
đánh giá được tầm quan trọng của phương pháp giảng dạy và cũng đánh giá được phần nào thái độ của sinh
viên với phương pháp giảng dạy của giáo viên. Thực hiện những phỏng vấn sâu để làm rõ hơn vấn đề này
chúng tôi thu được khá nhiều kết quả giống nhau và đa số đều bộc lộ thái độ thích phương pháp giảng dạy
trong phương pháp học tập này.

2.2.3. Thái độ của sv với phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo học chế tín chỉ.
Tìm hiểu về vấn đề này chúng tôi thu được kết quả sau: 53.5% sinh viên thích phương pháp học tập
trong hệ thống đào tạo tín chỉ cho rằng: phương pháp kiểm tra đánh giá trong phương pháp học tập của hệ
thống đào tạo tín chỉ chính xác và linh hoạt hơn. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những ý kiến không thích
phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ vì giáo viên thường lấy điểm theo các nhóm học tập và
điểm đánh giá theo nhóm nhiều khi không khách quan
Tóm lại, rất nhiều sinh viên khẳng định, họ thích phương pháp kiểm tra đánh giá trong hệ thống đào
tạo tín chỉ vì nó khá chính xác và linh hoạt, tuy nhiên vẫn còn có những điểm hạn chế cần phải khắc phục để
có kết quả đánh giá khách quan hơn.
Tiểu kết:: Tỉ lệ sinh viên thích phương pháp học tập này không quá cao (56.3%) nhưng là một chỉ số trung
bình. Tỉ lệ sinh viên không thích thời gian học tập trên lớp còn khá cao, trong khi đó, tỉ lệ sinh viên thích
phương pháp giảng dạy của giáo viên và phương pháp kiểm tra đánh giá chiếm ưu thế hơn so với tỉ lệ sinh
viên không thích.
Tìm hiểu về thái độ của sinh viên trường Đại học Hồng Đức cũng cho chúng ta thấy, có độ chênh
giữa nhận thức đúng và thái độ tích cực về phương pháp học tập đó.
2.3. Hành vi học tập của sinh viên trong phương pháp học tập của hệ thống đào tạo tín chỉ.
Nghiên cứu hành vi học tập của sinh viên chúng tôi đưa ra 18 hành vi học tập, trong đó 8 hành vi
đúng với tính thần của phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ và 10 hành vi không đúng với tinh
thần của phương pháp học tập này. Ở mỗi hành vi chúng tôi để sinh viên tự trắc nghiệm xem mình đã thực
hiện hành vi nào trong số các hành vi đó với 2 phương án: đúng, sai cho câu hỏi: nhận định này là đúng hay
sai với bạn trong số các môn học mà bạn tham gia. Tiến hành thống kê chúng tôi thu được kết quả sau:
Bảng 2.10: Chỉ số hành vi học tập đúng với phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ
Mẫu điều tra
281
Chỉ số thực hành học tập tích cực
74.2/100


13
13

Độ lệch tiêu chuẩn
21.0
Giá trị lớn nhất
100
Giá trị nhỏ nhất
11.1
Chỉ số thực hành đúng phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo của sinh viên Đại học Hồng Đức
là 74.2 điểm phần trăm, đây là một chỉ số tương đối cao.
Liên kết chỉ số này với chỉ số về nhận thức chúng ta thấy có độ chênh lệch nhưng không quá nhiều.
Nếu 100 người thì sẽ có 79 người nhận thức đúng thì sẽ có tới 74 người có hành vi đúng với phương pháp
học tập trong hệ thống tín chỉ. Kết quả nghiên cứu này có thể lí giải bằng thuyết “mâu thuẫn giả” và “ngưỡng
tình huống”.
Không những có độ chênh lệch giữa hành vi và nhận thức mà còn một độ chênh giữa thái độ và hành
vi. Nếu như có 100 sinh viên thì có 57 sinh viên có thái độ tích cực với phương pháp học tập nhưng có 74
sinh viên có những hành vi thực hành tích cực với phương pháp học tập này. Điều này cho thấy, thái độ và
việc thực hành các hành vi học tập đúng theo chúng vẫn còn những ngưỡng tình huống khác nhau nên làm
cho thái độ và hành vi không nhất quán được.
Để nghiên cứu sâu hơn về hành vi học tập của sinh viên Đại học Hồng Đức, chúng tôi tiếp tục phân
tích từng nhóm hành vi học tập: hành vi học tập tích cực, thụ động và lệch chuẩn và học nhóm.
2.3.1. Hành vi học tập tích cực.
Nghiên cứu về vấn đề này, chúng tôi tìm hiểu qua 8 hành vi đúng với tinh thần của phương pháp học
tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ và thu được kết quả sau:
Bảng 2.11: Tần suất các hành vi học tập tích cực của sinh viên trường Đại học Hồng Đức
Hành vi học tập tích cực
Tần suất
Bạn thường đặt câu hỏi với giáo viên khi không hiểu bài
85.4
Bạn thường ghi chép bài giảng của giáo viên theo cách bạn hiểu
85.1
Bạn thường tìm kiếm tài liệu trong sách báo trên thư viện

