Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Quan niệm của sinh viên về vai trò giới trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 98 trang )


Đại học quốc gia Hà nội
Trường đạị học khoa học xã hội và nhân văn
Khoa xã hội học




Nguyễn Thanh huyền




Quan niệm của sinh viên về vai trò giới
trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản








Luận văn thạc sỹ xã hội học
















Hà nội- 2008
Đại học quốc gia Hà nội
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
Khoa xã hội học




Nguyễn Thanh huyền


Quan niệm của sinh viên về vai trò giới
trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản

Ngành xã hội học
Mà số: 603130


Luận văn thạc sỹ xã hội học






Người hướng dẫn; PGS-TS. Lê Ngọc Hùng









Hà nội-2008


1
Những từ viết tắt trong luận văn

CSSKSS
Chăm sóc sức khoẻ sinh sản
QHTD
Quan hệ tình dục
BLTQĐTD
Bệnh lây truyền qua đường tình dục
BCS
Bao cao su
BPTT
Biện pháp tránh thai
NPT
Nạo phá thai

TD
Tình dục


2
Mục lục


Trang
Phần I. Mở đầu
4
1.Tính cấp thiết của đề tài
4
2. Tổng quan vấn đề nghiến cứu
9
3. ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
18
4.Mục tiêu nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
19
5. Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
của đề tài.
19
6. Phương pháp nghiên cứu
20
7. Giả thuyết nghiên cứu
21
8. Khung lý thuyết
23
Phần II. Nội dung
24

Chương I. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài
I.Cơ sở lý luận.
1.Các khái niệm và lý thuyết liên quan

24
24
24
II. Cơ sở thực tiễn
34
Chương II. quan niệm của sinh viên về vai trò giới đối với một số
vấn đề cơ bản trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản.
36
I.Quan niệm về quan hệ tình dục và tình dục an toàn.
37

3
1.Hiểu biết của sinh viên về tình dục và tình dục an toàn.
2. Thái độ của sinh viên về tình dục và tình dục an toàn
39
II. Các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
1.Hiểu biết về các bệnh lây truyền qua đường tình dục
45

45
2.Thái độ của sinh viên về các bệnh lây truyền qua đường tình dục
47
III. Các biện pháp tránh thai và nạo phá thai.
1.Hiểu biết về các biện pháp tránh thai và nạo phá thai
50


50
2.Thái độ của sinh viên về các biện pháp tránh thai và nạo phá thai
57
Chương III.Một số yếu tố ảnh hưởng đến quan niệm của sinh viên
về các vấn đề trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản.
I. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quan niệm của sinh viên về
các vấn đề trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản.
63


63
1. Các phương tiện truyền thông đại chúng
63
2. Môi trường nhà trường
67
3. Gia đình và cộng đồng xã hội
69
II. Xu hướng biến đổi và những thuận lợi và khó khăn của sinh
viên khi tiếp cận với vấn đề skss/td hiện nay.
1.Sự thay đổi về lối sống và các chuẩn mực xã hội
78

78
2.Những khó khăn và thuận lợi
79
Phần III. Kết luận và khuyến nghị
I. Kết luận
85
85
II. Khuyến nghị

89

4

Phần I. Mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Xã hội loài người được sinh ra, tồn tại và phát triển dựa trên sự kết hợp
và nỗ lực không ngừng của cả phụ nữ và nam giới.Trong lịch sử phát triển vĩ
đại đó, có đóng góp lớn lao của sự hiểu biết về giới tính, sức khoẻ sinh sản và
bình đẳng giới. Tuy vậy, dù đã có những lý luận mới, nhưng trên thế giới, ở
đâu đó vẫn còn những người phụ nữ không được tạo điều kiện hay bị hạn chế
trong việc phát huy tiềm năng cá nhân để đóng góp vào tiến trình phát triển
chung của xã hội loài người.Điều đó, đã tạo ra bất công xã hội, bất bình đẳng
giữa phụ nữ và nam giới.
Nếu như không có bất công xã hội, không có sự bất bình đẳng giới thì
người phụ nữ đã cống hiến được nhiều hơn cho tiến trình phát triển, và do đó
sự phát triển của thế giới ngày nay lớn hơn nhiều.
Kế thừa và phát huy lý luận mới, các nhà xã hội học và phát triển học
cho rằng, ngày nay một xã hội muốn đạt tới sự phát triển bền vững thì cả phụ
nữ và nam giới đều cần có cơ hội tiếp cận bình đẳng với các nguồn và lợi ích
mà xã hội mang lại, trên cơ sở đó họ mới có điều kiện để phát huy hết tiềm
năng, cống hiến cho tiến trình phát triển chung của nhân loại.
Một xã hội muốn phát triển bền vững phải đảm bảo sự phát triển cân
bằng về giới; ngược lại sự phát triển cân bằng về giới là một trong những điều
kiện cơ bản để có sự phát triển bền vững. Trên cơ sở luận điểm đó, các nhà
khoa học xã hội đã đi sâu nghiên cứu về mối quan hệ và sự tương quan giữa
phụ nữ và nam giới tồn tại trong các môi trường văn hoá - xã hộ khác nhau,
cũng như xem xét mối quan hệ và sự tương quan đó liên quan tới phát triển
bền vững như thế nào. Trong số những cái giá phải trả cho sự bất bình đẳng
giới thì nặng nề nhất là những tổn hại về cuộc sống con người và chất lượng