74.9
Bạn thường trao đổi với các bạn trong lớp về bài học
87.5
Bạn thường tham khảo kinh nghiệm của các anh chị khóa trên
70.7
Bạn thường đọc tài liệu trước khi đến lớp
76.8
Bạn thường đọc lại bài giảng của thầy cô sau mỗi buổi học
72.5
Bạn thường là người trình bày ý tưởng của nhóm trong mỗi buổi học thảo luận
63.6
Kết quả ở bảng số liệu trên cho thấy, ở tất cả các hành vi học tập tích cực sinh viên trường Đại học
Hồng Đức đều thực hành khá tốt.
Nghiên cứu kĩ hơn, chúng tôi phân tích hành vi: thường xuyên lên thư viện để đọc sách báo để làm
rõ hơn các hành vi học tập tích cực của sinh viên. Cách học trên thư viện là một cách học vừa ý nghĩa, vừa
kinh tế, đặc biệt là với những bạn có hoàn cảnh khó khăn không đủ kinh phí để mua tài liệu tham khảo và
sách vở. Số sinh viên thường xuyên lên thư viện tìm kiếm sách báo chiếm 74.9%:
2.3.2. Hành vi học tập thụ động
Để nghiên cứu về hành vi học tập thụ động của sinh viên, chúng tôi đã đưa ra 5 dạng hành vi: Bạn ít
khi tranh luận với giáo viên, Bạn không tham gia nghiên cứu khoa học, Bạn ít tìm kiếm thông tin phục vụ cho
học tập trên internet, Bạn ít tìm mua sách chuyên ngành, Bạn ít khi đưa ra các ý kiến khi học nhóm, tiến
hành thống kê chúng tôi thu được kết quả sau:
Bảng 2.12: Tần suất hành vi học tập thụ động của sinh viên trường Đại học Hồng Đức
Hành vi học tập thụ động
Tần suất
Bạn ít khi tranh luận với giáo viên
39.6
Bạn không tham gia nghiên cứu khoa học
47.1
Bạn ít tìm kiếm thông tin phục vụ cho học tập trên internet

33.9
Bạn ít tìm mua sách chuyên ngành
26.4
Bạn ít khi đưa ra các ý kiến khi học nhóm
20.0
Như vậy, hành vi không tham gia nghiên cứu khoa học chiếm tỉ lệ cao nhất (47.1%), tiếp đến là hành
vi: ít tranh luận với giáo viên (39.6%), hành vi ít nhất là: Ít mua sách chuyên ngành chỉ chiếm có 26.4%. Một
bức tranh chung về các hành vi học tập thụ động của sinh viên trường Đại học Hồng Đức là các chỉ số đều
không vượt quá 50%. Điều này khẳng định, về căn bản những hoạt động học tập thụ động vẫn tồn tại nhưng
với không nhiều.
2.3.3. Hành vi học tập lệch chuẩn
Nghiên cứu về các hành vi học tập lệch chuẩn ở trường Đại học Hồng Đức chúng tôi tiến hành phân
tích tần suất của các hành vi cụ thể sau (Bạn thường nghỉ học nhiều, Bạn có nhiều lần đi học muộn, Bạn có ít


14
14
nhất 1 lần sử dụng tài liệu khi thi mà chưa được phép, Bạn không tập trung vào bài giảng khi giáo viên
giảng)

Bảng 2.13: Tần suất các hành vi lệch chuẩn trong học tập của sinh viên trường ĐH Hồng Đức
Hành vi lệch chuẩn trong học tập
Tần suất
Bạn thường nghỉ học nhiều
16.1
Bạn có nhiều lần đi học muộn
22.2
Bạn có ít nhất 1 lần sử dụng tài liệu khi thi mà chưa được phép
39.3
Bạn không tập trung vào bài giảng khi giáo viên giảng

11.5
Từ bảng số liệu trên chúng ta có thể nhận thấy: số sinh viên có những hành vi lệch chuẩn trong học
tập không nhiều. Ở phần đông các dạng hành vi lệch chuẩn, số sinh viên thực hiện đều thấp hơn 20%, tỉ lệ
thấp nhất là: Hành vi không tập trung vào bài giảng (11.5%), duy nhất chỉ có dạng hành vi: Bạn có ít nhất
một lần sử dụng tài liệu khi chưa được phép là chiếm tỉ lệ cao nhất: 39.3%.
2.3.4. Hành vi học nhóm
Học nhóm là một hành vi học tập phổ biến trong đào tạo tín chỉ. Tiến hành tìm hiểu thời lượng học
nhóm ngoài giờ lên lớp của sinh viên Đại học Hồng Đức chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 2.14 : Thời lượng học nhóm sau giờ lên lớp của sinh viên trường Đại học Hồng Đức
Số buổi
Tần suất
0 buổi
0
1 buổi
22.9
2 buổi
24.4
3 buổi
26.5
Trên 3 buổi
26.2
Như vậy, tất cả mọi sinh viên Đại học Hồng Đức đều tham gia học nhóm, thời lượng này dao động
trong khoảng từ 1 buổi đến trên 3 buổi, không có sinh viên nào không tham gia học nhóm sau giờ lên lớp.
Tìm hiểu về khoảng thời gian học nhóm của các bạn, chúng tôi thu được kết quả sau:
Bảng 2.15: Thời gian học nhóm của sinh viên
Thời gian học nhóm
Tần suất
Sau buổi học của môn đó
16.1
Vào những tiết học cả nhóm được nghỉ

77.1
Vào buổi tối
11.1

Thời gian học nhóm của sinh viên khá phong phú. Các bạn tranh thủ được mọi khoảng thời gian
rảnh. Tuy nhiên, khoảng thời gian vào những tiết học cả nhóm được nghỉ vẫn chiếm tỉ lệ cao nhất (77.1%) và
thấp nhấp là vào buổi tối chỉ chiếm 11.1%

Bảng 2.16: Mức độ tham gia các hoạt động học nhóm (đơn vị: %)
Nhận định
Thường
xuyên
Thỉnh
thoảng
Hiếm
khi
Không bao
giờ
Lắng nghe ý kiến của các bạn trong nhóm
76.3
22.9
0
0.7
Phản biện ý kiến của mọi người trong nhóm
18.7
66.2
10.1
5.0
Tổng kết ý kiến của mọi người trong nhóm
40.5

41.2
11.8
6.5
Đưa ra những ý tưởng mới lạ cho vấn đề thảo luận
23.7
58.3
15.5
2.5
Không có ý kiến gì trước những vấn đề thảo luận
2.2
28.3
34.1
35.5
Là người trình bày ý tưởng của nhóm
18.3
56.8
17.6
7.2
Là người trả lời các câu hỏi của thầy cô và các bạn
17.6
60.2
14.0
8.2
Sinh viên trường đại học Hồng Đức tham gia vào hoạt động học nhóm khá tích cực. Ở tất cả các
hành vi tích cực trong học nhóm các bạn đều thực hiện ở mức thỉnh thoảng và thường xuyên tương đối cao.
Vậy thái độ của họ với hoạt động học nhóm như thế nào. Tìm hiểu về vấn đề này chúng tôi nhận thấy như
sau:


15

15

Bảng 2.17: Thái độ của sinh viên với hoạt động học nhóm
Thái độ
Tần suất
Thích
31.1%
Bình thường
57.1%
Không thích
11.1%

Như vậy, mặc dù rất tích cực trong hoạt động học nhóm nhưng không nhiều sinh viên có thái độ tích cực với
hoạt động này. Chỉ có 31.1% số sinh viên thích hoạt động học nhóm. Điều này hợp lí với nghịch lí La.Pier:
có độ chênh trong thái độ và hành vi.
Tiểu kết: Hành vi học tập trong phương pháp học tập trong hệ thống tín chỉ được sinh viên trường Đại học
Hồng Đức thực hiện với mức độ đúng tương đối cao. Trong khi đó, những hành vi học tập thụ động hay lệch
chuẩn trong học tập chính là những hành vi không đúng với tinh thần của học chế tín chỉ. Chúng tôi cũng đã
tiến hành nghiên cứu thêm về hành vi học nhóm, một dạng hành vi học tập rất tiêu biểu trong hệ thống đào
tạo tín chỉ và nhận thấy sinh viên rất tích cực thực hiện hành vi này với nhiều biểu hiện tích cực, tuy nhiên họ
không thực sự thích hoạt động học nhóm này.















CHƯƠNG 3: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI
NHẬN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐH HỒNG ĐỨC VỚI
PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP THEO TÍN CHỈ
3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức của sinh viên trường Đại học Hồng Đức với phương pháp
học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ.
Xuất phát từ những kết quả thống kê đã thực hiện, chúng tôi nhận thấy có một số yếu tố ảnh hưởng
đến nhận thức của sinh viên về phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ như sau:
3.1.1. Đặc điểm của cá nhân của sinh viên
Một trong những đặc điểm căn bản nhất của phương pháp học tập này là: tăng thời lượng tự học trên
thư viện và ở nhà. Vì vậy, để tìm hiểu nhận thức của sinh viên về phương pháp học tập trong hệ thống đào
tạo tín chỉ, chúng tôi hướng đến việc tìm hiểu những yếu tố có ảnh hưởng đến những nhận thức về bản chất
và nhận thấy yếu tố giới tính là một trong những yếu tố có ảnh hưởng nhất định.
Bảng 3.1 : Tương quan giữa biến số giới tính và biến số nhận thức về tăng thời lượng học trên thư viện
và ở nhà (%)