5
cuộc sống.Nhận dạng và đo lường đẩy đủ mức độ của những cái giá phải trả
này là rất khó khăn nhưng vô số bằng chứng từ các nước trên khắp thế giới đã
chứng tỏ xã hội nào có sự bất bình đẳng giới gay gắt và dai dẳng thì xã hội đó
sẽ phải trả giá đắt hơn bằng sự nghèo đói, suy dinh dưỡng, ốm đau và những
sự bần cùng khác. Sự bất bình đẳng giới trong việc đến trường và việc làm ở
đô thị đã làm gia tăng tỉ lệ nhiễm HIV.Nạn dịch AIDS sẽ lan tràn nhanh
chóng hơn trong thập kỷ tới cho đến khi đạt tỉ lệ cứ 1 trong 4 phụ nữ và 1
trong 5 nam giới bị nhiễm HIV, như trường hợp đã xảy ra ở một số nước Tiểu
Sahara châu Phi.
Tuy phụ nữ, thường phải chịu gánh nặng chủ yếu của sự phân biệt giới,
nhưng nam giới cũng không thể tránh khỏi hậu quả.Những quyền bất bình
đẳng về làm chủ đất đai hoặc vay vốn đã tước đoạt của phụ nữ những nguồn
lực cho cuộc sống hàng ngày của họ và cho việc đảm bảo tuổi già, buộc họ
phụ thuộc nhiều hơn vào những người họ hàng là nam giới. Sự phân biệt giới
sâu sắc trong giáo dục đã gây ra sự khác biệt tương ứng về năng lực của phụ
nữ và nam giới trong việc thu thập và xử lý thông tin và trong việc giao tiếp.
Sự mất cân bằng giới trong việc tiếp cận nguồn lực và quyền lực để lại hậu
quả đối với tính tự chủ tương đối của phụ nữ và nam giới và ảnh hưởng của
họ đến việc ra các quyết định trong gia đình. Từ đó, tính phụ thuộc và sự rập
khuôn trở thành những nguyên nhân phổ biến gây ra tình cảnh vô vọng và nỗi
khắc khoải bị đè nén đối với cả nam giới và phụ nữ, dẫn tới những hậu quả
thậm chí còn tồi tệ hơn.Hãy lấy căn bệnh AIDS và bạo lực có liên quan tới
giới làm ví dụ. Nạn dịch AIDS, sự bất bình đẳng giới làm tăng thêm tỷ lệ
nhiễm AIDS. Một nghiên cứu về thủ đô của 12 nước đang phát triển cho thấy,
hai thước đo của sự bất bình đẳng giới gắn liền với tỷ lệ nhiễm bệnh cao hơn
giữa những nhóm người lớn có nguy cơ cao, sau khi đã giữ cố định sáu biến
số kinh tế xã hội khác ( Over 1998). Đầu tiên trong nhóm người lớn có nguy


6
cơ cao ( những người làm nghề mại dâm và những bệnh nhân tại các bệnh
viện điều trị các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục) thì tỷ lệ cao giữa dân cư
thành thị nam giới so với dân cư thành thị nữ giới trong nhóm có độ tuổi về
tình dục mạnh nhất là một chỉ báo có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ lây nhiễm cao.
Tỷ lệ nam so với nữ vào khoảng 1,2 có lễ có liên quan đến mức cấu về mua
bán tình dục trên đầu người cao hơn và điều này có thể làm tăng thêm tốc độ
lây nhiễm HIV cả ở trong và ngoài nhóm nhỏ gồm những người làm nghề mại
dâm ( mà phần lớn trong số đô là phụ nữ). Hai là, trong số những người lớn
có nguy cơ thấp, như phụ nữ có thai, tỷ lệ lây nhiễm bệnh cao hơn ở các
thành phố nơi có khoảng cách lớn hơn về tỷ lệ biết chữ giữa nam và nữ.
Trong phép hồi quy nhóm, cả hai biến số này đều có ý nghĩa thống kê.
Mỗi năm thế giới có khoảng 19 triệu trường hợp nạo phá thai không an
toàn dẫn tới cái chết của 68.000 thai phụ, theo tổ chức Y tế thế giới ( WHO).
Trong cuộc nghiên cứu lần đầu tiên trên phạm vi toàn cầu về sức khoẻ
giới tính và sinh sản được công bố trên tờ tạp chí y học Lancet, WHO cho biết
đối với những người kết hôn muộn, việc quan hệ tình dục trước hôn nhân diễn
ra khá nhiều, dẫn đến tỷ lệ có thai ngoài ý muốn, phá thai không an toàn và
mắc các bệnh lây qua đường tình dục cao hơn.
(Theo www.tin247.com/02/11/2006)
Dường như cứ một phút qua đi lại có một bà mẹ chết do hậu quả hoặc
những biến chứng do thai nghén hoặc do sinh đẻ. Trong số họ, phần lớn là
những người còn trẻ hoặc mới bắt đầu làm mẹ. Không những thế, cứ một bà
mẹ tử vong do thai sản thì có khoảng 100 bà mẹ khác bị đau yếu, mất sức lao
động hoặc bị tật nguyền hoặc bị những tổn thương sinh lý do hậu quả của các
biến chứng thai sản. Theo số liệu thống kê của Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc,
tỷ lệ tử vong mẹ khác nhau giữa các châu lực, có tới 99% là những người
đang sống ở các nước thuộc thế giới thứ 3, đặc biệt là những phụ nữ ở Đông