Giới tính
Nhận thức của sinh viên
Tổng
Đúng
Sai
Nữ
81.0
19.0
100
Nam

83.8
16.2
100

Ở hoạt động được coi là một trong những điểm căn bản nhất của phương pháp học tập theo hệ thống
tín chỉ, chúng ta có thể nhận thấy nam sinh viên nhận thức đúng nhiều hơn nữ sinh viên, tương ứng với nó nữ
sinh viên nhận thức sai cũng nhiều hơn nam sinh viên. Có 83.8% sinh viên nữ nhận thức đúng về hoạt động
này của phương pháp học tập theo tín chỉ trong khi đó chỉ số nhận thức đúng đối với nữ chỉ có 81%. Độ
chệnh lệch giữa hai tỉ lệ trên không quá nhiều nhưng cũng đủ để chúng ta cảm nhận được tính tò mò, mạnh


16
16
dạn của nam sinh viên có vẻ được phát huy khi tìm hiểu về phương pháp học tập mới mẻ này. Tìm hiểu mối
quan hệ của biến số năm học với yếu tố nhận thức trên chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 3.2:Tương quan giữa năm học và nhận thức về tăng thời lượng học ở nhà và thư viện (%)
Năm học
Nhận thức của sinh viên
Tổng
Đúng
Sai
Năm thứ 1
80.4
19.6
100
Năm thứ 2
81.5
18.5
100
Năm thứ 3

83.7
16.3
100

Xét mối tương quan giữa hai biến số (biến số năm học và một biến số khá căn bản của phương pháp
học theo hệ thống tín chỉ: sinh viên tăng thời lượng học ở nhà và trên thư viện), chúng ta có thể nhận thấy
yếu tố năm học có những ảnh hưởng nhất định đến nhận thức của sinh viên với phương pháp học tập trong
hệ thống đào tạo tín chỉ. Càng ở những năm học sau sinh viên nhận thức về vấn đề này càng rõ nét hơn. Có
80.4% số sinh viên năm thứ nhất nhận thức đúng về vấn đề này nhưng có tới 81.5% số sinh viên năm thứ 2
và 83.7% sinh viên năm thứ 3 nhận thức đúng về điều này. Giải thích điều này chúng ta có thể nhận thấy:
những sinh viên ở các lớp học lớn hơn là những người tiếp cận với phương pháp học tập này sớm hơn, họ
không chỉ được nghe và còn thực sự “va chạm” với những vấn đề trong hệ thống đào tạo tín chỉ.
3.1.2. Quy định của nhà trường.
Tìm hiểu về nhận thức của sinh viên Đại học Hồng Đức với phương pháp học tập trong hệ thống tín
chỉ, chúng tôi nhận thấy ngoài đặc điểm cá nhân thì quy định của nhà trường cũng có ảnh hưởng rất rõ đến
vấn đề này. Một số nghiên cứu định tính đã chứng minh được quy định của nhà trường có ảnh hưởng không
nhỏ đến nhận thức của sinh viên với phương pháp học tập này.
Chúng ta nhận thấy, quy định của nhà trường về một số lĩnh vực sẽ khiến cho nhận thức của sinh
viên về vấn đề đó thêm chắc chắn và vững vàng. Chính vì vậy, với việc nhà trường đưa ra rất nhiều những
nội quy về hoạt động học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ sẽ là một tấm gương soi để sinh viên có thể nhìn
nhận, đánh giá lại những nhận thức của mình, từ đó có thể có những điều chỉnh và bổ sung.
Tiểu kết: Nhận thức của con người là một quá trình và nó chịu sự ảnh hưởng cũng như chi phối của nhiều
yếu tố. Tìm hiểu nhận thức của sinh viên trường Đại học Hồng Đức về phương pháp học tập trong hệ thống
đào tạo tín chỉ chúng tôi nhận thấy có 2 yếu tố ảnh hưởng rõ nét nhất đến nhận thức của sinh viên là: đặc
điểm của sinh viên và quy định của nhà trường. Đây là 2 yếu tố tồn tại bên trong và bên ngoài của chính đối
tượng nhận thức nhưng đều có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức của họ.
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ của sinh viên với phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo
tín chỉ
3.2.1. Các đặc điểm cá nhân của sinh viên.
Các đặc điểm của cá nhân sinh viên là những yếu tố đầu tiên góp phần hình thành thái độ về phương

pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ. Yếu tố giới là một trong những yếu tố có ảnh hưởng đến thái độ
của sinh viên trong phương pháp học tập của hệ thống đào tạo tín chỉ. Phân tích tương quan giữa hai biến số
này chúng tôi nhận thấy:
Bảng 3.3: Tương quan giữa biến số giới tính và thái độ của sinh viên với phương pháp học tập trong
hệ thống đào tạo tín chỉ (đơn vị %)
Giới tính
Thái độ
Tổng
Thích
Không thích
Nữ
54.9
45.1
100
Nam
60.4
39.6
100