7

và Tây Châu Phi và một số nước ở Châu á cũng như châu Mỹ La Tinh, trong
đó có Việt Nam.
ở lứa tuổi thành niên, có thể đã có quan hệ tình dục sớm và hậu quả là
sẽ có thai ngoài ý muốn của các em, của gia đình và của toàn xã hội. Vì vậy,
việc hiểu biết và thực hiện các biện pháp tránh thai phù hợp cho các em ở lứa
tuổi thanh niên vào những thời điểm cần thiết là hết sức quan trọng trong tình
hình hiện nay. Có như vậy chúng ta mới có thể ngăn chặn và giảm dần được
sự có thai ngoài ý muốn và tình trạng nạo phá thai bừa bãi rất đáng lo ngại
của các em ở lứa tuổi thanh niên và vị thành niên hiện nay ở nước ta.
Hiện nay, tỷ lệ nạo thai ở lứa tuổi thanh niên và vị thành niên có xu
hướng gia tăng. Bên cạnh việc giáo dục và hướng dẫn thanh niên và vị thành
niên về tình bạn, tình yêu trong sáng và tình dục lạnh mạnh an toàn, việc giáo
dục các em về tác hại của việc nạo hút thai nhằm giúp các em biết bảo vệ sức
khoẻ của mình là hết sức quan trọng và cần thiết. Hiểu biết về các biện pháp
tránh thai sẽ giúp cho thanh niên và vị thành niên. Về tác hại của việc nạo
phá thai và các bệnh lấy truyền quan đường tình dục sẽ giúp họ có các cách
phòng tránh tốt nhất. Tuy nhiên, trong thực thế vẫn còn tỷ lệ đáng kể các em
không biết về tác hại của việc nạo phá thai và các bệnh lây truyền qua đường
tình dục nên đã để lại hậu quả đáng tiếc cho bản thân các em, cho gia đình và
toàn xã hội.
Trong một số nghiên cứu mới đây của dự án “ Bình đẳng giới và đẩy
mạnh sự tham gia của nam giới trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản”-
VIE/97/P11, các số liệu cho thấy thanh niên và vị thành niên hiện nay biết rất
ít về khái niệm sức khoẻ sinh sản. Kết quả điều tra cho thấy có tới 26,1% số
thanh niên và vị thành niên không biết cụm từ SKSS các KHHGĐ. Các
nghiên cứu về giới đang được ứng dụng rộng rãi trong việc hoạch định các
chính sách kinh tế – xã hội của tiến trình phát triển ở nhiều quốc gia.Các nội

8
dung liên quan đến giới và phát triển cũng được đưa vào chương trình đào tạo

ở nhiều cấp học của hầu hết các quốc gia phát triển trên thế giới.
Báo cáo của cơ quan chức năng đưa ra những con số kinh hoàng từ nạo
phá thai. Các nghiên cứu xã hội học không ngừng báo động thực tạng quan hệ
tình dục sớm, mang thai, nạo phá thai ngoài ý muốn trong thanh thiếu niên để
lại hậu quả nghiêm trọng cho bản thân người trong cuộc lẫn gia đình họ và xã
hội như suy giảm sức khoẻ, thậm chí có nguy cơ tử vong cao hoặc vô sinh,
ngoài ra nó còn làm ảnh hưởng đến giá trị đạo đức xã hội và liên quan đến
vấn đề chất lượng dân số lâu dài
Hành động của con người thông thường bắt nguồn từ nhận thức, mà
nhận thức đúng đắn thường bắt nguồn từ sự có kiến thức đầy đủ, khách quan
về vấn đề đặt ra hoặc từ những kinh nghiệm thực tiễn đúc kết được trong cuộc
sống thực tế. Trong lĩnh vực chúng ta đang đề cập, vị thành niên là lứa tuổi
bước vào quan hệ tình dục, chuẩn bị lập gia đình, sinh con. Bởi vậy, vấn đề
sức khoẻ sinh sản vị thành niên có ảnh hưởng lớn đến dân số và con người
trong tương lai. Nếu vị thành niên và thanh niên mặc bệnh về đường tình
dục,lây nhiễm HIV/AIDS thì những đứa con của họ sẽ không đủ năng lực để
tham gia vào hoạt động xã hội. Do vậy, có kiến thức về sức khoẻ sinh sản sẽ
giúp cho vị thành niên thoát khỏi hậu quả vì thiếu hiểu biết.
Nhằm nâng cao nhận thức về sức khoẻ sinh sản vị thành niên, và nhằm
tìm hiểu về quan điểm của sinh viên người chủ tương lai của đất nước về vai
trò giới trong vấn đề chăm sóc sức khoẻ sinh sản.Tạo điều kiện cho họ tiếp
cận với các thông tin, các kỹ thuật, dịch vụ thân thiện về sức khoẻ sinh sản,
giúp họ có nhận thức đúng đắn với vấn đề này, nhận thức được tầm quan
trọng và ý nghĩa cấp bách về vấn đề này tôi lựa chọn đề tài: “ Quan niệm
của sinh viên về vai trò giới trong chăm sóc sức khoẻ sinh sả


9
2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
2.1. Một số nghiên cứu về sức khoẻ sinh sản ở nước ngoài.

Nghiên cứu về sức khoẻ sinh sản vị thành niên và thanh niên được hình
thành rất sớm, nhất là ở các quốc gia phát triển nhưng thường được lồng ghép
trong nhiều chương trình nghiên cứu khác nhau, chẳng hạn như sức khoẻ sinh
sản vị thành niên hay giới tính, tình dục thanh thiếu niên. Có lẽ bắt đầu từ hội
nghị quốc tế về dân số và phát triển tại Cairo ( tháng 4/1994), sau khi định
nghĩa chính thức về sức khoẻ sinh sản được thống nhất phổ biến trên mọi
quốc gia trên thế giới thì mối quan tâm của không chỉ các nhà khoa học, các
nhà giáo dục, các nhà quản lý xã hội mà cả các bậc cha mẹ đối với vấn đề sức
khoẻ vị thành niên được đẩy lên trình độ mới.
Các kết quả nghiên cứu về lĩnh vực quan hệ tình dục, nạo hút thai và
sinh đẻ ở vị thành niên trên thế giới gần đây cho chúng ta kết quả hết sức bất
ngờ.Theo WHO, hằng năm có khoảng 20 triệu ca nạo phá thai không an
toàn.Theo UNFPA, hiện nay mỗi năm có khoảng 15 triệu vị thành niên nữ
sinh con, chiếm 10% số phụ nữ sinh con.Trên thế giới, Mỹ là quốc gia có tỷ lệ
nữ vị thành niên mang thai sớm cao nhất ở các nước phát triển, ở Mỹ có
khoảng 20% số phụ nữ đẻ trước tuổi 20.Các nghiên cứu cụ thể cho thấy, ở
châu Phi có thai ngoài dự định dao động từ 50 -90% trong số vị thành niên
chưa chồng và 25 – 40% trong số Vị thành niên có chồng , ở Kenia, số vị
thành niên có thai ngoài dự định trong nhóm chưa chồng là 74% và nhóm có
chồng là 47%, còn ở Pêru số vị thành niên có thai ngoài dự định trong nhóm
chưa chồng là 69% và nhóm có chồng là 51%.Nhìn chung, số vị thành niên
mang thai ngoài dự định ở các nước Mỹ –Latinh dao động từ 20-52%.Với
tình trạng mang thai ngoài dự định như trên nên mỗi năm có tới 4,4 triệu ca
nạo phá thai của vị thành niên, đây là một trong những nguyên nhân cơ bản
tàn phá sức khoẻ sinh sản vị thành niên trên thế giới hiện nay.

10
Các số liệu tổng hợp về tình trạng vị thành niên sinh con ngoài ý muốn
ở một số khu vực có tỷ lệ cao là:Mỹ –latinh: 40-50%, Bắc Phi và Tây á: 15-
23%, ấn độ và Pakistan: 16%,Philippin, Bangladesh, Srilanka và Thailand,

23-41%
Tình trạng quan hệ tình dục sớm và mức bệnh lây truyền qua đường
tình dục ở vị thành niên mang tính toàn cầu và thực sự phải báo động đỏ trong
mọi quan hệ tình dục sớm để lại những hậu quả xã hội nghiêm trọng về mang
thai, nạo hút thai ngoài ý muốn và mắc các bệnh lây nhiễm qua đường tình
dục, đặc biệt là căn bệnh HIV/AIDS.
Một số nghiên cứu cho thấy, Vị thành niên Mỹ, ở tuổi 15 có khoảng
27% nữ và 33% nam đã có sinh hoạt tình dục, đến tuổi 17 tỷ lệ này tăng lên
50% và 66%.Nếu tính riêng trong nhóm vị thành niên học sinh thì có đến 72%
số học sinh ở Mỹ có quan hệ tình dục khi bước vào năm học cuối phổ thông
trung học, trong số đó có tới 40%các học sinh ở tuổi 15.Theo ước tính của
văn phòng thông tin dân số Mỹ về SKSS vị thành niên thì có ít nhất 80% số
người bước vào tuổi 20 ở vùng cận sa mạc Sahara ( Châu Phi) đã trải qua
quan hệ tình dục.Vì thế nên đây cúng là nơi mắc các bệnh lây truyền qua
đường tình dục lớn nhất, chẳng hạn như HIV/ADIS theo UNAIDS (Quỹ liên
hiệp quốc về phòng chống AIDS) thì ở đây số người mắc HIV/AIDS chiếm
2/3 bệnh nhân này của thế giới.
ở Thái Lan ngay từ những năm 79 (TK XX) các nghiên cứu đã có tới
60% vị thành niên nam có quan hệ tình dục trong đó một số không nhỏ mới ở
tuổi 13; ở Trung Quốc các thống kê mới đây khẳng định có 20% nữ học sinh
có quan hệ tình dục,ở Băngladesh 25% và ở Nêpan 34% Vị thành niên nữ 14
tuổi đã kết hôn; Châu Phi là lục địa có tỷ lệ vị thành niên có quan hệ tình dục
và mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục lớn nhất thế giới. Các nghiên
cứu cụ thể cho thấy, ở Botswana ( 1995) có 41% nữ và 15% nam ở tuổi 15 -

11
16 đã có quan hệ tình dục, ở Camaroon (1996) 55% nữ và 70% nam đã có
quan hệ tình dục ở tuổi 15, nghiên cứu này còn khẳng định, vị thành niên
càng lớn tuổi mức độ quan hệ tình dục càng tăng và có tới 5% nữ và 16% nam
ở tuổi từ 12-17 đã có trên hai bạn tình thường xuyên.

Theo ước tính của WHO, mỗi năm có khoảng 250 triệu người mắc các
bệnh lây truyền qua đường tình dục, trong đó nhóm tuổi 15-19% chiếm tỷ lệ
cao thứ 2 sau nhóm 20-24 tuổi. Sở dĩ nhóm thanh niên mắc các bệnh
LTQĐTD cao là do khi QHTD nhóm này thường không sử dụng biện pháp
tránh thai an toàn là bao cao su.Cũng theo tổ chức này, 1/20 số nữ vị thành
niên mắc các bệnh LTQĐTD hàng năm.Nghiên cứu cụ thể ở Kenya, Nigieria,
Sierra Leone tỷ lệ nữ Vị thành niên mắc các bệnh nêu trên dao động từ 16-
36%, ở Mỹ 1/8 vị thành niên đăng ký chữa bệnh LTQĐTD hàng năm.Hiện
nay trên thế giới có trên 15 triệu người nhiễm HIV, tỷ lệ cao nhất đối với nam
là nhóm tuổi 15 – 25 và với nữ là nhóm tuổi 25 – 35%.
Cùng với tình trạng QHTD sớm có thai, nạo hút thai và sinh đẻ sớm,
mắc các bệnh LTQĐTD gia tăng nhanh, thực trạng vị thành niên ngày càng
dính líu và tham gia vào các tệ nạn xã hội như tệ nạn ma tuý, tệ nạn mại dâm,
rượu chè cờ bạc và trộm cắp…mang tính toàn cầu đang trở thành mối lo ngại
lớn của mọi quốc gia.Chính vì thế thực tế đang đòi hỏi cấp bách cần có một
chiến lược mới mang tính toàn cầu đang trở thành mối lo ngại của mọi quốc
gia.Chính vì thế thực tế đang đòi hỏi cấp bách cần có một chiến lược mới
mang tính toàn cầu vì SKSS vị thành niên.
2.2. Một số nghiên cứu về sức khoẻ sinh sản ở Việt Nam
Chăm sóc sức khoẻ, đặc biệt là sức khoẻ sinh sản thanh thiếu niên là
vấn đề đã được Đảng và Nhà nước ta sớm quan tâm, chú ý. Ngay từ những
năm đầu thập kỷ 60, vấn đề dân số đã được đặt ra với mục tiêu chính là nâng
cao chất lượng dấn số thông qua các biện pháp hướng dẫn, động viên nhân