Yếu tố giới tính ảnh hưởng khá mạnh đến thái độ của sinh viên. Chỉ có 54.9% số sinh viên nữ thích
phương pháp học tập này, trong khi đó tỉ lệ này ở nam là 60.4%. Đây là một sự chênh lệch không nhỏ.
Chúng ta có thể hiểu vì sinh viên nam ưu thích sự thay đổi nhiều hơn và thích nghi với sự thay đổi nhanh hơn
nên họ nhanh chóng chuyển thói quen từ học theo niên chế sang học theo tín chỉ mà ít gặp khó khăn hơn sinh
viên nữ. Vì vậy, họ cũng dễ thích phương pháp học theo tín chỉ hơn.
Tìm hiểu sự ảnh hưởng của yếu tố năm học qua tương quan giữa biến số năm học và biến số thái độ
của sinh viên với phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ chúng ta thu được kết quả sau:
Bảng 3.4: Tương quan giữa biến số năm học và thái độ của sinh viên với phương pháp học tập trong
hệ thống đào tạo tín chỉ (%)
Năm học
Thái độ

Tổng
Thích
Không thích


17
17
Năm thứ 1
63.2
36.8
100
Năm thứ 2
53.4
46.6
100
Năm thứ 3
57.7
42.3
100

Phân tích tương quan giữa biến số năm học và thái độ của sinh viên với phương pháp học tập chúng
ta nhận thấy ở những năm học khác nhau có sự khác biệt về thái độ đối với phương pháp học tập. Sinh viên
học năm thứ nhất là những sinh viên thích học theo phương pháp học theo tín chỉ nhất (63.2%), trong khi đó
tỉ lệ này giảm mạnh ở sinh viên năm thứ 2 (53.4%) và tăng nhẹ ở sinh viên năm thứ 3 (57.7%). Như vậy, yếu
tố năm học có những ảnh hưởng nhất định đến thái độ của sinh viên trường Đại học Hồng Đức trong phương
pháp học tập theo hệ thống đào tạo tín chỉ, sự ảnh hưởng này đi theo xu hướng của hình zíc zắc.
Kết quả học tập là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến thái độ của sinh viên. Vì
thế, chúng tôi thực hiện phân tích tương quan giữa điểm trung bình học tập kì gần nhất của sinh viên và thái
độ với phương pháp học tập mới và thu được kết quả sau:
Bảng 3.5 : Tương quan giữa biến số điểm trung bình học tập và

thái độ với phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ (%)
Điểm trung bình
Thái độ
Tổng
Thích
Không thích
Từ 5.4 trở xuống (D, F)
0
100
100
Từ 5.5 – 6.9 (điểm C)
47.2
52.8
100
Từ 7.0 đến 8.4 (điểm B)
61.0
39.0
100
Từ 8.5 đến 10.0 (điểm A)
67.9
32.1
100
Chúng ta có thể nhận thấy, yếu tố điểm trung bình học tập có ảnh hưởng khá mạnh mẽ đến thái độ
học tập của sinh viên. Sinh viên càng có điểm trung bình học tập cao thì càng có thái độ tích cực với phương
pháp học tập mới. Không có một bạn sinh viên nào có điểm trung bình học kì gần nhất là 5.4 thích phương
pháp học tập theo hệ thống tín chỉ, tỉ lệ này tăng lên ở điểm C là: 47.2%, điểm B là: 61.0% và điểm A là:
67.9%.
Tóm lại, trong các đặc điểm cá nhân của sinh viên có những yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ đến thái
độ của họ với phương pháp học tậo trong hệ thống đào tạo tín chỉ như yếu tố: giới tính, điểm trung bình học
tập và có những yếu tố không có ảnh hưởng đến thái độ của họ như yếu tố năm học. Mặc dù vậy, chúng ta

vẫn nhận thấy sự ảnh hưởng khá sâu sắc của các yếu tố liên quan đến đặc điểm cá nhân đến thái độ của họ
với phương pháp học tập mới mẻ này.
Ngoài các đặc điểm cá nhân, thái độ của sinh viên với phương pháp học tập này còn bị ảnh hưởng
bởi nhân tố phương pháp giảng dạy của giáo viên. Tìm hiểu sự ảnh hưởng của yếu tố này chúng ta nhận thấy
như sau:
3.2.2. Phương pháp giảng dạy của giáo viên
Phương pháp giảng dạy của giáo viên là nhân tố được chúng tôi giả định có ảnh hưởng tới thái độ
của sinh viên với phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ.
Phân tích mối quan hệ giữa hai biến số này chúng tôi lựa chọn phương pháp truyền thống: giáo viên
đọc cho sinh viên chép (10.7% thầy cô vẫn áp dụng) và phương pháp mới rất phổ biến trong cách giảng dạy
theo hệ thống tín chỉ của giáo viên trường Đại học Hồng Đức hiện nay là giáo viên gợi mở, đặt câu hỏi định
hướng: 68.6%, (theo đánh giá của sinh viên) để xem xét mối quan hệ giữa thái độ của sinh viên với phương
pháp giảng dạy theo hệ thống đào tạo tín chỉ và thu được kết quả sau
Bảng 3.6: Tương quan giữa phương pháp giáo viên chỉ đọc cho sinh viên chép với thái độ với phương
pháp học tập (%)
Phương pháp giáo viên chỉ đọc cho
sinh viên chép
Thái độ
Tổng
Thích
Không thích
Có sử dụng
43.3
56.7
100
Không sử dụng
58.6
41.4
100
Phân tích bảng số liệu này chúng ta có thể nhận thấy, phương pháp giảng dạy của giáo viên có ảnh

hưởng nhất định đến thái độ của sinh viên với phương pháp học tập theo hệ thống tín chỉ. Nếu như giáo viên
sử dụng phương pháp chỉ đọc cho sinh viên chép thì số lượng sinh viên không thích phương pháp này là
56.7% và số lượng sinh viên thích chỉ là 43.3%. Sự chênh lệch khá lớn (13,4%) chứng tỏ việc giáo viên sử
dụng phương pháp này làm giảm hứng thú học tập của sinh viên.
Bảng 3.7 : Tương quan giữa phương pháp giáo viên gợi mở, đặt câu hỏi định hướng với thái độ của
sinh viên với phương pháp học tập theo tín chỉ (%)
Phương pháp giáo viên gợi mở, đặt
Thái độ
Tổng


18
18
câu hỏi định hướng
Thích
Không thích
Có sử dụng
61.5
38.5
100
Không sử dụng
47.1
52.9
100

Như vậy, nếu giáo viên sử dụng phương pháp này thì sẽ có tới 61.5% sinh viên thích phương pháp
học tập này trong khi đó nếu không sử dụng thì số liệu này sẽ giảm đi chỉ còn 47.1% (giảm 16.4%). Độ
chênh lệch này thực sự là đáng kể, nó cho chúng ta hình dung được việc giáo viên sử dụng phương pháp gợi
mở vấn đề và đặt câu hỏi có ảnh hưởng mạnh mẽ đến thái độ của sinh viên với phương pháp học tập trong hệ
thống đào tạo tín chỉ.

Tóm lại, từ việc phân tích mối quan hệ giữa 2 phương pháp giảng dạy với thái độ của sinh viên với
phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ chúng ta có thể khẳng định: phương pháp giảng dạy có
ảnh hưởng nhất định đến thái độ của sinh viên với phương pháp học tập mới.
3.2.3. Quy định của nhà trường.
Những quy định của nhà trường cũng như cách thức triển khai phương pháp học tập mới đến với
sinh viên sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến thái độ học tập của họ. Xuất phát từ nguyên nhân đó mà
chúng tôi đã triển khai các nguyên nhân thích và không thích phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín
chỉ theo xu hướng trên trong các phỏng vấn sâu và bảng hỏi. Kết quả giúp chúng tôi nhận thấy đa phần sinh
viên thích phương pháp học tập theo đào tạo tín chỉ vì nhà trường đã triển khai phương pháp này khá linh
hoạt khiến sinh viên được bộc lộ cá tính nhiều hơn và có nhiều điều kiện để học tập tốt hơn. 83.2% số sinh
viên thích phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ này cho biết đây là phương pháp giúp các bạn
phát biểu ý kiến được nhiều hơn, bộc lộ ý kiến cá nhân nhiều hơn. 53.5% số sinh viên thích phương pháp học
tập này nhận thấy đây là cách giảng dạy linh hoạt và 53.3% số này cũng thích phương pháp kiểm tra đánh
giá.
“Em thích phương pháp học này vì nó là phương pháp rất linh hoạt. Năm ngoái vì hoàn cảnh gia
đình em nghỉ học một kì, nhưng năm nay em vẫn được học với các bạn cùng lớp, không phải học lại với khoá
sau mà chỉ phải học bù lại những tín chỉ chưa học thôi. Việc đăng kí học lại cũng đơn giản, chỉ cần nộp tiền
và đi học, thời khoá biểu cũng được ưu tiên, xếp vào những lớp không trùng với các môn học khác” (Phỏng
vấn sâu số 5- nam K11 kế toán – Khoa Quản trị kinh doanh)
Tóm lại, quy chế của nhà trường trong đào tạo tín chỉ khá linh hoạt, đặc biệt là trong một số hoạt
động như kiểm tra đánh giá, phương pháp giảng dạy hay những quy chế về việc công khai mọi hoạt động
liên quan đến học tập Chính những hoạt động này đã khiến cho sinh viên thích phương pháp học tập này
hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những quy định khiến sinh viên gặp phải những khó khăn trong quá
trình học tập và những quy định này ảnh hưởng đến thái độ tích cực của họ làm họ bộc lộ thái độ không tích
cực với phương pháp học tập này như quy định về thời khóa biểu hay chưa có những quy định về thái độ là
việc của những nhân viên thư viện…
Tóm lại, những quy chế, quy định của nhà trường đã dẫn đến những thái độ khác nhau về phương
pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ. Cần phải khắc phục những mặt hạn chế về thời gian biểu và thái
độ của những người tham gia vào quá trình giáo dục để nâng cao được chất lượng giáo dục của trường Đại