12
dân thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Nội dung chính
của Quyế định số 216/TTg của Thủ tướng Chính phủ (1961) nhằm nâng cao
chất lượng dân số, vì sức khoẻ của nhân dân và hạnh phúc gia đình cũng
chính là những nội dung mà hơn 30 năm sau mới được cộng đồng quốc tế
thống nhất tại Hội nghị dân số và phát triển ở Cairo (1994). Một năm trước

khi hội nghị này khai mạc ngày, 14/1/1993, Ban chấp hành Trung ương Đảng
đã ra Nghị quyết số 04/NQ-HNTƯ xác định: “Thực hiện công bằng xã hội
trong chăm sóc sức khoẻ, quan tâm những người có công với nước, những
người nghèo, đồng bào các dân tộc thiểu số. Bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ bà
mẹ và trẻ em, hạ thấp tỷ lệ suy dinh dưỡng và các bệnh tật về dinh dưỡng ở
trẻ em”.
Và “Cải thiện chế độ dinh dưỡng và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ
em, giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh …”
Về trách nhiệm của nam giới trong việc thực hiện dân số – kế hoạch
hoá gia đình:
Chỉ thị 99/TTg ngày 16/8/1963 của Thủ tướng chính phủ về công tác
hướng dẫn sinh đẻ có kế hoạch, phần phương pháp tiến hành công tác hướng
dẫn sinh đẻ,có viết.
“Đối tượng tuyên truyền, giáo dục là những người có vợ chồng, những
người sắp trở thành vợ chồng. Đối tượng bao gồm nam nữ thanh niên, những
người trung niên và các bậc phụ lão, vì các cụ hay đòi sớm có con cháu. Cần
chú trọng thanh niên và nam giới.Tuyên truyền, giáo dục phải thích hợp với
từng đối tượng…”
Quan điểm giới sớm được chú ý đến trong các chính sách về dân số ở
nước ta, và nó thường được nhắc lại trong các văn bản ở những năm sau:

13
Chỉ thị 265/CP ngày 19/10/1978 của chính phủ về đẩy mạnh cuộc vận
động sinh đẻ có kế hoạch, phần phương pháp tiến hành chỉ rõ: “ Đối tượng là
những phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ, đồng thời phải coi trọng tuyên truyền vận
động trong nam giới, trong quân đội và công an. Phải giải thích cho các bậc
phụ lão hiểu rõ để ủng hộ chủ trương này”.
Chương V “ Thông điệp truyền thông” của Quyết định 315/HĐBT xác định:
*Trách nhiệm của nam giới.
Làm cho nam giới hiểu rằng kế hoạch hoá gia đình không chỉ là việc

riêng của phụ nữ. Là một công dân, người chồng, người cha, nam giới có
trách nhiệm và bổn phận tham gia tích cực vào chương trình dân số và kế
hoạch hoá gia đình, ủng hộ người vợ và bản thân cũng áp dụng các biện pháp
tránh thai”.
Chỉ thị số 50/CT-TƯ ngày 6/3/1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
về việc đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp
hành Trung ương Đảng về chính sách dân số – kế hoạch hoá gia đình, nhấn
mạnh, trong khi vận động các đối tượng cần lưu ý: “ Vận động nam giới, làm
cho nam giới thấy đầy đủ trách nhiệm của bản thân với việc sinh đẻ trong gia
đình.Từ khi có cuộc vận động sinh đẻ đến nay, chúng ta có phần thiếu chú ý
vận động nam giới một cách đầy đủ, do đó có nhiều người chồng chưa nhận
thức đúng trách nhiệm trong công tác này”.
Từ những chủ trương chính sách có liên quan đến dân số nêu ra trên
đây, có thể khẳng định rằng: từ hơn 30 năm nay Đảng và Nhà nước ta đã rất
coi trọng vấn đề chất lượng dân số trong phát triển, cũng như sớm quan tâm,
chú ý đến quyền sinh sản, sức khoẻ sinh sản và đặc biệt chú ý đến vai trò và
trách nhiệm của nam giới trong công tác dân số – kế hoạch hoá gia đình.Ba
mươi năm sa, tại hội nghị Cairo những tư tưởng này đã được cộng đồng quốc
tế đề cập và trở thành vấn đề mang tính toàn cầu. Ngày nay, chính phủ nhiều

14
nước đã thể hiện sự chuyển hướng về sự tham gia của nam giới trong chương
trình dân số – kế hoạch hoá gia đình, sức khoẻ sinh sản. Nhiều tổ chức quốc
tế như UNFPA, WHO đã và đang hỗ trợ cho những chương trình của nam
giới như những chương trình làm tăng tính chấp nhận bao cao su hoặc đình
sản nam.Quỹ Ford ( Ford Foundation) coi sức khoẻ sinh sản là một trong
những chiến lược quan trọng trong thập kỷ 90 và chỉ rõ rằng “ chương trình
phải thu hút nam giới trong những nỗ lực cải thiện sức khoẻ sinh sản”.Gần
đây, WHO đặc biệt chú trọng đến “ sự tham gia của nam giới trong kế hoạch
hoá gia đình và sức khoẻ sinh sản”.Điều đó cho thấy quan điểm sáng suốt,

tầm nhìn chiến lược hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh
vực dân số và phát triển và tầm quan trọng của công tác dân số – kế hoạch
hoá gia đình đối với sự nghiệp phát triển đất nước.
Trong tổng quan chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khoẻ sinh sản (
2001 -2010), Đảng ta đã chỉ rõ “đầu tư cho sức khoẻ nói chung và cho sức
khoẻ sinh sản nói riêng là đầu tư cho phát triển”.
Sức khoẻ đặc biệt là sức khoẻ sinh sản là vấn đề được nhiều nhà khoa
học quan tâm, nghiên cứu cả trong nước và ngoài nước. ở nước ta trong
những năm gần đây được sự quan tâm của nhà nước nên vấn đề sức khoẻ
sinh sản vị thành niên và thanh niên cũng được đề cập nhiều trong các báo
cáo của các cơ quan chức năng như Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em, Bộ ý
tế,Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh…
ở Việt Nam khái niệm về sức khoẻ sinh sản đã được đề cập tự hội nghị
Dân số và phát triển họp tại Cairo (Ai cập) năm 1994 và cho đến sau hội nghị
Bắc Kinh ( Trung Quốc) chương trình hành động vì sức khoẻ sinh sản vị
thành niên mới được tiến hành.
Mặc dù chưa có nghiên cứu đầy đủ, nhưng kết quả của mốt số nghiên
cứu cụ thể phần nào nhận diện những khía cạnh của sức khoẻ sinh sản vị