học Hồng Đức hơn nữa.
Tiểu kết: Những nguyên nhân dẫn đến thái độ của sinh viên với phương pháp học tập này là: Các đặc điểm
cá nhân của sinh viên, phương pháp giảng dạy của giảng viên và những quy định của nhà trường. Đây là 3
nhân tố quan trọng, mỗi nhân tố có sức ảnh hưởng riêng đến thái độ tích cực và tiêu cực.
3.3. Các nhân tổ ảnh hưởng đến hành vi học tập của sinh viên trong hệ thống đào tạo tín chỉ
3.3.1. Các đặc điểm cá nhân của sinh viên.
Chúng tôi đã đưa 12 biến số về đặc điểm của sinh viên vào nghiên cứu. Thông qua những phép kiểm
định T.Test, Anova chúng tôi đã rút ra những đặc điểm sau có ảnh hưởng đến hành vi học tập của sinh viên
trong hệ thống đào tạo tín chỉ: Vị trí chỗ ngồi, ngành học, điểm trung bình học kì gần nhất, năm học. Tiến
hành phân tích anova chúng tôi nhận thấy:
Yếu tố vị trí chỗ ngồi
Bảng 3.8 : So sánh chỉ số thực hành đúng phương pháp học tập của hệ thống tín chỉ của sinh viên với
vị trí ngồi trong lớp

1/3 phía trên lớp
1/3 giữa lớp
1/3 cuối lớp
Giá trị trung bình
77.3
75.0
68.0
Độ lệch tiêu chuẩn
19.8
20.2
22.2


19
19
Giá trị nhỏ nhất

16.6
11.1
16.6
Giá trị lớn nhất
100
100
100
F= 3.02, P= 0.05
Kết quả tại bảng trên cho thấy vị trí chỗ ngồi trong lớp của sinh viên ảnh hưởng rõ ràng đến việc
thực hiện hành vi học tập của sinh viên (P=0.05). Theo đó những sinh viên càng ngồi ở những vị trí ở phía
trên của lớp thì việc thực hiện hành vi học tập càng đúng với tính thần của phương pháp học tập theo học chế
tín chỉ hơn
Như vậy, biến số chỗ ngồi cho chúng ta thấy với cách bố trí giảng đường như hiện nay: hẹp về chiều
ngang, dài về chiều dọc thì 1/3 số sinh viên ở những bàn trên có độ chú ý và việc thực hành hành vi học tập
tốt hơn so với 1/3 số sinh viên ở giữa lớp và nhóm ở giữa lớp này cũng hành vi học tập tích cực hơn so với
1/3 số sinh viên cuối lớp.











Yếu tố ngành học

Bảng 3.9 : So sánh chỉ số thực hành đúng phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ của sinh

viên theo ngành học


Khoa KHXH -
TL
Khoa
KTCN
Khoa
KT
Khoa TN
Khoa NN
Giá trị trung bình
74.2
62.1
75.5
77.5
76.1
Độ lệch tiêu chuẩn
18.8
27.2
22.5
17.2
19.4
Giá trị nhỏ nhất
16.6
16.6
27.7
38.8
11.1
Giá trị lớn nhất

100
94.4
100
100
100
F= 2.777, P= 0.027
Số liệu tại bảng trên cho chúng ta nhận thấy sự ảnh hưởng của các nhóm ngành học tới hành vi học
tập tích cực của sinh viên (P= 0.027). Những sinh viên tại khoa Tự nhiên là những sinh viên có chỉ số thực
hành đúng phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ cao nhất: 77.5. Các khoa Ngoại ngữ, Kinh tế
và Xã hội – Tâm lí có tỉ lệ thấp hơn lần lượt là: 76.1%, 75.5% và 74.2%. Những tỉ lệ này không thấp hơn
quá nhiều, chỉ có khoa KTCN tỉ lệ sinh viên thực hành đúng phương pháp này thấp hơn so với những khoa
khác (chỉ chiếm 62.1%). Chúng ta có thể nhận thấy, ở những ngành đào tạo số nữ nhiều hơn nam việc thực
hiện các hành vi học tập đúng với tinh thần của tín chỉ có thể nhiều hơn vì nữ thường chăm chỉ hơn nam. Vì
thế, đây có vẻ là lí do khiến cho tỉ lệ thực hành của ngành KTCN thấp hơn những ngành đào tạo khác.
Yếu tố điểm học tập
Bảng 3.10: So sánh chỉ số thực hành đúng phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ của sinh
viên theo điểm trung bình học kì gần nhất (%)

Điểm D và F
Điểm C
Điểm B
Điểm A
Giá trị trung bình

72.8
77.7
78.6
Độ lệch tiêu chuẩn

20.5

18.5
23.3
Giá trị nhỏ nhất

11.1
16.6
16.6


20
20
Giá trị lớn nhất

100
100
100
F= 3.208, P= 0.024
Với P = 0.024, F = 3.208, chúng ta có thể nhận thấy điểm trung bình học tập và chỉ số thực hành
đúng phương pháp học tập trong hệ thống tín chỉ có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Sinh viên càng có điểm
trung bình học tập cao thì hành vi thực hành đúng phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ càng
cao (Những sinh viên được điểm F và D trong điều tra rất ít vì vậy không xét mối tương quan này với họ),
những sinh viên đạt điểm C có chỉ số học tập đúng với tinh thần của hệ thống đào tạo tín chỉ là 72.8%, Điểm
B là: 77.7% và điểm A là: 78.6%.