15
thành niên ở Việt Nam. Chẳng hạn, theo báo cáo của hội thảo “vị thành niên,
sức khoẻ và phát triển” do tổ chức WHO và viện xã hội học tổ chức tại Hà
Nội năm 2003 thì có tới 15% thanh niên Hà Nội và 25 thanh niên thành phố
Hồ Chí Minh có quan hệ tình dục trước hôn nhân và có 30 đến 70% vị thành
niên nông thôn có quan hệ tình dục trước hôn nhân. Cũng theo báo cáo này,
hàng năm Việt Nam có khoảng 1 đến 1,4 triệu ca nạo hút thai và trong đó có
khoảng 20 đến 30% thuộc nhóm vị thành niên ( Phạm Thị Minh Đức,2001).
Theo báo cáo nạo phá thai ở vị thành niên trong 6 tháng giữa năm 2001 có
19,5% số nữ thanh niên tuổi từ 16-24 đến nạo phá thai trong đó vị thành niên
là 6% và số học sinh, sinh viên chiếm 17,29% tổng số người đến nạo phá thai

( Nguyễn Thị Mỹ Hương, 2001).Tác phẩm của Đặng Vũ Cảnh Linh – Vị thành
niên và chính sách đối với vị thành niên. Một nghiên cứu về kiến thức, thái độ
và hành vi SKSS của nhóm vị thành niên Hà nội cho thấy: Tỷ lệ thanh niên
chưa kết hôn có QHTD nam chiếm 17% và nữ chiến 2,5%;trong những người
được khảo sát có 37% nam và 12,5% nữ, chấp nhận có thể có QHTD trước
hôn nhân; đa số cho rằng trinh tiết vẫn quan trọng nhưng không phải quan
trọng như trước đây.
Theo một báo cáo của Hội thảo “ Vị thành niên: Sức khoẻ sinh sản và
phát triển” do tổ chức WHO và Viện Xã hội học tổ chức tại Hà Nội ngày
12/9/2001 thì có tới 15% có QHTD trước hôn nhân và có từ 30-70% thanh
niên nông thôn có QHTD trước hôn nhân. Cũng theo báo cáo này hàng năm
Việt Nam có khoản từ 1-1,4 triệu ca nạo thai và trong đó ước tính có khoảng
20 – 30% thuộc nhóm vị thành niên.Theo thống kê năm 1994 có 5% CTN có
con trước tuổi 18; 15% có con trước tuổi 19 và 37% phụ nữ kế hôn trước tuổi 20.
Nạo phá thai ở nhóm tuổi 15-19, theo điều tra giữa kỳ năm 1994 trong
số 175 phụ nữ đã từng có chồng có 1,7% đã từng nạo thai và có 0,6% nạo hút
thai hai lần trở lên.Điều tra 1088 người nạo hút thai ở Hà Nội và Thái Bình

16
năm 1993, cho kết quả có 7% số người trong nhóm chưa có gia đình. Một
khảo sát điều tra 259 phụ nữ chưa có gia đình đến nạo phá thai ở các bệnh
viện Hà nội ( 1995-1996) cho thấy 37% số đối tượng thuộc nhóm tuổi từ 15
đến 19.
Theo trung tâm BVSKBMTE/KHHGĐ (bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và trẻ
em/kế hoạch hoá gia đình) thành phố Hồ Chí Minh số vị thành niên dưới 18
tuổi nạo phá thai thống kê được năm 1994 là 583 người và năm 1995 là 1423
người, thanh niên tại viện bảo vệ bà mẹ và trẻ em” thì trong 6 tháng giữa năm
2001 có 19,5% số nữ thanh niên ( tuổi từ học sinh sinh viên chiếm 17,29%
tổng số người đến nạo phá thai.Theo báo cáo này con số thống kê cho thấy
80% số đối tượng nạo hút thai là chưa chồng nhưng theo nhóm nghiên cứu

của Nguyễn Linh Khiếu thì con số có thể phải tới 90% chưa có chồng mới là sự
thật.
Cùng với các vấn đề quan hệ tình dục, nạo phá thai, sinh con sớm ảnh
hưởng mạnh mẽ đến SKSS vị thành niên các vấn đề lạm dụng tình dục trẻ em,
mại dâm trẻ em và mắc BLTQĐTD (bệnh lây truyền qua đường tình dục)
cũng là những vấn đề mới và hết sức bức xúc.So với các nước trong khu vực
thì tỉ số tội hiếp dâm ở nước ta thuộc loại thấp, nhưng hiện nay loại tội phạm
này đang có xu hướng gia tăng. Một báo cáo cho biết, nếu những năm đầu đổi
mới tỷ lệ tội hiếp dâm trẻ em chỉ chiếm từ 4 -6% số tội phạm hiếp dâm thì các
năm sau đó tỷ lệ này thống kê được là 1993: 14,6%; 1994: 16,6%;1995: 30%
và 6 tháng đầu năm 1996 hiếp dâm trẻ em tăng hơn hẳn cùng kỳ năm trước.
Theo báo cáo của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, trong số 1.407 vụ hiếp dâm
bị khởi tố năm 1998 thì có tới 505 số vụ này là hiếp dâm trẻ em.
Nghiên cứu của Đoàn Kim Thắng trong đề tài: Kiến thức, thái độ và
hành vi của trẻ em vị thành niên về giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản,
thì nhìn chung các em chưa thật hài lòng với những kiến thức đã có về các

17
lĩnh vực cơ bản của giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản. Có thể nhận xét
chung là những kiến thức mà các em có được trong nội dung của khái niệm
giáo dục giới tính hay sức khoẻ sinh sản, cũng không phải là quá ít như chúng
ta vẫn thường nghĩ. Song có thể nói những kiến thức ấy còn thiếu tính toàn
diện, hệ thống và cũng không đầy đủ trong mọi khía cạnh khoa học của nó.
Cần tiếp tục phân tích xem những nguyên nhân hay những hạn chế nào trong
quá trình trang bị cho các em một cách đầy đủ những kiến thức mà chúng ta
mong muốn có ở các em, sự phân tích này được tìm hiểu trong những thái độ
của các em khi được hỏi về những vấn đề trên.
Về quan điểm giới về vấn đề sức khoẻ sinh sản Ts Hoàng Bá Thịnh đã
nói đến trong bài viết Quan điểm giới và chính sách dân số: Về trách nhiệm
của nam giới trong việc thức hiện dân số – kế hoạch hoá gia đình. Mặc dù

trong nhóm đối tượng thứ nhất đã đề cập đến cả nam và nữ, song xét tới
những đặc điểm tâm lý truyền thống, đến tình hình thực hiện kế hoạch hoá gia
đình ở Việt Nam, nam giới cần được tách biệt thành một nhóm đối tượng
riêng để có những thông điệp đặc thù và cách tiếp cận đặc thủ.
Trong nam giới cần đặc biệt chú ý đến:
- Nam giới trung niên, chủ gia đình
- Nam giới trong những gia đình không và chưa có con trai.
- Nam giới thuộc những khu vực và những gia đình chưa thực hiện kế
hoạch hoá gia đình hoặc tỷ lệ tham gia còn thấp….
Trên đây là một vài số liệu cơ bản của các cuộc nghiên cứu về sức khoẻ
sinh sản vị thành niên. Những số liệu này cho thấy các nhà nghiên cứu, các
nhà quản lý và các cơ quan chức năng ở Việt nam hết sức quan tâm và lo lắng
đến những vấn đề sức khoẻ sinh sản vị thành niên. Những chỉ báo về tình
trạng quan hệ tình dục ở độ tuổi vị thành niên,về mang thai và nạo phá thai,

18
kết hôn sớm, mại dâm và mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục nhất là
bệnh HIV/AIDS, ở Việt Nam ngày càng có xu hướng gia tăng về trẻ hoá là
hết sức lo ngại và thực tế đó đang trở thành vấn đề thực sự cấp bách không
chỉ của riêng các gia đình mà của toàn xã hội. Chúng ta cần sớm có một chiến
lược quốc gia về sức khoẻ sinh sản vị thành niên nhằm chăm sóc và bảo vệ trẻ
em trong bối cảnh hoà nhập và toàn cầu hoá hiện nay.
Tuy nhiên, các số liệu về vấn đề sức khoẻ sinh sản ở lứa tuổi thanh
thiếu niên thường không đầy đủ.Các nghiên cứu thường có quy mô nhỏ chưa
đưa ra được bức tranh tổng thể về hiểu biết và thái độ và hành vi của thanh
thiếu niên Việt Nam đối với vấn đề sức khoẻ sinh sản hay những giải pháp
khả thi để giúp các em phát triển tốt về sức khoẻ thể chất và tinh thần, phòng
tránh được những hậu quả đáng tiếc do thiếu sự hiểu biết đúng đắn về vấn đề
này. Trên cơ sở những tài liệu đã có cùng với một số kết quả thu thập được từ
bảng hỏi định lượng và bảng hỏi phỏng vấn sâu, tôi sâu vào nghiên cứu về

quan điểm của sinh viên về vai trò giới trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ sinh
sản từ đó đưa ra giải pháp mang tính khả thi cho các chương trình chính sách
về sức khoẻ sinh sản phù hợp với thanh thiếu niên.
3.ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
3.1.ý nghĩa khoa học
- Bổ sung dữ liệu cho những nghiên cứu về sức khoẻ sinh sản
-Vận dụng những luận điểm trong hệ thống lý thuyết như : Lý thuyết về
hành động xã hội, lý thuyết sự lựa chọn hợp lý…làm cơ sở lý luận cho vấn đề
nghiên cứu.
-Góp phần làm rõ vấn đề giới trong việc chăm sóc sức khoẻ sinh sản.
3.2. ý nghĩa thực tiễn

19
- Kết quả nghiên cứu cung cấp cho các bạn sinh viên kiến thức và tầm
quan trọng của các kiến thức về sức khoẻ sinh sản và giúp tăng cường ý thức
chủ động tìm hiểu, những chủ trương chính sách về sức khoẻ sinh sản thanh
thiếu niên và đặc biệt là về quan điểm, nhận thức của sinh viên về vai trò giới
trong vấn đề này.
- Kết quả nghiên cứu cung cấp cho gia đình, nhà trường và cộng đồng
hiểu rõ tầm quan trọng của mình trong việc giáo dục, định hướng và tạo cơ
hội tiếp cận, sử dụng các kiến thức và dịch vụ sức khoẻ sinh sản cho đối
tượng là thanh thiếu niên.
-Kết quả nghiên cứu cung cấp cho các nhà quản lý, các nhà khoa học
tham khảo , đưa ra những biện pháp cũng như các giải pháp giúp cho vị sinh
viên có những kiến thức đẩy đủ, toàn diện hơn về sức khoẻ sinh sản, đặc biệt
là để họ nhận thức đúng đắn trách nhiệm và nghĩa vụ của cả hai giới trong
lĩnh vực này.
4.Mục tiêu nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1.Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu quan điểm của sinh viên về vấn đề sức khoẻ sinh sản