Yếu tố năm học
Bảng 3.11 : So sánh chỉ số thực hành đúng phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ của
sinh viên theo số năm học (%)

Năm thứ 1
Năm 2

Năm 3
Giá trị trung bình
81.5
70.5
74.9
Độ lệch tiêu chuẩn
19.2
22.1
19.4
Giá trị nhỏ nhất
27.7
16.6
11.1
Giá trị lớn nhất
100
100
100
F= 5.353, P= 0.005
Với P= 0.005 và F=5.353, chúng ta có thể nhận thấy, biến số năm học và hành vi thực hành đúng
phương pháp học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Điều đáng ngạc nhiên
là sinh viên năm thứ 1 lại chính là những người thực hành học tập tích cực nhất (81.5%) trong khi đó năm
thứ 2 giảm mạnh (70.5%) và đến năm thứ 3 chỉ số này lại tăng nhẹ trở lại (74.9%)
Như vậy, biến số năm học cũng có ảnh hưởng đến việc thực hành hành vi học tập của sinh viên
trường Đại học Hồng Đức. Ở năm thứ 2 là năm học mà thời khoá biểu dày nhất, vì vậy có thể sinh viên
không thể thực hiện được các hành vi học tập tích cực của mình. Trong khi đó với sự háo hức sinh viên năm
thú 1 thực hành phương pháp này rất tốt.
Tóm lại, các đặc điểm của sinh viên có ảnh hưởng khá chặt chẽ đến hành vi học tập của sinh viên
trường đại học Hồng Đức. Những yếu tố: giới tính, năm học, ngành học, điểm trung bình học tập và vị trí
chỗ ngồi đều có những ảnh hưởng nhất định đến việc thực hành đúng phương pháp này của sinh viên.
3.3.2. Phương pháp giảng dạy của giáo viên

Những ý kiến phỏng vấn sâu đã chứng minh được: phương pháp giáo viên chỉ đọc cho sinh viên
chép hay phương pháp giáo viên chỉ độc thoại là một phương pháp giảng dạy truyền thống trong đó sự tương
tác của thầy trò là đơn tính, một chiều nên sinh viên rất thụ động trong việc tiếp nhận kiến thức. Ngược lại,
sinh viên đánh giá rất cao những phương pháp: giáo viên gợi mở, đặt câu hỏi định hướng.
Hộp 3: Phương pháp giảng của giáo viên và hành vi học tập trong hệ thống đào tạo tín chỉ.
“Giảng viên có vai trò hết sức quan trọng trong việc khuyến khích cho sinh viên tranh luận hoặc dám
nêu ý kiến khác của mình. Vì nếu giảng viên không đặt câu hỏi để lớp nói nhiều, thảo luận nhiều thì
không thể đạt được như vậy.” (Phỏng vấn sâu số 6 – nữ sinh viên k12 sư phạm sinh – Khoa khoa học
tự nhiên)
“Bạn T cho rằng: Mỗi thầy một phương pháp giảng: có người vào lớp là nói và nói xong là về, không
hỏi xem sinh viên có hiểu bài không hay có chỗ nào vướng mắc không, có thầy thì vào lớp là đưa câu
hỏi cho sinh viên thảo luận và cho sinh viên thoải mái nói và hỏi. Nếu phương pháp giảng của giáo
viên không gợi mở, không khiến cho sinh viên tư duy hoặc không có thời gian cho sinh viên nói thì
sinh viên không thể có hành vi học tập tích cực được.” (Phỏng vấn sâu số 2 – nữ sinh viên k13 xã hội
học – Khoa khoa học xã hội)
“ Bạn Q kể: Với những môn mà cô giáo cứ đọc cho chép mà giáo trình quá nhiều thì giờ lên lớp chúng
em phải tranh thủ ghi chép, lúc thi còn có tài liệu để làm câu hỏi ôn tập. Nhưng cũng có những bạn
tranh thủ ngủ hay làm việc riêng, vì cô cũng chẳng biết được, hoặc cả lớp đang chép bài nên cô cũng
không nói gì. Cuồi kì các bạn ấy ra quán phôtô mua đề cương của những năm trước hoặc mượn đề
cương của các bạn chăm học trong lớp. Nói chung, phương pháp giảng dạy của giáo viên có ảnh
hưởng lớn đến hành vi học tập của sinh viên. Thầy cô không giảng tích cực thì sinh viên không thể học
tập tích cực được” (Phỏng vấn sâu số 1 – nữ sinh viên k12 Xã hội học – Khoa học xã hội).
Nghiên cứu vấn đề này chúng tôi tìm hiểu mối quan hệ giữa các biến số bằng phép kiểm định

×