- Phân tích giới đối với quan niệm của sinh viên về hành vi chăm sóc
sức khoẻ sinh sản.
-Tìm hiểu một số yếu tố tác động đến quan niệm của sinh viên về vai
trò giới trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản( trung tâm tư vấn, tự tìm hiểu,
truyền thông đại chúng, bạn bè, gia đình, người thân )
- Từ những phân tích, đánh giá đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp
góp phần vào công tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản.
4.2.Nhiệm vụ nghiên cứu

20
- Khảo sát thực tế qua phỏng vấn sâu, phỏng vấn nhóm và bảng hỏi
định lượng để tìm hiểu quan điểm của sinh viên về những vấn đề có liên quan
đến sức khoẻ sinh sản.
-Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến quan niệm của sinh viên về vai
trò giới trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản( tâm lý, định kiến, điều kiện truyền
thống )
- Tìm hiểu vai trò của nhà trường, bạn bè, phương tiện truyền thông
đối với việc giáo dục nâng cao nhận thức về vai trò giới trong chăm sóc sức
khoẻ sinh sản.
5. Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu, phạm vi nghiên
cứu của đề tài.
5.1. Đối tượng nghiên cứu:
Quan niệm của sinh viên về vai trò giới trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản

5.2. Khách thể nghiên cứu
Là nam sinh viên và nữ sinh viên

5.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nghiên cứu tại trường Đại học Lao động xã hội,
trường Đại học Giao thông vận tải.

6. Phương pháp nghiên cứu
6.1.Phương pháp luận

21
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận xã
hội học Macxit và các lý thuyết khác cũng được vận dụng như: Lý thuyết về
hành động xã hội, lý thuyết về sự lựa chọn hợp lý, lý thuyết chức năng…
Việc tìm hiểu quan điểm của sinh viên về vai trò giới trong chăm sóc
sức khoẻ sinh sản đặc biệt chú ý tới cách tiếp cận hệ thống, có nghĩa là mọi
đối tượng nghiên cứu như một chỉnh thể thống nhất, trong mối quan hệ tương
với các yếu tố thuộc môi trường xung quanh. Do đó khi xem xét nguyên nhân
dẫn đến nhận thức của sinh viên chúng ta phải đặt nguyên nhân trong mối
quan hệ với các yếu tố khác của môi trường xã hội xung quanh chứ không
tách rời chúng để nghiên cứu một cách siêu hình.
Nhìn đối tượng như một chỉnh thể có nghĩa là nhìn đối tượng như một
hệ thống có cấu trúc nhiều chiều, hay nói cách khác hệ thống đó được cấu tạo
bởi nhiều yếu tố. Do vậy, khi nghiên cứu quan điểm của sinh viên về vai trò
giới trong việc chăm sóc sức khoẻ sinh sản, chúng ta phải xem xét từ nhiều
khía cạnh với một hệ quả có nhiều nguyên nhân gây nên.
Đảm bảo tính khách quan trong nghiên cứu, trước hết phải nghiên cứu từ
chính bản thân sự vật như chúng vốn tồn tại trong thực tế, chỉ nhận mọi chi
tiết, mọi biểu hiện của chúng, loại trừ mọi phán đoán chủ quan, thiếu căn cứ
của người nghiên cứu, các kết luận phải nghiên cứu đúng thực tế.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
6.2 1.Phương pháp phân tích tài liệu
Trong đề tài nghiên cứu, tác giả đã tiếp thu và sử dụng một số kết quả
nghiên cứu trước đây có liên quan tới vấn đề chăm sóc sức khoẻ sinh sản.
Đồng thời người viết thu thập và phân tích những bài viết về sức khoẻ sinh
sản và kế hoạch hoá gia đình đã được đăng tải trên các tạp chí, các kết quả
nghiên cứu của Uỷ ban Quốc gia Dân số và Kế hoạch hoá gia đình.


22
6.2 2.Phương pháp nghiên cứu định tính
-Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn 15 sinh viên trong đó có 8 nữ
sinh viên và 7 nam sinh viên. Với các chủ đề xoay quanh nội dung của đề tài
nghiên cứu
Tiến hành thảo luận nhóm:Tiến hành 2 cuộc phỏng vấn nhóm, với các
nhóm đối tượng nam nữ sinh viên với các chủ đề về tình dục an toàn, gia đình
dòng họ và quan hệ cộng đồng.
6.2.3. Phương pháp nghiên cứu định lượng
Thu thập thông tin của đối tượng được nghiên cứu dựa trên bảng hỏi
( 300 phiếu hỏi định lượng, trong đó trường ĐH Giao thông vận tải 150
phiếu hỏi và trường ĐH Lao động xã hội 150 phiếu hỏi)
6.2.4. Phương pháp quan sát
Người viết thu thập thông tin dựa vào quá trình quan sát trực tiếp từ
khách thể có liên quan.
7. Giả thuyết nghiên cứu
- Phần lớn sinh viên chưa nhận thức và đánh giá đúng tầm quan trọng
của việc chăm sóc sức khoẻ sinh sản.
- Các yếu tố như môi trường xã hội, gia đình, nhà trường, bạn bè, các
phương tiện truyền thông đại chúng có vai trò rất lớn đến nhận thức,thái độ,
hành vi chăm sóc sức khoẻ của sinh viên hiện nay.
- Sinh viên ở các trường khác nhau cùng có những quan niệm giống
nhau về vai trò giới trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản lý do là các sinh viên
không được tiếp cận một cách chính thống về vấn đề về chăm sóc sức khoẻ
sinh sản.

23
8. Khung lý thuyết


`










Nhận thức -thái độ -hành vi trong chăm sóc sức
khoẻ sinh sản

Điều kiện kinh tế - văn hoá - xã hội

Quan niệm của sinh viên về chăm sóc sức
khoẻ sinh sản.


Quan niệm xã hội: Phong
tục tập quán, bất bình
đẳng giới
Sự tự học hỏi của sinh
viên
Môi trường bên ngoài:
Truyền thông, gia đình, bạn
bè, nhà trường

×